Đa số các doanh nghiệp trong nước hiện nay đều có quy mô nhỏ, khó đủ sức làm chủ thị
trường trong nước cũng như không đủ sức vươn ra thị trường nước ngoài. Vì vậy, các doanh
nghiệp nhỏ lẻ, rời rạc hiện nay nên tập hợp thành các Hiệp hội ngành, hàng thì mới tạo
thành sức mạnh để tham gia các hoạt động trên thị trường với quy mô lớn hơn như: thu nhập
thông tin, khảo sát thị trường ngoài nước, phối hợp các khả năng sản xuất để có thể cung cấp
hàng hoá có số lượng lớn, hợp sức cải tiến các vấn đề về chất lượng.
54 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2624 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n Việt Nam mới cấp đợc 358 bộ giấy chứng nhận xuất xứ Form D cho
các hàng hoá thuộc diện xuất khẩu sang các nớc ASEAN . Những hàng hoá này chủ yếu là
hàng nông nghiệp , mà nếu sử dụng Form D thì giá trị lớn hơn nhiều ,do đó làm hạn chế khả
năng xuất khẩu của các doanh nghiệp . Hơn nữa sự hớng dẫn của ngành hải quan cho các
doanh nghiệp là rất hạn chế,làm cho các doanh nghiệp không biết nên sử dụng loại giấy
chứng nhận nào cho hàng hoá của mình .vấn đề này liên quan đén đội ngũ cán bộ của ngành.
Chơng iii:
những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt
Nam trong khuôn khổ AFTA
I. Sự cần thiết phải đẩy nhanh tiến trình thực hiện các cam kết:
Tính không đồng nhất trong việc hoàn thành AFTA này sẽ đa đến một tình hình là điều
kiện đợc hởng u đãi AFTA giữa các nớc sẽ có sự khác nhau về trật tự mức độ, thời gian.
Điều này có thể gây khó khăn cho việc phối hợp thực hiện và đồng thời có thể gây nguy cơ
dẫn tới sự phân rã sức mạnh của Hiệp hội. Hiện nay, Hội nghị các Bộ trởng Kinh tế ASEAN
lần thứ 28 đang đề nghị các quan chức cấp cao vạch ra mô hình hợp tác kinh tế thích hợp sau
năm 2003, tức là khi lịch trình AFTA đã hoàn thành. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lợc đối
với hợp tác kinh tế ASEAN nhằm tăng cờng sức mạnh của nó cũng nh hạn chế những bất
đồng có thể xảy ra trong sự tiến triển còn thiếu tính đồng nhất về nhiều mặt của cấu thành thể
chế AFTA.
1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam
Khi Chính phủ ta dự định gia nhập ASEAN và tham gia AFTA cũng đã thấy rằng, trong lộ
trình đó, chúng ta sẽ giảm đần thế nhập khẩu hàng hoá đối với các nớc trong hiệp hội, chẳng
những ảnh hởng đến nguồn thu ngân sách, mà còn tác động đến doanh nghiệp của các thành
phận kinh tế - muốn tồn tại và phát triển phải không ngừng phấn đấu vơn lên trong sự cạnh
tranh không phải chỉ với trong nớc mà cả với 10 nớc ASEAN. Song là một thành viên mới
hội nhập, đồng cảm với khó khăn của ta trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, nên cấp cao
ASEAN nhất trí cho rằng trong lộ trình này, Việt Nam cần có thời gian để có thể thực hiện
chơng trình giảm thuế, đồng thời ASEAN cũng thống nhất cùng trợ giúp cho Việt Nam để có
thể sớm thực hiện chơng trình này với thời điểm thích hợp.
Mặc dù đã đạt đợc những thành tựu kinh tế bớc đầu đáng khích lệ, nhng thực tế trình độ
phát triển kinh tế của Việt Nam còn ở mức thấp so với nhiều nớc thành viên. Sản xuất trong
nớc còn nhiều khó khăn, quá trình chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm chạp, với một nền sản
xuất hàng hoá nhỏ và phân tán, sức cạnh tranh của hàng hoá còn rất kém. Tham gia AFTA sẽ
tạo điều kiện để hàng hoá và dịch vụ Việt Nam có thêm cơ hội để xâm nhập thị trờng quốc
tế, tuy nhiên sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của chúng ta mới chỉ dừng lại ở dạng
tiềm năng, trong khi đó hàng hoá và dịch vụ nớc ngoài với sức cạnh tranh cao sẽ có điều kiện
xâm nhập thị trờng Việt Nam. Để có thể tham gia AFTA cũng nh tồn tại và phát triển trong
một môi trờng cạnh tranh nh vậy, chúng ta buộc phải tìm ra những biện pháp hữu hiệu làm
tăng sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam và giúp cho các doanh nghiệp Việt
Nam trở nên năng động hơn và hoạt động có hiệu qủa hơn.
