Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) – Thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bất cứ một sản phẩm mới nào muốn tới được với khách hàng một cách hiệu quả, đều cần một chiến lược marketing đúng đắn. Tại thị trường Việt Nam, một thị trường tiềm năng cho hoạt động factoring, nhất là với nh ững năm gần đây cơ cấu kinh tế dịch chuy ển theo hướng tăng trưởng các ngành dịch vụ, sản xuất và kim ngạch xuất nh ập khẩu tăng, thì việc các khách hàng doanh nghiệp chưa biết tới dịch vụ tiện ích này là một điều đáng tiếc. Đa phần các ngân hàng khi triển khai nghiệp vụ factoring cũng đã giới thiệu dịch vụ factoring qua website của mình, nhưng những khách hàng doanh nghiệp vẫn chưa nắm được bản chất của dịch vụ, c ũng như tính ưu việt của dịch vụ so với các phương thức tài trợ cũ, dẫn đến sự ngần ngại trong việc sử dụng dịch vụ này.

pdf88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3117 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiệp vụ bao thanh toán (factoring) – Thực trạng và giải pháp tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay không phải là điều đáng lo ngại khi luôn ở mức thấp hơn 5% như dự kiến của NHNN. Một thực tế là hiện nay, hầu như các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã tiến hành cổ phần hóa. Nhờ đó mà các ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp thông qua các đợt phát hành trái phiếu ngân hàng. Do vậy mà nguồn vốn của các ngân hàng tăng, làm nâng cao được khả năng phát triển nghiệp vụ tài trợ nói chung và nghiệp vụ bao thanh toán nói riêng. (ii) Yếu tố con người. Trong bất kỳ một lĩnh vực nào, con người luôn giữ vai trò quan trọng. Trong lĩnh vực ngân hàng, con người càng giữ vị trí quan trọng hơn, do tính chất của ngành là hoạt động dịch vụ, rất cần có sự duy trì quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng – nhiệm vụ trung tâm cho sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại. Trong giai đoạn gần đây, năng lực quản trị điều hành và năng lực thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán đã được nâng cao thông qua các khóa đào tạo trong và ngoài nước. Điển hình là vào tháng 4/2011, Phó Tổng Giám đốc của Vietcombank đã được The Asean Banker trao giải thưởng “ Nhà lãnh đạo Ngân hàng trẻ và triển 59 vọng năm 2011”trên khu vực Châu Á – Thái Bình Dượng, 10/3/2012 Vietinbank đã tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ bao thanh toán cho các chi nhánh phía Bắc, Ngân hàng Nhà nước cũng liên tục tổ chức các hội nghị tập huấn nghiệp vụ bao thanh toán cho các ngân hàng.Bên cạnh đó, một thuận lợi lớn với ngành bao thanh toán của Việt Nam là được sự quan tâm của các ngân hàng lớn trên thế giới. Phát hiện thấy Việt Nam là một thị trường tiềm năng, các ngân hàng đứng đầu về bao thanh toán trên thế giới thường xuyên gửi các chuyên gia sang Việt Nam tổ chức các buổi tọa đàm về bao thanh toán. Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, ngân hàng đã xây dựng được một đội ngũ các nhân viên có trình độ trong việc thẩm định tín dụng, cho vay, thu hồi nợ... Do vậy, họ có đủ khả năng, và giàu kinh nghiệm để sẵn sàng học hỏi, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. 3.2.2. Nhu cầu về dịch vụ factoring ngày càng tăng. Việt Nam là một thị trường tiềm năng với dân số gần 88 triệu người , mức độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm luôn ở mức khá cao. Với sự phát triển như vậy, đối với các doanh nghiệp thì nguồn vốn bị giới hạn là một khó khăn lớn. Nhu cầu về vốn cùng với những biện pháp hạn chế rủi ro mà ngân hàng và các tổ chức tín dụng áp dụng nhằm hạn chế những rủi ro có thể xảy ra kéo theo nhu cầu một dịch vụ tài trợ vốn mà không cần tài sản đảm bảo. Dịch vụ bao thanh toán giải quyết được những điều kiện trên. Hơn nữa, Việt Nam là một quốc gia có khả năng thu hút nguồn vốn FDI mạnh mẽ, nhưng nguồn vốn này lại rất khó đến với các doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, để giải quyết vấn đề vốn cho các doanh nghiệp, các ngân hàng cần phát triển dịch vụ bao thanh toán nhằm giúp những doanh nghiệp này có thể mở rộng phạm vu huy động vống, giúp cho vòng quay vốn nhanh hơn, từ đó mở rộng đầu tư. Đứng trước những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp trước nền kinh tế mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, việc giao thương giữa các nước diễn ra ngày càng mạnh mẽ, các doanh nghiệp Việt Nam phải tăng khả năng cạnh tranh. Nhưng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài lại phụ thuộc rất lớn vào quy mô vốn. Nếu như hỗ trợ tín dụng của Nhà nước mang tầm vĩ mô và tác động một cách gián tiếp thì hỗ trợ tín dụng 60 của ngân hàng lại ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp một cách trực tiếp và mang tính tức thời. 3.3. Giải pháp phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. 3.3.1. Giải pháp chủ yếu. 3.3.1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động Factoring. Cho tới thời điểm hiện nay, khung pháp lý cho bao thanh toán nói chung và factoring nói riêng vẫn còn rất sơ sài. Ngân hàng nhà nước mởi chỉ ra quyết định 1906/2004/QĐ-NHNN để ban hành quy chế hoạt động bao thanh toán, quyết định 30/2008/QĐ-NHNN để sửa đổi bổ sung . Tuy nhiên đã được sửa đổi, nhưng qua thực tế cho thấy quyết đinh này vẫn còn bộc lộc nhiều hạn chế. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần nhanh chóng ban hành một quy chế mới đầy đủ, khắc phục được những hạn chế của văn bản cũ, phù hợp với thông lệ, công ước về bao thanh toán trên thế giới và phù hợp với tình hình thực tế. Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một định nghĩa về nghiệp vụ factoring một cách phù hợp để thống nhất với các công ước, thông lệ quốc tế. Trong định nghĩa cần phân biệt được giữa thuật ngữ “cấp tín dụng” và “mua lại các khoản phải thu”. Quan hệ tín dụng là một quan hệ tách bạch với quan hệ mua bán, nếu trong khái niệm như quy định đã nêu: “việc cấp tín dụng thông qua việc mua lại các khoản phải thu” thì gây khó hiểu cho người đọc. Bên cạnh đó, chỉ định nghĩa bao thanh toán thuần túy là một hoạt động cấp tín dụng thì chưa đầy đủ, bởi khi sử dụng dịch vụ bao thanh toán, khách hàng còn được cung cấp những chức năng khác nằm trong gói dịch vụ đó bao gồm : thu nợ, đảm bảo rủi ro tín dụng, và theo dõi khoản phải thu.Mặt khác, trong luật lệ của FCI có quy định người mua được phép đòi lại tiền hàng trong trường hợp bên bán hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, đẩy đủ các điều khoản quy định trong hợp đồng, quy định về bao thanh toán của Ngân hàng Nhà nước ban hành lại ngược lại... Thứ hai, Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu xây dựng quy chế hạch toán, kiểm toán chuẩn mực dành cho hoạt động factoring để tránh trường hợp mỗi ngân hàng thương mại lại có một phương pháp hạch toán riêng, gây khó khăn cho các cơ 61 quan quản lý theo dõi và đánh giá sự hiệu quả trong hoạt động này. Quy chế hạch toán kế toán được ban hành cần đầy đủ những điều kiện cơ bản : - Phù hợp với nguyên lý, chuẩn mực kế toán áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kế toán tài chính. - Đảm bảo tính chặt chẽ và nhất quán khi áp dụng quy chế hạch toán đó vào thực tế. Thêm vào đó, ngân hàng cũng cần nghiên cứu, giả định các tình huống có thể xảy ra trong thực tế để bổ sung, sửa đổi vào quy chế khi cần thiết. - Đảm bảo được sự rõ ràng, mạch lạc khi phản ánh hoạt động bao thanh toán trên sổ sách kế toán. - Phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của nhà nước. Do sự phát triển kinh tế xã hội nhanh chóng, chắn chắn những văn bản hướng dẫn của nhà nước về hạch toán kế toán hoạt động bao thanh toán không thể phản ánh hết những tình huống xảy ra trên thực tế. Bởi vậy mà tính mở trong những văn bản này là rất cần thiết để có thể sửa đổi, bổ sung để theo kịp được với sự phát triển của nghiệp vụ factoring. - Quy chế hạch toán kế toán cần phải có tính pháp lý cao khi áp dụng. Đối với hoạt động bao thanh toán quốc tế, quy chế phải đảm bảo tính phù hợp, thống nhất với những thông lệ quốc tế và những thỏa thuận mà Việt Nam tham gia. Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan ban ngành để ban hành những quy định về thuế với hoạt động factoring. Việc ban hành thuế cho hoạt động này phải đảm bảo vừa khuyến khich các đơn vị cung cấp dịch vụ này tăng cường hoạt động. - Việc áp dụng về thuế chuyển nhượng có được áp dụng hay không? Nếu như được áp dụng thì mức thuế suất bao nhiêu thì hợp lý. - Tách biệt việc khai thuế hoạt động factoring riêng hay khai cùng với báo cáo thuế hàng tháng của đơn vị thực hiện nghiệp vụ. - Do nghiệp vụ này vẫn còn ở trong giai đoạn đang triển khai, cần được khuyến khích rất lớn từ phía nhà nước, nên cần có những mức độ miễn giảm thuế trong hoạt động, thời gian được miễn, những điều kiện để có thể được miễn. 62 - Xây dựng các hình thức khen thưởng cho các đơn vị thực hiện tốt những quy định về thuế, bên cạnh đó là các chế tài xử phạt khi các đơn vị này thực hiện không đúng theo quy định của pháp luật. Thứ tư, cần ban hành những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của đơn vị thực hiện nghiệp vụ factoring. - Các bên mua, bên bán tham gia trong hoạt động cần phải cung cấp những chứng từ, thông tin gì cho đơn vị cung cấp dịch vụ factoring. - Mức độ và các hình thức xử lý đối với các sai lệch trong thông tin do bên mua, bên bán cung cấp và cả những hình thức ưu đãi về mặt quản lý khi các bên tham gia vào hoạt động factoring nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ này. - Những thông tin tín dụng như báo cáo tài chính bên mua, bên bán, doanh số hoạt động factoring, ngành nghề bên mua bên bán... mà các đơn vị thực hiện factoring phải báo cáo định kỳ cho Ngân hàng Nhà nước. - Cần có những quy định cụ thể về vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc thực hiện các nghiệp vụ đảm bảo nhằm thu hồi vốn cho các đơn vị bao thanh toán khi xảy ra rủi ro trong việc cung cấp dịch vụ này dù đã thực hiện đầy đủ các biện pháp đảm bảo theo quy định. - Cần có những quy định về mức độ can thiệp của các cơ quan hữu quan đối với hoạt động factoring đến đâu. 3.3.1.2. Nâng cao chất lượng hệ thông thông tin tín dụng CIC. Hiện nay, các ngân hàng, tổ chức tín dụng cung cấp dịch vụ factoring có thể truy cập thông tin về các doanh nghiệp thông qua website riêng biệt đó là hệ thống thông tin tín dụng (CIC). Do đó, việc xây dựng mới, hoặc phát triển trung tâm CIC là một việc làm rất cần thiết cho các đơn vị bao thanh toán. Trung tâm này thực hiện những chức năng như sau: - Cung cấp thông tin, đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, công ty tham gia hoạt động bao thanh toán một cách nhanh chóng và kịp thời. Những thông tin này bao gồm : Thông tin ngành nghề, địa chỉ kinh doanh của doanh nghiệp; tình hình hoạt động tài chính của các doanh nghiệp; uy tín thanh toán, lịch sử giao dịch của các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động đối với các tổ chức tín dụng, những quy định của nhà nước về hoạt động bao thanh toán. 63 - Tình hình kinh tế xã hội tác động như thế nào tới hoạt động của doanh nghiệp trong những giai đoạn nhất định. - Những định hướng phát triển kinh tế của nhà nước trong giai đoạn sắp tới. Việc cung cấp thông tin này được thực hiện trên cơ sở chọn lọc thông tin do các tổ chức tin dụng cung cấp để hình thành cơ sở hệ thống dữ liệu. Trung tâm này phải tạo được sự liên thông trong hoạt động factoring giữa các tổ chức tín dụng. Trên cơ sở đó, hình thành các liên minh factoring trong nước để thực hiện factoring cho những khoản phải thu lớn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Việc xây dựng liên minh factoring không phải trên cơ sở bắt bược, mà trên cơ sở trung tâm thông tin sẽ là nơi cung cấp thông tin, giới thiệu và là cầu nối để các tổ chức tín dụng có nhu cầu đồng bao thanh toán hợp tác với nhau. Bên cạnh đó, trung tâm này cũng có thể làm các chức năng như xử lý tranh chấp trong quá trình thực hiện đồng bao thanh toán giữa các ngân hàng hay tham mưu cho ngân hàng những định hướng phát triển hoàn thiện sản phẩm này trong tương lai để phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đất nước và xu thế kinh tế khu vực, thế giới... 3.3.1.3. Tạo cơ sở hạ tầng cho sản phẩm factoring phát triển. Trong thời đại hiện nay, cơ sở hạ tầng, đặc biệt công nghệ là yếu tố quan trọng. Dù hệ thống ngân hàng có những cán bộ nhân viên am hiểu nghiệp vụ và có năng lực thực hiện nghiệp vụ tốt nhưng không có hệ thống các sản phẩm công nghệ ưu việt mang tính hỗ trợ cho hoạt động factoring thì không thể làm nên một hệ thống factoring có chất lượng cao và tiện ích để cung cấp cho khách hàng. Bởi vậy mà, ngành ngân hàng phải tiến tới hiện đại hóa trong hoạt động, đổi mới công nghệ, nắm bắt được những cái mới, xu thế của thế giới, nhưng vẫn phù hợp với hoàn cảnh nước ta để phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế. Vấn đề này không phải chỉ làm trong thời gian ngắn, mà đòi hỏi phải có sự đầu tư lâu dài, và thích đáng. Để phát triển nghiệp vụ factoring, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần mạnh dạn đầu tư hệ thống máy móc trang thiết bị hiện đại, đường truyền tốc độ cao, khả năng tối mật tốt, dung lượng lớn.. Song song với đó, ngân hàng cũng cần tuyển dụng và bố trí đội ngũ quản trị mạng, quản trị hệ thống máy móc để đảm bảo được cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động factoring. 