Đến Tùng Thiện Vương, sau năm thế kỉ, những thành tựu nghệ thuật mà các
nhà thơ đi trước đã làm được thì Vương đều kế thừa và phát triển thêm. Ông đã thành
công trong việc sử dụng rộng rãi các thể trường thiên, ca, ngâm, từ, hành, khúc, dao,
lục ngôn. Đọc hành, dao, ca, từ của ông, người ta nhận thấy có sự đan xen hòa
quyện giữa bút pháp tự sự và trữ tình nhuần nhã, tinh tế. Bên cạnh đó, Tùng Thiện
Vương còn là một bậc thầy trong việc trong việc sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo hình
tượng. Chính điều đó đã khiến cho thơ Vương không đơn điệu, sáo mòn, xa rời mà
gần gũi, sâu sắc và chân thành.
Nhìn chung lại, ngoài những hạn chế về nội dung mang tính thời đại, hoàn
cảnh cá nhân, và dù thơ chữ Hán không thể có giá trị phổ biến rộng rãi trong xã hội
thì thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương vẫn xứng đáng có một vị trí vẻ vang trong
lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Các sáng tác của Vương đã để lại trong lòng
người đọc những ấn tượng đẹp về một nhà thơ hoàng tộc tài ba, tiến bộ, giàu lòng
nhân ái, rất đáng được mến mộ.
137 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 2571 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những đóng góp của thơ ca tùng thiện vương trong văn học trung đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đọc hai câu này ta hiểu tình cảm thiết tha giữa
hai anh em, không chỉ là tính khí hợp nhau mà còn là bạn làng thơ với nhau. Đó là
những hồi ức đẹp đẽ mà hẳn không bao giờ ông hoàng Mười quên được.
Trong câu trần thuật hiện tại, đáng chú ý là câu trần thuật ở dạng phủ định, với
sự xuất hiện của các từ vô (không), bất (không), vị (chưa), phi (không), nan (khó),
mạc (đừng, chớ). Có nhiều dạng phủ định nhưng thường xuất hiện nhất là những câu
miêu tả cảnh vật, sự vật, sự việc hay con người ở trạng thái không của nó. Loại câu
này chiếm khá nhiều.
Có khi là sự nhận thức, đánh giá, đúc kết về sự vật, hiện tượng, đối tượng.
Thiên địa chi đại
Hữu vãng tất phục
Nhật nguyệt chi minh
Vô vi bất chúc.
(Dẫn thanh ca)
(Trời đất thì lớn/ Có qua tất lại/ Mặt trời mặt trăng thì sáng/ Không gì nhỏ mọn
mà chẳng thấu).
Nhìn giữa vũ trụ, có mấy điều làm cho con người phải ngạc nhiên và khâm
phục, trên trời dưới đất mênh mông, vạn vật đều biến chuyển không ngừng, ngày đêm
vẫn có ánh sáng mặt trời, mặt trăng. Lớn lao như thế người ta trông thấy là lẽ dĩ nhiên,
lại còn có những thứ rất bé nhỏ, người ta cũng trông thấy được. Tùng Thiện Vương ở
vào một thời đại và trong một hoàn cảnh không tiếp xúc với triết học và khoa học
phương Tây, chỉ đem trí ra suy nghĩ, đem tài thi sĩ ra cảm xúc đã có những ý tưởng
triết lý về hai cái vô cùng: vô cùng lớn và vô cùng nhỏ, lớn đến đâu và nhỏ cỡ nào
người ta cũng có thể thấu suốt. Thật đáng trọng biết bao!
Cũng có khi câu trần thuật phủ định là để nói đến những mong muốn nhưng
chưa thực hiện được: Tâm can báo quốc toàn vô địa - Đối tửu (Lòng dạ muốn báo
đền ơn nước nhưng hoàn toàn không có đất (để thi thố).
Trong cuộc đời mình, điều khiến cho Tùng Thiện Vương suy nghĩ nhiều nhất
và cảm thấy mặc cảm nhất chính là không đạt được cái tâm nguyện “báo đền ơn
nước”. Ông tự thấy mình phải có trách nhiệm, phải làm được gì đó nhưng thực tế thì
là ông không thể làm gì, hơn thế còn bị vướng vào vụ án con rể Đoàn Trưng. Cả phần
đời còn lại ông sống trong mặc cảm, không dám gặp ai, u uất và cô độc.
Câu trần thuật phủ định xuất hiện nhiều trong thơ Tùng Thiện Vương cũng
chứng tỏ dưới mắt ông cuộc đời còn nhiều bất công ngang trái, những phi lí, bế tắc
Con người dường như bị chặn lại, bị đè nén không lối thoát, trước mắt chỉ thấy những
phũ phàng, nhưng điều không như ý.
Câu nghi vấn:
Trong thơ Tùng Thiện Vương, câu nghi vấn xuất hiện nhiều (81 câu). Dấu hiệu
để nhận biết câu nghi vấn là căn cứ vào dấu chấm câu hay sự xuất hiện của các từ
thùy, thùy chiêu, tùy tương, tùy thanh; kỷ, kỷ nhân, kỷ độ; hà, hà nhân, hà sự, hà thời,
hà dụng; vị, vị thùy, vị để; khởi, khởi vô, khởi vị; nại, nại hà; vấn, vấn tà, tự vấn
Trong 81 câu mang ý nghi vấn thì có 52 câu có hình thức nghi vấn. Như vậy đa số
các câu mang ý nghi vấn có hình thức nghi vấn. Điều đó chứng tỏ Vương luôn có ý
thức khi đặt câu hỏi. Ông cần một lời giải đáp, một câu trả lời ở hình thức nghi vấn
này, thậm chí ông hỏi để tự mình nghĩ ngợi, tự mình tìm đường cho mình. Bởi vậy,
đối tượng nghi vấn của ông rất rộng. Nói chung là tất cả những gì đang xảy ra, đang
tác động đến ông. Ông hỏi người, hỏi đời, hỏi chính mình Những câu hỏi của ông
xuất hiện mọi vị trí, đầu, giữa, cuối bài thơ.
Có khi câu hỏi hướng đến đối tượng bạn bè, người thân, người quen, người xưa.
Mã thủ đông lai phùng cố nhân
Thông thông nhất tiếu hốt triêm cân
Như kim hà xứ vô binh hỏa?
Nỗ lực gia sơn thả thực bần.
(Phùng cố nhân)
(Cưỡi đầu ngựa, từ phương đông, đến gặp bạn cũ/ Vội vàng nở một nụ cười,
bỗng nhiên lại ướt khăn tay/ Như ngày nay, nơi nào lại không có chiến tranh?/ Gắng
sức chịu nghèo nàn ở chốn quê hương).
Vương gặp lại người bạn tri kỉ. Vừa vui vì được gặp bạn nhưng nhớ đến tình
cảnh nước nhà đang trong khói lửa mà phải rơi lệ. Nỗi đau thương của ông là nỗi đau
thương của một ông hoàng tử và của một người dân. Nỗi đau ấy dồn vào một câu hỏi
“Như kim hà xứ vô binh hỏa?” Câu hỏi không đợi câu trả lời, mà để kìm giữ bớt xúc
cảm trong lòng. Xót xa không sao kể xiết khi nhìn chốn chốn đao binh. Nếu hiểu
không đi đâu vì đâu cũng có chiến tranh, thôi đành phải ở lại quê nhà thì thật tầm
thường. Nhưng nếu hiểu là nước nhà bị chinh chiến, khắp nơi trong vòng khói lửa
nên mình chẳng còn nghĩ đến việc đi đâu, một lòng ở lại quê nhà thì mới thấu cho
tấm lòng của một bậc ái quốc trung quân.
Có khi hỏi mình, chất vấn mình những vấn đề của bản thân.
Tiểu phụ mỗi ưu mích cú
Lương bằng đa khuyến phế thư
Tự vấn thể trung kiện phủ
Thần hàn cốt trọng hà như?
(Bài hài thể)
(Vợ nhỏ lo lắng mình cứ làm thơ/ Bạn tốt cứ khuyên đừng đọc sách/ Tự hỏi
trong người có khỏe chăng/ Tinh thần lạnh lẽo, xương cốt nặng nề thế nào?)
Trong chỗ tâm phúc, vì thương yêu, sợ nhà thơ phải mệt nhọc, nên vợ lo cho
ngài phải tìm ý tìm chữ để làm thơ, những người bạn tốt thì khuyên nghỉ việc đọc
sách. Thấy người ta có lòng lo lắng khuyên bảo, mình mới tự hỏi mình, xem thử có
nên nghe theo chăng, chứ thực ra ngâm thơ và đọc sách là những thú vui của ông.
Đọc hai câu sau quả thấy Vương đa cảm đa tình, cảm kích những lời khuyên mà xem
lại sức khỏe mình.
