Những đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay chỉ là sự phát triển kế 
tiếp những đặc trưng kinh tế vốn có của chủ nghĩa tư bản, nó hoàn toàn không phải là 
những đặc trưng mới “ phi tư sản”, song trong bối cảnh toàn cầu hoá, những đặc 
trưng đó cũng mang tính quốc tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5490 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ những cấu kiện rời được chuyên môn hoá như 
trước, phi tập trung hoá - quá trình sản xuất được phân tán thành những đơn vị sản 
xuất nhỏ và vừa trên phạm vi rộng của cả quốc gia và quốc tế; vi tiểu hình hoá sản 
phẩm với phương châm “nhỏ là đẹp”. Các sản phẩm sản xuất ra có kích cỡ ngày càng 
nhỏ, thậm chí nhỏ cỡ nanomet như Robot y học dùng trong chuẩn đoán và chữa bệnh. 
Thực hiện tổ chức quản lý từ xa được thực hiện trên cơ sở xuất hiện các siêu lộ thông 
tin cho phép điều khiển quá trình sản xuất trên diện rộng ở nhiều vùng khác nhau, 
nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động như một đơn vị kinh tế cấp toàn 
cầu, vì vậy hoạt động quản lý cũng mang tính chất quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả 
các biến đổi trên cho thấy, việc tổ chức quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch 
chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá theo loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ 
và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn 
được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lưới 
theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước. 
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế 
hình thức quản lý chuyển đổi từ loại tập chung cao độ quyền lực quản lý vào công ty 
mẹ theo kiểu “kim tự tháp” sang các công ty chi nhánh, các đơn vị sản xuất theo kiểu 
“màng lưới”. Như A. Toffer nhận xét: “Tổ chức quản lý theo kiểu hình tháp, cồng 
kềnh và quan liêu, hiện đang bị các công ty chạy đua giải thể” đã làm cho các loại 
hình tổ chức mới theo kiểu ma trận, nhóm dự án ngày càng được đề cao và ưa 
chuộng, đây sẽ là loại hình tổ chức quản lý chủ yếu của xã hội dựa trên tri thức. 
Bởi vì trong xã hội thông tin ngày nay, sự truyền đạt tin tức quản lý phải được 
nhanh chóng, chính xác, trong khi mô hình quản lý cũ đã làm chậm và mất tính 
chuẩn của tin do việc truyền tin qua nhiều tầng lớp trong không gian từ trên xuống 
dưới và ngược lại, không linh hoạt, cồng kềnh kém hiệu quả. Thể chế truyền thống đã 
tỏ ra bất cập trước những vấn đề mới phát sinh như: tính nhất trí của lợi ích, sự khác 
nhau về văn hoá, tuổi thọ sản phẩm…Thể chế quản lý màng lưới không co trung tâm, 
mỗi một tầng quản lý trong mạng lưới, mỗi người quản lý đều là một trung tâm, giữa 
chúng có mối liên hệ phức tạp giao chéo kiểu rẻ quạt. Mục tiêu quản lý của nó 
không chỉ có quản lý kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà còn cả việc thiết kế 
hình tượng xí nghiệp, với tôn chỉ là hoạt động có hiệu quả nhất tàI năng và ưu thế của 
mỗi người trong mạng lưới công ty. Trong hình thức này, tin tức lan truyền như hệ 
thống thần kinh, đảm bảo cho mọi cấp quản lý đều nhận được thông tin mới nhất và 
hoàn chỉnh để đưa ra quyết sách, do đó mà có khả năng ứng phó với mọi điều kiện 
sản xuất tiêu thụ sản phẩm trước mọi biến động của thị trường thế giới hiện nay. 
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm ngang 
và theo kiểu “tế bào sản xuất” 
 Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng là nhằm 
khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt nhiều 
tầng lớp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân sang 
quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung chủ yếu của kết cấu tổ 
chức quản lý theo kiểu nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng 
khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được đầy đủ mục tiêu của một 
“quả trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất, phát huy cao độ tinh 
thần hợp tác và ưu thế của một tập thể hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong 
cạnh tranh. ở đây, đội sản xuất trỏ thành nền tảng và đảm nhiệm một quá trình 
sản xuất, thực hiện tự kiểm soát, kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, giảm 
được việc tổ chức giám sát, kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm 
tăng giá trị của sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác của nhân viên, tăng khả 
năng tiếp xúc, cuốn hút khách hàng, do vậy mà nó hiệu quả hơn. 
 Mô hình tổ chức quản lý kiểu “tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản lý trong 
đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ (thường từ 2-50 công nhân) có thể 
chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công nhân có thể làm 
nhiều việc và mỗi tế bào phảI chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của 
mình. “Tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhựng lại rất linh hoạt, đáp 
ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã của khách hàng một cách nhanh 
chóng, đảm bảo cho việc sản xuất theo đơn đặt hàng phù hợp với sự biến động 
mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm khác nhau, nếu rủi 
ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “đương sự” tránh được rủi ro cho toàn xí 
nghiệp. Do đó, tế bào sản xuất mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao 
hơn. 
 Như vậy, một điều nổi rõ trong quá trình chuyển đổi hình thức tổ chức quản 
lý là nhằm vào phát huy và sử dụng các nguồn lực của con người - đó là hệ thống 
tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại nhân lực có 
trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ 
chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống, với một đội ngũ công nhân năng 
động và cách thức tổ chức linh hoạt từ trên xuống dưới đem lại hiệu quả kinh tế 
cao hơn cả việc trang bị các thiết bị hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý 
nguồn nhân lực con người mang lại một tác động mạnh mẽ hơn nhiều mặt về 
thành tựu so với việc mua sắm các kỹ thuật tiên tiến hơn từ các máy cộng cụ điều 
khiển bằng chương trình số cho tới các hệ thống sản xuất linh hoạt. 
 Trước hết, các xí nghiệp lớn ngày càng thực hiện chế độ cung ứng (hoặc 
chế độ khoán), giao một số linh kiện hoặc giai đoạn nào đó của sản phẩm cho các 
xí nghiệp khác hoàn thành. Cách làm này đã có từ lâu. Chỗ khác nhau giữa chế 
độ cung ứng mới hiện nay và trướckia là ở chỗ, chẳng những các hãng chế tạo lớn 
khoán việc sản xuất mà còn khoán toàn bộ công tác nghiên cứu khoa học, chế tạp 
thử cho tới sản xuất những linh kiện đó cho các xí nghiệp khác, từ đó hình thành 
nên mạng lưới xí nghiệp do hãng chế tạo lớn cầm đầu, có nhiều hãng nhận khoán 
(hoặc hãng cung ứng) tham gia. Các xí nghiệp đều độc lập về mặt pháp luật, 
nhưng về sản xuất là một chỉnh thể, về hành động thì nhất trí, mục tiêu và sự chú 
ý của họ đều tập chung vào việc làm thế nào để sản phẩm có sức cạnh tranh lớn 
nhất. 
 Thứ đến, để nâng cao hiêu quả công tác, các xí nghiệp lớn đang cải tiến cơ 
chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng nấc…. lần 
lượt giảm bớt các tầng nấc, xoá bỏ một số ngành chức năng, hoặc phá bỏ “rào 
chắn” giữa chúng, thực hiện tổng hợp hoá chức năng, cắt giảm hàng loạt nhân 
viên quản lý trung gian. 
