Như vậy, cùng với nội dung phản ánh mang đậm cách cảm, cách nghĩ và
bản sắc dân tộc Thái. Thơ Thái hiện đại với hình thức biểu hiện độc đáo đã
mang tiếng nói, phong tục, tập quán. đặc trưng của dân tộc Thái đến với
vườn hoa muôn màu, muôn sắc của các dân tộc anh em như một phong vị đặc
sản của quê hương người Thái. Chính vì thế, nghệ thuật thơ Thái hiện đại
cũng đã góp phần “níu giữ” thể loại, gìn giữ và phát triển những tinh hoa của
văn học dân gian, bản sắc văn hoá dân tộc và góp phần làm đa dạng, phong
phú nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và thơ ca Việt
Nam nói chung.
133 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3138 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu về đặc điểm thơ ca dân tộc Thái hiện đại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y...
Đừng bay theo lời ngọt ngƣời quyến.
(Ing- Éng)
Không chỉ ở kết cấu mà ngôn ngữ truyện thơ Ing –Éng cũng rất gần gũi
với Tiễn dặn ngƣời yêu. Thậm chí có nhiều đoạn tác giả Vƣơng Trung không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
100
gọi tên nhân vật của mình mà dùng đại từ phiếm chỉ “Anh yêu” giống nhƣ
trong Tiễn dặn ngƣời yêu:
Nhớ tới lời Anh yêu
Anh đi phƣơng nào hãy nhìn phƣơng đó!
Trong truyện thơ Ing –Éng, tác giả còn sử dụng khá nhiều thành ngữ, tục
ngữ trong kho tàng văn học dân gian nói chung và trong truyện thơ dân gian
nói riêng nhƣ: “Rào bền, mƣơng mới tốt. Phai chắc, lúa mới xanh” hay cách
diễn đạt mang đậm tƣ duy của ngƣời Thái:
Không bao giờ chỉ thêu sờn trƣớc vải
Duy có khăn phơi nhiều gió bay
Với ngƣời Thái, khăn Piêu là vật ký thác tâm trạng và là kỷ vật của tình
yêu. Vì vậy, để nói đến sự thay lòng đổi dạ của con ngƣời, nhân vật Éng
không dùng cách nói thẳng mà hay mƣợn hình ảnh “khăn thêu hoa đã phai
chỉ” để nói đến sự phai nhạt trong tình yêu.
Cách so sánh, ví von trong truyện thơ dân gian cũng đƣợc nhà thơ Thái
hiện đại- Vƣơng Trung sử dụng rất hiệu quả:
Để nói về nỗi nhớ thì nhà thơ so sánh “lòng anh nhƣ rau cải phơi giữa
nắng” hoặc “nhƣ sông nhớ cá”, “nhƣ ruộng nhớ lúa vàng thơm”...
Hoặc khi nói đến sự trắc trở trong tình yêu, nhà thơ cũng không nói
thẳng mà ví von rất giàu hình ảnh, độc đáo, ấn tƣợng theo cách diễn đạt rất tế
nhị và không kém phần lãng mạn của ngƣời Thái: “Nay quạ đen đến xoè cánh
che ánh trăng ta”...
Tuy kế thừa thể loại truyện thơ trong văn học dân gian nhƣng truyện
thơ của Vƣơng Trung ít sử dụng những thủ pháp khoa trƣơng, phóng đại
nhƣ trong truyện thơ dân gian. Ông viết về những con ngƣời đời thƣờng,
những vấn đề của hiện thực với sự dung dị trong cách khắc họa chân dung,
tính cách nhân vật:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
101
Dù ngƣời khác mặc áo đỏ cánh kiến
Không bằng ngƣời yêu mặc áo nhuộm chàm
Đã yêu ăn rau dền thay bữa
Không yêu, uống rƣợu càng đắng tim gan...
(Ing- Éng)
Còn ở Tiễn dặn ngƣời yêu, thủ pháp phóng đại đƣợc sử dụng rất phổ
biến:
Goá hai lần, goá ba lần
Goá vẫn tƣơi giòn, đỏ đắn
Goá đẹp hơn hồi con gái trắng ngần
Goá đẫy đà hơn thiếu nữ đang xuân”...
Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, thể loại truyện thơ dân gian không chỉ có sức
hấp dẫn đối với các nhà thơ thuộc giai đoạn đầu của thơ Thái hiện đại nhƣ
Cầm Biêu hay Lƣơng Quy Nhân, Vƣơng Trung... mà với La Quán Miên và
đặc biệt là Lò Cao Nhum- một nhà thơ trẻ xuất hiện sau năm 1975, không khí
truyện thơ vẫn ăn sâu và lan toả trong các sáng tác. Việc vận dụng linh hoạt,
có hiệu quả những đặc trƣng của truyện thơ đã tạo cho thơ Thái hiện đại nét
đặc sắc và độc đáo, đó là tính truyền thống-hiện đại đƣợc kết hợp rất hài hoà.
Qua thơ ca Thái (đặc biệt là ở truyện thơ Ing- Éng của Vƣơng Trung), ngƣời
ta không chỉ thấy những giá trị văn học của quá khứ xa xăm đang hiện về (ca
dao, tục ngữ, truyện cổ tích....) mà còn có thể thấy đƣợc những nét phong tục,
tập quán, tín ngƣỡng của ngƣời Thái (tục trồng lúa nƣớc, bắt cá, lễ hội dân
gian, tục ở rể...) và cả cách tƣ duy, diễn đạt, ví von của ngƣời Thái.
Với những thế mạnh của mình nhƣ ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu,
cách kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn, kết cấu truyện đầy kịch tính...truyện thơ và
những đặc trƣng thể loại của nó trong thơ ca Thái hiện đại đã thêm một lần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
nữa khẳng định sự hấp dẫn và sức sống mạnh mẽ, dẻo dai của mình trong đời
sống văn nghệ cộng đồng.
3. 2. Sự vận dụng sáng tạo và hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao Thái
Ca dao, dân ca, tục ngữ Việt Nam nói chung và ca dao, tục ngữ Thái nói
riêng có giá trị về nhiều mặt. Vì đƣợc đúc kết từ đời sống cộng đồng của dân
tộc nên nó thể hiện rõ nét lời ăn, tiếng nói, cách cảm cách nghĩ và trí tuệ của
nhân dân. Vì vậy, việc tìm hiểu sự ảnh hƣởng của ca dao, tục ngữ Thái trong
thơ ca Thái hiện đại là một trong những phƣơng thức để tìm ra bản sắc văn
hoá dân tộc Thái trong thơ ca Thái hiện đại.
Bên cạnh truyện thơ, các nhà thơ Thái hiện đại cũng chú ý đến việc vận
dụng tục ngữ Thái để tăng tính hàm súc cho câu thơ.
Phần lớn các nhà thơ Thái nhƣ Cầm Biêu, Lò Văn Cậy, Vƣơng Trung,
La Quán Miên đều vận dụng tục ngữ trong sáng tác của mình....Trong đó,
Lƣơng Quy Nhân là nhà thơ sử dụng nhiều và có hiệu quả tục ngữ dân gian
vào trong thơ hiện đại.
Theo quan niệm của ngƣời Thái, đất là tài sản vô giá của con ngƣời. Có
đất, con ngƣời sẽ sinh tồn, vì vậy, tục ngữ Thái có câu:
Còn đất còn ruộng
Còn ngƣời còn của
Từ quan niệm của dân gian: có đất, sẽ có ruộng, có ruộng sẽ có gạo,
nhà thơ Thái hiện đại đã vừa rút ngắn vừa mở rộng tƣ tƣởng ấy và diễn đạt
bằng một hình ảnh thơ rất độc đáo:
Đất mở mắt, thành gạo
Đất quỳ gối, thành nhà.
(Đất- Lƣơng Quy Nhân)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
Hoặc cũng xuất phát từ quan niệm của ngƣời Thái là rất coi trọng ruộng
lúa và sông suối, vì đây là nơi cung cấp lƣơng thực, thức ăn cho con ngƣời
(theo phong tục tập quán trồng lúa làm lƣơng thực và đánh bắt cá làm thức
ăn) nên ngƣời Thái có câu tục ngữ :
Đƣợc nắm xôi ngon chớ quên ruộng
Đƣợc khúc cá bùi chớ quên suối
Nhà thơ Thái hiện đại đã vận dụng câu tục ngữ ấy và diễn đạt theo cách
của riêng mình: Đƣợc lúa chớ quên ruộng.
Đƣợc cá chớ quên nơm
(Ơn Đảng- Lƣơng Quy Nhân)
Hoặc để góp phần tô đậm bản sắc dân tộc cho thơ, Lƣơng Quy Nhân đã
không ngần ngại sử dụng gần nhƣ nguyên vẹn một câu tục ngữ Thái để tăng
hiệu quả nghệ thuật cho thơ mình.