Có khi đau đáu hỏi trời, hỏi đời
Tân khổ bần gia tử
Niên niên hàn phục cơ
Hao trường sơ thế phạn
Đống cốt hỏa vi y
Biến địa do binh giáp
Mân thiên thả tật oai
Chu môn lạc hà sự
Dạ ẩm đạt triêu huy.
(Bần gia)
(Cay đắng thay con nhà nghèo/ Năm năm đã rét lại đói/ Ruột trống, ăn rau thế
cơm/ Xương đông, lấy lửa làm áo/ Khắp đất còn có chiến tranh/ Đầy trời vẫn đủ tai
ương/ Nhà giàu sang sao cứ vui?/ Ban đêm tiệc mãi đến sáng)
Tả cảnh tình thân phận con nhà nghèo đủ muôn nghìn cay đắng. Năm này qua
năm khác, chỉ biết đói và rét. Đã thế còn chịu giặc giã khắp nơi và tai ương liên tiếp.
Nghĩ đến cảnh nhà giàu, lầu son gác tía, sao có thể vui chơi, yến tiệc suốt đêm đến
sáng? Hình như tác giả khóc thương thân phận con nhà nghèo đầy đủ trăm nghìn đau
khổ, thiếu thốn và trách ai gây nên chinh chiến, trách trời sao gieo tai ương. Có thể
bắt gặp tâm trạng và những câu hỏi đau đáu này trong bài Trác một điểu:
Xi xi diệc hà liêu?
Nhất sinh bất năng độ.
(Bầy sâu biết nhờ vào đâu?/ Một đời không thể cứu vớt)
Con số câu hỏi này khá nhiều. Nó biểu lộ tâm tư tình cảm day dứt, băn khoăn
đến đau lòng của ông hoàng Mười.
Ấn tượng nhất là những câu hỏi ở vị trí đầu và kết bài. Câu hỏi ở vị mở đầu bài
thơ thường nêu vấn đề hay thắc mắc. Chúng thường nêu vấn đề của toàn bài như một
sự day dứt, bức xúc không thể kìm nén nổi ngay từ đầu. Nó có thể ở câu đầu tiên hay
câu thứ hai của bài thơ. Những câu hỏi mở đầu bài thơ tạo ấn tượng mạnh cho người
đọc, đồng thời thấy rõ thái độ, cảm xúc của tác giả. Giai kì nhất hà diểu? (Hữu sở tư)
(Kì hẹn tốt đẹp sao mịt mờ?)
Không gây ấn tượng mạnh như câu hỏi đầu bài, câu hỏi cuối bài có sắc thái
riêng của nó. Đó là nó tiếp tục mở ra như một vòng tròn luẩn quẩn không thấy kết
thúc, không thấy lời giải của những khúc mắc, những tình cảm, những nỗi niềm, xoáy
vào tâm trí, tình cảm người nghe Câu hỏi cuối bài thường không chốt lại ý mà mở
ra những trăn trở suy tư, những rung động vương vấn.
Hữu tửu hữu tửu
Chủy quang kỳ cầu
Thiên thu chi hạ
Thùy tri ngã ưu?
(Trường ca hành)
(Rượu kia vẫn sẵn/ Chén sừng có quai/ Ngàn thu về sau/ Ai biết ta sầu?)
Tuy có sẵn thứ tiêu khiển, có rượu có chén, nhưng ông hoàng Mười cũng
chẳng thể nào tiêu khiển. Sau khi nghĩ đến lòng người, sự vật, người dại, người khôn,
thi sĩ thấy rõ tư tưởng của mình, rồi lại ngại ngùng không biết về sau, người ta có
thấu nổi hồn sầu của mình hay không?
Ngu tướng cùng sầu thư mạc trứ
Trần vương bạc mệnh túy không ca
Cổ kim bất thiểu đăng lâm hận
Kiến thử mang mang nại nhĩ hà.
(Long Thọ cương vãn vọng)
(Ngu tướng sầu rũ không gì hơn là viết sách/ Trần vương mệnh bạc say hát
suông/ Xưa nay không ít người vướng vào rừng hận/ Thấy mịt mờ như thế ngươi đối
phó thế nào?)
Những đối tượng nghi vấn có thể là lớn lao nhưng cũng có khi chỉ vụn vặt tầm
thường liên quan đến cá nhân. Tuy vậy nó có sức vang lớn trong bài thơ, nhất là ở
những câu hỏi kết bài.
Câu cảm thán:
Câu cảm thán trong thơ Tùng Thiện Vương chiếm số lượng đáng kể (75 câu),
sau câu trần thuật, câu nghi vấn. Dấu hiệu để nhận biết loại câu này thông qua hình
thức dấu chấm than cuối câu hay sự xuất hiện của các từ ô hô, liên, thán, đốt đốt, trù,
trướng, thảm thê, vô hạn, oán Câu cảm thán thường diễn tả những lời than, những
thương xót, nuối tiếc hay những xúc động tình cảm Sự xuất hiện của nó làm cho
cảm xúc trong thơ dâng trào, đặc biệt khi kết hợp với những thán từ.
Đó là lời reo vui trước cảnh trời đất hiền hòa, hữu tình hữu ý, là cảm xúc hân
hoan khi gặp bạn bè anh em:
Ỷ tiết oanh hoa thâm hạng tịch
Xuân âm phố tự mộ sơn hư
Bàn xan đẩu tửu tầm thường sự
Tri nhữ tương qua hứng bất sơ.
(Tân tuế Vĩ Dã quá)
(Hoa xiên, oanh hót trong hẻm sâu, vắng/ Xuân im mát ở bến sông Tự, chiều
tối trên núi trống trải/ Mâm cõ, đấu rượu chỉ là chuyện tầm thường/ Biết chú qua
thăm hứng thú không ít)
Hay có khi là thi hứng dào dạt trước phong cảnh hữu tình:
Cửu hỹ vô giai hứng
Thu tiêu hốt bất câm
Trúc phong bình thử khí
Hồ nguyệt cảnh thi tâm.
(Thu tiêu ngẫu đắc)
(Đã lâu không có cảm hứng tốt/ Đêm thu bỗng không thể nín nhịn được/ Gió
trúc làm hạ khí nóng/ Trăng hồ khơi động lòng thơ).
Nhưng đó cũng có khi, và nhiều khi là lời than trước những nỗi niềm, tình cảnh
của bản thân, của gia đình, hay là những thương cảm cho số phận lầm than của chúng
dân:
Ai tai Quảng Nam tứ huyện dân
Ngưỡng thiên hô thiên tố dân khổ
Lôi thanh điền điền chấn thiên cổ
Hắc vân mạn không đạo trung vũ
(Lưu dân thán)
(Thảm thay cho dân bốn huyện Quảng Nam/ Ngửa mặt lên trời, kêu trời tỏ nỗi
dân đau khổ/ Tiếng sấm rần rần đội vang trời/ Mây đen kéo đến, mưa sa xuống giữa
đường)
Chưa nghĩ tới tác giả là ai, đọc lên bài thơ này cũng không khỏi ngậm ngùi
cảm phục một người biết khóc thương tình cảnh đau khổ của người dân nghèo lâm
nạn, tả rõ từng chi tiết với một tâm hồn cùng rung động trước những nỗi tang thương.
Khi biết thi sĩ là một ông hoàng tử, càng thấy những lời than thở kia phải xuất phát từ
một cõi lòng chan chứa yêu thương, chân thực mà sâu xa, đằm thắm mà thống thiết.
Đoạn này, dường như có ý trách trời. Người dân đau khổ ngửa mặt kêu trời, lại gặp
sấm sét, mây mưa. Trời đã không cứu giúp, sao nỡ dồn thêm đau khổ? Lời than thơ ai
oán, thương tâm!
Người dân đói khổ cùng đường vậy mà vẫn bị bọn cường hào, quan lại, sai nha
tàn nhẫn hà hiếp, chiếm đoạt của cải, không chịu trả tiền. Xót xa trước cảnh ấy,
Vương nói thay, than thay lời người bán tre về nỗi uất hận của mình qua bài Mại trúc
dao (Bài hát bán tre)
Môn nội trúc như sơn
Môn ngoại tiền bất hoàn
Bất ngôn nhất hà khổ
Ngôn chi trường tiên, thả tiên nhữ
Y, ta ta !
Quy khứ lai hề, lệ bàng đà
Tòng kim nhi hậu vật phạt trúc
Cơ ngọa trúc gian tử diệc túc.
(Trong cửa tre như núi/ Ngoài cửa tiền không chịu trả/ Không nói, khổ biết
bao!/ Nói ra thì roi dài cứ vụt vào người/ Ôi, than ôi!/ Bước chân về chừ, nước mắt
như mưa/ Từ nay về sau không nên đốn tre nữa/ Đói nằm trong tre chết cũng đáng).