 Tóm lại, sự thay đổi trên thể hiện thông qua: Thứ nhất, việc chuyển từ chế độ 
dự dựa trên sở hữu cổ phiếu khống chhé được thay thế bằng chế độ uỷ nhiệm, do 
việc phát hành cổ phiếu với mệnh giá nhỏ, khối lượng lớn, bán rộng rãi để thu hút 
nguồn vốn rộng rãi trong dân cư, làm cho cổ phiếu của công ty bị phân tán, quyền 
lực khống chế của tư bản riêng biệt bằng sở hữư cổ phần đang bị lu mờ dần đi. 
Thứ hai, do mức độ rủi ro trong đầu tư ngày càng cao, tư bản tiếp tục phân tán 
giải ra các ngành, các công ty và cả các tập đoàn tư bản khác nhau, quyền lực lớn 
sở hữu bị suy yếu, độc quyền dựa trên ý chí một vài cá nhân tư bản lớn hầu như 
không còn cơ sở để tồn tại. Thứ ba, sự phát triển của kết cấu tập đoàn tư bản tài 
chính mạng lưới, tạo nên quan hệ thống nhất và mâu thuẫn dựa trên mục tiêu, 
hiệu quả và lợi ích của tư bản sở hữu và tư bản chức năng, là một hình thức quan 
hệ kinh tế mới của tư bản tai chính. Trong kết cấu này tồn tại nhiều thế lực có sức 
mạnh cân bằng và lợi ích xoắn xuýt vào nhau, vì chúng có cổ phần đan xen nhau, 
các bên có sở hữu cổ phần ngang nhau, không bên nào độc quyền chiếm cổ phần 
có quyền khống chế. Từ đó mà hình thành ra một hình thức tư bản tài chính tập 
thể. 
 Quyền lực thực sự trong các tập đoàntư bản tài chính đã chuyển dần từ tay 
những tư bản kếch sù cha truyền con nối, những người hoàn toàn tách rờiquá trình 
sản xuất trực tiếp sang tay những người vạch đường cho doanh nghiệp phát triển 
và những người trực tiếp điều hành. Thống kê ở Mỹ cho thấy, giám đốc và chủ 
tịch của 3500 công ty lớn đã kiểm soát gần 1/2 tàI sản công nghiệp cả nước, 1/2 
tài sản ngân hàng, 1/2 tàI sản ngành GTVT và khu vực công cộng, 1/3 tài sản 
ngành bảo hiểm. Trong đó chie có 10% là con cháu các gia đình giàu có, còn lại 
là hàng ngũ giám đốc kể từ bậc thấp nhất của nấc thanh chi phối xí nghiệp đến vị 
trí ngai vàng quyền lực. Trong các nhà tỷ phú có rất nhiều người thuộc hàng ngũ 
giám đốc đI lên bằng con đường doanh nghiệp. Trong khi 3/5 tư bản có được từ 
lợi nhuận của công ty, 1/5 từ nguồn vay tín dụng ngân hàng, 1/5 từ nguồn đầu tư 
của các tổ chức ngoài ngành, và các nhà đầu tư cá thể tự do chỉ cung cấp có 5% 
thì tấtnhiên sẽ hình thành hình thức sở hữu tập thể của tư bản độc quyền thông 
qua hàng ngũ giám đốc trực tiếp quản lý xí nghiệp, các nhà tư bản độc quyền và 
hàng ngũ giám đốc hoà làm một. Thực tế ở Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, 
Anh, Pháp…. . cũng diễn ra sự di chuyển quyền lực như thế. 
 Giữa các bộ phận, các thành viên trong nội bộ tập đoàn tài chính có quan hệ 
vừa cạnh trah với nhau, vừa phối hợp chặt chẽ với nhau vì lợi ích hơn của tập 
đoàn. Quan hệ giữa chúng trước tiên là quan hệ đối tác được quyết định trên thị 
trường và do các quy luật của thị trường chi phối. Song quan hệ cạnh tranh ở đây 
không phải là cạnh tranh thuần tuý, mà là quan hệ cạnh tranh giữa các bộ phận có 
sự lệ thuộc lẫn nhau chịu sự chỉ đạo điều khiển từ trung tâm, đảm bảo cho các bộ 
phận chóp bu của tập đoàn khống chế được bộ phận ngoại vi để thu lợi nhuận cao 
hơn. Mặt khác, nó còn bảo vệ cho các bộ phận đó không bị bóp chết trong cạnh 
tranh, được nâng đỡ định hướng trong kinh doanh. Tuy vậy, các bộ phận của tập 
đoàn cũng có tính độc lập tương đối của nó với bộ phận chóp bu, chúng cũng bị 
đào thải khi kinh doanh không hiệu quả, hoặc trở thành bộ phận chủ đạo khi 
chúng kinh doanh có hiệu quả và phát triển mạnh lên. 
 Việc kiểm soát trong tập đoàn của nhà tư bản sở hữu lớn vừa có tính trực tiếp, 
lại vừa có tính gián tiếp. Việc kiểm soát trực tiếp được thực hiện bằng cách sử 
dụng cổ phần khống chế để can thiệp vào xí nghiệp và các công ty thành viên. 
Việc kiểm soát gián tiếp thông qua cơ chế thị trường bằng cách chủ động tạo ra sự 
ổn định cho hoạt động của công ty, hoặc bơm vào nó những đợt sóng xung đột 
lớn trên thị trường chứng khoán, để buộc các tư bản chức năng phảI tuân theo ý 
chí của chủ sở hữu tư bản lớn. 
 Như vậy, quyền lực thống trị của tư bản tài chính đã có sự biến đổi cho phù 
hợp với quá trình xã hội sản xuất ngày càng mở rộng. Dù cho cổ phiếu có phân 
tán, tư bản có được xã hội hoá, quyền lực khống chế trực tiếp đối với tư bản có 
chuyển vào tay các pháp nhân kinh tế, thì lợi ích của tư bản sở hữu không vì thế 
mà không đảm bảo. Tư bản tài chính ngày càng mở rộng và bành trướng thế lực 
của mình ra toàn bộ nền kinh tế thé giới. 
 Quyền lực của tư bản tài chính còn được tăng cường hơn nữa bởi có sự dung 
hợp của nhà nước với tư bản tài chính, giữa sức mạnh của tư bản tài chính với sức 
mạnh của nhà nước tư sản, tạo nên hình thức mới là tư bản tài chính nhà nước. 
Ngày nay tư bản tài chính nhà nước đã bao trùm hầu như toàn bộ nền kinh tế xã 
hội. Chúng khống chế cả theo chiều dọc và chiều ngang, xuyên qua tất cả các xí 
nghiệp, các ngành, các khu kinh tế và các quốc gia tạo thành một mạng lưới liên 
hệ kinh tế chằng chịt neo chặt những mảng kinh tế chủ yếu vào một khối thống 
nhất chịu sự chi đạo của tư bản tàI chính nhà nước. Từ đó mà tư bản tài chính 
ngày càng bành trướng, nó tạo điều kiên thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, 
tạo ra thích ứng tương đối giữa quan hệ sản xuất TBCN với sự phát triển cao của 
sức sản xuất xã hội, đồng thời cũng làm tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế 
toàn cầu. 
3.3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối 
Để thoát khỏi khủng hoảng, các nhà kinh tế học của CNTB, đại biểu là J. M. 