Ví dụ, tục ngữ Thái có câu:
Cá sấy không trở lại đẻ
Gà sấy không trở lại gáy”
Thì khi nói đến sự hồi sinh của con ngƣời nhờ có ánh sáng của cách
mạng, nhà thơ viết:
Bây giờ thì dƣờng nhƣ
Cá sấy khô biết đẻ
Gà sấy khô biết gáy...
(Gọi cả nhà ăn cơm)
Trong Biên giới lòng ngƣời, nhà thơ Lƣơng Quy Nhân sử dụng rất
nhiều tục ngữ Thái trong một bài thơ:
- Chúi cổ, luồn rào, miệng ngậm lửa.
- Than hồng dấu trong nẹp áo.
- Giặc miệng ngọt, lòng đắng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
- Trƣớc mặt cƣời, múa dao sau lƣng.
Hay La Quán Miên cũng viết:
Ngoài miệng- đừng bôi mỡ
Trong bụng- đừng giấu chông
(Ngôi nhà sàn của tôi)
Có thể nhận thấy cách diễn đạt của Lƣơng Quy Nhân và La Quán Miên
đều đƣợc lấy trong câu tục ngữ quen thuộc của ngƣời Thái:
- Lời nói ở đầu lƣỡi, đắng ngọt ở đấy cả.
- Sông sâu vẫn đo đƣợc đáy, lòng ngƣời không đo đƣợc.
- Nhím cắm gai ngoài da, ngƣời cắm gai trong bụng.
Nhà thơ Thái hiện đại đã mƣợn ý tứ từ những câu tục ngữ trong dân gia
để nói đến sự “nông, sâu”, phức tạp của lòng ngƣời. Với cách nói hình ảnh
nhƣ “Than hồng dấu trong nẹp áo” hay “Miệng- bôi mỡ”, “Bụng- vót chông”
đã làm tăng tính hàm súc và ý nghĩa của câu thơ.
Cũng giống nhƣ thể loại tục ngữ, vốn cao dao- dân ca dân gian Thái
cũng đƣợc các nhà thơ Thái hiện đại vận dụng khá phổ biến và hiệu quả.
Để nhấn mạnh đến nguồn gốc cùng giống nòi và tính đoàn kết của cộng
đồng ngƣời Thái, ca dao Thái có câu:
Ở khác bản nhƣng cùng chung một tỉnh
Ở khác phƣờng nhƣng đều là một giống
Ở dƣới suối nƣớc chảy nhƣng đều chung một dòng
Từ ý tứ của câu ca dao trên, nhà thơ Thái hiện đại cũng phát huy vốn ca
dao, dân ca giàu có của mình trong bài thơ “Nam Bắc một nhà” nhƣng trên
tinh thần mở rộng hơn, hiện đại hơn khái niệm “giống nòi”.
Đôi ta dù khác bản nhƣng chung mƣờng,
Dù khác phƣơng nhƣng cùng chung đất nƣớc.
(Cầm Biêu)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
Trong văn học dân gian Thái có rất nhiều câu ca ngợi đôi bàn tay khéo
léo của ngƣời Thái, đặc biệt là ngƣời phụ nữ Thái, nhƣ:
Úp bàn tay nên hoa
Ngửa bàn tay thành bông
Vƣơng Trung cũng ca ngợi đôi bàn tay khéo léo của ngƣời phụ nữ Thái
hiện đại trong việc trồng lúa:
Ngửa bàn tay thành sao tua rua.
Bay lấp lánh cánh đồng rộng rãi.
(Hội cấy thi)
Lò Cao Nhum cũng cảm nhận đƣợc sự tài hoa đến tài tình của ngƣời phụ
nữ Thái Bàn tay:
Bàn tay đan,
Thành bông thành vải...
Bàn tay vung,
Ra trái ra cơm...
Bàn tay xoè,
Ánh bạc ánh vàng.
Còn trong dân ca Thái thì sự khéo léo của đôi bàn tay cũng đƣợc ca ngợi
trên thủ pháp phóng đại, đôi bàn tay ngƣời phụ nữ nhƣ có phép lạ nhiệm màu:
Đụng vào khung cửu vải thành hoa.
Tung nắm tấm thành ra đàn gà.
Khua cái chầy hoa ra gạo trắng.
Đụng vào cỏ thì cỏ chết nắng.
Vuốt lên lúa, bụi lúa ra bông”
Sầm Nga Di cũng rất lãng mạn với cái nhìn dân gian về đôi bàn tay khéo
léo: Khi em xoè tay trái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
Vải nhiều tấm quẳng ra
Chân váy nở nhiều hoa...
Em xoè bàn tay phải
Gà tục tác đẻ trứng tròn”
(Cổ tay tròn đuôi cá)
Ngoài ra, trong thơ Thái hiện đại còn bắt gặp nhiều câu ca dao, tục ngữ
đƣợc vận dụng trong thơ, trong Nam Bắc một nhà (Cầm Biêu) có 5/ 14 câu
thơ đƣợc lấy từ nguyên văn dân ca Thái, thậm chí bài Nhớ bản cũ của ông
cũng đƣợc nâng cao từ dân ca Thái.
Đối với mỗi ngƣời dân tộc Thái nói chung và nhà thơ Thái hiện đại nói
riêng thì những giá trị văn hoá truyền thống của cha ông nhƣ ca dao, dân ca,
tục ngữ...là “gia phả”, “gia tài”, là tài sản vô giá, không “bạc vàng nào sánh
nổi” của tộc ngƣời. Nói nhƣ La Quán Miên, mỗi lần tiếp xúc với những giá trị
truyền thống ấy, “hồn” ngƣời lại về với “tổ tiên” từ thủa cha ông xây bản, lập
mƣờng. Chính vì vậy, trong thơ Thái hiện đại, các nhà thơ rất chú ý vận dụng
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả những câu ca dao, tục ngữ vào trong thơ.
Việc vận dụng nguyên vẹn hoặc một phần ý tƣởng của những câu tục
ngữ, ca dao, dân ca trong văn học dân gian Thái vào trong thơ Thái hiện đại-
một mặt, nó tái hiện một cách sinh động cách tƣ duy, diễn đạt, phong tục, tập
quán hay quan niệm của ngƣời Thái về lao động, quan hệ xã hội, giao tiếp
ứng xử ...của con ngƣời, mặt khác, làm tăng tính hàm súc, biểu cảm cho thơ,
làm cho thơ Thái hiện đại gần gũi, dễ hiểu, dễ đi vào lòng ngƣời và tạo nên
bản sắc dân tộc đậm đà cho thơ Thái hiện đại.
3.3. Một số đặc điểm của ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ ca Thái hiện đại
Đƣợc sinh ra và lớn lên từ những miền quê giàu truyền thống văn hoá,
các nhà thơ Thái hiện đại nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân, Hoàng Nó, Lò
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
Văn Cậy, Vƣơng Trung, Lò Vũ Vân, La Quán Miên, Lò Cao Nhum ... là
ngƣời con của bản mƣờng, đƣợc nuôi dƣỡng và bồi đắp “Từ giọt máu hồng
mẹ đẻ ra. Cùng một bầu sữa mẹ nuôi sống ”. Hơn ai hết, các nhà thơ dân tộc
Thái luôn ý thức việc giữ gìn những bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Vì
vậy, phần lớn sáng tác của họ mang đậm cách nghĩ, cách cảm của ngƣời Thái
thông qua việc đƣa lời ăn, tiếng nói hàng ngày, cách so sánh ví von độc
đáo...làm cho ngôn ngữ thơ Thái hiện đại vừa mộc mạc, giản dị vừa giàu sức
biểu cảm, nhiều nhạc điệu, hình ảnh sinh động, giàu chất liên tƣởng, so sánh...
Nhƣ đã biết, phần lớn các nhà thơ Thái hiện đại sáng tác thơ bằng tiếng
dân tộc mình sau đó dịch sang tiếng phổ thông. Chính vì vậy, các tác phẩm
thể hiện rất rõ những cách diễn đạt, tƣ duy của ngƣời Thái. Trong thơ Thái
hiện đại, cả trƣớc và sau giai đoạn 1975, một đặc điểm nổi bật là thơ có ngôn
ngữ mộc mạc, dễ hiểu, nhƣ tính cách chân thành, giản dị của ngƣời dân tộc
Thái:
Làm phúc không mong đền công
Làm ơn không mong trả lãi
Trồng cây ven đƣờng
Cả mình hƣởng bóng râm
(Làm phúc- Cầm Biêu)
Đọc Hạt tình của Lò Văn Cậy thì cũng dễ dàng nhận ra tính cách khảng
khái, thẳng thắn của ngƣời Thái qua những từ ngữ rất mộc mạc:
Chuyện mẹ đi xin muối
Đến cầu thang nhổ bọt
Tốc cả váy lên hông
Đớp gan mày thì có!