Có khi là nỗi sầu muộn vô biên vì thương nhớ, không kìm giữ được cảm xúc
Như vậy, với sự xuất hiện của nhiều câu cảm thán trong các sáng tác, thơ Tùng
Thiện Vương bộc lộ rõ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm tinh tế trước thiên nhiên vạn vật,
và đa sầu đa cảm trước cuộc đời. Những cảm xúc ấy có khi được dồn nén, khi lại bật
ra thành những tiếng kêu than nghe ai oán não nề. Người đọc ấn tượng và thêm trân
trọng trái tim đa sầu đa cảm của Vương. Bởi lẽ, Vương không chỉ biết khóc cho mình,
cho gia đình, người thân, bạn bè, mà hơn hết, với nỗi đau khổ lầm than của chúng dân,
Vương vẫn thấu hiểu, vẫn cảm và viết bằng tình yêu thương chân thành nhất tự trái
tim mình. Thiết nghĩ, với địa vị của một ông hoàng Mười, đó quả là điều thật cảm
kích và tiến bộ biết bao!
Câu cầu khiến:
Câu cầu khiến trong thơ Tùng Thiện Vương ít nhất (32 câu). Dấu hiệu để nhận
biết loại câu này là sự xuất hiện của các từ tu, mạc, thỉnh, khuyến, còn lại là căn cứ
vào nghĩa của câu. Không chỉ xuất hiện khiêm tốn, ngay cả ý cầu khiến trong các câu
này cũng khá mờ nhạt. Ví dụ như trong bài Thương hà bạch lộ đường:
Kiêm hà tương bạch lộ
Trung hữu u nhân đường
Tự hứa ngư ông thức
Tương tầm thủy nhất phương.
(Lau sậy cùng với móc trắng/ Trong đó có ngôi nhà của người u nhàn/ Tự cho
phép mình là ngư ông/ Nếu có tìm thì hãy tìm nhau nơi sông nước)
Câu cuối bài khuyên người tìm mình thì hãy tìm nơi sông nước nhưng ý
khuyên nhủ thì ít mà chủ yếu là thể hiện cái hồn mình. Đó là tấm lòng yêu mến cuộc
sống bình dị, thảnh thơi, gần gũi với thiên nhiên vạn vật.
Còn trong bài Ký thưởng viên dạ tập thị chư đệ cũng có câu cầu khiến, và ý
cầu khiến đó cũng chính là niềm vui của Vương trong khi gặp gỡ các anh em, lưu
luyến không muốn rời nên mong các anh em nán lại để cuộc vui còn dài:
Lương thời giới kim tịch
Quan cái tương truy phan
Tứ diên thử liệt tọa
Phủ cảnh hữu dư hoan
Nguyện tử thả an tọa
Bạch câu ca vị lan.
(Tối nay trời đẹp, thời tiết mát mẻ/ Mũ dù tìm nhau kết giao/ Tiệc bày xin tùy
tiện ngồi/ Cảnh phủ vui vẻ có thừa/ Mong rằng các em thong thả ngồi nán thêm/ Vì
khúc ca Bạch câu chưa hết).
Ý cầu khiến thể hiện rõ nhất trong các bài Đông viên hoa, Tặng Bổn Giác hòa
thượng, Tống nhân Bắc du, Tống nhân Nam hành.
Sở sở đông viên hoa
Mạc hỷ xuân phong tác
Kim nhật tha xuy khai
Minh nhật tha xuy lạc.
(Đông viên hoa)
(Phơi phới hoa vườn đông/ Chớ mừng gió xuân đến/ Ngày nay nó thổi nở/
Ngày mai nó thổi rơi).
Nhìn hoa trong vườn, Tùng Thiện Vương nghĩ đến việc đời, nói lên mấy lời
nhắn nhủ. Sau khoảng mùa đông giá lạnh, gió xuân đem lại ấm áp cho cành cây,
người chủ vườn không khỏi vui mừng. Nhưng Tùng Thiện Vương lại thấy cùng một
ngọn gió xuân, nay làm cho hoa nở, mai lại làm cho hoa rụng. Không phải là trách
ngọn gió, nhưng khuyên người ta không nên vui buồn theo ngoại vật. Sự vật nào cứ
theo bản năng sự vật ấy, như gió thổi, như mưa sa, như tuyết rơi, lợi hay hại cho con
người là vẫn tùy vào con người, có hiểu biết và có sức lực mà đối phó và sử dụng hay
không, chứ không phải chỉ do sự vật. Như hoa đang thời kì kết nhụy, có ngọn gió thì
nở ra; đến lúc tàn tạ, gặp ngọn gió thì rụng xuống. Lỗi ấy không nói tại gió hay tại
hoa, vì hoa là loại vô tri vô giác. Nhưng con người có tri thức và ý chí, có thể hiểu
biết, đề phòng, đối phó và sử dụng ngoại cảnh Qua mấy câu thơ vắn tắt mà Vương
đã gửi gắm triết lý sâu xa thâm thúy vô cùng.
3.2.2 Từ ngữ
Từ ngữ trong thơ Tùng Thiện Vương rất phong phú và đa dạng. Nó chịu ảnh
hưởng của nghệ thuật trung đại nói chung và sự sáng tạo của cá nhân nói riêng. Từ
ngữ trong thơ ông làm rõ cho phương thức tự sự và phương thức trữ tình trong chiếm
lĩnh đối tượng và bộc lộ cảm xúc của nhà thơ.
Tính biểu cảm:
Cái gốc của thơ là từ những rung cảm trước đối tượng mà có thơ. Cảm xúc đó
có thể là vui, buồn, giận, hờn, ham muốn, phẫn nộ Từ ngữ diễn đạt cảm xúc trong
thơ Tùng Thiện Vương rất nhiều, cả những từ thiên về cảm hứng trước vũ trụ lẫn
những từ thể hiện xúc cảm trước cuộc đời, trước những thực tế mắt thấy tai nghe hay
cả những nỗi niềm riêng tây của bản thân. Có thể thấy sự xuất hiện của các từ trù
trướng, liên, hoài, ức, cảm, oán, than, khổ, thương, hận, tiếu, sầu, thảm thê Tùng
Thiện Vương dùng những từ này biểu thị cảm xúc của bản thân. Đó là những suy
nghĩ, nhận xét, thương cảm Ông không chỉ thương cho bản thân mà thương cho cả
cuộc đời này. Thế nên, ông trăn trở, oán giận những gì làm cho đời mình, cuộc sống
này trở nên vô nghĩa, tù túng, khổ sở; lại khát khao, hi vọng một ngày mai tươi sáng
cho đời mình, cho cuộc sống. Với một con người đa sầu đa cảm, lại mang cái tâm
bệnh như Tùng Thiện Vương thì những cảm xúc ấy lại càng dễ nhận biết trong từng
câu chữ.
Tùng Thiện Vương thương mình cuộc đời rủi ro, sầu muộn:
Tam thập niên hoa bán thị sầu
Kỷ đa thường điệu tổng du du
Ưng Lưu điêu tạ thương thư tử
Tiều tụy Trần vương tự bạch đầu.
(Tam thập kiến bạch phát, I)
(Ba mươi tuổi đúng là đã nhuốm nửa sầu/ Âm điệu thông thường gộp lại nhiều
bao nhiêu/ Chàng Lưu suy bại tàn tạ chết chậm rãi lúc non trẻ/ Trần vương tiều tụy tự
thân bạc đầu).
Ông cũng thương cho người khi trước mắt lắm điều trái ngang, lắm cảnh cùng
khổ:
Sinh trưởng phú quý trung
Vị tằng giai cơ khách
Xúc mục bội thê thiết
Lữ vị tư thiểu thường
Lao khổ bất nan thuyết
(Quảng Lộc dạ phát)
(Sinh trưởng chốn giàu sang/ Đói khát chưa từng biết/ Mắt trông thêm thảm
thiết/ Đường xa tít lúc đi/ Nhọc nhằn không nói hết)
Nhờ những chuyến đi xa thế, tiếp cận với thực tế, với nhân dân lao động, ông
hoàng Mười mới nhận ra cuộc sống còn nhiều khổ đau, đắng cay và nhà thơ hoàng
tộc này đã phản ánh những điều này trong những trang viết của mình, từ ngữ không
cầu kì mà chân thành, đầy trắc ẩn, xót thương
Nỗi buồn có khi là một tiếng ngâm, một ngọn gió hoặc chỉ là những ưu tư
phiền muộn không sao giải tỏa được khi chứng kiến đất nước dưới gót giày xâm lược
Pháp.
Có thể thấy, Tùng Thiện Vương sử dụng từ biểu cảm rất linh hoạt và phong
phú. Ví như để diễn tả ý xót thương, Tùng Thiện Vương không chỉ dùng từ thương
mà còn sử dụng cả từ liên từ bi; diễn tả ý buồn ông không chỉ dùng sầu mà còn dùng
du du, ưu, trù trướng; diễn tả nỗi nhớ ông dùng ức, hoài, ưu, niệm Điều này làm
cho việc phối hợp vần điệu của câu thơ, bài thơ dễ dàng hơn, bên cạnh đó nó còn giúp
cho người đọc hiểu thêm về tài năng và tấm lòng của ông.