Keynes đã chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư, việc 
nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống của công nhân không những không tổn 
hại đến lợi nhuận của nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở 
rộng TBCN, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, thúc đẩy sản xuất có lợi 
cho nhà nước tư bản, giữ môI trương xã hội ổn định, củng cố chính trị. 
 Cách mạng khoa học công nghệ chẳng những tạo tiền đề để nâng cao sức sản 
xuất mà còn tạo ra cơ sở vật chất để nâng cao mức sống người lao động. Thực tế 
tại các nước tư bản phát triển chủ chốt cho thấy tốc độ tăng lương thực tế của 
người lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá. Trong vòng 30 năm, từ 1960 đến 1990 
giá tiêu dùng của Mỹ tăng 4, 5 lần, tiền lương giờ công nhân ngành chế tạo tăng 
9, 5 lần; tương tự như vậy ở các nước Canada: 5 lần và 7, 3 lần, Nhật Bản: 3, 5 
lần và 51, 4 lần, Pháp: 7 lần và 19 lần. Cộn hoà liên bang Đức: 2, 7 lần và 28 lần, 
Italia: 13, 4 lần và 28, 9 lần, Anh: 10 lần và 16 lần. 
 Cùng với việc tăng lương thực tế, đời sống của công nhân được nâng cao, kết 
cấu tiêu dùng của công nhân cũng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ chi cho ăn, mặc giảm 
xuống, chi cho cải thiện đời sống tăng lên. Hiện nay không còn hiện tượng thiếu 
ăn thiếu mặc (trừ những trường hợp cá biệt do nghiện ngập, bệnh tâm thần…. ). 
Việc sử dùng hàng tiêu dùng lâu bền như điện thoại, vô tuyến, máy giặt, ô tô, nhà 
ở. . . đều tăng lên và được cảI thiện rất nhiều. 
 Tuy nhiên, tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người 
công nhân với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà tư bản là tương quan 
cùng chiều nhưng không cùng mức độ. Thu nhập của nhà tư bản tăng nhanh hơn 
thu nhập thực tế của người lao động. Đức, trong thời gian 1980 -1989 thu nhập 
tiền lương của người lao động làm thuê tăng bình quân hàng năm là 3, 7%, thu 
nhập kinh doanh xí nghiệp và tài sản bình quân hàng năm tăng 7, 4%. Theo báo 
cáo tổng thống Mỹ 1992 cho thấy, thu nhập bình quân của 20% hộ ở bậc cao nhất 
so với 20% hộ ở bậc thấp nhất chênh lệch 44, 8 lần (trước khi nhà nước tái phân 
phối) 34, 4 lần (sau khi điều tiết qua thuế) 6, 6 lần (sau khi điều tiết qua thuế và 
các khoản trích nộp khác). ở Anh, khoảng chênh lệch giữa các hộ giàu và hộ 
nghèo là 3, 8 lần. Mức độ chiếm dụng tài sản của các hộ giàu ở Mỹ ngày càng 
tăng, năm 1963: 10% số hộ giàu chiếm 65% toàn bộ của cải của tất cả các gia 
đình Mỹ năm đó, năm 1983 tỷ trọng cảu cải của 10% hộ giàu chiếm 68, 8%. Và 
hiện nay 20% số người nghèo nhất chiếm tổng thu nhập 3, 8% trong khi đó 30% 
số người giàu nhất lại chiếm tới 48%. 
 Như vậy, mặc dù đời sống của công nhân có được nâng lên, nhưng chênh lệch 
về thu nhập và tài sản giữa công nhân và tư bản càng tăng. Việc tăng lương thực 
tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng lên mức cầu hiệu quả có lợi 
cho quá trình tái sản xuất của CNTB mà thôi. Do vậy, trong lòng CNTB vẫn chứa 
đựng những xung đột lợi ích gay gắt, vẫn chứa đựng khả năng khủng hoảng, đòi 
hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích, mới có thể 
cứu vãn được CNTB. 
 Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nước được diễn ra bắt đầu từ những tác 
động vào thị trường sức lao động, thông qua quan hệ mua bán giữa người bán 
(người lao động) và người mua (nhà tư bản). Đây là một thị trường luôn biến 
động bởi mối tương quan giữa nhà tư bản và người lao động, giữa giới chủ và 
người thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn không thể thay thế cho 
nhau được. Sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ trao đổi, mua bán này 
bằng cách quy định các mức tối thiểu, độ dài ngày lao động, số ngày nghỉ việc 
trong năm, quy tắc sa thải, quy chế làm việc trong doanh nghiệp, phương tiện bảo 
hộ, bằng các luật và các quy định pháp luật khác nhau. 
 Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong CNTB hiện đại đã và đang đem 
lại những cải thiện mới đối với đời sống người lao động và những tiến bộ xã hội 
nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung vì sự trao đổi sản phẩm diễn ra 
ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này làm cho dân cư ở thành thị và nông thôn, 
dân cư ở các khu vực địa lý khác nhau…. . cũng tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sở 
dĩ có sự tăng thêm đó lại còn là vì mật độ và sự tập trung đông đúc giai cấp công 
nhân, làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân phẩm của giai cấp đó được 
nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi chống những xu hướng tham tàn của 
chế độ TBCN. 
 Trong CNTB hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. Đây là sự điều 
chỉnh theo hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách thức giải quyết mâu 
thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN. 
Quan hệ sở hữu được giải quyết theo hướng xã hội hoá ngày càng nhiều, quản lý 
dân chủ hơn, phân phối lợi ích đã chú ý tới người lao động và được coi là nguồn 
lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đặc biệt, hình thức tư bản độc quyền nhà 
nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN, là kết quả của quá 
trình xã hội hoá sản xuất là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã 
hội”. Sự điều chỉnh này là một quá trình khách quan buộc các nhà tư sản phải đưa 
ra những hình thức quan hệ sản xuất thích hợp, vừa là để thúc đẩy nền kinh tế xã 
hội phát triển, đảm bảo lợi ích của tư bản độc quyền, vừa là để làm dịu bớt những 
mâu thuẫn căng thẳng xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của CNTB. 
4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại, xu hướng biến đổi cơ chế 
 Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư 
bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của 
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách 
mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa 
học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử, năng lượng, 
hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn vốn rất 
lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề co tri thức cao 
được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể tự giảI quyết 
dược và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia 
phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát 
triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu khai 
triển, đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà 
nước mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh, 
sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn 
mới mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối 
hợp được các hoạt động mang tính quốc tế. 
Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh tế, chính trị, xã hội, diễn ra 
trong và ngoài nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chạy đua kinh tế và 
quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải phóng dân tộc và đối 
phóvới những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và những khuyết tật của cơ 
chế thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp can thiệp vào các khâu 
của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động bình thường của nền 
kinh tế. 
Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền kinh tế công nghiệp 
sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt động của nhà nước. 
Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các chính sách kinh tế 
nói chung cần phải đáp ưng được nhiều hơn bao giờ hết các thông số của nền kinh tế 
thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ 
thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị trường. Những 
thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới va khác biệt. Nó không còn là 
người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết hoạt 
động xã hội. 
Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên cơ sở xác định lại vai trò của 
nhà nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”, 
cơ cấu lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp 
mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa là người cầm lái 
vừa là người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo được tách 
riêng ra. Chính phủ cầm lái chứ không phải là bơi chèo. Việc cầm lái đòi hỏi phải có 
những người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng có thể cân 
đối được các yêu cầu trái ngược nhau về nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có 
những người chú ý tập chung vào một nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các tổ 
chức cầm lái cần phải tìm ra những phương pháp tốt nhất để đạt được những mục tiêu 
của mình. 
Xã hội hoá và tư nhân hoá là con đường làm giảm nhẹ gánh nặng của nhà 
nước trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội, làm cho chính phủ gọn nhẹ, chỉ tập 
chung vào việc cầm lái. Nhà nước không teo đi mà trái lại, mạnh mẽ, chắc chắn và 
năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi hành” được thay bằng một nhà nước 
“cai trị “ mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết định và lãnh đạo và việc thực hiện giao 
nhiệm vụ cho người khác. 
Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục 
những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát 
triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của 
chủ nghĩa tư bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển, 
thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh. 
4. 1. Trước hết, bắt đầu từ những năm 1980, các nước phương Tây lần lượt bắt 
tay thực hiện tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh. 
Bởi vì hiệu quả phần lớn của xí nghiệp quốc doanh không cao, tài chính quốc 
gia phải chịu gánh nặng; năng suất lao động của các xí nghiệp quốc doanh thấp khó 
mà đương đầu được cạnh tranh quốc tế gay gắt; trước trào lưu thông tin hoá từ công 
nghệ đến quản lý, các xí nghiệp quốc doanh đều tỏ ra rất lạc hậu. Họ cho rằng, con 
đường duy nhất để cứu vãn cục diện đó là thực hiện tư nhân hoá. 
4. 2. Thứ hai, nhà nước chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng trong lĩnh 
vực tài chính theo hướng tự do hoá. 
 Khu vực tài chính đã thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển theo chiều sâu của khu 
vực tài chính của một nước là nhân tố hùng mạnh quy định và thúc đẩy sự phát triển. 
Tuy nhiên, tự do hoá trong khu vực tài chính không giống với phi điều tiết. Có những 
lý do xác đáng để điều tiết ngân hàng. Nhưng mục tiêu điều tiết đã được thay đổi, 
trước kia điều tiết ngân hàng là do tín dụng chạy theo các kênh được yêu thích, còn 
nay là để bảo vệ sức mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng. 
4. 3. Thứ ba, điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng 
 Điều tiết của nhà nước có vai trò nổi bật đối với vai trò của các ngành dịch vụ 
công cộng. Điều đó là sự thay đổi có tích chất cách mạng về công nghệ và tổ chức 
chứ không chỉ do những chuyển biến có ý thức về chính sách. Lập luận về sự điều tiết 
các ngành dịch vụ công cộng thường thấy rõ ràng. Các ngành dịch vụ có những độc 
quyền tự nhiên. Do đó, nếu chúng không điều tiết thì các tư nhân làm dịch vụ sẽ trở 
thành độc quyền, hạn chế sản lượng và làm tăng giá cả, gây tác hại cho tính hiệu quả 
trong toàn bộ nền kinh tế và việc phân phối thu nhập. 
Những tài sản của một ngành dịch vụ là nhân tố quyết định đối với hoạt động 
kinh doanh của ngành đó và không thể được tái triển khai sử dụng cho những mục 
đích khác. Điều này khiến các ngành dịch vụ đặc biệt dễ tổn thương trước các hoạt 
động điều tiết của nhả nước. 
4. 4. Thứ tư, cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế 
 Chế độ xã hội cơ bản của các nước phương Tây là chế độ tư bản chủ nghĩa và 
nền kinh tế của nó là nền kinh tế thi trường tư bản chủ nghĩa phát triển. Nhưng tình 
hình các nước không giống nhau, cơ chế kinh tế của họ cũng có sự khác nhau, mô 
hình kinh tế của mỗi nước có nét độc đáo riêng của mình. 
 Giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ yếu 
do quan hệ nhà nước và thị trường, cũng như do phương châm, chính sách, phương 
thức và trọng điểm nhà nước can thiệp vào kinh tế ở mỗi nước một khác, mà hình 
thành nên các mô hình kinh tế có đặc sắc riêng. 
 Nói chung người ta cho răng mô hình kinh tế thị trường TBCN ở các nước phát 
triển hiện nay có thể chia ra làm mấy loại sau dây: mô hình Mỹ hoặc gọi là mô hình 
thị trường tự do; mô hình Nhật Bản hoặc gọi là mô hình tư bản pháp nhân, cũng có 
người gọi là mô hình tư bản xã hội; mô hình Đức hoặc gọi là mô hình kinh tế thị 
trường xã hội; mô hình Bắc Âu hoặc còn gọi là mô hình nhà nước phúc lợi. Trong 
nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần hai, các mô hình kinh tế thị trường TBCN khác 
nhau này đều có vai trò nhất định trong sự phát triển kinh tế xã hội của các nước, đã 
thúc đẩy kinh tế phát triển, làm dịu mâu thuẫn kinh tế và xã hội, giữ vững sự ổn định 
tương đối của xã hội. Nhưng những mô hình này cũng tồn tại một số khuyết điểm và 
hạn chế. 
 Nếu cải cách cơ chế quản lý xí nghiệp ở các nước tư bản là những biến đổi nào 
đó được tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với lực lượng sản xuất ở 
tầng vĩ mô, thì cải cách cơ chế kinh tế lại là cuộc cải cách được tiến hành nhằm làm 
cho quan hệ sản xuất thích ứng sự phát triển mới của lực lượng sản xuất trên tầng vĩ 
mô và giữa chúng có liên hệ qua lạivà thúc đẩy lẫn nhau. 
Cuộc cải cách cơ chế kinh tế của các nước TBCN biểu hiện trên tất cả các mặt. 
Trước hết, tư tưởng chỉ đạo và phương châm chính sách của sự can thiệp và điều 
chỉnh của nhà nước đối với kinh tế vĩ mô đã có sự thay đổi. 
4. 5. Thứ năm, tiến hành cải cách thể chế kinh tế 
Trọng điểm cũng như bước đi và biện pháp mà các nước áp dụng không giống 
nhau, nhưng nói chung, ngoài việc cải cách xí nghiệp quốc doanh như đã nói trên còn 
cải cách hệ thống tài chính và thuế nhằm giảm bớt thâm hụt ngân sách; cải cách hệ 
thống tiền tệ nhằm ổn định hệ thống tiền tệ, cải cách chế độ tiền lương lao động để hạ 
thấp tỷ lệ thất nghiệp, cải cách chế độ phúc lợi xã hội nhằm giảm nhẹ gánh nặng tài 
chính của nhà nước, điều chỉnh quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giao nhiều 
quyền lực của Trung ương cho địa phương, để địa phương đảm nhiệm nhiều hơn các 
nhiệm vụ y tế, giáo dục đào tạo…. cải cách chế độ mậu dịch đối ngoại, giảm bớt các 
rào chắn, thúc đẩy tụ do hoá. 
 Tất nhiên, để điều chỉnh, nhà nước tư bản độc quyền cũng đã cải cách bộ máy và 
các công cụ điều tiết của mình. 
 Dưới bộ máy còn có các tiểu ban được tổ chức theo những hình thức khác nhau, 
thực hiện “tư vấn”, “khuyến nghị” để “lái” đường lối theo mục tiêu riêng của các tổ 
chức độc quyền. 