Đổi đầu mày thì có.
Nhà thơ với cách sử dụng những động từ gây ấn tƣợng mạnh nhƣ
“tốc”, “đớp”... đã thể hiện tính cách bộc trực thẳng thắn và cƣơng quyết của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
ngƣời Thái trƣớc quân xâm lƣợc, dù đói khát, đặc biệt là “đói muối” cũng
không chịu luồn cúi trƣớc kẻ thù. Cũng với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhƣ lời ăn
tiếng nói hàng ngày ấy, La Quán Miên cho ngƣời đọc thấy cách thể hiện tình
cảm rất riêng của ngƣời Thái:
Bụng ta thƣơng mày lắm...
Cái máy bay thằng Mỹ
Ném bom xuống, bom to nhƣ cái chum
Bản nhà sàn của ta ăn lửa...
Bụng ta thƣơng hung.
(Tiễn dặn ngƣời trai bản)
Từ việc sử dụng cách xƣng hô “ta- mày” và cách nói “bụng ta
thƣơng”, cách diễn đạt “bản nhà sàn của ta ăn lửa” đã cho thấy việc đƣa
ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày vào thơ tạo ấn tƣợng gần gũi, thân tình, dễ tiếp
nhận đối với ngƣời đọc. Ngƣời Thái hay mƣợn “cái bụng” để nói lên tấm
lòng, tình cảm, suy nghĩ, mong muốn....của mình “Nếu anh nhƣ bụng em.
Muốn bên anh suốt đời...” (Sầm Nga Di) cho thấy cách diễn đạt tình cảm
không thể lẫn vào đâu đƣợc của ngƣời Thái.
Trong thơ dân tộc Thái hiện đại, có rất nhiều những bài thơ có nhan đề
ngắn gọn chỉ có từ một đến hai chữ, Lƣơng Quy Nhân có “Núi”, “Dốc”,
“Gió”, “Sao”, “Đất”, “Nƣớc”, “Rừng”..., Cầm Biêu cũng có không ít
những bài thơ có nhan đề nhƣ thế: “Bữa ăn”, “Bụi”, “Sách”, “Mới”, “Điện,
Đèn, Đóm”...hoặc “Đông”, “Xuân”, “Khát”, “Biển”... của Lò Vũ Vân.
Ngoài việc đơn giản, gọn nhẹ từ việc đặt nhan đề cho tác phẩm, họ cũng tinh
giản tối đa những câu chữ để tạo sự dễ hiểu, dễ thuộc, dễ nhớ hoặc để diễn tả
dụng ý của mình:
Sàn đầu bản.
Có thiếu phụ nhớ chồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
Trăng.
Vô tình.
Mặc sức sáng.
(Áo chồng- Lò Cao Nhum)
Ta cũng có thể tìm thấy ngôn ngữ diễn đạt, truyền tải ngắn gọn, mộc
mạc, đơn giản ấy trong Vô đề”, “Hƣơng núi”, “Tự khúc” (Lò Vũ Vân), “Chỉ
có một tình yêu”, “Đã đi là tới”, “Nhớ” (Lƣơng Quy Nhân)... hay “Nữ bây
giờ”, “Ngƣời mẹ”...(Lò Văn Cậy)
Chính cách vận dụng những lời ăn tiếng nói hàng ngày vào trong thơ,
cách sử dụng từ ngữ gắn gọn, dễ hiểu...đã tạo cho thơ Thái sự mộc mạc, giản
dị, sự súc tích, ngắn gọn. Tuy không cầu kỳ, rƣờm rà nhƣng ngôn ngữ thơ
Thái không quá đơn giản, mà ngƣợc lại, nhiều bài thơ, câu thơ có tính triết lý,
trí tuệ sâu sắc:
Vì ngƣời đi bằng đầu,
Chứ không phải bằng chân.
Muốn chân khỏi vấp váp,
Phải chững chạc cái đầu.
(Cái đầu, cái chân- Cầm Biêu)
Với cách diễn đạt“ngƣời đi bằng đầu” chứ “không phải bằng chân”
nghe có vẻ mâu thuẫn, phi lý, ngƣợc đời nhƣng ngôn ngữ biểu hiện ở đây
đã cho thấy sự “đi” này không phải là di chuyển vật lý đơn thuần mà là sự
“đi” của con ngƣời trong “đƣờng đời”. Con ngƣời có vững vàng, cứng cáp,
không bị “vấp váp” đều là do “cái đầu” tức là bản lĩnh, trí tuệ của con
ngƣời quyết định.
Cũng cùng với cách nói ấy trong Chỉ cần một loại ngƣời, nhà thơ Thái
hiện đại đã phát huy tối đa và hiệu quả sự mộc mạc của ngôn ngữ, đƣa ngôn
ngữ thơ đến tính triết lý sâu sắc:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
Chỉ cần một loại ngƣời.
Có một bộ óc sáng,
Và một trái tim vàng,
Trí óc có gân tay,
Bàn tay có nếp nhăn của não.
(Chỉ cần một loại ngƣời- Cầm Biêu)
Câu thơ “Trí óc có gân tay. Bàn tay có nếp nhăn của não” đã lột tả rõ
nét và sâu sắc tƣ tƣởng của nhà thơ Cầm Biêu nói riêng và quan niệm của
ngƣời Thái nói chung về giá trị của con ngƣời. Sức mạnh của con ngƣời chính
là bộ óc và đôi bàn tay, lao động trí óc và lao động chân tay đƣợc kết hợp một
cách hài hoà sẽ tạo hiệu quả rất lớn trong lao động. Khi một đôi bàn tay trí tuệ
“có nếp nhăn của não” cộng với một “trái tim” nhân hậu là khi con ngƣời trở
thành “ngƣời” nhất.
Bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ đời thƣờng và cách diễn đạt rất thẳng
thắn, mộc mạc, trong thơ Thái hiện đại cũng có không ít bài thơ có giàu tính
biểu cảm do thói quen “nói những lời có vần” của ngƣời dân tộc thiểu số nói
chung và ngƣời Thái nói riêng:
Bạn lên thăm một tháng
Thăm chƣa hết 23 dân tộc anh em
Bạn đến một tháng
Trèo chƣa hết cây thang nhà sàn lợp cỏ của tôi
Bạn ở một tháng
Chƣa đếm hết hƣơu nai trong rừng
Bạn chờ một tháng
Chƣa kịp thở nếm hƣơng thơm trong lành đất trời…
(Nhắn bạn- Lƣơng Quy Nhân)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Bài thơ nhƣ một lời mời, lời nhắn gửi đến các dân tộc anh em nhƣng
đồng thời cũng là lời giới thiệu về sự trù phú, tƣơi đẹp, hấp dẫn của quê
hƣơng ngƣời Thái. Cách sử dụng từ ngữ giàu sức biểu cảm, tạo hình đã thể
hiện sự tinh tế, khéo léo, lãng mạn và bay bổng trong cách diễn đạt của ngƣời
Thái.
Hoặc với những đề tài “không mấy chất thơ” nhƣ “cái chổi”, “ cái sọt
rác”, Cầm Biêu cũng thổi vào đó cách diễn đạt mới mẻ, tinh tế:
Cái sọt rơm
Cái sọt rác...
Việc nhọc nhằn không chút kêu ca
Tròn nhiệm vụ, sọt rác nở hoa
(Cái sọt rác)
Ngoài tính hàm súc, tính biểu cảm thì ngôn ngữ thơ Thái còn rất giàu
nhạc điệu do các nhà thơ tiếp thu ngôn ngữ truyện thơ và ảnh hƣởng của
những làn điệu dân ca, đặc biệt là điệu “khắp”.
“Gần nhau tay có hai tay” của Cầm Cƣờng giống nhƣ một lời dân ca
trong thơ ca dân gian:
Gần nhau tay có hai tay
Sức là hai sức, một ngày hai công
Mƣa chín ngàn hạt mặc lòng,
Mƣa chín ngàn trận đầy sông mặc trời…
Đôi ta làm lấy lúa chung
Dệt lấy chăn, mùng, gối, áo, đủ đôi.
Lối hát đối đáp “khắp” đƣợc các nhà thơ sử dụng khá nhiều nhƣ một
phƣơng thức hữu hiệu để bộc lộ tâm tình:
Nghiêng nghiêng bóng núi chiều tà
Câu thơ em hát la đà bên khuông:
“Ngƣời ơi ngƣời chớ hẹn xuông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
Để cho gió bẻ mất buồng cau non
Dẫu cho rừng kiệt núi mòn
Câu thơ tình nặng sắc son lời nguyền”
(Câu hát ví mùa xuân-Lò Vũ Vân)
Hay Lò Cao Nhum- nhà thơ nổi tiếng với những sáng tác mang hơi thở
cuộc sống hiện đại cũng không thể không vận dụng điệu “khắp” quen thuộc
này:
Biết là sâu thẳm mênh mông
Tầm nhìn của núi, tầm trông của trời
Tầm lao thuyền của biển khơi
Cũng từ sỏi đá này thôi kết thành...