64 Các ngân hàng thương mại cũng cần thực hiện các dự án tổng thể kết hợp với việc mời chuyên gia tư vấn để sao cho việc đầu tư được đồng bộ các chủng loại trang thiết bị hiện đại khi lắp đặt trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. 3.3.1.4. Nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải phát triển nghiệp vụ factoring. Nhận thức đóng vai trò quyết định trong sự phát triển, bởi vậy, để các dịch vụ factoring phát triển, trước hết cần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của factoring. Đối với các ngân hàng thương mại, việc đa dạng hóa sản phẩm là một việc làm hết sức cần thiết để có thể nâng cáo được sức cạnh tranh và vị thế của mình trên thị trường. Do đó, phổ biến dịch vụ factoring cần được các ngân hàng xem như là một cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh của mình. Hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay đều có website riêng, số lượng các khách hàng doanh nghiệp truy cập vào các website này tương đối lớn. Để tận dụng lợi thế này nhằm nâng cao nhận thức về hoạt động factoring, các ngân hàng nên xây dựng được phần giới thiệu ngắn gọn, súc tích, mà vẫn đầy đủ và truyền tải được những thông tin cơ bản nhất về dịch vụ này như định nghĩa, những gói dịch vụ, quy trình thực hiện, hồ sơ yêu cầu khi sử dụng dịch vụ,... Trong phần lợi ích của dịch vụ factoring, các ngân hàng cần nêu bật lên được những lợi ích vượt trội mà chỉ có dịch vụ bao thanh toán mới có thể đem lại. Để tạo niềm tin đối với các khách hàng trong thị trường có mức độ cạnh tranh cao như hiện nay, các ngân hàng cũng có thể đưa những nhận xét, những đánh giá của các khách hàng trước đó đã sử dụng dịch vụ factoring. Trong phần giới thiệu dịch vụ factoring tới khách hàng, các ngân hàng cũng nên đính kèm những văn bản pháp lý hiện hành có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động factoring nhằm tạo cảm giác tiện lợi nơi khách hàng khi tìm hiểu về hoạt động này. 3.3.1.5. Xây dựng chiến lược sản phẩm phù hợp với thị trường và chiến lược marketing hiệu quả cho dịch vụ factoring. Hiện nay, hầu như sản phẩm factoring của các ngân hàng thương mại đã khá đa dạng. Tuy nhiên, tại một số các ngân hàng, dịch vụ factoring được cung cấp tới khách hàng lại chỉ có một hình thức là có truy đòi, chính điều này đã phần nào làm giảm đi sức hấp dẫn của sản phẩm trong mắt các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh 65 đó, một số ngân hàng cũng chưa cung cấp đầy đủ các chức năng của nghiệp vụ factoring như bảo hiểm rủi ro bên bán. Đối với hoạt động thương mại quốc tế, gói dịch vụ factoring bao gồm cả bảo hiểm rủi ro bên bán là một gói dịch vụ rất hấp dẫn, sẽ được nhiều nhà xuất khẩu lựa chọn bởi do các nhà xuất khẩu thiếu thông tin bên bán, không đảm bảo được thanh toán sẽ sẵn sàng trả mức phí cao hơn. Điều này cần nỗ lực rất lớn từ phía ngân hàng trong việc đẩy mạnh mối quan hệ với các đơn vị bao thanh toán nhập khẩu, cũng như nắm bắt được thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp. Bất cứ một sản phẩm mới nào muốn tới được với khách hàng một cách hiệu quả, đều cần một chiến lược marketing đúng đắn. Tại thị trường Việt Nam, một thị trường tiềm năng cho hoạt động factoring, nhất là với những năm gần đây cơ cấu kinh tế dịch chuyển theo hướng tăng trưởng các ngành dịch vụ, sản xuất và kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, thì việc các khách hàng doanh nghiệp chưa biết tới dịch vụ tiện ích này là một điều đáng tiếc. Đa phần các ngân hàng khi triển khai nghiệp vụ factoring cũng đã giới thiệu dịch vụ factoring qua website của mình, nhưng những khách hàng doanh nghiệp vẫn chưa nắm được bản chất của dịch vụ, cũng như tính ưu việt của dịch vụ so với các phương thức tài trợ cũ, dẫn đến sự ngần ngại trong việc sử dụng dịch vụ này. Bởi vậy mà trong thời gian tới, ngân hàng cần xây dựng một chiến lược cụ thể và được thực hiện triệt để. Trong đó, cần chú trọng những vấn đề như :  Nghiên cứu thị trường : - Nghiên cứu thị trường để nắm bắt được thói quen và lý do khi khách hàng lựa chọn ngân hàng. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy sự lựa chọn của khách hàng sựa vào các tiêu chuẩn như địa điểm,thái độ phục vụ, chất lượng, sự thuận tiện khi giao dịch, uy tín của ngân hàng. Từ đó, các ngân hàng có thể xây dựng cho mình một chuẩn mực để có thể làm hài lòng khách hàng một cách tốt nhất. - Nghiên cứu về khả năng cạnh tranh của ngân hàng, theo đó, tiếp tục phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu. - Dự đoán sự biến đổi, phát triển của thị trường, từ đó xác định cho mình mục đích cần hướng tới. 66 Do thị trường Việt Nam có mức độ rủi ro cao nên cần lựa chọn ngành hàng thích hợp để bao thanh toán. Đó là những ngành sản xuất đặc thù như dệt, đồ gỗ, hàng xa xỉ, vật liệu xây dựng, cao su, hàng kim loại, hàng nhựa, quần áo, giầy dép, ngành in, xuất bản, chế biến thực phẩm... Bên cạnh đó, các đơn vị bao thanh toán cũng ưa chuộng những công ty có sổ sách lưu trữ tốt và đã kinh doanh trong nhiều năm, đối với Việt Nam thì đó là những công ty đã niêm yết trên thị trường chứng khoán. Các đơn vị bao thanh toán cũng cần tránh những ngành hàng không thích hợp với dịch vụ bao thanh toán : như hàng lương thực, thực phẩm..., hay những công ty có số lượng lớn các khách hàng nợ những món tiền nhỏ, những công ty đầu cơ, những công ty có quản lý yếu kém... Đôi khi, đơn vị bao thanh toán cần thực hiện kiểm tra với các công ty bên mua hàng, để có thể đánh giá được rủi ro thu hồi nợ.  