Cùng với bộ máy điều chỉnh, nhà nước còn sử dụng các phương tiện công cụ điều tiết 
như: khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nước, các công cụ hành chính pháp luật, 
các chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã định. 
 Cơ chế điều chỉnh kinh tế của CNTB hiện đại chủ yếu được thể hiện thông qua 
bốn yếu tố là: cơ chế thị trường cạnh tranh tự do, cơ chế độc quyền tư nhân, cơ chế 
độc quyền nhà nước, cơ chế hoạt động của các cộng đồng tổ chức phi chính phủ. 
Trong đó cơ chế thị trường cạnh tranh tự do là sự điều tiết hoàn toàn. 
4. 6. Thứ sáu, nhà nước thực hiện điều tiết lĩnh vực xã hội thông qua việc bù đắp 
tổn thất về thu nhập và mở rộng phúc lợi xã hội 
Thông qua các chính sách về thuế thu nhập, cho vay tín dụng, cấp phát, trợ giá 
nông sản khuyến khích đầu tư để tăng việc làm, từ đó nâng cao thu nhập của nười lao 
động, năng cao mức sống, giữ ổn định chính trị xã hội. 
 Ngày nay, ở hầu hết các nước tư bản phát triển, hoạt động điều chỉnh của nhà 
nước được thực hiện thông qua các chương trình xã hội như: hệ thống bảo hiểm thất 
nghiệp, hưu trí, tuổi già ốm đau, tàn tật. . . Hệ thống này được nhà nước tổ chức và 
xây dựng trên cơ sở đóng góp của cả hai phía cung và cầu sức lao động. 
 Rõ ràng là nhà nước tư bản hiệ đại can thiệp, điều tiết toàn bộ đời sống kinh tế 
xã hội nhằm thích ứng với nhu cầu xã hội hoá cao độ của sức sản xuất, thúc đẩy sức 
sản xuất phát triển, bảo đảm ổn định tình hình kinh tế xã hội, duy trì chủ nghĩa tư bản, 
đảm bảo cho các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận cao. Chức năng giai 
cấp và chức năng xã hội của nhà nước kết hợp chặt chẽ hơn, nhà nước ngày càng 
thông qua chức năng xã hội để duy trì chức năng gai cấp. 
 Như vậy, điều chỉnh kinh tế xã hội của nhà nước tư bản, hoạt động của tư bản 
tài chính nhà nước và sự biến đổi mô hình tổ chức quản lý nhà nước và sự biển đổi 
mô hình tổ chức quản lý trong các công ty, tập đoàn là những xu hướng mới trong tổ 
chức quản lý trên cơ sở thích ứng với sự biến đổi về mặt quan hệ sở hữu đã tạo ra 
những biến đổi to lớn của quan hệ sản xuất TBCN. 
5. Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa ngày nay 
Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới là toàn bộ các quan hệ kinh tế quốc 
tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là tổng thể các mối liên hệ kinh tế giữa các nền 
kinh tế quốc dân của từng nước tư bản chủ nghĩa và nước phụ thuộc. 
Trong hệ thông đó các nền kinh tế quốc gia có mối liên hệ với nhau bởi sự 
phân công lao động quốc tế, thương mại, tài chính, tiền tệ. 
Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới được hình thành cùng với quá trình 
chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn độc quyền. Tuy nhiên tiền đề đầu tiên của nó 
là do những phát kiến vĩ đại về địa lí và sự xâm chiếm thuộc địa diễn ra, các nươc tư 
bản chủ nghĩa chủ yếu ở phương Tây bắt đầu đưa vào thuộc địa những hàng hoa công 
nghiệp và lấy ra từ đó những nguyên vật liệu cần thiết. Các Mác đã cho rằng : “Chính 
thị trường thế giới là cơ sở của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa “. Mặt khác 
tính tất yếu nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là phải sản xuất trên 
một qui mô không ngừng lớn hơn, thúc đẩy thị trường thế giới phải không ngừng 
bành trướng. Điều đó cũng có nghĩa là việc sản xuất bằng máy móc lần đầu tiên đã 
tạo ra lịch sử toàn thế giới, sau khi đã xoá bỏ sự cách biệt giữa các nước đó và đặt sự 
thoả mãn nhu cầu của mỗi nước công nghiệp văn minh phụ thuộc vào thế giới. Trong 
thời đại chủ nghĩa tư bản độc quyền, các mối quan hệ đó được đẩy mạnh và Lênin đã 
rút ra nhận xét : “ chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành một hệ thống có tính chất 
toàn thế giới của một nhóm nhỏ các nước tiên tiến đi áp bức thuộc địa và dùng tài 
chính để bóp nghẹt đại đa số nhân dân thế giới “. 
Ngày nay, hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã có nhiều biến đổi so 
với giai đoạn độc quyền. Những biến đổi đó là : 
5.1. Sự phát triển không đều của các bộ phận cấu thành hệ thống 
-Dưới tác động của qui luật phát triển không đều nền kinh tế các nước tư bản chủ 
nghĩa trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa đã phát triển với nhịp độ và 
phương hướng khác nhau, dẫn đến trình độ phát triển không đồng đều. 
+ Nền kinh tế Mĩ từ chỗ do điều kiện thuận lợi sau chiến tranh và lợi nhuận thu 
được trong việc kinh doanh trên những khó khăn của các nước đồng minh nên đã trở 
thành nước đứng đầu thế giới với sức mạnh kinh tế tuyệt đối, hơn hẳn các nước tư 
bản phát triển khác. 
Nhưng càng về sau Mĩ càng gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn đõ được biểu 
hiện ở một số khía cạnh như tốc độ tăng trưởng không ổn định. 
Ví dụ : Năm 1994 : 3, 5%, năm 1995 : 2, 3%, năm 1996 : 3, 4% 
Năm 1997 : 3, 9%, năm 1998 : 3, 9%, năm 1999: 3, 3%, năm 2000 : 2, 2 % 
Lạm phát gia tăng và kèm theo giảm phát : năm 1997 : 1, 4%, năm 1998 : 1%, 
năm 1999: 1%, năm 2000 ; 2% 
Kinh tế khủng hoảng và trì trệ, đặc biệt là cuộc khủng hoảng 1974-1975 ( có 
thể so sánh với 1929-1933). Năm 1990-1991 Mĩ cũng lâm vào khủng hoảng song đã 
được hồi phục. 
+ Nền kinh tế Nhật Bản từ sau chiến tranh đến năm 1973 bước vào giai đoạn 
phát triển thần kì các ngành kinh tế được hiện đại hoá, tốc độ tăng trưởng bình quân 
hàng năm 13%, sức cạnh tranh tăng lên. 
+ Nền kinh tế Tây Âu nhìn chung có bước phát triển mới, đặc biệt là việc cải 
tổ cơ cấu kinh tế trong từng quốc gia thành viên và đặc biệt hơn là những bước tiến 
trong việc nhát thể hoá để hình thành EU đã mang lại một sức mạnh mới cho các 
nước này. 
So với Tây Âu nền kinh tế Mĩ cũng mất dần ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên cần 
đánh giá rằng mặc dù nền kinh tế Mĩ có sự suy giảm tương đối so với hai trung tâm 
Nhật Bản và EU, song trong những năm gần đây nền kinh tế mĩ đã có sự phục hồi và 
khởi sắc. Đồng thời về tổng thể Mĩ vẫn còn tiềm lực to lớn và là nền kinh tế đứng 
đầu thế giới. Theo dự đoán Mĩ, vẫn giữ ưu thế về kĩ thuật và thị trường, đồng đô la 
Mĩ có suy giảm vai trò, song hiện nay vẫn là đồng tiền quốc tế và có vai trò chủ đạo. 