(Sỏi đá- Lò Cao Nhum)
Mặc dù còn có những câu thơ “chƣa mấy chất thơ” do thói quen đƣa
vào thơ những lời ăn, tiếng nói trong sinh hoạt hàng ngày nhƣng bù lại, điểm
mạnh của ngôn ngữ thơ Thái là tính hàm súc, kiệm lời nên rất gần gũi, dễ
hiểu. Mặt khác, các nhà thơ Thái đã vận dụng tinh tế, khéo léo, sáng tạo ngôn
ngữ của truyện thơ, ca dao, dân ca ...nên làm tăng tính biểu cảm và nhạc điệu
trong thơ. Nhờ cách phối hợp hiệu quả ngôn ngữ thơ hiện đại với ngôn ngữ
của văn học dân gian, các nhà thơ Thái đã tạo nên một bản sắc riêng cho thơ
Thái, khiến cho ngƣời đọc bị hấp dẫn, lôi cuốn bởi cảm giác “lạ mà quen,
quen mà lạ” vì tính truyền thống và hiện đại của thơ Thái.
Trong thơ Thái hiện đại, các nhà thơ hay vận dụng cách diễn đạt quen
thuộc của ngƣời Thái là ví von, so sánh để gây ấn tƣợng với ngƣời đọc, vì vậy
thơ Thái rất sinh động và giàu hình ảnh.
Trong thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng, hình ảnh ngọn núi xuất hiện
khá nhiều nhƣng trong con mắt của nhà thơ dân tộc Thái, núi không chỉ là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
những khối đá khổng lồ xếp chồng chất lên nhau, không phải là vật vô tri, vô
giác, mà ngƣợc lại, núi nhƣ một cơ thể sống:
Núi già, núi có râu đầy cằm
Núi có máu, có xƣơng núi sống...
(Núi-Lƣơng Quy Nhân)
Hình ảnh ngọn núi có “râu đầy cằm” cho thấy cái nhìn rất dí dỏm của
nhà thơ về ngọn núi. Ngọn núi trở nên sinh động, có sức sống (dù rằng đó là
một “ông núi” hay “cụ núi”) vì vậy nó kích thích trí tƣởng tƣợng, liên tƣởng
của ngƣời đọc, gây sự chú ý, hấp dẫn đối với ngƣời đọc.
Hay trong Thƣ tết gửi cho anh, vẫn cách so sánh, ví von ấy, nhà thơ
Thái hiện đại đã cho thấy cách nói, cách diễn đạt rất độc đáo của ngƣời Thái:
Em làm ra ngô để bắp ngô to bằng sừng trâu
Em làm ra lúa để bông lúa to bằng ngà voi…
(Lƣơng Quy Nhân)
Hình ảnh “bắp ngô to bằng sừng trâu”, “bông lúa to bằng ngà voi” có
vẻ rất phi lý nhƣng lại rất dễ đƣợc chấp nhận bởi nó xuất hiện trong một niềm
mong đợi, một sự khao khát về một cuộc sống ấm no, đầy đủ của ngƣời Thái.
Cách so sánh, ví von hay đƣợc các nhà thơ Thái dùng để biểu đạt tâm
trạng, tình cảm. Cách mƣợn “cái này” để nói “cái kia” làm tăng giá trị biểu
cảm của lời thơ. Ngƣời Thái hay nói:
Tình ta đẹp nhƣ mùa Ban nở.
(Lời em hát- Sầm Nga Di)
Hình ảnh hoa ban nở gợi lên sự thanh bình, tƣơi đẹp, lãng mạn của quê
hƣơng ngƣời Thái. Với ngƣời Thái, mùa hoa Ban nở mùa của lễ hội, mùa của
tình yêu, là “mùa thiêng” của dân tộc Thái... do vậy nhà thơ Thái hiện đại đã
rất tinh tế khi mƣợn hình ảnh rực rỡ của “mùa Ban nở” để ca ngợi tình yêu
trong sáng của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
Với việc sử dụng những câu thơ giàu hình ảnh, các nhà thơ Thái không
chỉ cho thấy cách diễn đạt quen thuộc của ngƣời dân tộc Thái, mà thông qua
đó cách cảm, cách nghĩ và thế giới tâm hồn và đời sống sinh hoạt, tập quán,
tĩn ngƣỡng của ngƣời Thái cũng đƣợc thể hiện rõ nét.
Trong thơ Thái hiện đại, hình ảnh nhà sàn xuất hiện khá nhiều. Theo
truyền thống của ngƣời Thái, một nếp nhà sàn là một đơn vị không gian chứa
đựng một tế bào của xó hội nờn ngƣời Thái mới gọi là "Cộng đồng nhà"
(chúa hƣớn). éú cú thể là một gia đỡnh nhỏ gồm một cặp vợ chồng và con cỏi
chƣa đến tuổi trƣởng thành hoặc cũng có thể là một gia đỡnh lớn gồm ba, bốn
thế hệ cựng chung sống hũa thuận bờn nhau. Vì vậy, nhà sàn có vai trò đặc
biệt quan trọng trong đời sống sinh hoạt của ngƣời Thái, đó là nơi là nơi con
trai đan lát, thổi khèn, pí, con gái quay xa, dệt vải, thêu thùa....
Chân bƣớc lên thang..
Trải thảm, mời trầu
Mở rƣợu, đánh cồng...
Tiếng khèn, tiếng sáo
Lời hát cất lên...
Mẫu váy, mẫu thêu
Sắc màu, hoạ tiết...
(Xa quê- La Quán Miên)
Không những thế, nhà sàn còn là biểu tƣợng văn hoá, tâm linh của ngƣời
Thái (ngƣời Thái quan niệm vũ trụ có ba tầng: Tầng trời, tầng mặt đất và tầng
dƣới mặt đất. Về xã hội cũng có ba tầng: Mƣờng Phạ, Mƣờng Lum, Mƣờng
Cỏng và ngôi nhà sàn của ngƣời Thái cũng có 3 tầng: Pựng lang – nền, Hạng
cang- sàn nhà, Tê đá hang thản hạnh- trần)...Vì thế, với ngƣời Thái, nhà sàn
không chỉ là nơi để ở mà là nơi hàm chứa những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng đặc sắc của dân tộc Thái:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
Nhà tôi không ăn lúa đếm bông
Ăn kê đếm hạt
Ăn cá đếm xƣơng...
Khách xa, xin chào ngoài cổng
Khách gần, chào ở chân thang
Mũ nón treo ở phía dƣới
Túi bạc, túi vàng treo ở phía trên...
(Ngôi nhà sàn của tôi- La Quán Miên)
Nhà sàn của ngƣời Thái – “hƣớn hạn phủ táy” là một công trỡnh kiến
trỳc đẹp, hũa đồng với với thiên nhiên, đất trời cùng vạn vật. Từ kiến trúc
xây dựng đến nghệ thuật trang trí đều bắt nguồn từ thực tế cuộc sống khách
quan đƣợc cách điệu hóa đạt tới trỡnh độ thẩm mỹ cao. Nhà sàn của ngƣời
Thái mang một nét đẹp riêng biệt, đơn sơ nhƣng cũng không kém phần bề
thế, sang trọng:
Ngôi nhà sàn,
Mang hình dáng chim Phƣợng Hoàng,
Hai đầu hồi kết thành Khau Cút,
Nhƣ hai ngọn rau rún.
(Xa quê- La Quán Miên)
Nhà sàn của ngƣời Thái bao giờ cũng làm số gian lẻ, hai đầu hồi - “tụp
cống” khum khum nhƣ mai rùa, gắn với truyền thuyết về thuở khai thiên lập
địa, thần rùa “Pua tấu” dạy cho ngƣời Thái biết cách làm nhà theo hỡnh rựa
đứng. Sự duyên dáng đặc trƣng của nhà sàn Thái đƣợc thể hiện ở hình “Khau
cút” vắt chéo vào nhau hai bên đầu hồi nhà sàn. Giải thích về biểu tƣợng
“Khau cỳt” cú nhiều ý kiến khỏc nhau nhƣ: Đó là cặp sừng trâu cách điệu,
biểu tƣợng của một nền văn minh lúa nƣớc, hoặc đó là những búp cây “rau
rún” cú nhiều ở Tõy Bắc, hay gắn với cuộc thiờn di tỡm miền đất hứa của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
ngƣời Thái, anh em luôn nhớ về nhau...Dự cỏch giải thớch nào thỡ khi bắt
gặp hỡnh “Khau cỳt” trên nóc nhà sàn, là mỗi ngƣời Thái lại thêm ấm lũng,
nhớ về anh em, bản mƣờng yêu dấu. Vì vậy, mỗi lần xa quê, ngƣời Thái lại
nhớ về ngôi nhà sàn trong đó có bếp lửa hồng ấm nồng quen thuộc.