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu bằng chất lợng (kể cả bao gói) giá cả, thời
hạn và sự thuận lợi trong việc mua bán và giao hàng, và cả các biện pháp marketing. Theo
thời báo kinh tế Việt Nam số 57 năm 1999, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào ASEAN khá nhanh, đạt bình quân 27%/năm, và doanh số buôn bán với ASEAN chiếm
1/3 tổng kim ngạch của ngoại thơng Việt Nam. Trong khi một số quốc gia thành viên đang
gấp rút hoàn thành AFTA sớm, Việt Nam theo đó cũng phải đẩy nhanh tiến trình thực hiện
AFTA của mình để tận dụng đợc những thuận lợi và rút ngắn khoảng cách về kinh tế.
2. Lộ trình mới của việc thực hiện cam kết
2.1. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001 - 2006
để thực hiện AFTA
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn đề
thúc đẩy nhanh tự do hoá thơng mại trong khu vực là một trong những chủ
đề đã đợc thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia
ASEAN. Các nớc thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình
cắt giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại hội nghị
Hội đồng AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9 năm 1999 tại
Singapore, thực hiện nghĩa vụ của một nớc thành viên, Việt Nam
cam kết sẽ công bố Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể đến năm
2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam kết này, Lịch
trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn 2001 -
2006 của Việt Nam đã đợc thủ tớng Chính phủ phê chuẩn về mặt
nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11 tháng 12 năm
2000 của Văn phòng Chính phủ. Đông thời căn cứ vào lộ trình này
Thủ tớng Chính phủ đang xem xét để phê chuẩn Nghị định ban hành
Danh mục cắt giảm thuế quan thực hiện AFTA năm 2001.
Lộ trình cắt giảm từ nay đến 2006 đợc xây dựng trên cơ sở tuân
thủ các quy định của Hiệp định về chơng trình thế quan có hiệu lực
chung cho khu mậu dịch tự do ASEAN. Cụ thể là: trớc mắt, lịch
trình giảm thuế của 2 nhóm sản phẩm chính gồm những mặt hàng đã
đa vào thực hiện chơng trình CEPT từ năm 2000 trở về trớc và
những mặt hàng chuyển từ Danh mục loại trừ tạm thời vào thực hiện
chơng trình CEPT của các năm 2000-2003. Năm 2003 sẽ là năm
hoàn thành việc chuyển toàn bộ các mặt hàng thuộc Danh mục loại
trừ tạm thời vào danh mục cắt giảm để thực hiện chơng trình CEPT.
Đến năm 2006, thuế suất thực hiện CEPT của tất cả các mặt hàng có
trong danh mục cắt giảm sẽ đợc giảm xuống mức 0 - 5%.
Các mặt hàng tạm thời cha tham gia sẽ đợc giảm thuế từng bớc để
đến năm 2006 sẽ có thuế suất dới 5%. Danh mục tổng số mặt hàng
dự kiến tham gia CEPT sẽ bao gồm 2265 mặt hàng, chiếm 70,5 %
tổng số mặt hàng của biểu thuế nhập khẩu. Nh vậy, sẽ còn khoảng
20% số mặt hàng có thuế suất trên 5% cần tiếp tục giảm thuế từ nay
đến năm 2006.
2.2. Các nhóm mặt hàng chính chuyển từ TEL vào IL để thực hiện
CEPT/AFTA trong 3 năm 2001 - 2003
Những mặt hàng quan trọng, đợc bảo hộ cao, chiếm gần 50% kim ngạch
thơng mại của Việt Nam nh rợu, bia, xăng dầu, ô tô xe máy, phân bón, hoá
chất… đang thuộc Danh mục loại trừ hoàn toàn (GE) và Danh mục loại trừ
tạm thời (TEL), không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt giảm thuế quan
cũng nh loại bỏ hàng rào phi quan thuế.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nớc ASEAN có
điểm tơng đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi thế xuất khẩu các
mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ
thì các nớc ASEAN cũng có lợi thế này và chính là đối thủ cạnh tranh thị
trờng xuất khẩu với Việt Nam.