Tóm lại, Tùng Thiện Vương rất có ý thức khi sử dụng vốn từ biểu cảm để bày
tỏ cảm xúc của lòng mình. Điều đó làm cho cảm xúc trong thơ của ông sâu sắc hơn,
mãnh liệt hơn, lôi cuốn người đọc hơn. Một kẻ sĩ có trách nhiệm với đời hẳn không
thể thiếu những cảm xúc chân thành trong thơ. Lớp từ biểu cảm đã cho chúng ta hình
dung dễ dàng hơn, cảm nhận dễ dàng hơn một ông hoàng Mười đa sầu đa cảm trước
cuộc đời.
Tính hàm súc và đa nghĩa:
Tác phẩm thơ với tư cách là một văn bản thông tin nằm trên một diện tích ngôn
ngữ hẹp mà lại cần phải cung cấp cho người đọc những lượng thông tin cao, không
dư thừa. Chính vì vậy mà ngôn ngữ thơ có tính hàm súc và đa nghĩa. Trong thơ Tùng
Thiện Vương, ta càng thấy rõ điều này. Một là do ông sáng tác bằng chữ Hán, hai là
do tài năng sáng tạo ngôn ngữ của nhà thơ tài hoa này.
Ví như trong bài Trác mộc điểu, Tùng Thiện Vương mượn chuyện chim gõ
kiến mà kết án hạng người làm hại nước hại dân là sâu mọt. Thường khi nói sâu mọt
là nói hạng kí trùng bám vào, không làm ích gì mà chỉ làm hại. Ông phàn nàn sao có
thứ chim để ăn loài sâu mọt hại cây, còn loài sâu mọt hại nước, tội nặng hơn, lại vẫn
cứ bình yên, không có thứ gì hại đi.
Cũng bằng hình ảnh ẩn dụ kín đáo, thông qua hình tượng đàn chim sẻ bay kiếm
mồi trên đồng ruộng, không trộm cắp lúa gạo trong kho, có thể sống no đủ, chỉ lo sợ
gặp bọn cú diều nhưng cú diều to cũng chưa đáng sợ bằng lưới giăng của người thì
hết đường bay – người dân đen hèn mọn trước bọn cường hào, quan lại, Vương đã
mỉa mai, lên án tệ tham nhũng bót lột người dân lành khốn khổ qua bài Tước phi đa
(Đàn chim sẻ bay)
Trong bài Đại mông quả (Qủa xoài tượng), Vương đã bộc lộ hết sức khéo léo
và xúc động tâm trạng của mình qua những câu chữ hàm súc:
Đại mông thục ý thử triều thường
Gia định tha niên tải cự hàng
Hạnh thác hà phù phân tích cống
Hốt sầu sơn dịch viễn huề tương
Nhung Tru cửu dĩ lao thần toán
Thổ vật do lai xuất ngoại hương
Thâm quý ngô sinh đồ khẩu phúc
Quốc ân gia huống cọng triêm thường
(Trái xoài tượng ai đã có ngày thử nếm/ Ở Gia Định, năm kia đã chở một
thuyền lớn/ May mình được gửi vào như chút bèo bọt mà được phần của dâng hiến/ Chạnh
buồn cho người trạm núi phải từ xa đưa đến/ Binh cơ lâu nay vẫn được vua trù tính/
Vật thổ sản từ xưa vốn là của quê bên ngoại/ Thẹn cho đời ta chỉ lo về ăn uống/ Ơn
nước tình nhà thêm ướt áo.)
Lấy việc xoài tượng vừa nói đến mình, đến người, đến nhà, đến nước. Chính
mình là ai mà đã có ngày được nếm trái xoài tượng, vốn là của từ trong Nam gửi ra
triều cống, lại nghĩ đến công người dịch trạm chốn núi non phải vất vả chuyên chở,
khiến mình cảm lòng. Vương càng đau xót khi nghĩ đến đất nước đang trong nạn
ngoại xâm, mất một phần đất miền Nam. Nhưng không dám trách vua vì vua vẫn trù
tính việc binh cơ. Xoài tượng là thổ sản miền Nam, ngoại hương của vua, thành ra
càng hiểu lòng vua đau xót nhường nào. Chỉ mấy tiếng mà diễn tả tài tình được cái
tâm hồn xao xuyến, lo âu, buồn tủi của một ông hoàng ái quốc trung quân
Tính khái quát, ước lệ và và cụ thể trực quan:
Do hầu hết thơ Vương được làm theo thể Đường luật bác học nên ngôn từ
mang tính khái quát, ước lệ. Chính tính khái quát, ước lệ này góp phần làm cho ngôn
từ thơ trở nên hàm súc và giàu sức gợi. Điều này, được GS. Nguyễn Thị Bích Hải
nhấn mạnh: “Bí quyết của thơ Đường: nói thật ít để gợi thật nhiều. Mà để có thể nói
ít gợi nhiều thì một phương tiện có hiệu lực là ước lệ. Đó là bút pháp chung của thơ,
hội họa và tuồng cổ.”[27,54]
Tính khái quát được thể hiện ở chỗ: lời thơ gói ghém vào những từ như: điểu,
hoa, thụ, thủy, phong, vân, nhật, nguyệt, thiên, địa, giang, sơn Thời gian được dồn
vào mấy khái niệm chỉ mùa như xuân, hạ, thu, đông; tiết như lập xuân, cuối thu, đầu
đông.
Về tính ước lệ, đây một đặc trưng thi pháp của văn học trung đại. Đặc trưng thi
pháp này hình thành từ bối cảnh lịch sử xã hội phong kiến và cảm quan thẩm mỹ của
tầng lớp nghệ sĩ Hán học. Xã hội phong kiến là một xã hội đẳng cấp, lắm nghi thức
công thức. Xã hội bị lễ nghĩa trói buộc, nên văn chương tất phải ước lệ. Sáng tác văn
học là hình thức trước thư lập ngôn, nên văn chương ước lệ mới đẹp, mới sang
trọng. Tính ước lệ của ngôn từ trong thơ Vương được thể hiện ở việc dùng nhiều lần
những hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ. Nói đến nỗi sầu, các nhà thơ dùng hình ảnh
“bạch phát”, “bạch đầu”:
Ưng Lưu điêu tạ thương thư tử
Tiều tụy Trần vương tự bạch đầu.
(Tam thập kiến bạch phát)
(Chàng Lư suy bại tàn tạ chết chậm rãi lúc non trẻ/ Trần vương tiều tụy tự thân
bạc đầu)
Lão bệnh xâm tầm duyệt tuế hoa
Lãng bằng thi tửu tống sanh nha (nhai)
Cảm vân bạch phát duyên ưu quốc
Nan đắc thanh sơn tiện khiết gia
(Lão bệnh)
(Bệnh già xâm nhiễm dần dần từ thuở hoa niên/ Nương nhờ thơ, rượu mà sinh
sống/ Đâu dám nói tóc bạc vì lo nghĩ việc nước/ Khó tìm được núi xanh tiện mang
nhà lên)
Hay nói về cái lạnh, Vương dùng hình ảnh “thu phong”, “đông phong”:
Đông phong tạc dạ xuy hà xứ
Cánh nhạ tân sầu thướng hiểu mi.
(Liễu)
(Gió từ phương đông thổi về xứ nào/ Càng gợi nỗi sầu mới trên nét mày sáng
nay)
Tính khái quát ước lệ trong thơ chữ Hán dễ gây cho người đọc cảm giác sáo
mòn, nặng tính sách vở, xa rời lời nói hàng ngày. Tuy nhiên, ngôn từ trong thơ
Vương không đơn điệu như thế. Tồn tại bên cạnh tính nghi thức, trang nhã, mẫu mực
là tính cụ thể, tự nhiên của ngôn từ.
Trong mảng thơ hiện thực, ngôn từ cụ thể, đời thường đậm đặc trong thơ
Vương. Tính hàm súc của ngôn từ khái quát, ước lệ không thể vẽ được một cách tỉ mỉ
tường tận cuộc đời cơ cực, lầm than của người dân nghèo khổ nên nhà thơ phải dùng
tới những từ cá biệt cụ thể của đời thường để tạo nên những bức kí họa. Có lẽ lần đầu
tiên, người ta thấy trong thơ chữ Hán những hình ảnh cụ thể, thảm thiết như thế này:
Thổ tích dục đa, xa úy chiết
Cơ lai cầu xan, bất đắc yết
Xa như phong, hãn như tuyết
Dạ lương do thắng trú chi nhiệt
(Thổ xa dao)
(Đất muốn chở nhiều, xe sợ gãy/ Đói đến muốn ăn, không nuốt được/ Xe chạy
như gió, mồ hôi ra như tuyết/ Đêm mát còn có thể chịu đựng được hơn là ngày nóng
bức)
Từ tự xưng:
Cũng giống như những đại thi hào lớn của dân tộc Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Cao Bá Quát, Tùng Thiện Vương cũng luôn có khuynh hướng thể hiện mình,
khẳng định bản thể trước cuộc đời này. Vì thế, lớp từ tự xưng xuất hiện nhiều trong
thơ ông. Cụ thể là trong 316 bài thơ được khảo sát thì có đến 176 lần tác giả trực tiếp
hoặc gián tiếp dùng từ tự xưng. Lớp từ tự xưng trong thơ Vương rất đa dạng.