Nhà sàn của ngƣời Thái cổ có hai bếp lửa – “chớk phỏy”. Bếp lửa phớa
“tang quản” dành cho ngƣời già, bếp chính ở phía “tang chan” dành cho nữ
giới. Quanh bếp lửa hồng, đó bao lần gia đỡnh họ tộc quõy quần nghe ngƣời
già hát, ngâm, kể - “khắp” những điều răn dạy về đạo lý làm ngƣời - “Quỏmk
son cốn”; Chuyện bản mƣờng - “Quámk tố mƣớng”; Bƣớc đƣờng chinh chiến
của cha ông - “Tỏy pỳ xấc”; Tiễn dặn ngƣời yêu - “Xống chụ xon xao”... cùng
nồng say trong các điệu “xũe” ngày mừng cơm mới, lên nhà mới, hội cƣới,
ngày xuân...Vì vậy, hình ảnh bếp lửa xuất hiện khá nhiều trong thơ Thái hiện
đại, nó nhƣ trái tim hồng, sƣởi ấm và nuôi dƣỡng cả về vật chất và tinh thần
cho mỗi con ngƣời:“Đống lửa nhen, sợi khói ấm bản chiều” ( La Quán
Miên).
Giữa núi rừng trùng điệp, bếp lửa ấy dù chỉ là một “khoang tròn ấm
sáng” nhƣng lòng ngƣời ấm lại nhờ ánh lửa hồng trong đêm đông giá rét:
Ôi bếp lửa nhà ta chật hẹp
Một khoang tròn ấm sáng nhà trong
Nơi đầu núi lửa reo tí tách
Cũng đủ tan băng giá biên phòng.
(Bếp lửa nhà ta- Lò Cao Nhum)
Vì hình ảnh nhà sàn của ngƣời Thái (trong đó có bếp lửa) là nơi chứng
kiến buồn vui của bao thế hệ, giúp mỗi ngƣời hiểu thêm về quá khứ, hiện tại
và tƣơng lai nên thông qua hình ảnh quen thuộc này, các nhà thơ Thái hiện
đại đã giúp ngƣời đọc đã khám phá, hiểu thêm những phong tục, tập quán, tín
ngƣỡng độc đáo của ngƣời Thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
Bên cạnh ngôi nhà sàn, đối với ngƣời dân tộc Thái, sân chơi “hạn
khuống” đã trở thành một biểu tƣợng của nếp sinh hoạt văn hoá truyền thống
của dân tộc. Nó đã trở thành máu thịt của cái “cơ thể tinh thần” Thái. Chính
vì vậy, khi giặc tàn phá quê hƣơng, nỗi đau đớn của ngƣời Thái tăng lên gấp
bội. Bởi không phải chỉ mất bản, mất làng, mất núi, rừng, đồng ruộng...mà
mất đi cả cái “linh hồn” của quê hƣơng:
Sàn ngắm trăng quạnh hƣu hoang vắng,
Nơi hợp chợ thành rừng cà gai,
Khuống đầu bản vắng cây tính tẩu,
Sàn giữa mƣờng im tiếng bật bông.
(Cầm Biêu)
Hoặc hình ảnh “khăn Piêu” cũng vậy! Đó là một nét đẹp đặc trƣng của
ngƣời con gái Thái. Là vật gửi hồn, gửi bản sắc văn hoá dân tộc Thái. Nếu
một mai nét đẹp đặc trƣng ấy mất đi thì “tâm hồn Thái” đã gửi gắm ngàn năm
cũng không còn đƣợc nguyên vẹn:
Váy hoa đã khác
Khăn “Piêu” còn đâu...
(La Quán Miên)
Nhƣ vậy, với cách sử dụng ngôn ngữ thơ tạo hình và biện pháp so sánh,
ví von...đã làm cho thơ Thái giàu hình ảnh, giàu chất liên tƣởng, kích thích trí
tƣởng tƣợng của ngƣời đọc. Chính từ những hình ảnh cụ thể, gần gũi, quen
thuộc mà lối tƣ duy, diễn đạt và cách cảm, cách nghĩ quen thuộc của ngƣời
dân tộc Thái hiện lên sinh động và rõ nét.
Thông qua việc vận dụng những làn điệu dân ca, điệu “khắp” và những
lời ăn, tiếng nói hàng ngày của ngƣời Thái vào trong thơ nên ngôn ngữ thơ
Thái hiện đại vừa mộc mạc, giản dị vừa giàu sức biểu cảm, nhiều nhạc điệu.
Hình ảnh trong thơ Thái cũng trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn nhờ cách
liên tƣởng, ví von, so sánh và hệ thống từ ngữ giàu tính tạo hình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
Đọc thơ Thái hiện đại, chúng ta có thể hình dung ra cảnh sắc thiên nhiên,
con ngƣời, những nếp sinh hoạt, phong tục tập quán đậm đà bản sắc của
ngƣời Thái và trên hết là có thể hiểu đƣợc cả thế giới tâm hồn phong phú, đa
dạng của ngƣời Thái- cái mà chúng ta không thể nhìn thấy, mà chỉ có thể cảm
nhận và hình dung thông qua lời ăn, tiếng nói, cách cảm, cách nghĩ và những
hình ảnh gắn liền với đời sống văn hoá, tâm linh của ngƣời Thái mà thôi.
Có thể nói, với cách sử dụng ngôn ngữ ấy, những hình ảnh ấy...các nhà
thơ Thái đã tạo cho thơ Thái hiện đại dấu ấn riêng, bản sắc riêng và góp phần
làm đa dạng, phong phú và giàu có cho ngôn ngữ thơ ca các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại.
* *
*
Trong thơ Thái hiện đại, việc các nhà thơ tiếp thu, vận dụng sáng tạo,
linh hoạt những loại hình nghệ thuật dân gian truyền thống nhƣ truyện thơ, ca
dao, tục ngữ hay thủ pháp ví von, so sánh và cách diễn đạt gần gũi với lời ăn
tiếng nói hàng ngày...đã tạo cho thơ Thái những nét độc đáo, ấn tƣợng.
Việc tiếp thu nghệ thuật kể chuyện, ngôn ngữ giàu hình ảnh của thể loại
truyện thơ đã tạo cho thơ Thái chất trữ tình, sâu lắng. Những câu thơ, bài thơ
phản ánh những đề tài hiện đại, những vấn đề của cuộc sống hiện đại nhƣng
vẫn giàu tính biểu cảm. Đặc biệt, với sự kết tinh nghệ thuật của cả thể loại
truyện thơ dân gian trong truyện thơ Ing-Éng, đã tạo cho thơ Thái hiện đại sự
phong phú, đa dạng không chỉ ở thể loại mà còn ở nghệ thuật biểu hiện của
thơ. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa những câu thơ ngắn gọn, giản dị của thể
thơ tự do với những câu thơ dài bất tận trong truyện thơ; là nghệ thuật dẫn
dắt, kể chuyện hồi hộp, hấp dẫn của truyện thơ với cách diễn đạt gần gũi, dễ
hiểu nhƣng không kém phần lãng mạn của thơ Thái hiện đại...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
Các nhà thơ Thái hiện đại cũng đã phát huy những ƣu điểm, thế mạnh
của thể loại tục ngữ, ca dao, dân ca trong thơ Thái hiện đại. Những câu thơ, ý
thơ ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu nhƣ lời ăn tiếng nói hàng ngày một mặt làm
cho thơ Thái trở nên gần gũi, thân quen, mặt khác cũng tạo nên tính hàm súc,
trí tuệ cho thơ. Sự bay bổng, phóng khoáng của những câu ca dao, làn điệu
dân ca cũng làm cho thơ Thái dễ đi vào lòng ngƣời.
Một đóng góp lớn của các nhà thơ Thái là việc vận dụng sáng tạo ngôn
ngữ biểu cảm với ngôn ngữ sinh hoạt tạo cho thơ Thái cảm giác vừa lạ, vừa
quen. Hơn nữa việc sử dụng những vần điệu giàu âm thanh, nhạc lý của làn
điệu ca dao, “khắp” cũng làm cho thơ Thái càng giàu nhạc điệu. Nhiều câu
thơ, bài thơ có sự du dƣơng, ngọt ngào của điệu “khắp”, có nhịp điệu bập
bùng của trống chiêng từ những điệu xoè; có nhịp thơ mềm mại, uyển chuyển
của Xống chụ xôn xao.
Cách so sánh, ví von độc đáo cũng đƣợc các nhà thơ Thái rất chú ý và sử
dụng khá hiệu quả trong thơ Thái hiện đại. Chính cách liên tƣởng quen thuộc,
“mƣợn cái này để nói cái kia” của ngƣời Thái đã tạo cho câu thơ những hình
ảnh rất cụ thể và sinh động. Một ngọn núi, một màu trắng hoa Ban hay một
nếp nhà sàn ...cũng gợi bao điều kỳ thú về thế giới tâm hồn của ngƣời Thái.