Muốn hội nhập có hiệu quả thì chúng ta không thể không nâng cao năng lực sản xuất cũng
nh chất lợng hàng hoá - dịch vụ. Việc nâng cao chất lợng hàng hoá - dịch vụ có thể dựa vào
hai nguồn vốn chính đó là vốn đầu t của nớc ngoài và nguồn vốn trong nớc. Nhng để có thể
thu hút đợc vốn đầu t của nớc ngoài thì trớc hết chúng ta phải tạo ra đợc một môi trờng hấp
dẫn ở đó nhà đầu t có thể tìm thấy đợc những khoản lợi nhuận khi tiến hành đầu t, bởi vậy
nguồn vốn đầu t trong nớc đóng vai trò quyết định để tạo ra những nền tảng cho qúa trình hội
nhập. Đây cũng là quan điểm và nguyên tắc thực hiện của Đảng và Nhà nớc Việt Nam trong
quá trình công nghệp hoá - hiện đại hoá đất nớc, đó là "nguồn vốn nớc ngoài là quan trọng,
nguồn vốn trong nớc là quyết định".
Có thể nói, muốn đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA nói riêng và hội nhập vào nền kinh
tế thế giới nói chung, ngoài việc tạo ra một môi trờng pháp lý thông thoáng rộng mở, một
yếu tố chất mang tính căn bản là phải nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất. Để thực hiện
đợc điều này, không thể thiếu đợc sự hỗ trợ, đầu t thích đáng của Nhà nớc bởi để làm đợc
những vấn đề đó, cần có nguồn vốn lớn mà các doanh nghiệp không thể chỉ tự dựa vào sức
mình. Đây có thể coi là yếu tố quan trọng nhất mang tính quyết định đối với việc đẩy nhanh
tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam.
ii. giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam
trong khuôn khổ afta
Để tham gia hợp tác ASEAN và AFTA có hiệu quả đồng thời giữ vững đợc định hớng
phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục phát hiện và hệ thống hoá những điểm
khác biệt về cơ cấu, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính trong nớc so với nhu cầu thực
hiện các chơng trình hợp tác của ASEAN. Đây là cơ sở để xem xét, điều chỉnh, bổ sung một
cách khoa học nhằm tạo môi trờng pháp lý và điều kiện thúc đẩy công cuộc cải cách hành
chính và cải cách kinh tế của Việt Nam theo các phơng hớng đã lựa chọn. Ngoài việc cung
cấp thông tin một cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ bộ máy làm công tác ASEAN ở tất cả
các bộ, ngành, cần phổ biến rộng rãi các thông tin về ASEAN, về các nớc thành viên
ASEAN nhằm giúp các tầng lớp nhân dân có nhận thức đúng đắn về đờng lối hội nhập thế
giới và khu vực của đất nớc, trên cơ sở đó có thể tập hợp đợc những ý kiến đóng góp quý báu
góp phần vào việc đề ra chính sách, giải pháp cụ thể nhằm tham gia có hiệu quả hơn vào hoạt
động của ASEAN.
1. Giải pháp vĩ mô
1.1. Những ý kiến đóng góp lên chính phủ
Trong quá trình thực hiện AFTA, Nhà nớc với trách nhiệm quản lý vĩ
mô nền kinh tế, có nhiệm vụ đề ra những chính sách phát triển kinh tế
thích hợp khi chúng ta tham gia vào quá trình hội nhập thể hiện ở những
định hớng phát triển các ngành, các lĩnh vực cần đợc u tiên phát triển trớc
mắt và lâu dài, các biện pháp hỗ trợ u tiên phát triển, các biện pháp bảo hộ
thông qua các chính sách cụ thể nh chính sách đầu t, chính sách thơng mại,
chính sách thuế,..
Đầu t vốn để đổi mới công nghệ, đáp ứng đợc yêu cầu sản xuất hàng với
chất lợng cao đủ sức cạnh tranh với hàng của ASEAN là một biện pháp
mang tính quyết định. Do đó các hình thức đầu t vốn cho các ngành sản
xuất những mặt hàng xuất khẩu nói trên cần phải ở mức u đãi nhất. Bên
cạnh đó, để các nguồn vốn đợc phân bổ có hiệu quả và năng động, cần mở
rộng việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nớc theo chơng trình của
Chính phủ, từng bớc phát triển thị trờng vốn dài hạn, phát triển thị trờng
chứng khoán.