Thơ Vương vẫn thường dùng những từ tự xưng như trong thơ truyền thống với
mục đích xưng hô như: ngã, ngô, ngô thân, thân, ngô nho, nhất thân, nhân, nhân lão,
khách, lữ khách, hành nhân Những từ này thơ trung đại vẫn thường dùng.
Tùng Thiện Vương luôn ý thức cái tôi bản ngã của mình. Thế nên ông hay nói
về chính mình, về mối quan hệ của mình trong xã hội và trong trời đất. Đó là những
khát vọng, hoài bão, ước muốn, suy tư, trăn trở, đau khổ, thất vọng, hào hứng, niềm
tin Cái tôi xuất hiện hàng loạt trong thơ ông.
- Khởi công vị ngã tái phấn kiện bút vi trường ca (Bạch Hào Tử ca)
- Ky nhân trung tuế hạnh bình an (Thôn cư tạp vinh)
- U nhân tảo khỉ hoành cầm tọa (Sơn cư tảo khởi)
- Đồ lê tiếu ngã du hà kịch (Sơn trung hiểu bộ quá Tuệ Lâm tự)
- Thủy trúc dung ngô lại (Quy viên ngẫu đắc)
- Thâm quí ngô sinh đồ khẩu phúc (Đại mông quả)
- Ngã niệm ngã mẫu (Bệnh trung tư mẫu)
Thông thường, các nhà thơ gọi mình là khách, du khách, du nhân, du tử cốt
để cho cái tâm được nhẹ nhàng và thanh thản hơn:
Đoản đỉnh liễu biên khách điếu
(Nhàn cư lục ngôn)
Khi bộc bạch nỗi niềm thế sự, riêng tây, Vương dùng ngã, ngô, nhân:
Ngã niệm ngã mẫu
Khởi tri ngã bệnh
Tích ngã hữu bệnh
Nhân nhi vô dưỡng
(Bệnh trung tư mẫu)
Vương bày tỏ lòng nhớ mẹ của mình. Trong lòng Vương, nỗi nhớ không lúc
nào nguôi ngoai. Nhớ nên nằm ngủ cũng tưởng đến bóng hình mẹ, nụ cười mẹ. Tấm
lòng của con đối với mẹ thể hiện qua niềm tiếc nhớ những ngày tháng có mẹ bên
cạnh chăm sóc mình, nay mẹ đi xa nhưng tác giả vẫn tin mẹ luôn bên cạnh, dõi theo
và phù hộ nên con mới mau lành bệnh. Tác giả lại đau xót như chưa phụng dưỡng mẹ
được bao lâu, hổ thẹn với loài chim quạ kia. Lòng hiếu thảo ấy của Vương khiến ta
xúc động không chỉ bởi tình cảm sâu sắc mà còn chính vì nó quá đỗi chân tình.
Trong Đoản ca hành, Vương thể hiện quan niệm, cái tôi của mình trước cuộc
đời. Quá khứ thì đã đi qua, có làm gì cũng không bao giờ thay đổi được, còn tương
lai thì chưa đến, vô định trước mắt, nên Vương sẽ sống trọn vẹn những phút giây
đang có:
Ngã tắc cao ca
Tử hòa dĩ phẩu
Kim giả bất lạc
Lai nhật đại nan
Ca dĩ vịnh chi
Khó để khẳng định Vương lạc quan, nhưng có lẽ đây là một cách sống thích
ứng thiết thực, không ghét đời mà cũng không ham đời. Vương sống trong hiện tại
với kinh nghiệm quá khứ và xây dựng tương lai.
Đôi khi, Vương còn muốn giãi bày một nỗi sầu muộn thường trực trong lòng
bởi không biết bao nhiêu là căn nguyên:
Thiên thu chi hạ
Thùy tri ngã ưu?
(Trường ca hành)
Khi muốn bày tỏ một cách mạnh mẽ, khắc họa cái tôi cô đơn, trôi nổi nơi đất
khách, nhà thơ dùng từ thân, nhất thân, độc, lữ thứ
- Độc du Tiên Phước tự (Dã hứng thứ tạ mậu thái vận)
- Độc tự trung lưu kích tiếp ca (Giang đầu tuyệt cú)
Khi muốn bày tỏ tình cảm một cách mạnh mẽ hơn, Vương dùng từ độc, cô. Đó
là những trường hợp nội tâm nhà thơ đang có sự giằng xé hoặc những nung nấu khó
giãi bày, để trong lòng thì khó chịu.
Vương còn dùng hình ảnh có liên hệ mật thiết với quê hương để chỉ cá nhân
mình.
Lớp từ tự xưng cho thấy Tùng Thiện Vương cũng là một con người rất cá tính,
ý thức cá nhân cao độ. Ở mỗi trường hợp, Vương dùng từ tự xưng cho thích hợp. Lớp
từ tự xưng còn thể hiện rõ con người cá nhân qua những lời đối thoại mang tính tự sự,
những lời độc thoại nội tâm. Vương đã đối thoại với chính mình trong nỗi cô đơn, lo
toan, ngẫm nghĩ. Vương cũng đã đối thoại với con người trong niềm cảm thông chia
sẻ Như vậy, chúng ta thấy Vương rất có ý thức trong việc khẳng định mình và bộc
lộ một cái tôi trữ tình trọn vẹn với đầy đủ những cung bậc cảm xúc. Điều này làm cho
thơ ông gần gũi hơn, chân thành hơn, do vậy mà lôi cuốn người đọc hơn.
3.3 Giọng điệu
Giọng điệu là một phương tiện cơ bản cấu thành hình thức nghệ thuật của tác
phẩm văn học, là thước đo để xác định tài năng và phong cách độc đáo của nghệ sĩ.
Bởi văn chương trước hết là nghệ thuật ngôn từ, là cách nói bằng ngôn từ mà gắn liền
với cách nói là thái độ, giọng điệu của nhà văn ẩn sau các kí hiệu, các mã nghệ thuật.
Có thể nói, trong các tác phẩm nghệ thuật ưu tú, giọng điệu bao giờ cũng mang tính
chất lượng, là sản phẩm sáng tạo đích thực của nghệ sĩ. Sáng tác của Tùng Thiện
Vương có hai giọng điệu chính:
3.3.1 Giọng điệu trữ tình
Đây là giọng điệu chủ yếu trong những bài thơ thuộc mảng đề tài thiên nhiên,
tình cảm với người thân, bạn bè hay nỗi niềm riêng của Tùng Thiện Vương. Ông gửi
gắm tâm trạng mình trước thiên nhiên; ông bộc bạch niềm yêu thương của mình với
người thân, bạn bè và ông giãi bày những sầu muộn u hoài trên mỗi trang viết. Tất cả
đều rất xúc động, chân thành và khắc họa rõ nét tâm hồn ông.
Thiên nhiên trong thơ Miên Thẩm trở nên sinh động, hài hòa biết bao. Với một
người vốn sẵn cái hồn đa cảm lại thêm cái lòng yêu mến thì thiên nhiên không chỉ là
những cảnh đẹp, thiên nhiên còn chính là những người bạn tri âm. Vì vậy mà viết về
thiên nhiên, bao giờ Miên Thẩm cũng dành cho một tấm chân tình sâu sắc. Điều đó
thể hiện trong chính giọng điệu lúc như reo vui, lúc như tha thiết
Tuổi trẻ trong sáng hồn nhiên, Miên thẩm nghe thấu mọi tiếng vọng từ thiên
nhiên cây cỏ. Tất cả đều trong lành đến lạ. Tất cả như pha lê và thơ cũng “trong”,
“bóng” khác thường.
Sô tranh u vận thống la tùng
Lạp lý duyên hồi thính bất cùng
Nhất lộ thanh sơn vô vũ khí
Hành nhân khước tại thủy thanh trung
(Nam khê tuyệt cú)
(Vần thơ thánh thót vờn quanh khóm cỏ/ Tiếng giày đi vòng nghe không dứt/
Một con đường núi xanh không có hơi mưa/ Người đi trong tiếng suối reo)
Bài thơ như tiếng reo vui hân hoan gợi ta liên tưởng đến một cuộc chơi núi của
những người trẻ. Âm thanh không ồn ã, chỉ đủ gợi một không khí hân hoan và những
tiếng lòng đang vui.