Có thể thấy rằng, từ nền tảng là kho tàng văn học dân gian phong phú, đa
dạng, các nhà thơ Thái hiện đại với sự tinh tế và lãng mạn đã chắp cánh thành
những bài thơ giàu bản sắc văn hoá Thái. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ Thái,
ngƣời đọc cảm nhận và khám phá đƣợc những lời ăn, tiếng nói, cách cảm,
cách nghĩ và những phong tục, tập quán, sinh hoạt của ngƣời Thái. Cầm Biêu,
Lƣơng Quy Nhân, Lò Cao Nhum hay La Quán Miên và nhiều nhà thơ Thái
khác....đã thổi vào ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ...sự nồng say của tâm hồn
ngƣời dân tộc Thái.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
PHẦN KẾT LUẬN
1. Năm 1945 là mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời, hình thành và phát
triển của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, trong đó có thơ ca dân
tộc Thái. Giống nhƣ một số các dân tộc thiểu số khác, trƣớc năm 1945, thơ ca
Thái chủ yếu là văn học dân gian, với những thành tựu độc đáo nhƣ ca dao,
dân ca, tục ngữ, sử thi... đặc biệt là truyện thơ- một trong những thể loại đỉnh
cao của nền văn học dân gian các dân tộc thiểu số.
Kể từ khi mới ra đời, số lƣợng, chất lƣợng đội ngũ và tác phẩm của thơ
dân tộc Thái hiện đại còn rất khiêm tốn. Sau hơn nửa thế kỷ, đội ngũ các nhà
thơ dân tộc Thái ngày càng đông đảo, lớn mạnh hơn (từ lớp những nhà thơ
đầu tiên khai sinh ra văn học dân tộc Thái hiện đại là Cầm Biêu, Lƣơng Quy
Nhân, Hoàng Nó đến thế hệ nhà thơ trƣởng thành sau năm 1954 là Vƣơng
Trung, Lò Văn Cậy, La Quán Miên và đội ngũ các nhà thơ từ sau năm 1975
nhƣ Lò Vũ Vân, Lò Cao Nhum, Cầm Bá Lai...). Mặc dù xuất hiện ở những
thời điểm khác nhau, thuộc các vùng, miền khác nhau (Nghệ An, Hoà Bình,
Sơn La...) nhƣng ở họ đều có điểm chung là rất yêu mến và say đắm thơ ca,
“lấy sáng tác làm nguồn vui” [28, tr.56], vì vậy, với các nhà thơ Thái hiện đại,
làm thơ là một thứ lao động nghệ thuật thực sự vất vả và nghiêm túc “Mồ hôi
đã quyện máu đào nàng thơ” (Cầm Biêu).
Cùng với sự lớn mạnh về đội ngũ, số lƣợng, chất lƣợng tác phẩm thơ ca
Thái hiện đại ngày càng phong phú hơn, dày dặn hơn. Nhiều bài thơ, tập thơ
đạt đƣợc các giải thƣởng có uy tín, đƣợc bạn đọc yêu mến và nhiệt thành đón
nhận. Đó không chỉ là sự thừa nhận về sự hiện diện của thơ ca Thái hiện đại
mà còn là sự khẳng định vị trí và những đóng góp của thơ Thái đối với nền
thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
2. Về nội dung: Nhìn chung, từ năm 1945 đến nay, các nhà thơ Thái hiện
đại đều tập trung phản ánh thiên nhiên, con ngƣời, cuộc sống tƣơi đẹp và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
những phong tục, tập quán đậm đà bản sắc dân tộc Thái. Tuy nhiên, ở những
thời điểm khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, họ có cách nhìn nhận khác nhau.
Từ năm 1945-1975, thơ ca Thái đã phản ánh cuộc sống cách mạng và
cuộc kháng chiến của vùng dân tộc mình. Thơ ẩn chứa những cảm nhận, suy
tƣ, tâm trạng của đồng bào miền núi đối với những năm tháng cách mạng,
kháng chiến gian khổ. Đồng thời cũng là niềm vui sƣớng tự hào vì đƣợc đổi
đời và sống dƣới ánh sáng của cách mạng, của chiến thắng oanh liệt, hào
hùng của cả dân tộc và sự náo nức xây dựng cuộc sống mới.
Mặc dù việc phản ánh không khí cách mạng và công cuộc xây dựng cuộc
sống mới là chủ đề chính trong thơ ca dân tộc Thái giai đoạn này, nhƣng
thông qua đó, các nhà thơ cũng đã bộc lộ cảm xúc của mình trƣớc thiên nhiên,
con ngƣời và cuộc sống của ngƣời Thái. Tuy nhiên, trong những năm tháng
đất nƣớc “có chung khuôn mặt, chung tâm hồn”, mọi thứ đều đƣợc nhìn nhận
bởi cảm xúc khẳng định, ngợi ca. Thiên nhiên cũng đƣợc nhân hoá, mang sức
mạnh vô song nhƣ con ngƣời, còn con ngƣời đƣợc đẩy lên ở tầm cao hơn, họ
có “trái tim Bế Văn Đàn”, có “gan Phan Đình Giót” (Cầm Biêu) dù cho
“sƣơng giăng- nắng tràn” vẫn “thản nhiên cƣời hát” (Lò Văn Cậy).
Sau năm 1975, hoà bình đƣợc lập lại, các nhà thơ chú ý và đi sâu vào
những thể tài mới với cảm xúc cụ thể hơn. Thiên nhiên Tây Bắc- quê hƣơng
của ngƣời Thái hiện lên với vẻ đẹp rất chân thực. Trong sự hoang sơ, bí ẩn là
khung cảnh thơ mộng, hiền hoà. Chen giữa những dãy núi cao, những thung
lũng rộng lớn là những nếp sàn, tầng ruộng bậc thang và rừng Ban trắng
muốt... Trên nền thiên nhiên ấy, con ngƣời dân tộc Thái giản dị, thật thà, yêu
thiên nhiên, yêu cuộc sống. Nổi bật là hình tƣợng ngƣời phụ nhữ Thái xinh
đẹp, duyên dáng, khéo léo, tài hoa. Cuộc sống vật chất và tinh thần của ngƣời
Thái cũng đƣợc các nhà thơ phản ánh chân thực và sinh động. Họ vừa hăng
say lao động xây dựng cuộc sống mới nhƣng cũng rất bay bổng trong những
điệu khắp, lãng mạn trong những vòng xoè, biết trân trọng và gìn giữ bản sắc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
văn hoá dân tộc ở những lễ hội truyền thống của quê hƣơng... Tuy nhiên, bên
cạnh đó, các nhà thơ cũng chú ý khai thác những trăn trở, suy tƣ, sự chiêm
nghiệm về lẽ sống, cuộc đời, con ngƣời trong hoàn cảnh xã hội đầy biến động,
đó là sự giao tranh của cái cũ- mới, cao cả- thấp hèn,...Chính vì vậy, thơ Thái
ngày càng gần gũi hơn, chân thực hơn, giản dị hơn.
Có thể thấy, dù ở những thời điểm khác nhau, dù phản ánh sự vật, hiện
thực bằng nhiều dạng thức khác nhau nhƣng điểm gặp gỡ chung của của các
nhà thơ Thái là cảm hứng về thiên nhiên, con ngƣời, phong tục, tập quán,
cuộc sống của ngƣời dân tộc Thái là mạch nguồn không ngừng chảy trong
sáng tác của các nhà thơ. Đọc thơ Thái hiện đại, ngƣời đọc không chỉ cảm
nhận đƣợc vẻ đẹp của thiên nhiên, con ngƣời và cuộc sống nơi đây mà thông
qua cách diễn đạt độc đáo của các nhà thơ Thái, ngƣời đọc đã khám phá ra
những phong tục, tập quán, cách cảm, cách nghĩ và thế giới tâm hồn của
ngƣời Thái. Có nghĩa, các nhà thơ Thái, thông qua nội dung phản ánh của
mình, đã chuyển tải đến ngƣời đọc những “thông điệp” của ngƣời Thái, bản
sắc văn hoá Thái.