Xác định khách hàng mục tiêu: Các ngân hàng thương mại Việt Nam nên bắt đầu với những khách hàng có quan hệ giao dịch từ trước vì có thể hiểu rõ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đa số các ngân hàng đều đã có một lượng khách giao dịch trung thành. Mỗi một dịch vụ có thể hướng tới những đối tượng khách hàng khác nhau, nên tiêu chí để xây dựng chính sách đối với khách hàng của mỗi dịch vụ sẽ khác nhau. Đối với nghiệp vụ factoring cũng vậy. Để thực hiện được việc lựa chọn khách hàng mục tiêu, ngân hàng cần thực hiện những bước sau: - Xác định đối tượng khách hàng mà ngân hàng có thể thực hiện cung ứng dịch vụ này. Ngân hàng cần chú ý tới những khách hàng có quan hệ giao thương, quan hệ mua bán hàng hóa thường xuyên, phát sinh các khoản phải thu và có nhu cầu về vốn. - Sau khi đã xác định được đối tượng để cung ứng hàng hóa, bước tiếp theo là lựa chọn trong số những khách hàng đang hoạt động giao dịch tại ngân hàng và các khách hàng tiềm năng để lựa chọn ra những khách hàng là đối tượng cụ thể tiếp cận. Trong nghiệp vụ bao thanh toán có nhiều gói dịch vụ khác nhau, bởi vậy mà tính chất của khách hàng ở mỗi gói dịch vụ này cũng khác nhau. Ngân hàng cần xác định được đối tượng nào sẽ được cung cấp gói dịch vụ nào thì phù hợp. Việc lựa 67 chọn này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng thu hồi được khoản phải thu, năng lực tài chính của người mua, tình hình hoạt động trong quá khứ và hiện tại của người bán. - Việc lựa chọn cụ thể khách hàng mục tiêu còn giúp cho ngân hàng dễ dàng hơn trong việc lựa chọn cách thức giới thiệu sản phẩm cho người có nhu cầu sử dụng. - Trong quá trình nghiên cứu về nghiệp vụ factoring, ta có thể thấy một nghịch lý trong cách lựa chọn đối tượng cung cấp dịch vụ factoring của ngân hàng. Đó là đa số các doanh nghiệp nhỏ đều sử dụng phương thức thanh toán ghi sổ. Trong khi đó, một số các ngân hàng thương mại Việt Nam lại ưu tiên cung cấp dịch vụ factoring cho các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế, nghiệp factoring được thiết kế để phục vụ các doanh nghiệp có tốc độ nhỏ, tốc độ phát triển cao. Bởi vậy, để có thể tận dụng khai thác được tối đa thị trường factoring, các ngân hàng cần triển khai cung cấp dịch vụ cho cả những khách hàng là doanh nghiệp nhỏ, nhưng có nhu cầu sử dụng dịch vụ và có chiến lược kinh doanh tốt.  Tích cực triển khai các hoạt động quảng cáo: Muốn sản phẩm này tới được với nhiều khách hàng hơn nữa, các ngân hàng thương mại cần chủ động tìm đến những khách hàng tiềm năng, giới thiệu cho khách hàng làm quen với sản phẩm thông qua các phương thức như : - Bán hàng trực tiếp, quảng cáo trực tiếp tại quầy để sản phẩm bao thanh toán có thể đến được với khách hàng. - Gửi thư trực tiếp tới các khách hàng tiềm năng. - Tổ chức hội thảo về dịch vụ factoring. - Tận dụng những kênh truyền thông hiệu quả như quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các sự kiện. - Tổ chức những buổi tọa đàm trực tiếp giữa các đơn vị cung cấp dịch vụ factoring và các doanh nghiệp đã sử dụng dịch vụ factoring.... - Quảng cáo thông qua các website uy tín mà các doanh nghiệp đang chú ý tới như doanhnghiepvietnam.com, doanhnghiep24h.net... Song song với chiến lược quảng cáo hiệu quả, các ngân hàng cũng phải chứng minh được tính ưu việt của dịch vụ qua sự so sánh với các phương thức khác và mức độ cạnh tranh giá cả thông qua lãi suất và phí dịch vụ. 68 Ngoài ra, ngân hàng cũng cần thực hiện những chính sách khách hàng linh hoạt. Ngân hàng cần nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, xây dựng dịch vụ dựa trên nhu cầu khách hàng. Cùng với việc duy trì mối quan hệ với khách hàng truyền thống, ngân hàng cần có chính sách để thu hút những khách hàng mới. Một điều quan trọng nhất trong khi cung cấp dịch vụ ngân hàng là thái độ của các nhân viên giao dịch, bởi thế, nhân viên giao dịch luôn phải giữ thái độ phục vụ văn minh, tận tình với khách hàng. Tóm lại, một chiến lược marketing hiệu quả sẽ không chỉ tạo đà cho dịch vụ factoring của ngân hàng phát triển mà còn thu hút được khách hàng, nâng cao uy tín của ngân hàng,từ đó phát triển được các dịch vụ khác. 3.3.1.6.Xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên mua khi cung cấp dịch vụ factoring. Để ký được hợp đồng factoring và duy trì được mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp, ngân hàng cần phải lường trước được hết những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, phải dự báo được ngân hàng có thể quản lý được những rủi ro này một cách hiệu quả hay không. Bởi vậy nên một quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên mua trước khi quyết định cung ứng dịch vụ factoring là rất cần thiết. Điều này phải tiến hành một cách tuần tự và có cơ sở vững chắc để đi đến kết luận, tránh làm ngân hàng mắc phải những rủi ro gây thiệt hại và cũng tránh làm mất đi những khách hàng tiềm năng. (i) Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán gồm những bước sau :  Khảo sát yêu cầu của khách hàng có thể bằng cách gọi điện thoại hoặc yêu cầu khách hàng điền vào những phiếu cung cấp thông tin.  Tìm hiểu hoạt động kinh doanh : giúp chúng ta nhận biết các nhu cầu của người bán để bán được sản phẩm và kiểm tra xem đề nghi cung cấp dịch vụ factoring của khách hàng có phù hợp với các quy định của ngân hàng hay không.  Khảo sát khách hàng : công đoạn này nhằm mục đích kiểm tra lại những thoogn tin đã thu thập được trước đó có đầy đủ và chính xác hay không, ngoài ra còn cung cấp thêm thông tin về khách hàng.  Đối chiếu những thông tin thu thập được về khách hàng với những tiêu chí lựa chọn khách hàng để cung cấp dịch vụ, bao gồm những tiêu chí sau: 69 Tiêu chí 1 : Khoản phải thu thỏa mãn những yếu tố sau: - có thể chuyển nhượng vô điều kiện. - có thể thu hồi được từ một người mua uy tín. - nếu người bán bị phá sản, vẫn có khả năng thu hồi được số tiền từ khoản tài trợ cho các khoản phải thu. Tiêu chí 2 : Khả năng phát triển và uy tín của bên bán, đánh giá theo: - bản thân công ty: loại hình kinh doanh, thời gian hoạt động, cổ động, cam kết của cổ đông về việc sử dụng và mở rộng khoản mục vốn... - năng lực quản lý : mô hình quản lý của doanh nghiệp, quyền quản lý tập trung vào những ai, kinh nghiệm và kỹ năng quản lý. - tình hình tài chính: công ty kinh doanh có lãi hay không? Khả năng thanh toán nợ ngăn hạn như thế nào? Công ty có chịu áp lực từ những chủ nợ hay không? - sản phẩm mà họ cung cấp có uy tín trên thị trường hay không? Có tiềm năng phát triển hay không? - lý do cần được tài trợ : để phát triển hoạt động kinh doanh hay bù lỗ? Việc sử dụng vốn sai mục đích sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bên bán và cho ngân hàng. Tiêu chí 3 : dịch vụ thỏa đáng với nhu cầu của khách hàng. Khách hàng sẽ cảm thấy hài lòng nếu như ngân hàng đưa ra một mức giá phù hợp. Và thực hiện việc đưa ra mức giá này dựa trên việc xem xét mối tương quan giữa dịch vụ factoring với dịch vụ tài trợ thương mại khác, và trong mối tương quan với dịch vụ factoring của các ngân hàng khác. Theo đó, ngân hàng cần phải: - đưa ra hạn mức bao thanh toán phù hợp. - mức tín dụng tài trợ hợp lý - xem xét khả năng thanh toán của bên mua hàng. Tiêu chí 4 : hiệu quả lợi nhuận mà dịch vụ mang lại. Hầu hết các ngân hàng chỉ chấp nhận cung cấp dịch vụ factoring cho những doanh nghiệp đạt doanh số nhất định, đồng thời họ cũng tiến hành kiểm tra số lượng người mua và số lượng hóa đơn bán hàng liên quan đến doanh số đó. Nếu như doanh số của doanh nghiệp cao, nhưng số lượng khách hàng và chứng từ mua bán 70 quá nhiều khiến ngân hàng phải tốn nhiều công sức, chi phí xử lý chứng từ và quản lý khách hàng thì ngân hàng cũng từ chối cung cấp dịch vụ factoring.  