+ Các nước đang phát triển có sự phân hoá mạnh, một số nước tăng trưởng 
nhanh đã và sẽ bước vào nhóm các nước công nghiệp phát triển, song về tổng thể các 
nước đang phát triển vẫn trong tình trạng lạc hậu và tiếp tục tụt hậu so với các nưóc 
tư bản phát triển. Nhìn tổng thể, các nước đang phát triển còn thua kém nhiều so với 
cac nước tư bản chủ nghĩa, mà sự lạc hậu thua kém đó đo bằng khoảng cách thời gian 
928 năm. 
Sự lạc hậu về kinh tế các nước đang phát triển còn biểu hiện ở kết cấu kinh tế 
– xã hội của hầu hết các quốc gia này. Tỉ trọng nông nghiệp vẫn ở mức 60-80 % 
GDP, trong đó trồng trọt chiếm 80-90%. Công nghiệp chủ yếu là khai khoáng và sơ 
chế. Công nghiệp chế biến và dịch vụ chiếm tỉ trọng nhỏ ( 20-30%). Thành phần 
kinh tế tư bản tư nhân nhỏ bé, kinh tế tư bản nhà nước mới hình thành. . . 
Cùng vời sự lạc hậu về kinh tế là sự trì trệ, bảo thủ của hệ thống chính trị nên 
đã gây cản trở cho quá trình vận động theo xu hướng tiến bộ xã hội. Hiện nay các 
nước đang phát triển đang đứng trứơc những thách thứo lớn : suy dinh dưỡng trẻ em, 
không có khả năng thanh toán nhập khẩu lương thực, lạm phát ở mức ở mức hai con 
số, vấn đề về giáo dục, môi trường. v. v. 
Tình hình trên phản ánh sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cáu 
thành của hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa ngày nay 
5.2. Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò to lớn trong nền kinh 
tế thế giới. 
 Các công ty xuyên quốc gia là sản phẩm của quá trình quốc tế hoá va là hình thức 
vận động mới của quan hệ sản xuất trong điều kiện lực lượng sản xuầt đã được quốc 
tế hoá sâu rộng. Chúng cũng chính là hình thức tổ chức doanh nghiệp quốc tế 
trongnền kinh tế thị trường va đang có vai trò to lớn trong nền kinh tế thế giới. 
 Theo số liệu của liên hợp quốc, trên thế giới đã có hơn 60000 công ty xuyên quốc 
gia thực thụ (chưa kể các công ty mang hình thức hoạt động xuyên quốc gia) với 
khoảng 50000 chi nhánh nước ngoài có tổng doanh số trên 10000 tỷ USD. Trong đó 
có 500 công ty đầu đàn trong ngân hàng và 500 công ty đầu đàn trong lĩnh vực dich 
vụ, mà Tạp chí Fortune thường phân loại hàng năm. 
 Các công ty xuyên quốc gia đang chiếm lĩnh vị trí then chốt trong nền kinh tế 
thế giới. Chúng kiểm soát 80% hoạt động nghiên cứu và triển khai(R&D), 60% buôn 
bán quốc tế, 40% sản lượng công nghiệp, 90% trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước 
ngoài. Với tiềm lực kinh tế to lớn, với hệ thống chi nhánh trải rộng khắp thế giới, các 
công ty này đã gắn kết các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, thực hiện quốc 
tế hoá sản xuất và lưu thông một cách sâu rộng, đồng thời thúc đẩy nhanh quá trình 
toàn cầu hoá kinh tế, vừa cộng tác vừa cạnh tranh dưới những hình thức mới phong 
phú, đa dạng. Hợp tác và cạnh tranh là hai mặt của nền kinh tế hiện đại. 
 Cùng với sự thúc đẩy phát triển nền kinh tế thế giới, sự phát triển của các công 
ty xuyên quốc gia lại làm gay gắt thêm các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trên phạn 
vi thế giới, mâu thuẫn gữa các nước tư bản phát triển, giữa các nuớc phát triển và 
đang phát triển ngày càng mở rộng và sâu sắc thêm. 
5.3. Tốc độ tăng trưởng của các nước tư bản nói chung co xu hướng giảm sút, 
tàì chính -tiền tệ quốc tế không ổn định. 
 Trước hết nền kinh tế Mỹ có tốc độ tăng trưởng không ổn định. 
Ví dụ:1980:4, 4%, 1990:1%, 1995:2, 3%, 1999:3, 3%, dự báo 2000:2, 2% (Statistical 
Appendix, 1999, tr. 140). 
 Nền kinh tế Nhật Bản: Từ sau năm 1953 đến năm 1973 bước vào gia đoạn phát 
triển “ thần kỳ “, các nghành kinh tế được hiện đại hoá, tốc độ tăng trưởng 13% bình 
quân hàng năm, sức cạnh tranh tăng lên. Từ đó đến nay có những bước chao đảo, đặc 
biệt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài 
chính 1991 và 1997. Chẳng hạn tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 1981-1990: 4%, 
1995:1. 5%, năm 2000:0, 3%. 
 Nền kinh tế Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai có sự phục hồi dần và bước 
vào thập kỷ 70, 80, nhìn chung có những bước phát triển mới, nhưng rồi tốc độ tăng 
trưởng cũng giảm dần. Năm 1995, các nước G7đều có tốc độ tăng trưởng hàng năm 
thấp: Cộng hoà liên bang Đức: 2, 6%, Pháp:2, 7%, Italia: 2, 8%. Tăng trưởng kinh tế 
của 25 nước OECD cũng chỉ ở mức 2, 5%. 
 Hệ thống ngân hàng bị trục trặc đặc biệt là cú sốc ngân hàng tháng 10- 1987 
nhiều ngân hàng bị đóng cửa. Trong năm 1997, cuôc khủng hoảng tài chính- tiền tệ 
khởi phát từ Thái Lan đã lan ra nhiều khu vực trên thế giới. Nhiều trung tâm tài 
chính trên thế giới với hệ thống ngân hàng cực mạnh đã tỏ ra không đứng vững trước 
cuộc khủng hoảng. 
 Thâm hụt ngân sách vẫn lớn ở hầu hết các nước. Ví dụ: Mỹ năm 1994 thâm 
hụt ngân sách 203, 3 tỷ USD, năm 1995 là 164 tỷ USD. 
 Lạm phát vẫn là nguy cơ đe doạ, nợ nần và trở thành gánh nặng đối với nhiều 
nước. 
 Hiện nay nền kinh tế nhiều nước sau cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ năm 
1997 đã phục hồi dần, nhưng triển vọng tăng trưởng kinh tế không cao. 
5.4. Xu hướng tăng cường quân sự hoá trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh 
 Ngoài nguyên nhân chính trị và an ninh thì tỷ xuất lợi nhuận cao do độc 
quyền về các phương tiện chiến tranh đã trở thành động lực dể các ông chủ tư bản kết 
hợp chặt chẽ với các quan chức cấp cao trong bộ quốc phòng và bộ tham mưu chiến 
tranh của các nước đế quốc, hướng các chính phủ đó theo đường lối tăng cường chạy 
đua vũ trang. Chi phí quốc phòng của Mỹ trước năm 1985 dưới 150 tỷ USD, năm 
1985 là 240 tỷ USD và năm 1989 là 320 tỷ USD, chiếm hơn 6% GNP, hiện nay tỷ lệ 
tăng còn cao hơn nhiều. 