Những lúc cô đơn, Miên Thẩm cũng trải lòng vào cảnh vật, những bài thơ lúc
này nghe buồn đến não nề. Thiên nhiên lúc này cũng mang cái dáng dấp của một tâm
hồn nhạy cảm, u hoài. Ta bắt gặp điều này trong bài Giang thượng vọng Thương Sơn
của ông:
Giang thượng quần phong đạm dục vô
Thiều thiều thiên nhận vọng trung cô
Nhược vi khất đắc Duy Ma bút
Trích thủ Thương Sơn tác họa đồ
(Muôn núi trên sông mờ nhạt như không còn có/ Xa xa nghìn nhận trông nó cô
đơn trong dãy/ Nếu mượn được bút của Vương Duy/ Giành lấy Thương Sơn mà vẽ
một bức tranh)
Đối với Tùng Thiện Vương, “cơ dân” và “lưu dân” là những người dân bất
hạnh nhất trong thời Nguyễn. Viết về họ, giọng thơ ông hoàng Mười có gì đó như
nghẹn lại, xót xa, chực dâng trào mãnh liệt. Thật khó tìm thấy sự cảm thông, thương
quý đến thế từ một ông hoàng, vậy mà ta lại bắt gặp hầu hết trong các bài thơ của
Vương về đề tài người dân lao động. Giọng điệu ở đây không phải của một người bề
trên nhìn xuống những “dân đen con đỏ” rồi xuýt xoa tội nghiệp cho họ, mà rõ ràng
là giọng cảm thông, sẻ chia. Trong dòng người dân đau khổ lũ lượt ngắc ngoải chờ
chết, ông như thấy rõ từng người, từng hoàn cảnh làm ăn và từng phút giây thoi thóp
trước lúc họ chết. Ông thấy rõ lắm, miêu tả chân thực lắm, giọng điệu của ông cũng
không phải là giọng tội nghiệp của người đứng trên, hay đứng ngoài mà rõ ràng là
giọng của người trong cuộc, cảm thông đến thế là cùng. Ông như cũng đang đi theo
họ trên những con đường xa lắc để tìm một miếng ăn, một việc làm qua ngày. Cuộc
sống thực tế của người dân – như ông đã quá quen thuộc – được ông nói ra thật thiết
tha, xúc động. Người nông dân có một nỗi lo thường xuyên và hãi hùng vì thời tiết.
Lụt, bão, hạn là những tai ương, khó nhọc, nguy khốn mà người nông dân thường gặp
phải. Viết về nỗi khổ vì thời tiết, Tùng Thiện Vương có một tấm lòng không khác
người nông dân. Bài Lạo (lụt) được viết với cảm xúc chân thật, giọng điệu cảm thông
và cũng rất nông dân của Vương:
Nguyệt hắc phố yên bạch
Thuyền cao sa thụ đê
Cơ dân quần tị địa
Hoang thú loạn chinh bề
Vãn hoạch kiêm tao thử
Năng vô tẩm đạo khuê
(Trăng mờ khói tỏa trên đê trắng/ Cây thấp thuyền dâng bãi cát cao/ Từng đoàn
dân đói đi phiêu dạt/ Lính gác đồn xa đánh trống lâu/ Vụ gặt đến nơi liền gặp lụt/
Nước ngâm lúa thối hết còn đâu?)
Tùng Thiện Vương có tấm lòng của người nông dân, hiểu thấu những nỗi cơ
cực của họ. Ông thấy hoàn cảnh ấm êm của mình có gì bất nhẫn. Ông rơi vào tâm
trạng đau xót. Có vần thơ nào tha thiết hơn thế này:
Cử mục thương sinh khổ
Hung trung vô sở thi
(Vịnh hoài)
(Mở mắt thấy dân khổ/ Lòng chưa biết làm gì.)
Khi viết về người thân, bạn bè, giọng thơ Vương cũng dâng lên những cảm xúc
tha thiết nhất. Bệnh trung tư mẫu là bài thơ dung dị về tình mẫu tử. Tính chất nhân từ,
điềm đạm toát lên từ câu chữ, giọng điệu bài thơ gợi nhớ đến một người mẹ “từ ái bất
xả” của nhà thơ. Lời lẽ dịu dàng đắm thắm như chính tình cảm dành cho mẹ. Tình mẹ
vượt cả không gian, vượt cả cõi cách ngăn sống chết. Trong cảm xúc thương nhớ mẹ,
ông đã thấy được nhan sắc và tâm hồn, vẻ mặt và tình thương của mẹ.
Làm nên giọng điệu này phải kể đến sự góp mặt đáng kể của kiểu câu cảm thán.
Đây là loại câu tối ưu trong việc bày tỏ cảm xúc, đúng như cái tên gọi của nó. Vương
rất có ý thức khi sử dụng kiểu câu này để bày tỏ nỗi lòng mình. Điều đó làm cho cảm
xúc trong thơ của ông trữ tình, tha thiết hơn. Câu cảm thán trong thơ Vương có khi
thể hiện lời reo vui hân hoan trước thiên nhiên hữu tình, khi được hội ngộ anh em bạn
bè; có khi bày tỏ niềm thương nhớ những kỉ niệm đã qua bên những người Vương
yêu quý; cũng có khi là nỗi sầu muộn vô biên không biết than thở cùng ai; và nhiều
khi lời than xót trước cuộc sống tội nghiệp của người dân. Sự xuất hiện của kiểu câu
này làm cho cảm xúc trong thơ dâng trào, đặc biệt khi kết hợp với những thán từ.
Như vậy, với sự xuất hiện của nhiều câu cảm thán trong các sáng tác, thơ Tùng Thiện
Vương bộc lộ rõ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm tinh tế trước thiên nhiên vạn vật, và đa
sầu đa cảm trước cuộc đời.
3.3.2 Giọng điệu phê phán
Đối với mảng đề tài hiện thực, giọng thơ Vương bỗng hóa gay gắt quyết liệt.
Tùng Thiện Vương không ngần ngại chỉ tay vạch ra nguyên nhân đẩy nhân dân vào
cuộc sống cơ cực lầm than. Ông lên án lũ quan lại sâu bọ đục nước hại dân. Ông cũng
bày tỏ niềm căm phẫn xót xa trước cảnh gót giày xâm lược Pháp giày xéo quê hương.
Tùng Thiện Vương đã chọn cuộc sống hiện thực của người dân làm đề tài cho
thơ thì ông đứng vững trên trận tuyến đấu tranh phanh phui tất cả mọi khổ đau, hoạn
nạn, chết chóc, bất hạnh mà người dân phải chịu trong một đất nước đang có vua,
đang có chủ quyền! Thực sự là vua quan đã bỏ rơi dân. Còn đâu thời vua sáng tôi
hiền! Là người trong hoàng tộc Nguyễn, đề tài này vừa là nỗi đau xót, thẹn thùng của
Vương vừa là lời tố cáo rất mực thẳng thắn, đầy khí phách của ông. Ông nói đến
những người nông dân, rồi người kéo gỗ, người mò hến, người kéo xe đất, người bán
tre, Họ đều cực khổ, bần hàn, và cái chết chực chờ. Tùng Thiện Vương đã miêu tả
cái xã hội mà người dân khốn cùng như thế. Xã hội ấy thật rối ren, lộn xộn, hoang tàn
và đâu đâu cũng là những bất trắc hiểm nguy. Không phải chỉ là cái hiểm nguy của
thiên tai địch họa, mà còn là hiểm nguy ngay chính ở những kẻ được coi là “phụ
mẫu” của dân
Tùng Thiện Vương phê phán gay gắt tệ quan lại ở địa phương tham lam vơ vét
của dân. Khoản tiền trầu cau vào cửa quan là một sự bóc lột tinh vi và hiểm độc.
Những người dân hữu sự hoặc bị sách nhiễu vào cửa quan là phải khốn đốn vì “tiền
trầu”. Có khi họ phải tan nát gia đình, ly tán vợ con như đôi vợ chồng trong bài thơ
Phù lưu tiền hành (Bài hành tiền trầu cau). Rồi Tùng Thiện Vương liên hệ tình hình
miền Nam đang mất dần vào tay xâm lược Pháp. Ông cảnh cáo: Chính chi xúc bách
lự hà cập? (Làm chính trị áp bức lo sao cho kịp?). Ông mong muốn nhà vua suy nghĩ
và sửa đổi chính sách.
Ông coi thiên tai và áp bức phong kiến là một. Ông lên án sự tham tàn của tầng
lớp thống trị. Trong bài Trác mộc điểu (Chim gõ kiến), giọng thơ ông luận tội đanh
thép như những đòn giáng mạnh thẳng thừng:
Đố mộc tín hữu tội
Hà như bỉ bang đô
(Mọt cây đúng là có tội/ Sao bằng mọt nước kia!)