Đối với đầu t nớc ngoài trực tiếp, phù hợp với các ngành sản xuất hàng
xuất khẩu đợc xác định, Chính phủ Việt Nam cần công bố danh mục lĩnh
vực u tiên đầu t và sửa đổi các thủ tục xét duyệt và cho phép đầu t nớc
ngoài đợc nhanh chóng và thuận lợi nhất. Mục tiêu của AFTA là thu hút
đầu t trong khối và ngoài khối, nhng khả năng đầu t giữa các nớc ASEAN
còn hạn chế, đặc biệt đối với những lĩnh vực công nghệ cao. Vì thế thu hút
đầu t từ những nớc ngoài khối sẽ là chủ yếu.
Để có thể tận dụng đợc các lợi thế so sánh của đất nớc và thị trờng đợc các u đãi của
AFTA về khả năng tăng xuất khẩu và thu hút đầu t trực tiếp nớc ngoài, Chính phủ Việt Nam
cần có một định hớng chiến lợc phát triển các ngành kinh tế phù hợp với xu thế hội nhập của
khu vực và thế giới. Chính sự hội nhập này là một nhân tố quan trọng tạo ra sức bật mới cho
cả nền kinh tế. Định hớng chiến lợc phát triển các ngành kinh tế này phải là định hớng phát
triển các ngành kinh tế hớng về xuất khẩu. Tất cả các biện pháp vĩ mô nh thuế, thơng mại, tài
chính... cần đợc thay đổi nhằm đảm bảo cho việc thực hiện thành công định hớng chiến lợc
này. Cụ thể là Chính phủ sẽ xác định ngành nào sẽ là ngành tạo ra đợc những mặt hàng có
khả năng cạnh tranh đợc với các nớc ASEAN và tập trung cho sự phát triển những ngành đó.
Điểm đặc biệt đáng lu ý là, do cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam gần giống với các
nớc ASEAN, Việt Nam chỉ có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh nếu đạt đợc các u thế về
chất lợng và giá cả.
Hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành Nghị định công bố danh
mục thực hiện AFTA cho năm đó. Năm 1997, Chính phủ Việt Nam cũng
đã phê duyệt Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai
đoạn 1996-2006 của Việt Nam để làm căn cứ điều chỉnh cơ cấu trong nớc
và định hớng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh phù hợp.
Đến thời điểm 31/12/2000, Việt Nam đã chuyển trên 4200 dòng thuế
vào thực hiện AFTA và dự kiến sẽ chuyển tiếp khoảng 1940 dòng thuế còn
lại trong Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) vào thực hiện cắt giảm trong 3
năm 2001-2003 và đén năm 2006 sẽ cắt giảm thuế suất nhập khẩu của toàn
bộ các dòng thuế thực hiện AFTA xuống mức 0-5%.
Một yếu tố khác thu hút đầu t của nớc ngoài và trong nớc là cải thiện cơ
sở hạ tầng hơn nữa, bao gồm việc phát triển năng lợng, giao thông vận tải,
thông tin liên lạc, cải tiến công tác tài chính ngân hàng, tín dụng. Đây là
những vấn đề lớn có ý nghĩa chung cả nớc.
Hiện nay, Chính phủ đã có chỉ đạo triển khai một số công việc trọng
tâm sau đây:
- Xây dựng chiến lợc đầu t, chiến lợc xuất khẩu để làm định hớng phát triển
và chuẩn bị hội nhập.
- Hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật để tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp hoạt động thuận lợi, nâng cao khả năng cạnh
tranh.
- Phát triển hệ thống dịch vụ, cơ sở hạ tầng để tạo môi trờng thu hút đầu t,
thúc đẩy thơng mại.
- Khoa học và công nghệ chính là động lực, nền tảng trong phát triển kinh
tế - xã hội, nên cần đợc coi là then chốt là quốc sách hàng đầu và có
nhiều chủ trơng, chính sách và biện pháp về khoa học và công nghệ đúng
đắn.