Ra quyết định lựa chọn : căn cứ vào giá trị của các khoản phải thu cùng với những thông tin thu thập để quyết định xem sẽ chấp nhận hay từ chối cung cấp dịch vụ factoring. Mặc dù quá trình và tiêu chí lựa chọn khách hàng được xem xét khá kỹ lưỡng nhưng mối quan hệ giữa ngân hàng và người bán luôn có những thay đổi ảnh hưởng tới sự tin tưởng giữa hai bên và đây là một tỏng những nguyên nhân gây ra rủi ro với hoạt động factoring. Do đó, ngân hàng cần quản lý, giám sát sự thay đổi của bên bán một cách chặt chẽ. (ii) Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên mua. Quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro từ bên mua gồm những bước sau:  Đánh giá độ tin cậy của người mua : để thực hiện được bước này, ngân hàng cần thu thập những thông tin về người mua bao gồm: - Loại hình doanh nghiệp. - Các thông tin phi kế toán. - Thông tin về tư cách người mua. - Thông tin từ các tổ chức đánh giá tín dụng. - Thông tin từ ngân hàng. - Thông tin từ CIC. - Thông tin từ các đối tác kinh doanh. - Thông tin kế toán gồm báo cáo hoạt động kinh doanh, ...  Quản lý rủi ro khoản phải thu Chất lượng và tính đa dạng của người mua là một trong những vấn đề mà ngân hàng cần lưu ý trong vấn đề đánh giá rủi ro của khoản phải thu. Ngân hàng quyết định có tài trợ hay không và nếu có thì hạn mức phù hợp là như thế nào dựa trên chất lượng của người mua. Tính đa dạng của người mua sẽ hạn chế được rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp có xảy ra vỡ nợ. Do vậy, nếu các khoản phải thu chỉ tập trung vào một số ít người mua thì một cách để quản lý rủi ro hiệu quả là không tài trợ cho phần vượt quá một mức giới hạn tín dụng an toàn nào đó. Tuy vậy, điều này lại làm giảm 71 khả năng cạnh tranh của ngân hàng nên có thể chấp nhận cung cấp dịch vụ factoring sau khi đã đảm bảo được những vấn đề sau : sản phẩm của người bán là sản phẩm có thể bao thanh toán, người mua thực sự đáng tin cậy đã từng có mối quan hệ lâu dài với người bán, hồ sơ về các khoản phải thu phải chi tiết, đầy đủ; ngân hàng phải tìm ra được giải pháp thu hồi khoản tiền đã tài trợ trong trường hợp rủi ro xảy ra. Khi quyết định cung cấp dịch vụ factoring cho khách hàng, ngân hàng luôn hi vọng họ đã đưa ra một quyết định đúng đắn dựa trên cơ sở thông tin mà ngân hàng đã thu thập được. Tuy nhiên, tình hình tài chính của người mua lại luôn luôn thay đổi. Do vậy, việc làm thiết yếu là ngân hàng phải luôn kiểm soát được quá trình kinh doanh giao dịch của người mua, để có biện pháp thu hồi khoản phải thu một cách hiệu quả mà vẫn duy trì được quan hệ tốt giữa người mua để từ đó không làm ảnh hưởng tới quan hệ giữa bên mua bên bán. Ngân hàng có thể tham khảo những biện pháp thu hồi nợ hiệu quả như sau: - Thu hồi khoản nợ bằng phương pháp tăng dần cấp bậc: Các ngân hàng sẽ thương lượng về vấn đề này với từng người có cấp bậc tăng dần trong công ty của người mua. Dĩ nhiên người chịu trách nhiệm đi thương lượng trong ngân hàng cũng phải có cấp bậc tương đương. Điều này sẽ giúp giải quyết ổn thỏa vấn đề này hơn mà vẫn giữ được mối quan hệ với người bán và bày tỏ được sự tôn trọng đối với công ty của người mua hơn là việc kiện người mua ra tòa. - Trong trường hợp ngân hàng thấy rằng đó chỉ là khó khăn nhất thời về mặt dòng tiền mà người mua thực sự có được một chiến lược kinh doanh phát triển rõ ràng trong tương lai thì ngân hàng có thể xem xét việc gia hạn thời gian thanh toán khoản nợ đến hạn. Điều này vừa giúp cho người mua vượt qua được khó khăn nhất thời về mặt tài chính và khoản phải thu sẽ được thu hồi một cách dễ dàng hơn sau đó mà vẫn tránh dược những tổn thất phát sinh. Tuy vậy, điều này lại đòi hỏi ở các ngân hàng sự đánh giá kỹ càng tiềm lực của người mua. - Sau khi gia hạn cho khoản nợ, ngân hàng cần đặt ra lịch trình thanh toán cụ thể bằng văn bản. Lịch trình thanh toán này không nên quá khắt khe, mà phải phù hợp với dòng tiền vào của người mua. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn cần cho người mua thấy được mức độ quan trọng của vấn đề và khuyến cáo bất cứ sự vi phạm nào 72 với lịch trình thanh toán cũng đồng nghĩa với việc toàn bộ khoản nợ chưa trả sẽ đến hạn thanh toán ngay lập tức. Có thể nói, việc quản lý và xử lý rủi ro của ngân hàng một cách có hiệu quả sẽ giúp cho nghiệp vụ factoring hiệu quả hơn. Và nếu như người mua thường xuyên thất tin, trì hoãn thanh toán những khoản sẽ đến hạn thì ngân hàng thương mại cũng không nên ngần ngại nhờ tới sự can thiệp của tòa án. 3.3.1.7.Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ factoring. Vấn đề con người luôn là yếu tố cốt lõi trong bất cứ hoạt động nào. Hơn nữa, factoring lại là một dịch vụ vẫn còn khá mới mẻ với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Do đó, việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ và nhân viên thực hiện nghiệp vụ factoring cần có được sự quan tâm tích cực. Trong thời gian tới, các ngân hàng cũng cần chủ động đào tạo cho mình một nguồn nhân lực vững chắc về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như phẩm chất đạo đức tốt. Các ngân hàng thương mại cũng có thể liên kết với các trường đại học, cao đẳng khối kinh tế, tài chính, ngân hàng đưa chương trình đào tạo kiến thức về tài trợ thương mại nói chung và bao thanh toán nói riêng cho sinh viên. Những kiến thức mới theo xu thế phát triển của thế giới phải luôn được cập nhật trong giáo trình học và xây dựng thêm những giáo trình mới phù hợp với yêu cầu thực tế công việc tại các ngân hàng Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, cần phải đưa những tình huống thực tế vào quá trình giảng dạy nhằm tránh sự chênh lệch giữa kiến thức được học trong trường và thực tế khi làm việc. Để có được một đội ngũ làm việc chuyên nghiệp, có chuyên môn không phải là chuyện dễ dàng đối với các ngân hàng thương mại. Muốn vậy, các ngân hàng cần phải chú ý những điều sau: - Sau quá trình tuyển chọn cán bộ nhân viên, các ngân hàng cần bố trí nhân sự đúng với năng lực chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo để nhân viên có thể phát huy được hết những kiến thức đã được học, những khả năng của mình. Các ngân hàng nên mạnh dạn trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ nếu họ có năng lực và tinh thần trách nhiệm với công việc. Tuy nhiên, kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn cũng rất cần được coi trọng. 