Ông coi bọn đại thần gian tham hại nước hại dân là kẻ ăn người. Trong bài Sát
hổ hành (Bài hành giết cọp), sau khi nêu lên thái độ thích thú của người thay mặt dân
trị cọp dữ, ông kết luận:
An đắc tự nhĩ hảo thân thủ
Thượng vị quốc gia tru thử thần.
(Nào ai tài giỏi như chàng An/ Vì nước vì nhà giết đứa gian).
Rồi ông liên hệ tình hình miền Nam đang mất dần vào tay xâm lược Pháp, rồi
cảnh cáo: Chính chi xúc bách lự hà cập (Làm chính trị áp bức lo sao cho kịp?). Ông
phơi bày hiện thực đen tối của đất nước, tình cảnh thống khổ của người dân, và ông
quyết liệt gay gắt buộc tội những kẻ đã đẩy “dân đen con đỏ” vào cảnh này:
Bất nhiên thử hàn vưu khả nghi
Nhân súc lục cốc câu vị tri
Dưỡng tặc nhục mệnh thùy sở vi?
(Không thế, rét này đáng ngại thay!/ Vật, người, lúa, má biết sao đây?/ Nuôi
giặc, nhục nước, tội về ai?)
Tuy xuất thân hoàng tộc song Tùng Thiện Vương vẫn hòa được vào tiếng nói
chống phong kiến phi nhân, hướng về cuộc sống của nhân dân lao động bị áp bức, bất
hạnh và trở về với cuộc sống bình dị, nguyên sơ.
Giọng điệu này phần lớn còn được thể hiện qua kiểu câu hỏi. Những câu hỏi
không cần câu trả lời vì ai cũng biết thủ phạm khiến cuộc sống lầm than của người
dân thêm khốn cùng là bọn cường hào ác bá, tham quan sách nhiễu; cũng không hỏi
để hy vọng vào một lối thoát nào cho người dân vì họ chẳng có con đường nào mà
đến được ấm no, bình an nói chi đến hạnh phúc. Những câu hỏi của Vương giàu sức
nhấn, sức xoáy, gợi lên trong lòng người đọc mối động tâm tha thiết, nỗi bất bình:
“Dưỡng tặc nhục mệnh thùy sở vi?” hay “Hà như bỉ bang đô” và “Tốt phùng điêu tử
đương nại hà” Đó chính là những câu trách móc, lên án, luận tội dõng dạc, đanh
thép hơn bao giờ hết xuất phát từ niềm thương cảm sâu xa của Vương trước cuộc đời
khốn khó của người dân nghèo và lòng căm phẫn tột cùng trước những thế lực xấu xa
đang đẩy họ đến bước đường cùng.
Để thấy được sự chuyển đổi, vận động, đóng góp của nghệ thuật thơ chữ Hán
của Tùng Thiện Vương, chúng tôi so sánh với thơ chữ Hán trung đại tính từ Nguyễn
Trãi đến Tùng Thiện Vương.
Với Nguyễn Trãi, Ức Trai thi tập thể hiện sự nhuần nhuyễn của tác giả trước
các thể quen thuộc theo luật Đường. Từ thời Lý – Trần đến thời Nguyễn Trãi thì Ức
Trai thi tập là tập thơ tiêu biểu nhất của một thi sĩ Việt Nam khi sử dụng thể tài ngoại
nhập. 97/99 bài của tập thơ được làm theo thể ngũ ngôn, thất ngôn, tứ cú và bát cú.
Chỉ có 2/99 bài là theo thể trường thiên.
Đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân Am thi tập của ông hầu như chỉ có các thể
Đường luật. Bùi Duy Tân khẳng định: “đã thấy xuất hiện một số bài trường thiên cổ
thể, dùng cả phương thức tự sự xen vào phương thức trữ tình triết lý”. Tỉ lệ thơ
trường thiên của Bạch Vân Am thi tập là 10/81 bài.
Với Nguyễn Du, ngay trong tập thơ đầu Thanh Hiên thi tập, ngũ ngôn trường
thiên chiếm tỉ lệ 4/78 bài, Nam trung tạp ngâm là 2/40 bài. Chưa thấy hành, ca, từ
xuất hiện. Ở Bắc hành tạp lục, ngay từ đầu, Nguyễn Du đã thể hiện sự chuyển thể. Số
bài vượt khỏi khuôn khổ thơ Đường là 21/131 bài.
Cao Bá Quát qua các tập thơ của mình (Mẫn Hiên thi tập, Cúc Đường thi tập,
Chu Thần thi tập, Cúc Đường thi thảo) đã chuyển đổi khá mạnh về thể loại. Thành
công nhất của ông chính là làm cho các thể ca và hành vừa gần như nhạc phủ vừa gần
với thơ tự sự.
Đến Tùng Thiện Vương, sau năm thế kỉ, những gì mà các nhà thơ đi trước đã
làm được thì Vương đều kế thừa và phát triển thêm. Ông đã thành công trong việc sử
dụng rộng rãi các thể trường thiên, ca, ngâm, từ, hành, khúc, dao, lục ngôn... Đọc
hành, dao, ca, từ của ông, người ta nhận thấy có sự đan xen hòa quyện giữa bút pháp
tự sự và trữ tình nhuần nhã, tinh tế.
Bên cạnh đó, Tùng Thiện Vương còn là một bậc thầy trong việc trong việc sử
dụng ngôn ngữ, sáng tạo hình tượng. Từ ngữ trong thơ Vương giàu tính biểu cảm,
tính hàm súc đa nghĩa, tính khái quát ước lệ và tính cụ thể trực quan. Chính điều đó
đã khiến cho thơ Vương không đơn điệu, sáo mòn, xa rời mà gần gũi, sâu sắc và chân
thành. Để viết cho cùng cuộc đời cơ cực, lầm than của người dân nghèo khổ, Vương
phải dung tới những từ cá biệt cụ thể nhất. Do vậy mà ngôn ngữ trong thơ Vương đa
dạng, phong phú vô cùng.
Hai giọng điệu cơ bản trong thơ Vương là giọng trữ tình tha thiết và giọng phê
phán gay gắt. Đây cũng không phải là những điều mới mẻ trong văn học trung đại
dân tộc bấy giờ. Nhưng thành công và đóng góp của Vương chính là ở chỗ, trên
phương diện nào, Vương cũng đã vận dụng hài hòa thể tài, ngôn ngữ, để làm nổi bật
giọng điệu của tác phẩm.
Cho dù thơ chữ Hán không thể có giá trị phổ biến rộng rãi trong xã hội vì
khoảng cách quá lớn giữa nền văn hóa hàn lâm và bộ phận văn hóa đại chúng thì thơ
chữ Hán của Tùng Thiện Vương vẫn xứng đáng có một vị trí vẻ vang trong lịch sử
văn học trung đại Việt Nam. Với những đặc điểm riêng biệt về thể tài, ngôn ngữ,
giọng điệu... Vương đã chứng tỏ thơ chữ Hán dân tộc vẫn đáp ứng được những yêu
cầu của thời đại bấy giờ.
PHẦN KẾT LUẬN
Những nét riêng về cá tính, về tư tưởng, về tình cảm, về phẩm chất, về phong
cách sống được phản ánh rõ nét trong thơ Vương. Có thể nói suốt cuộc đời, từ lúc còn
là cậu bé chín, mười tuổi cho đến lúc là ông già năm mươi và mãi cho đến lúc sắp
xuôi tay nhắm mắt trên giường bệnh, Tùng Thiện Vương làm thơ không biết mệt mỏi.
Thơ như là niềm an ủi, như là chỗ dựa của Vương trước cuộc sống. Thơ Vương bày
tỏ thái độ sống của một ẩn sĩ, xa lánh phồn hoa đô hội, xa lánh danh lợi, muốn sống
cuộc đời bình dị, nhàn tản, tiêu sái thanh cao đồng thời cũng thể hiện một tấm lòng
ưu thời mẫn thế, ái quốc trung quân. Thơ Vương diễn tả những khắc khoải suy tư về
kiếp người hữu hạn, về nhân tình thế thái. Thơ Vương thấm đẫm những cảm xúc chân
thành, thắm thiết về tình cảm mẹ con, anh em, bạn bè; những rung động tinh tế trước
vẻ đẹp của giang sơn Việt Nam cẩm tú, của quê hương xứ Huế thơ mộng dấu yêu của
mình. Thơ Vương cũng thấm đẫm những xót xa thương cảm trước cuộc sống khổ đau
của người dân lành; những bất bình, căm tức trước tệ tham nhũng của một phận
không ít quan lại của triều đình.