- Đối với những ngành công nghiệp quan trọng có tính chất xơng sống hoặc
mũi nhọn của nền kinh tế, cần có sự quan tâm của Nhà nớc, của các Bộ
trên các mặt định hớng phát triển, hỗ trợ nguồn vốn, tìm kiếm thị trờng
và các điều kiện kinh doanh thuận lợi để nó có thể góp phần thúc đẩy
kinh tế trong nớc phát triển và cạnh tranh đợc với các nền công nghiệp
khác trong khu vực
Tình trạng chậm đợc cải thiện nên đã ảnh hởng rất mạnh đến chất lợng và khả năng cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trờng thế giới.
- Chú trọng nhập khẩu công nghệ đòi hỏi suất đầu t thấp, thu hồi vốn
nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp.
Việc hiện đại hoá công nghệ là cần thiết nhng phải lấy hiệu quả kinh tế-
xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để lựa chọn.
- Đòi hỏi phải nhập khẩu thiết bị tiên tiến và hiện đại cho mọi ngành sản
xuất, bất kể hiệu quả, bất kể khả năng quản lý và vận hành của cơ sở sử
dụng thiết bị thực chất là một sự lãng phí không kém gì nhập khẩu thiết
bị lạc hậu.
- Các loại thiết bị công nghệ cao thờng sử dụng ít hoặc rất ít lao động.
Trong một số trờng hợp, việc nhập khẩu các loại thiết bị này sẽ không
giúp ích nhiều cho việc tạo công ăn việc làm và tận dụng thế mạnh lao
động rẻ để cạnh tranh trên thị trờng quốc tế. Giá thiết bị cao còn làm
tăng giá thành sản phẩm và làm suy yếu khả năng cạnh tranh của hàng
hoá. Vì lý do đó, việc nhập khẩu thiết bị tiên tiến cần đợc tính toán kỹ về
mặt hiệu quả, tập trung cho một số ngành then chốt nh năng lợng, tin
học, điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học và vật liệu mới nhằm kiến
tạo một cơ sở hạ tầng vững chắc và góp phần đẩy nhanh quá trình tạo ra
các mặt hàng mới cho xuất khẩu. Trong những ngành còn lại, cần biết
tận dụng các loại công nghệ có trình độ vừa phải, sử dụng nhiều lao
động, vừa phù hợp với trình độ phát triển của ta, vừa đáp ứng nhu cầu
chế biến nguyên liệu thô. Nếu có khó khăn về vốn đầu t trong khi việc
nâng cấp thiết bị là cần thiết thì nên tập trung vào những khâu quyết định
chất lợng sản phẩm.
- Một phần vốn đầu t cho khoa học công nghệ nên đợc dành để thành lập
Ngân hàng dữ liệu nhằm cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cập
nhật nhất về lĩnh vực công nghệ mà họ quan tâm. Việc này đã đợc làm
nhng quy mô còn rất nhỏ, lại thiếu quảng cáo nên rất ít doanh nghiệp biết
về sự tồn tại của một trung tâm nh vậy. Tới đây nên tiến hành đầu t một
cách bài bản hơn cho lĩnh vực này, đồng thời tăng cờng phổ biến đến các
doanh nhân để họ biết và có điều kiện tham khảo dữ liệu trớc khi ra
quyết định đầu t. Tạo lập thị trờng công nghệ để các sản phẩm khoa học
công nghệ đợc trả giá đúng mức và lu thông bình thờng nh một dạng
hàng hoá đặc biệt. Đây là biện pháp có ý nghĩa quan trọng trong việc
thúc đẩy các nghiên cứu khoa học gắn bó hơn với tiến trình phát triển,
đồng thời rút ngắn đợc khoảng thời gian giữa nghiên cứu và ứng dụng.
Để tạo lập thị trờng công nghệ, nên khuyến khích việc ký hợp đồng giữa
các doanh nghiệp với các cơ sở nghiên cứu khoa học bằng cách thiết lập
Quỹ hỗ trợ đầu t phát triển công nghệ Quốc gia. Quỹ này sẽ cho các
doanh nghiệp vay trong trờng hợp họ có nhu cầu đặt hàng với các viện
nghiên cứu. Làm nh vậy vừa gắn đợc nghiên cứu với nhu cầu thực tiễn
của sản xuất, vừa tạo điều kiện cho các nhà khoa học giỏi phát huy tài
năng, vừa không phí phạm nguồn vốn ít ỏi của ngân sách nhà nớc. Bên
cạnh đó, cần thi hành nghiêm túc các quy định của luật pháp về bảo hộ
quyền sở hữu công nghệ cũng là biện pháp quan trọng khuyến khích đầu
t nghiên cứu khoa học phục vụ cho công cuộc đổi mới và cải tiến công
nghệ.