3. Về nghệ thuật: Phần lớn các thế hệ nhà thơ Thái (đặc biệt là các nhà
thơ thuộc giai đoạn đầu) đều sử dụng những hình thức nghệ thuật quen thuộc,
đó là thể thơ truyền thống 7 chữ- 8 dòng, 7 chữ- 4 dòng, vần đƣờng luật, lối
phô diễn, những làn điệu dân ca, vận dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ của văn
học dân gian Thái….Vì vậy, thơ Thái rất gần gũi và dễ đi vào lòng ngƣời.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các nhà thơ Thái hiện đại cũng phối hợp có hiệu quả
những hình thức nghệ thuật mới, hiện đại với tinh hoa nghệ thuật của nền văn
học dân gian Thái nên thơ Thái vừa có tính truyền thống, vừa có màu sắc hiện
đại. Bên cạnh sự mộc mạc, đơn sơ là sự trí tuệ, sâu sắc; dù gần gũi, giản dị
cũng vẫn có sự bay bổng và tinh tế; dù rất truyền thống với nghệ thuật của
truyện thơ, ca dao...dân gian nhƣng cũng rất hiện đại ở những thể thơ, câu thơ
tự do, phá cách... Chính sự kết hợp này đã đem lại cho thơ Thái những đặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
điểm nghệ thuật rất độc đáo, riêng biệt, thơ Thái hấp dẫn ngƣời đọc và thu hút
bởi cảm giác vừa “lạ” nhƣng cũng vừa “quen” ấy.
Nhƣ vậy, cùng với nội dung phản ánh mang đậm cách cảm, cách nghĩ và
bản sắc dân tộc Thái. Thơ Thái hiện đại với hình thức biểu hiện độc đáo đã
mang tiếng nói, phong tục, tập quán... đặc trƣng của dân tộc Thái đến với
vƣờn hoa muôn màu, muôn sắc của các dân tộc anh em nhƣ một phong vị đặc
sản của quê hƣơng ngƣời Thái. Chính vì thế, nghệ thuật thơ Thái hiện đại
cũng đã góp phần “níu giữ” thể loại, gìn giữ và phát triển những tinh hoa của
văn học dân gian, bản sắc văn hoá dân tộc và góp phần làm đa dạng, phong
phú nền thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và thơ ca Việt
Nam nói chung.
4. Với những giá trị đã đƣợc khẳng định của thơ ca dân gian Thái nhƣ
những bài ca dao, những áng sử thi hay những truyện thơ dạt dào vần, điệu,
các nhà thơ Thái hiện đại không chỉ bảo tồn, phát triển những tinh hoa ấy, mà
đã thắp sáng và truyền lại cho con cháu thế hệ mai sau. Dù đƣợc tắm mình
trong nguồn mạch văn hoá dân tộc nhƣ Cầm Biêu, Lƣơng Quy Nhân... hay là
sự kế thừa vốn văn học dân gian qua sách vở nhƣ La Quán Miên, Lò Cao
Nhum...thì dƣ vang truyền thống vẫn không phai mờ. Những giá trị của quá
khứ nhƣ là “Pèo pẫy mí mọt” (Ngọn lửa không tắt) đƣợc chuyển giao từ thế
hệ này sang thế hệ khác, phải chăng đây là giá trị và là đóng góp lớn của thơ
ca dân tộc Thái đối với nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và văn học
Việt Nam hiện đại nói chung.
Bằng tâm huyết và lao động sáng tạo miệt mài, các nhà thơ dân tộc Thái
thời kỳ hiện đại đã sôi nổi, tự tin bƣớc lên diễn đàn văn học nghệ thuật, góp
vào dòng chảy lớn của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam những mạch
nguồn trong trẻo, mát lành. Theo nhƣ cách nói của ngƣời dân tộc miền núi
“có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa”, sự đóng góp của các nhà thơ Thái đối với
nền văn học các các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại là điều đáng ghi nhận.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
124
Thơ ca dân tộc Thái hiện đại đã góp phần gìn giữ bản sắc văn hoá đậm đà của
thơ ca các dân tộc thiểu số và tạo nên sự phong phú, giàu có cho nền văn học
Việt Nam hiện đại ./.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
125
DANH MỤC
CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
1. Vũ Thị Vân (2007), “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Thái thời kỳ hiện
đại”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Thái Nguyên (số 3).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
126
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vƣơng Anh (2006) “Kế thừa và phát huy vốn văn hoá dân tộc trong sáng
tác thơ của các tác giả dân tộc thiểu số hiện nay”, Tạp chí xứ Thanh (số 12).
2. Bộ văn hoá Thông tin (2005), “Toàn cảnh văn hoá vùng Tây Bắc”,
Wedsite Bộ Văn hoá Thông tin.
3. Nông Quốc Bình (2006), “Nhìn lại văn học nghệ thuật các dân tộc
thiểu số”, Báo Nhân dân (số 8).
4. Lê Thị Vân Bình (2006), “Đời đời nhớ ơn Bác -Tấm lòng ngƣời dân
Tây Bắc với Bác Hồ”, Báo Điện Biên Phủ điện tử.
5. Cầm Biêu (1984), Ánh hồng Điện Biên, Nxb Văn hoá Dân tộc.
6. Cầm Biêu (1994), Ngọn lửa không tắt, Nxb Văn hoá Dân tộc.
7. Cầm Biêu (1961), “Lời nói đầu Xống chụ xon xao” NxB Hà Nội.
8. Lò Văn Cậy (1986), Hạt muối hạt tình, Nxb Văn hoá.
9. Nông Quốc Chấn (1998), Tuyển tập Văn học dân tộc & miền núi , Nxb
Giáo dục.
10. Nông Quốc Chấn (1977), Một vƣờn hoa nhiều hƣơng sắc, Nxb Văn hoá.
11. Nông Quốc Chấn chủ biên (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, NXB Văn hoá Dân tộc.
12. Đỗ Kim Cuông (2006), “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số trong
quá trình đổi mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
13. Nguyễn Nghĩa Dân (2006) “So sánh nội dung thống nhất và đa dạng
của tục ngữ Việt với tục ngữ các dân tộc thiểu số ở nƣớc ta”, Tạp chí
Văn hoá dân gian (số 4).
14. Nguyễn Đăng Duy (2002), Văn hoá học Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông
tin.
15. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hƣợu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoàng Khung,
Lê Chí Dũng…(1999), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
127
16. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1977), Báo cáo Chính trị BCH
TW Đảng, Nxb Sự thật.
17. Phan Kiến Giang (2000), “Bộ áo ngắn “xửa cóm” cổ truyền của ngƣời
Thái”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 11).
18. Mào Ết (2000), “Tục ngữ dân tộc Thái”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 11).
19. Ngọc Hải (2000), “Lễ hội “xên bản” của đồng bào Thái”, Tạp chí Dân
tộc và Thời đại (số 86).
20. Nguyễn Mạnh Hào (2001), “Suy nghĩ về bản sắc văn hoá dân tộc”, Tạp
chí Xƣa và nay (số 9).
21. Nguyễn Thị Thu Hiền (2003), “Chúng ta đã có một nền văn nghệ dân
tộc thiểu số”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 5).
22. Tô Hợp (2001), “Lễ Khửn cẩu”- Nét đẹp văn hoá truyền thống của
ngƣời Thái” , Tạp chí văn hoá dân tộc (số 6).
23. Lô Hoan (2000), “Nhớ về đồng dao ngƣời Thái”, Tạp chí Văn hoá dân
tộc (số 6).
24. Vũ Hoài (2007), “Sơn La- Những điệu múa đắm say lòng ngƣời”, Báo
điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
25. Lò Văn Hặc (2000), “Một số trò chơi ngày Tết của dân tộc Thái”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 6).
26. Hội Nhà văn Việt Nam (1960), Cầu vào bản- tập thơ miền núi. Nxb
Văn học.
27. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (1999), Văn học
các dân tộc- từ một diễn đàn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
28. Hội văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2003), Nhà văn
các dân tộc thiểu số- Đời và văn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
29. Hội Thái học Việt Nam (1992), Kỷ yếu Hội thảo Thái học, NXB VH
Dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
128
30. Nguyễn Văn Huy (2001), Bức tranh văn hoá các dân tộc Việt Nam,
NXB Giáo dục.
31. Nguyễn Xuân Kính (2004), “Giao lƣu văn hoá giữa dân tộc Việt và văn
hoá các dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn hoá Dân gian (số 9).
32. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (1997), Văn học
dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục.
33. Hà Lâm Kỳ chủ biên (2005), Mỗi nét hoa văn , Nxb Văn hoá Dân tộc.
34. Cầm Bá Lai (1997)“Hoa và nắng”, Nxb Văn hoá Dân tộc.
35. Ngọc Lan (2005), “Trao đổi với nhà thơ Dƣơng Thuấn”, Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
36. Phong Lê (1993), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn.
37. Trịnh Bích Liên (2003), “Đổi mới quan niệm về nghệ thuật của các nhà
văn DTTS hiện đại ở phạm vi lý luận phê bình”, Tạp chí Văn hoá các
dân tộc (số 11).
38. Đinh Liên (2002), “Phƣơng ngôn tục ngữ Thái- Kinh nghiệm sống của
ngƣời miền núi”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3).
39. Lê Lâm (1998), “Tản trụ xống xƣơng- Bản tình ca dân tộc Thái”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 1).