Chọn khuynh hướng hiện thực là chủ yếu trong sáng tác của mình, Vương đã
đứng trên cùng một trận tuyến với các nhà thơ nhà văn lớn của dân tộc để phanh phui
mọi khổ đau, áp bức, bất công mà người dân phải chịu. Đến Tùng Thiện Vương,
người đọc mới được tiếp xúc với cuộc sống người dân lao động rộng rãi, chân thực và
đa dạng đến thế. Dù có một hoàn cảnh xuất thân đầy ràng buộc nhưng Vương vẫn
hòa vào được tiếng nói chống phong kiến phi nhân, hướng về cuộc sống của nhân dân
lao động bị áp bức bất hạnh. Phải khẳng định rằng Tùng Thiện Vương thật sự là một
nghệ sĩ chân chính, có những nét tiến bộ vượt bậc khi đi theo tiếng gọi lương tri của
con người và tư tưởng mới của thời đại. Ông đã thể hiện qua thơ mình khuynh hướng
hiện thực rõ nét và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Con người cá nhân đã manh nha trong văn học trung đại từ sớm. Vương đã
chảy cùng mạch nguồn ấy để thể hiện trong thơ mình một con người cá tính với ý
thức cá nhân cao độ. Vương ý thức trong việc khẳng định mình và bộc lộ một cái tôi
trữ tình trọn vẹn với đầy đủ những cung bậc cảm xúc. Con người cá nhân của Vương
hiện lên với trăn trở trước vận mệnh đất nước, đau đáu trước nỗi thống khổ của người
dân và u uất trước những ưu hoạn trong đời mình.
Đến Tùng Thiện Vương, sau năm thế kỉ, những thành tựu nghệ thuật mà các
nhà thơ đi trước đã làm được thì Vương đều kế thừa và phát triển thêm. Ông đã thành
công trong việc sử dụng rộng rãi các thể trường thiên, ca, ngâm, từ, hành, khúc, dao,
lục ngôn... Đọc hành, dao, ca, từ của ông, người ta nhận thấy có sự đan xen hòa
quyện giữa bút pháp tự sự và trữ tình nhuần nhã, tinh tế. Bên cạnh đó, Tùng Thiện
Vương còn là một bậc thầy trong việc trong việc sử dụng ngôn ngữ, sáng tạo hình
tượng. Chính điều đó đã khiến cho thơ Vương không đơn điệu, sáo mòn, xa rời mà
gần gũi, sâu sắc và chân thành.
Nhìn chung lại, ngoài những hạn chế về nội dung mang tính thời đại, hoàn
cảnh cá nhân, và dù thơ chữ Hán không thể có giá trị phổ biến rộng rãi trong xã hội
thì thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương vẫn xứng đáng có một vị trí vẻ vang trong
lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Các sáng tác của Vương đã để lại trong lòng
người đọc những ấn tượng đẹp về một nhà thơ hoàng tộc tài ba, tiến bộ, giàu lòng
nhân ái, rất đáng được mến mộ.
Dù sinh ra và lớn lên trong sự ưu đãi của chế độ phong kiến, trong phú quý cao
sang nhưng Tùng Thiện Vương không tự cao tự đại về thân thế quý tộc của mình.
Tâm hồn ông đã vượt lên cách nghĩ, cách sống thường tình, vượt lên các giáo điều để
hòa vào cuộc sống bình dị, để thấu hiểu những cảnh đời không may, để góp một tiếng
nói khát khao quyền sống, hạnh phúc trong dòng chảy thời đại.
Tùng Thiện Vương quả là một nhà thơ hoàng tộc tài năng, tiến bộ giữa thế
kỉ XIX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Phúc Ưng Trình và Nguyễn Phúc Bửu Dưỡng, Tùng Thiện Vương –
Tiểu sử và thi văn, Nhà in Sao Mai, Châu Bình, Thủ Đức, 1970.
2. Ngô Văn Phú tuyển chọn, sưu tầm,Thơ Tùng Thiện Vương, Nxb Văn học, 1991.
3. Lương An (tuyển chọn và giới thiệu), Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Nxb
Thuận Hóa, Huế, 1994.
4. Nguyễn Phước Bảo Quyến, Tùng Thiện Vương – Đời và Thơ, Nxb Thuận Hóa,
2008.
5. Lương An, Miên Thẩm – một nhà thơ hoàng tộc tiến bộ giữa thế kỷ XIX, Tạp
chí văn học số 3 – 1981.
6. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn phương, Sài Gòn, 1951.
7. Thuần Phong, Phạm Tú Châu, Nguyễn Đổng Chi, Ngô Gia Văn Phái, Nguyễn
Gia Thiều, Lý Văn Phức, Nguyễn Miên Thẩm, Ngô Thì Nhậm : Tuyển chọn và
trích dẫn những bài phê bình - bình luận văn học của các nhà văn và các nhà
nghiên cứu Việt Nam, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 1999.
8. Trần Như Thổ sưu tầm, thẩm cứu, dịch giải, Bức mật thư Đất - Nước - Gió -
Mưa trong Thương Sơn thi tập, Nxb Văn hoá Thông tin, 2005.
9. Ngô Văn Chương, Phân tích những khuynh hướng tình cảm, đạo lý, xã hội
trong thi ca Tùng Thiện Vương, Phủ Quốc vụ Khanh đặc trách văn hoá, 1973.
10. Ngô Thời Đôn, Giá trị nhân văn trong Thương Sơn thi tập của Miên Thẩm,
Luận án tiến sĩ ngữ văn, Chuyên ngành Văn học Việt Nam, Mã số: 5.04.33, Hà
Nội, 2000.
11. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục, Trung tâm học
liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968.
12. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Tân Việt xuất bản, Sài Gòn, 1964.
13. Lương An, Qua tập thơ Thương Sơn, thử tìm hiểu về tư tưởng yêu nước của
Miên Thẩm, Sông Hương 13/1985.
14. Lương An, Hai bài xướng họa – thêm một tư liệu mới về tình bạn giữa Miên
Thẩm và Cao Bá Quát, Sông Hương 23/1987.
15. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Bốn Phương, Sài Gòn, 1951.
16. Nguyễn Huệ Chi, Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời cổ cận đại, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1983.
17. Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên), Nguyễn Bỉnh Khiêm – danh nhân văn hóa, Bộ
văn hóa thông tin, Nxb Hà Nội, 1991.
18. Nguyễn Khuê, Tâm trạng Tương An Quận Vương qua thi ca của ông, Tủ sách
văn học, Nxb Sài Gòn, 1970.
19. Nguyễn Hữu Sơn, Vấn đề con người cá nhân trong văn học cổ - nhìn từ góc độ
lí thuyết, Nxb Văn học, 1993.
20. Bùi Duy Tân, Vấn đề thể loại trong văn học Việt Nam thời cổ, Nxb Văn học,
1976.
21. Bùi Duy Tân, Mối quan hệ về thể loại giữa văn học Trung Quốc và văn học
Việt Nam thời trung đại: tiếp nhận – cách tân – sáng tạo, Nxb Văn học, 1992.
22. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân giới thiệu, dịch và tuyển chọn, Thơ văn Nguyễn
Bỉnh Khiêm, tập 1 Nxb Văn học, Hà Nội, 1983.
23. Bùi Văn Nguyên chọn dịch, chú thích, giới thiệu, Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm,
tập 2, thơ chữ Hán, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1992.
24. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1996.
25. Lê Trí Viễn, Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb ĐHTHCN, Hà Nội,
1987.
26. Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nội, 2005.
27. Nguyễn Thị Bích Hải, Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa, 1995.
28. Viện sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb KHXH, Hà Nội, 1976.
29. Trương Chính, Lê Thước, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội,
1978.
30. Nguyễn Huệ Chi, Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời cổ cận đại, Nxb Tác phẩm
mới, Hà Nội, 1983.
31. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà, Lí luận văn học, tập 1, Nxb Giáo
dục, Hà Nội, 1986.
32. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, tập
1, Nxb ĐHTHCN, Hà Nội, 1976.
33. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, tập
1, Nxb ĐHTHCN, Hà Nội, 1978.
34. Bùi Văn Nguyên, Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca trong
văn học Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1968.
35. Vũ Khiêu và các tác giả tuyển dịch, Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, Nxb Văn học,
Hà Nội, 1976.
36. Nguyễn Tài Thư, Cao Bá Quát- con người và tư tưởng, Nxb KHXH, Hà Nội,
1980.
37. Trần Như Uyên, Mấy vần thơ mang tinh thần xã hội của Tùng Thiện Vương
Miên Thẩm, Đặc san Văn khoa Huế, 1973.
38. Lê Thu Yến, Cao Bá Quát - một tiếng thơ về lòng chung thủy, Kỷ yếu Khoa
Ngữ Văn Trường ĐHSP Tp. HCM, 1993.
39. Lê Thu Yến, Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Thanh Niên
Tp. HCM, 1999.
40. Lê Thu Yến (chủ biên), Văn học Việt Nam, Văn học Trung đại - Những công
trình nghiên cứu, Nxb Giáo Dục, Tp. HCM, 2000.
Các trang thông tin điện tử:
1.
2.
3.
4.
5.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_dong_gop_cua_tho_ca_tung_thien_vuong_trong_van_hoc_trung_dai_viet_nam_1601.pdf