73 - Đối với những nhân viên đang làm việc trong ngân hàng, cần chú trọng bồi dưỡng thêm để họ có thể thực hiện tốt công việc được giao. Các ngân hàng thương mại cần tổ chức các lớp đào tạo cán bộ nhân viên về nghiệp vụ factoring mà các chuyên viên giàu kinh nghiệm về nghiệp vụ factoring trong và ngoài nước giảng dạy. Ngoài ra còn có thể hợp đồng với các ngân hàng đại lý để nhân viên có thể tập sự học hỏi kinh nghiệm hay gửi một số những cán bộ nhân viên có triển vọng, năng lực đi đào tạo ở nước ngoài, khảo sát thực tế ở các nước áp dụng nghiệp vụ factoring thành công. Để khuyến khích nhân viên của mình tích cực học hỏi, làm việc có hiệu quả, các ngân hàng cũng nên phát động những phong trào thi đua. - Chế độ đãi ngộ hợp lý là một cách thức để khuyến khích nhân viên cống hiến kiến thức cũng như khả năng của mình vào công việc một cách tích cực nhất. Ngân hàng cần có chế độ lương thưởng hợp lý theo đúng yêu cầu công việc, tính chất của công việc để có thể nắm giữ được những cán bộ nghiệp vụ có năng lực và kinh nghiệm. Bên cạnh đó, cũng cần nghiêm minh xử phạt những cán bộ không hoàn thành công việc, có thái độ không tích cực với công việc, hay lợi dụng nghiệp vụ chuyên môn vi phạm pháp luật nhằm thu lợi riêng, ảnh hưởng tới uy tín ngân hàng. - Định kỳ tổ chức sát hạch, thi nghiệp vụ để có thể lựa chọn được những cán bộ nhân viên có năng lực, đồng thời thấy được những cán bộ có chuyên môn, năng lực yếu. - Chú trọng trang bị cho cán bộ nhân viên ngân hàng trình độ ngoại ngữ nhất định. Bởi làm việc trong lĩnh vực tài trợ thương mại, ngoại ngữ là một yếu tố hết sức cần thiết. 3.3.2. Giải pháp hỗ trợ. 3.3.2.1.Hoàn thiện chính sách thương mại. Chính sách thương mại có ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của hoạt động factoring. Trong thời gian qua, một loạt sự thay đổi về chính sách thương mại như thay đổi trong quy định về hoạt động xuất nhập khẩu, thuế quan, hải quan...đã khiến xác doanh nghiệp không thể thực hiện được kế hoạch kinh doanh một cách hiệu quả nhất, đặc biệt là những hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng thương mại, trong đó có hoạt động factoring. Bởi vậy một chính sách thương mại ổn định, tạo điều kiện cho các doanh 74 nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó mới có thể tạo điều kiện cho nghiệp vụ factoring phát triển. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng cán cân thương mại của Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt. Thậm chí theo dự báo của cơ quan thống kê nhà nước, năm 2011 lại là năm có mức độ thâm hụt cao nhất trong 10 năm trở lại đây, và năm 2012 được dự báo là mức độ thâm hụt lại vẫn có thể tăng lên. Điều này trực tiếp tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, dẫn tới tình trạng khan hiếm ngoài tệ làm ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bởi vậy, song song với việc ổn định chính sách thương mại, chính phủ cần đề ra những biện pháp cải thiện cán cân thương mại theo hướng khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu nhằm ổn định cán cân thanh toán của Việt Nam: - Đẩy mạnh các hoạt động thương mại với các thị trường rộng lớn, tiềm năng như Trung Quốc, các nước EU, các nước Asean... - Thực hiện chính sách hỗ trợ các hàng hóa xuất khẩu như trợ giá, giảm thuế... - Hạn chế việc nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng mà trong nước có thể sản xuất, những mặt hàng xa xỉ... - Tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá linh hoạt để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu song vẫn đảm bảo được sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. 3.3.2.2. Mở rộng các mối quan hệ đại lý. So với các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, một khó khăn mà các ngân hàng thương mại trong nước gặp phải khi triển khai nghiệp vụ factoring đó là bất lợi về mạng lưới hoạt động. Đa số các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đều đã có được mạng lưới ngân hàng hoạt động trên khắp thế giới. Bởi vậy mà khi cung cấp dịch vụ factoring quốc tế, những ngân hàng này hầu như gặp ít khó khăn trong quá trình thu thập thông tin người mua ở nước ngoài, cũng như việc đánh giá và thẩm định khả năng thanh toán của người mua dễ dàng hơn. Từ đó, các ngân hàng này có thể tránh được rủi ro triệt để hơn so với ngân hàng thương mại trong nước. Việc mở chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài là một giải pháp rất khó thực hiện trước khó khăn này bởi sự hạn chế về khả năng tài chính cũng như phải cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và hiệu quả mang lại. Do đó, để hoạt động factoring đạt hiệu 75 quả và có thể phát triển, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải mở rộng quan hệ đại lý vì các lợi ích sau : - Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp dịch vụ và tiện ích về lĩnh vực thanh toán, cũng như thông tin liên lạc. - Ngân hàng đại lý sẽ cung cấp thông tin về khách hàng, thị trường ở nơi mà các ngân hàng thương mại Việt Nam cung cấp dịch vụ factoring. - Mạng lưới ngân hàng đại lý giúp làm giảm chi phí giao dich, đồng thời rút ngắn thời gian thực hiện giao dịch từ đó thu hút được khách hàng đến với ngân hàng. - Ngân hàng đại lý sẽ có những hỗ trợ cho các ngân hàng thương mại về kinh nghiệm, và đào tạo nhân sự. 3.3.2.3. Áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả. Ngoài việc xây dựng quy trình lựa chọn và kiểm soát rủi ro bên bán và bên mua hiệu quả, ngân hàng cũng nên có những biện pháp phòng ngừa rủi ro khác. Bởi rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng vì nhiều lý do mặc dù quá trình lựa chọn, thẩm định đã được xây dựng chặt chẽ. (i) Thiết lập mối quan hện với các tổ chức tín dụng. Mối quan hệ giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng là rất cần thiết. Qua những thông tin của các tổ chức tín dụng, ngân hàng có thể phát