40. Mai Liễu (2005) “Lên Tây Bắc tìm Lò Vũ Vân”, Tạp chí Văn học dân
tộc (số 6).
41. Mai Liễu (2007) “Khoảng trống về lý luận phê bình văn học nghệ thuật
các dân tộc thiểu số”, Báo Nhân dân (số 8).
42. Mã Giang Lân (2005), Văn học hiện đại Việt Nam, Vấn đề-Tác giả,
Nxb Giáo dục.
43. Đặng Văn Lung (1994), Tục ngữ- Văn học dân gian các dân tộc, Nxb
Văn hoá Dân tộc.
44. Hoàng Lƣơng (2001), “Tình ca Thái”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc
(số 1+2).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
129
45. Bùi Huy Mai (2002), Dân tộc và Bản sắc văn hoá, Nxb Văn hoá Dân tộc.
46. La Quán Miên (1999), Con đƣờng bản Đôn (tập thơ), Nxb Nghệ An.
47. La Quán Miên (2004) “Ngƣời Thái cúng vật nuôi ngày tết”, Tạp chí
Văn học dân tộc (số 8).
48. La Quán Miên (2004) “Lai mổng mƣơng- một văn bản có nhiều tƣ liệu
quý về ngƣời Thái ở Nghệ An”, Tạp chí Văn học dân tộc (số 9).
49. La Quán Miên, Sầm Nga Di, Vi Văn Thứa (1983), Hƣơng đất quế- tập
thơ, Nxb Nghệ Tĩnh.
50. Tố Minh (2005) "Ẩm thực Thái- Sự giao hoà với thiên nhiên- dân tộc
và thời đại", Tạp chí Văn học dân tộc (số 77).
51. Hà Văn Nam (1999), Tục ngữ Thái, Nxb Văn hoá dân tộc.
52. Đậu Tuấn Nam (2005), “Bảo tồn, phát triển các giá trị văn hoá truyền
thống của ngƣời Thái”, Tạp chí văn học dân gian (số 4).
53. Lò Cao Nhum (1996), Rƣợu núi, Nxb Văn hoá Dân tộc.
54. Lò Cao Nhum (1995), Giọt sao trở về, Nxb Văn hoá Dân tộc.
55. Lƣơng Quy Nhân (1991), Hạn khuống, Sở VHTT Lai Châu.
56. Lƣơng Quy Nhân (1994), Độ dày tình yêu, Nxb VHDT.
57. Lƣơng Quy Nhân (1983), Biên giới lòng ngƣời, Nxb Văn hoá Dân tộc.
58. Vi Hồng Nhân (2004), Văn hoá các dân tộc- từ một góc nhìn, Nxb Văn
hoá Dân tộc.
59. Phan Đăng Nhật (2005), Khủn chƣởng- Anh hùng ca Thái, Nxb Khoa
học xã hội.
60. Hoàng Nó (1987), “Tiếng hát mƣờng ban”, Nxb Văn hoá Dân tộc.
61. Võ Quang Nhơn (1983) , Văn học các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
62. Lò Giàng Páo (1997), Tìm hiểu văn hoá vùng các dân tộc thiểu số, Nxb
Văn hoá Dân tộc.
63. Mạc Phi dịch và giới thiệu (1972), Tiễn dặn ngƣời yêu, Nxb Văn hoá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
130
64. Ngô Thị Thanh Quý (2001), Nghiên cứu thi pháp truyện thơ Tiễn dặn
ngƣời yêu dân tộc Thái, Luận văn thạc sỹ Ngữ văn, trƣờng ĐH Sƣ
phạm Thái Nguyên.
65. Lò Ngân Sủn (1999), Hoa văn thổ cẩm, Nxb Văn hoá Dân tộc.
66. Lò Ngân Sủn (2001), Thơ của các nhà thơ dân tộc thiểu số, Nxb Văn
hoá Dân tộc.
67. Lò Ngân Sủn (2002), Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số,
Nxb Văn hoá Dân tộc.
68. Lò Ngân Sủn (2003), “Tôi muốn văn học các DTTS nổi lên”, Tạp chí
văn hoá các dân tộc (số 9).
69. Lò Ngân Sủn (2003), “Viết về văn học các dân tộc thiểu số - một công
việc ít đƣợc quan tâm”, Tạp chí Văn hoá dân tộc (số 3).
70. Lò Ngân Sủn (2003), “Vài nét về dân ca dân tộc thiểu số”, Tạp chí Văn
hoá dân tộc (số 10).
71. Lò Ngân Sủn (2004), “Để văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam có chất lƣợng ngang tầm với văn học nghệ thuật cả nƣớc”, Tạp
chí Văn hoá dân tộc (số 10).
72. Dƣơng Đình Minh Sơn (1999), “Kút Piêu của ngƣời Thái”, Tạp chí
Văn hoá dân tộc (số 8).
73. Dƣơng Đƣờng Minh Sơn (2006), “Dây tình của ngƣời Thái”, Tạp chí
Văn hoá dân tộc (số 5).
74. Vũ Ngọc Sơn (2006), “Quan hệ thông gia của đồng bào Thái”, Tạp chí
Dân tộc và Thời đại (số 92).
75. Đinh Sơn (2006), Hỏi chuyện với chuyên gia Thái học Cầm Trọng-
Báo Điện Biên Phủ điện tử.
76. Trần Đình Sử dịch và giới thiệu (2002), Mấy vấn đề lý luận và phƣơng
pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
131
77. Nguyễn Thái (2004), “Trang phục phụ nữ Thái Tây Bắc- nét đẹp đời
thƣờng”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 8).
78. Hà Bá Tâm (2006), “Từ ẩm thực, nhận diện về một truyền thống Thái”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 88).
79. Vũ Minh Tâm (2004), “Bản sắc văn hoá dân tộc- Một cách tiếp cận”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 47).
80. Ngọc Thanh (1980), Dân ca Thái, Nxb Văn hoá.
81. Phạm Thế Thành (2005), Bản sắc Tày trong thơ Nông Quốc Chấn,
Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, trƣờng ĐH Sƣ phạm Thái
Nguyên.
82. Trần Thảo (2006) “Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn một
khoảng trống”, Báo Khoa học và Đời sống (15).
83. Đỗ Văn Thông (2006), “Cơm Lam Tây Bắc”, Tạp chí Dân tộc và Thời
đại (số 85).
84. Lâm Tiến (1995), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn hoá dân tộc.
85. Lâm Tiến (1999 ), Về một mảng văn học dân tộc, Nxb Văn hoá dân tộc.
86. Lâm Tiến (2002), Văn học và miền núi, Nxb Văn hoá dân tộc.
87. Nguyễn Mạnh Tiến, Nguyễn Thanh Trƣờng (2006), “Vài nét về phong
tục tập quán trong truyện viết về miền núi 30-45”, Tạp chí Khoa học
trƣờng ĐHSP HN (số 5).
88. Dƣơng Thuấn (2003), “Vấn đề phát triển văn học nghệ thuật các DTTS
trong thời kỳ mới”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
89. Dƣơng Thuấn (1996), “Giải thƣởng văn học dân tộc và miền núi 2 năm
1994-1995”, Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 4).
90. Dƣơng Thuấn (2000), “Nét mới của văn học dân tộc và miền núi”, Tạp
chí Văn hoá các Dân tộc (số 7).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
132
91. Dƣơng Thuấn (2001), “Văn hoá với con ngƣời ở miền núi”, Tạp chí
Văn hoá các Dân tộc (số 8).
92. Trần Thị Diễm Thuý (2003), “Vị thế của ngƣời phụ nữ trong văn hoá
dân gian”, Tạp chí Văn học (số 1).
93. Cầm Trọng (2005), “Lễ tục cƣới xin trong xã hội cổ truyền Thái đen”,
Tạp chí Dân tộc và Thời đại (số 80).
94. Vƣơng Trung (1967), Truyện thơ Ing Éng, Nxb Văn học.
95. Vƣơng Trung (1979), Sóng Nậm rốm, Nxb Văn hoá.
96. Vƣơng Trung (1999), Mo khuôn, Nxb Văn hoá Dân tộc.
97. Vƣơng Trung (2003), Táy pú xấc, Nxb Văn hoá Dân tộc.
98. Vƣơng Trung (1999), “Thơ văn các dân tộc Thái trên đƣờng phát
triển”, Tạp chí văn hoá dân tộc (số 9).
99. Lò Vũ Vân (2000), Nhặt hoa trăng, Nxb Văn hoá.
100. Lò Vũ Vân (2000), Đi từ miền gió hoang, Nxb Văn hoá Dân tộc.
101. Triệu Kim Văn (2002), “Bản sắc dân tộc- nỗi lo của ngƣời cầm bút” ”,
Tạp chí Văn hoá các Dân tộc (số 2).
102. Viện Văn học (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ve_dac_diem_tho_ca_dan_toc_thai_hien_dai_0315.pdf