 Quân sự hoá kinh tế đã đưa lợi nhuận kếch sù cho các công ty độc quyền và 
bọn lái súng nói chung. Song chính sách này dã dể lại hậu quả hết sức bi thảm về 
kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường sinh thái…. 
 Đến nay thời kỳ chiến tranh lạnh đã kết thúc. Mỹ và Nga đã cùng đi đến thoả 
thuận giảm chi phí quốc phòng, giảm số lượng quân đội, giải toả bớt các căn cứ quân 
sự, giảm số vũ khí hạt nhân, đồng thời có kế hoạch dân sự hoá các tổ hợp cộng 
nghiệp quân sự, hướng chúng sang các mục tiêu sản xuất hàng tiêu dùng. Nhưng việc 
này vẫn còn nhiều khó khăn, vì trình độ cao trong công nghệ chiến tranh và sức mạnh 
quân sự là “lợi thế so sánh” duy nhất mà Mỹ còn giữ được so với các khối Châu Âu 
và Châu á, hơn nữa các tổ hợp công nghiệp- quân sự không dễ dàng từ bỏ những lợi 
nhuận béo bở do việc sản xuất vũ khí đem lại. Mặt khác, việc chuyển từ sản xuất 
hàng quân sự sang sản xuất hàng dân sự gặp khó khăn về thay đổi thiết bị và thị 
trường tiêu thụ. Năm 1994 chi phí quốc phòng của Mỹ vẫn là 241 tỷ USD. 
 Sự bành trướng thế lực của các tổ hợp công nghiệp- quân sự Mỹ buộc các 
cường quốc tư bản chủ nghĩa khác và cả các nước đang phát triển cũng phải tăng 
cường chi phí quốc phòng. Theo tính toán, khoảng 20% số nợ của các nước đang phát 
triển là do khoản chi vào việc mua vũ khí. Từ năm 1960, ngân sách quân sự của 
những nước đang phát triển đã tăng gấp 5 lần, vượt từ 10% đến 20% của toàn cầu. 
Chính phủ của các nước đó cho rằng, việc mua vũ khí là để đảm bảo an ninh cho đất 
nước, nhưng thực ra là làm giàu cho các nước phát triển. Trong khi thế giới cần 180 
tỷ USD để giảm các thảm hoạ môi sinh đang đe doạ trái đất thì tổng chi phí quân sự 
của thế giới hàng năm là khoảng 1000 tỷ USD. 
5.5 Hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thế giới còn hình thành 
a)Hình thành hệ thống đa trung tâm của thế giới tư bản chủ nghĩa : 
Do sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế 
giới tư bản chủ nghĩa đã dẫn đến sự hình thành các trung tâm kinh tế thế giới. 
Trong thời kì chiến tranh lạnh, đặc biệt sau chiến tranh thế giới thứ hai, nền kinh 
tế thế giới tư bản chủ nghĩa có một trung tâm duy nhất. Đó là Mĩ. Với sức mạnh 
kinh tế ( kể cả quân sự) Mĩ đã xác lập được quyền thống trị của mình đối với thế giới. 
Nhưng cuối thập kỉ 80 với sự suy giảm tương đối, Mĩ đã mất vai trò trung tâm duy 
nhất, và thế giới hình thành nhiều trung tâm ( hoặc đa trung tâm ). ở khu vực châu 
Mĩ, có sự liên kết giữa Mĩ với các nước Mĩ latinh và do Mĩ chi phối. ở khu vực châu 
Âu, hình thành EU và thu hút sự liên kết quanh EU với vai trò trung tâm của Đức 
ngày càng tăng. ở châu á - Thái Bình Dương, vai trò trung tâm của Nhật Bản được 
thể hiện khá rõ nét bên cạnh vai trò của Mĩ. Tuy nhiên, vai trò và chiến lược toàn cầu 
của Mĩ vẫn không thay đổi. Mĩ vẫn có vai trò quan trọng trong mọi hoạt động của 
nền kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa nói riêng và kinh tế thế giới nói chung. Với sự 
phát triển nhanh chóng của Nics, đặc biệt là Nics châu á đã hình thành nhiều trung 
tâm tài chính khu vực. Tuy vai trò của Nics chưa cao nhưng trong tương lai chắc chắn 
còn có sự thay đổi ( kể cả với Trung Quốc- một nước đông dân nhất thế giới, có hệ 
thống Hoa Kiều rộng lớn và hiện tại nền kinh tế đã có sự phát triển mạnh mẽ thu hút 
sự quan tâm của thế giới ). 
Sự hình thành ba trung tâm đã tạo nên quan hệ gắn bó hơn giữa các quốc gia trong 
khu vực cũng như giữa các khu vực với nhau tạo ra thời cơ mới cho những nước đi 
sau trên bước đường phát triển của mình. Song lại nảy sinh mâu thuẫn và bất đông 
mới phức tạp hơn, trong đó những quốc gia trẻ phát triển về sau này vẫn tiếp tục cạnh 
tranh để giành vị trí xứng đáng của mình trong khu vực. 
b)Mâu thuẫn gay gắt và cuộc đấu tranh không thể dung hoà một sớm một chiều 
giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển : 
Mâu thuẫn cơ bản nói trên được biểu hiện là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa 
và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. 
Ngày nay, mâu thuẫn này đang chuyển thành mâu thuẫn giữa các nước chậm 
phát triển bị lệ thuộc với những nước đế quốc thành mâu thuẫn giữa các nước và tầng 
lớp thượng lưu giàu có phương Bắc với các nước và tầng lớp nghèo khổ ở phương 
Nam. Nếu so sánh thu nhập thời kì 1930-1993 ta thấy khoảng cách giàu nghèo của 
hai nhóm nước này tăng 280%. GDP của 550 triệu dân châu Phi chỉ bằng GDP nước 
Bỉ (10 triệu dân). Nhiều tài liệu công bố trên các phương tiện truyền thông đã chỉ rõ 
các nước thứ ba không những bị vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà còn 
mắc nợ không thể nào trả được. Hàng năm, các nước chậm phát triển vay nợ phải trả 
cho các nước chủ nợ số tiền lãi từ 130 – 150 tỉ USD. Điển hình là Braxin, nợ nước 
ngoài đã lên tới 274 tỉUSD, trong những năm 1972 –1988 đã phải trả lãi 176 tỉUSD, 
nghĩa là vượt tổng số nợ 52 tỉ USD. 
Chính vì thế trong những năm 80 của thế kỉ 20, thế giới thứ ba bị trì trệ, suy 
thoái. Điều này cũng đã được ngân hàng thế giới khẳng định: ở châu Phi, Mĩ latinh, 
hàng trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, 
phát triển nhường chỗ cho suy thoái. ở một vài nước Mĩ latinh, GNP theo đầu người 
hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Trong nhiều nước châu Phi, nó còn thấp 
hơn cách đây 20 năm. “Một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở châu Phi, từ 9 năm 
nay ở Mĩ latinh mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các vung 
khác tiếp tục tăng lên tuy có chậm hơn. Đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận 
được”(Một thế giới không thể chấp nhận được – Rơnê Đuymông – Học viện Nguyễn 
ái Quốc xuất bản). 