hiện được những điểm bất thường, đặc biệt, ngân hàng có thể loại trừ việc đảo nợ của khách hàng, dùng lặp các chứng từ hóa đơn và hợp đồng vay vốn. Do đó, khi triển khai hoạt động này, đối với khách hàng lớn, nhưng lại phức tạp và khó có thể xác định được mức độ tin tưởng, những thông tin này là hết sức quan trọng. (ii) Hoạt động kiểm soát nợ. Ngân hàng cần nâng cao chất lượng tài sản Nợ và Có cũng như khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng, xử lý nhanh gọn số nợ xấu còn tồn đọng. Để làm được điều đó, ngân hàng cần xây dựng được một hệ thống kiểm soát nợ và các kỹ thuật kiểm soát chuyên nghiệp. (iii) Bảo hiểm cho khoản phải thu đã tiến hành ứng trước. Ngân hàng cũng có thể tiến hành mua bảo hiểm cho các khoản phải thu, hoặc trích lập quỹ dự phòng cho các khoản phải thu này. Nếu có rủi ro xảy ra mà ngân 76 hàng không giải quyết được, những tổn thất của ngân hàng do những khoản phải thu này gây ra sẽ được giảm thiểu 3.3.2.4. Nâng cao chất lượng phục vụ và công tác chăm sóc khách hàng. Như đã nói ở phần trên, tính chất của ngành ngân hàng là ngành dịch vụ nên yếu tố chất lượng dịch vụ rất quan trọng để thu hút được khách hàng. Nhất là trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng đang hoạt động và cùng cung cấp dịch vụ factoring khá nhiều, thì mức độ cạnh tranh lại càng gay gắt. Ngoài cạnh tranh về yếu tố giá cả, các ngân hàng ngày càng có xu hướng chú trọng đến vấn đề chất lượng phục vụ.Yếu tố chất lương dịch vụ trước, trong và sau khi giao dịch đóng vai trò quan trọng trong việc tạo cảm giác cho khách hàng yên tâm, tin tưởng đối với ngân hàng. Điều này đòi hỏi cán bộ nhân viên ngân hàng phải kiên nhẫn, có khả năng giao tiếp tốt, để tạo không khí thân thiện, gần hũi, cách thức thu hồi nợ hiệu quả, tạo mối quan hệ lâu dài. Công tác chăm sóc khách hàng cũng cần được chú trọng. Sau khi sử dụng dịch vụ của ngân hàng, ngân hàng cần chú ý duy trì mối quan hệ để mang tới nhiều lợi ích hơn trong tương lai. Theo như kinh nghiệm trong các hoạt động kinh doanh khác nói chung, và kinh nghiệm trong hoạt động factoring nói riêng, các ngân hàng thương mại Việt Nam có thể thực hiện các chương trình tri ân khách hàng của mình để xây dựng hình ảnh ngân hàng văn minh, thân thiện. 3.4. Kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. 3.4.1. Những kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. 3.4.1.1. Thành lập Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam. Trong thời gian sớm nhất, để phát triển nghiệp vụ factoring hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước nên thành lập Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam với thành viên là các đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam được thành lập nhằm mục đích: - Hướng dẫn các đơn vị thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hiệu quả. - Cung cấp thông tin tín dụng, tài chính của các doanh nghiệp. - Cung cấp thông tin về tình hình bao thanh toán trên thế giới. 77 - Bảo vệ, hỗ trợ đơn vị bao thanh toán trong trường hợp có rủi ro xảy ra. - Tạo nên một liên minh giữa các đơn vị bao thanh toán, từ đó có thể tiến hành đồng bao thanh toán nếu như một đơn vị không thể thực hiện được. Bên cạnh đó, Hiệp hội bao thanh toán Việt Nam cũng cần xây dựng một website riêng về bao thanh toán để cung cấp những thông tin về hoạt động bao thanh toán một cách thường xuyên, giúp các doanh nghiệp tìm hiểu sâu rộng hơn về dịch vụ bao thanh toán một cách dễ dàng, cũng như giúp cho những sinh viên trong ngành ngân hàng tương lại có điều kiện nghiên cứu. 3.4.1.2. Ngân hàng Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về giá và phí cho các bên khi tham gia dịch vụ factoring. Hoạt động factoring là một hoạt động còn mới mẻ tại Việt Nam. Đứng trước những hình thức tài trợ thương mại khác đã được các doanh nghiệp và ngân hàng sử dụng từ nhiều năm nay,dịch vụ factoring rất khó có thể cạnh tranh với các hình thức tài trợ thương mại ấy về mức độ tin tưởng của các doanh nghiệp. Bởi vậy, để khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn dịch vụ này, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ về giá và phí cho các bên tha gia dịch vụ factoring. Nếu được hỗ trợ, dịch vụ factoring sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ cũng cần đưa ra một chính sách hỗ trợ ở mức độ hợp lý, vẫn đảm bảo được hiệu quả của dịch vụ mà không gây thâm hụt cho nguồn ngân sách nhà nước. 3.4.2. Những kiến nghị với các ngân hàng thương mại Việt Nam. 3.4.2.1. Thành lập phòng ban chuyên trách cung cấp dịch vụ fatoring. Hiện nay, nghiệp vụ factoring hầu hết được thực hiện bởi những nhân viên của phòng tín dụng hoặc phòng nghiệp vụ liên quan. Điều này làm giảm đi hiệu quả của hoạt động factoring, bởi những nhân viên trực tiếp cung cấp dịch vụ lại không có thời gian tìm hiểu sâu về dịch vụ và không thể chuyên tâm khi thực hiện nhiều nghiệp vụ cùng lúc.Hình thức này chỉ thích hợp với hoạt động triển khai sơ bộ ban đầu, nghĩa là trong giai đoạn làm quen, tìm hiểu về nghiệp vụ factoring, chứ không khả thi khi ngân hàng muốn thực hiện đẩy mạnh, phát triển lâu dài những nghiệp vụ này. Bởi vậy, muốn dịch vụ factoring được phát triển, các ngân hàng cần nhanh chóng thành lập một bộ phận chuyên trách về hoạt động bao thanh toán riêng, 78 phòng bao thanh toán trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng mình. Nhờ đó, những thông tin tín dụng được tiếp cận dễ dàng hơn, chuyên nghiệp hơn; hiệu quả thực hiện hoạt động cao hơn. Phòng bao thanh toán trong mỗi ngân hàng có thể bao gồm hững bộ phận sau: - Bộ phận tổ chức: bao gồm lãnh đạo, nhân viên hành chính... - Bộ phận marketing : chịu trách nhiệm giới thiệu, quảng bá dịch vụ tới các đối tượng khách hàng, giải đáp, tư vấn cho khách hàng, tiếp nhận hồ sơ đề nghị cung cấp dịch vụ của khách hàng. - Bộ phận thực hiện nghiệp vụ : là bộ phận chịu trách nhiệm chính trong việc xét duyệt, thẩm định hồ sơ khách hàng, và thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn. - Bộ phận kế toán : thực hiện các nghiệp vụ liên quan trong lĩnh vực kế toán trong đó quan trọng nhất là quản lý hồ sơ người mua. - Bộ phận tham vấn pháp luật : chịu trách nhiệm tư vấn về thủ tục, quy định pháp lý, đặc biệt khi giao dịch với các đối tác nước ngoài. 3.4.2.2. Mở rộng nguồn vốn cho hoạt động factoring. Bản chất của dịch vụ factoring là tài trợ thương mại, tài trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, vốn là nguồn lực cơ bản làm nên sức mạnh tài chính của các ngân hàng thương mại, quyết đinh tới quy mô, độ an toàn cho các hoạt động của ngân hàng thương mại. Chính vì vậy, khách hàng rất quan tâm tới khả năng của ngân hàng trong việc duy trì, đảm bảo mức vốn đầy đủ khi triển khai hoạt động factoring. Muốn phát triển dịch vụ factoring, các ngân hàng thương mại cần chú trọng tới mở rộng nguồn vốn cho hoạt động này bằng cách tích cực huy động tiền gửi trong dân cư, hay tiến hành cổ phần hóa để có thể tận dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ khách hàng cá nhân và khách hàng doanh nghiệp... 79 KẾT LUẬN Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời và những ưu việt nhất định, nghiệp vụ factoring đã trở thành một sản phẩm quan trọng trong hoạt động tài chính ngân hàng trên thế giới.Nghiệp vụ này không chỉ tạo lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng mà còn nâng cao hình ảnh của quốc gia có nghiệp vụ này phát triển. Khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại lớn nhất thế giới WTO, xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế lại càng được coi trọng với một nước đang phát triển như nước ta. Do vậy, để có thể tồn tại và đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hay không đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn từ phía các ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc đổi mới công nghệ, cách quản lý hiện đại... và quan trọng là nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Nghiệp vụ factoring đã phát triển ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia áp dung nghiệp vụ nhưng ở thị trường Việt nam lại còn khá mới mẻ. Để kéo gần sự chênh lệnh trong khoảng cách phát triển giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam và các ngân hàng, tổ chức tài chính nước ngoài trong nghiệp vụ này rất cần có một chiến lược cụ thể trong từng giai đoạn và sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan. Thách thức đặt ra cho các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay là tìm một hướng đi riêng phù hợp với thị trường tài chính Việt Nam nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp dịch vụ factoring tốt nhất. Với ý nghĩa thiết thực này, khóa luận đã thu hoạch được một số kết quả sau: - Nghiên cứu, hệ thống những cơ sở lý luận về nghiệp vụ factoring. - Đánh giá thực trạng và những kinh nghiệm áp dụng nghiệp vụ factoring trên thế giới, từ đó rút ra những bài học có thể áp dụng vào thị trường factoring Việt Nam. - Xây dựng cái nhìn toàn cảnh về nghiệp vụ factoring tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Trên cơ sở đó đánh giá chung về tình hình phát triển nghiệp vụ này, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế vẫn còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế này. - Đề xuất một số những giải pháp có thể áp dụng,một số những kiến nghị tới Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mạinhằm phát triển dịch vụ factoring tại Việt Nam. 80 Em hi vọng những vấn đề đã trình bày trong khóa luận đã phần nào mang lại một cái nhìn tổng quan về bản chất, nội dung, lợi ích và thực trạng hoạt động factoring tại Việt Nam và trên thế giới. Hi vọng rằng trong tương lai không xa, với một thị trường đầy tiềm năng và hứa hẹn như Việt Nam, nghiệp vụ factoring sẽ từng bước được hoàn thiện, trở thành một nghiệp vụ chủ lực của các ngân hàng thương mại và một công cụ tài chính hỗ trợ đắc lực cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT 1. Đào Văn Chung, 2005, Rủi ro trong hoạt động bao thanh toán và biện pháp phòng ngừa, Tạp chí Tài chính tiền tệ, ngày 15/7/2005. 2. GS.NGƯT. Đinh Xuân Trình, 2011, Giáo trình Thanh toán quốc tế, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 3. TS. Đặng Thị Nhàn, 2007, Cẩm nang về nghiệp vụ bao thanh toán Factoring và Forfaiting trong tài trợ thương mại quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 4. Minh Đức, Hệ số CAR các ngân hàng Việt Nam đảm bảo yêu cầu mới của Basel, Kinh tế Việt Nam,tháng 9/2010 5. Minh Thúy, Ngân hàng thương mại chạy đua tăng vốn điều lệ, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, số ra 1/2010. 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2010, Luật các tổ chức tín dụng 2010. 7. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2004, Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, Hà Nội. 8. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2005, Văn bản hướng dẫn số 676/NHNN-CSTT về cơ cấu lại thời gian trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng, Hà Nội. 9. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2008, Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN để sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định 1096/2004/QĐ-NHNN về Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng, Hà Nội. 10. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2011, Định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng giai đoạn 2011-2015, Hà Nội. 11. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Báo cáo thường niên, 2011. 12. Ngân hàng Á Châu, 2006, Tài liệu tập huấn bao thanh toán. 13. Nguyễn Quỳnh Lan, 2009, Nghiệp vụ bao thanh toán – Factoring, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Nguyễn Thị Mùi, 2008, Quản trị ngân hàng thương mại,NXB Tài chính, Hà Nội. 15. Nguyễn Thị Thanh Tuyền, 2003, Marketing căn bản, NXB Giáo dục Hà Nội. 82 16. PGS.TS. Nguyễn Văn Tiến,2005, Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương, NXB Thống kê. 17. Tô Ngọc Hưng, 2009, Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội 18. Trần Hoàng Ngân – Nguyễn Thị Thùy Linh, 2006, Bao thanh toán Factoring một hình thức tín dụng mới tại Việt Nam. 19. Trần Thị Kim Thanh, Giải pháp nào cho việc mở rộng bao thanh toán tại Việt Nam ? , Tạp chí ngân hàng, 11/6/2007. TIẾNG ANH 1. ABFA,2011,ABFA Quarterly statistic 2011 2. FCI, 2011,Annual Review 2011. 3. FCI, 2011,Introduction to International Factoring. 4. FCI,2011, World Factoring Yearbook 2011, BCR Publishing, Holland. 5. Jeff Callender, 2008, Factoring Wisdom. 6. Leora Klapper, The determinants of Global Factoring. 7. Marie H.R.Bakker, Leora Klapper, Undell, G.P, 2004, Finance SMEs with factoring : Global growth in factoring and its potential in Eastern Europe, Working Paper, The World Bank, Edition I, Poland. MỘT SỐ WEBSITE 1. 2. years 3. members 4. cac-t-chc-tin-dng-nm-2010- 5. 6. von-ngan-hang-len-9.htm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfo_8616.pdf
Luận văn liên quan