Hiện nay số nợ của các nước đang phát triển đã lên tới 2100 tỉ USD vào quí I 
năm 2000. 
c) Mâu thuẫn giưã các nước tư bản chủ nghĩa với nhau, chủ yếu là giữa ba 
trung tâm kinh tế, chính trị hàng đầu các nước tư bản, giữa các tập đoàn tư bản xuyên 
quốc gia : 
Mâu thuẫn nay có phần dịu đi trong thời kì còn tồn tại sự đối đầu giữa hai hệ 
thống thế giới tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, nay có chiều hướng diễn biến 
phức tạp sau khi chiến tranh lạnh kết thúc. Một mặt, sự phát triển của xu thế toàn cầu 
hoá của cách mạng khoa học và công nghệ khiến các nước đó phải liên kết với nhau. 
Mặt khác, do tác động của qui luật phát triển không đều và lợi ích cục bộ của giai cấp 
thống trị ở mỗi nước, các nước đó đã trở thành đối thủ cạnh tranh với nhau, tranh 
giành quyền lực và phạm vi ảnh hưởng trên thế giới, nhất là giữa ba trung tâm Mĩ, 
Nhật Bản và Tây Âu. Biểu hiện của mâu thuẫn giữa các nước ấy trước hết là cuộc 
chiến tranh thương mại, chiến tranh về đầu tư kĩ thuật, tài chính cũng như sự cạnh 
tranh giữa các công ty xuyên quốc gia (TNCs) dưới nhiều hình thức. 
TNCs là sản phẩm của quá trình tích tụ và tập trung tư bản sản xuất trong điều 
kiện quốc tế hoá. 
TNCs hiện có vai trò rất lớn trong nền kinh tế thế giới. Chúng là hình thức tổ 
chức doanh nghiệp quốc tế trong nền kinh tế thị trường. 
5.6 Hợp tác và cạnh tranh phát triển lên nấc thang mới và có tính quốc tế 
Hợp tác và cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền, hiện 
nay nó có những đặc điểm sau: 
- Sự phát triển không đều giữa các bộ phận cấu thành của nền kinh tế thế giới, làm 
cho cạnh tranh và mâu thuẫn giữa chúng diễn ra gay gắt. 
- Sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình toàn cầu hoá là điều kiện để nền 
kinh tế thế giới hợp tác với nhau. 
- Cạnh tranh quốc tế biểu hiện dưới nhiều hình thức. Ưu thế thường thuộc về TNCs, 
các trung tâm tư bản chủ nghĩa. 
- Hợp tác quốc tế diển ra dưới nhiều hình thức khác nhau( hội nghị cấp cao, liên 
minh kinh tế khu vực. . ) 
- Hợp tác và cạnh tranh luôn diễn ra đan xen nhau và là hai mặt của nền kinh tế thế 
giới nói chung, thế giới tư bản chủ nghĩa nói riêng. 
III – kết luận 
Những đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay chỉ là sự phát triển kế 
tiếp những đặc trưng kinh tế vốn có của chủ nghĩa tư bản, nó hoàn toàn không phải là 
những đặc trưng mới “ phi tư sản”, song trong bối cảnh toàn cầu hoá, những đặc 
trưng đó cũng mang tính quốc tế. 
Những đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa tư bản mà Lênin nêu ra cũng chính là 
những đặc trưng có nguồn gốc từ bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản và đã xuất 
hiện mầm mống từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh ( độc quyền sinh ra từ tự do 
cạnh tranh ). Những đặc trưng đó không hề phủ định tính chất tư bản chủ nghĩa của 
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, cũng như đặc điểm của chủ nghĩa tư bản độc 
quyền. Trái lại độc quyền vẫn là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và 
là cái trục xuyên suốt quá trình vận động. 
Mục đích nghiên cứu những đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay 
để làm bộc lộ tiềm năng phát triển và sẽ còn tiếp tục phát triển, song chủ nghĩa tư bản 
ngày nay không tránh khỏi những giới hạn nằm ngay trong bản chất của nó. Càng 
phát triển, chủ nghĩa tư bản càng tạo ra ngay trong lòng nó những nhân tố tự phủ 
định. Sớm hay muộn nó cũng sẽ bị một xã hội khác tiến bộ hơn ưu việt hơn - xã hội 
mà toàn thể nhân loại đang hướng tới – thay thế, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Là một chế độ xã hội tồn tại song song với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt 
Nam, nghiên cứu về những đặc trưng của chủ nghĩa tư bản ngày nay là cần thiết. 
Tài liệu tham khảo 
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam: 
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX. 
2. PGS – TS Nguyễn Khắc Thân : 
-Tập bài giảng về chủ nghĩa tư bản hiện đại 
( NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 2002) 
-Các công ty xuyên quốc gia hiện đại 
 ( NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1995) 
3. Lê Văn Sang: 
Chủ nghĩa tư bản hiện đại tập I, II, III 
(NXB Chính trị quốc gia-Hà Nội 1995) 
4. PGS-TS Đỗ Lộc Diệp : 
Chủ nghĩa tư bản ngày nay – mâu thuẫn nội tại, xu thế, triển vọng 
(NXB KH-XH 2003) 
5. Rơnê Đuymông: 
Một thế giới không thể chấp nhận được 
(Học viện Nguyễn ái quốc xuất bản) 
Mục lục 
 Trang 
I - Lời mở đầu 1 
II - Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay 2 1. Khái 
niệm về chủ nghĩa tư bản ngày nay 2 
2. Sự biến đổi về lực lượng sản xuất 2 
2.1 Sự biến đổi của các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất 2 
2.2 Sự biến đổi cơ cấu lao động 4 
3. Sự biến đổi, điều chỉnh các quan hệ sản xuất 5 
3. 1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu 5 
3. 2 Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức quản lí 9 
3. 3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối 14 
4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại, xu hướng biến 
đổi cơ chế 16 
4. 1 Tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh 17 
4.2 Tự do hoá lĩnh vực tài chính 18 
4.3 Điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng 18 
4.4 Cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế 18 
4.5 Tiến hành cải cách thể chế kinh tế 19 
4.6 Nhà nước thực hiện điều tiết lĩnh vực xã hội 20 
5. Sự biến đổi trong hệ thống kinh tế thế giới tư bản chủ nghĩa 
ngày nay 20 
5. 1 Sự phát triển không đồng đều giữa các bộ phận cấu thành 21 
5. 2 Các công ty xuyên quốc gia ngày càng đóng vai trò to lớn 
trong nền kinh tế thế giới 22 
5. 3 Tốc độ tăng trưởng của các nước tư bản nói chung có xu 
hướng giảm sút, tài chính tiền tệ quốc tế không ổn định 23 
5. 4 Xu hướng tăng cường quân sự hoát thời kì hậu chiến tranh lạnh 24 
5. 5 Hệ thống kinh tế tư bản thế giới còn hình thành 25 
a) Hệ thống đa trung tâm 
b) Mâu thuẫn gay gắt giữa các nước tư bản với nhau 
c) Mâu thuẫn giữa các công ty xuyên quốc gia 
5. 6 Hợp tác và cạnh tranh quốc tế phát triển lên nấc thang mới 27 
III- Kết luận 28 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó.pdf LUẬN VĂN- Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó.pdf