Một vấn đề nữa mà chúng ta cần đề cập ở đây đó là, để đảm bảo đợc yêu cầu sản xuất xuất
khẩu thì hàng hoá của Việt Nam cần đợc tuân thủ những tiêu chuẩn đã đợc quy ớc có tính
chất quốc tế, đó là phải có những tiêu chuẩn phù hợp với ISO. Là một nền kinh tế mới bớc
vào thời kỳ đang phát triển, Việt Nam cần nhiều thời gian hơn để công bố các tiêu chuẩn
quốc tế và sửa đổi những tiêu chuẩn của mình cũng nh chuẩn bị nền tảng cơ sở vật chất và kỹ
thuật để áp dụng các biện pháp kỹ thuật liên quan đến thơng mại. Một số mặt hàng của Việt
Nam đã và đang gấp rút hoàn thành các thủ tục để nhận chứng chỉ chất lợng ISO. Có đợc
những chứng chỉ chất lợng này, hàng hoá của Việt Nam sẽ dễ dàng thâm nhập vào thị trờng
khu vực và quốc tế hơn, một cách bài bản hơn theo những tiêu chuẩn mà đã đợc thế giới
công nhận.
1.2. . Những ý kiến đóng góp lên các bô ngành chủ quản
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Bộ Thơng mại và các Bộ,
ngành chủ quản là cơ quan có trách nhiệm cung cấp, hớng dẫn các doanh
nghiệp phân tích, sử dụng các thông tin, t liệu liên quan tới những giải
pháp đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam khi tham gia
AFTA.
Các bộ ngành và đơn vị hữu quan cần tổ chức nghiên cứu cụ thể tác
động của AFTA đối với từng ngành và khu vực kinh tế, đánh giá lợng hoá
các tác động và đề xuất biện pháp cụ thể đối với ngành của mình. Xây
dựng các đề án phát triển các sản phẩm của Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
Mặt khác, cần có kế hoạch đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi
thế so sánh của ta về sức lao động, đất đai, tài nguyên…, tận dụng các nguyên tắc của các tổ
chức quốc tế về quyền tự về, về u đãi cho các nớc đang phát triển và chậm phát triển. Đây
chính là những lợi thế giúp ta tìm lời giải thích hợp cho những thách thức nói trên. Vấn đề
quan trọng đặt ra là sự tính toán, vận dụng khéo léo các nguyên tắc của các tổ chức quốc tế
đó vào hoàn cảnh Việt Nam, đảm bảo cho chính sách vừa phù hợp với quốc tế, vừa bảo hộ và
kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất và của từng doanh nghiệp.
Trớc hết là cần phát triển các ngành công nghiệp hớng ra xuất khẩu và
thay thế nhập khẩu. Cơ cấu công nghiệp phải nhanh chóng chuyển dịch
sao cho những nhóm mặt hàng u đãi thuế quan chỉ chiếm tỉ trọng không
đáng kể trong khối lợng nhập khẩu. Có chính sách khuyến khích mọi thành
phần kinh tế tham gia xuất khẩu và làm công nghiệp hớng ra xuất khẩu.
- Bộ Thơng mại là cơ quan đợc Chính phủ giao trách nhiệm đầu mối trong
quan hệ hợp tác kinh tế trong AFTA và ASEAN có nhiệm vụ phổ biến
kiến thức về AFTA tới các doanh nghiệp.
- Bộ Công nghiệp sẽ dành một phần lực lợng tham gia vào nhiệm vụ trao
đổi thông tin, nghiên cứu hội thảo khoa học, đào tạo bồi dỡng thờng
xuyên cho cán bộ các loại trong ngành, kể cả ở trung ơng và địa phơng,
đồng thời cũng đề nghị các cơ quan Nhà nớc quan tâm nhiều hơn đến
đào tạo và tuyển chọn cán bộ có chất lợng cao trong giai đoạn tới, cả
năng lực và phẩm chất để có thể làm tròn nhiệm vụ đợc giao phó. Toàn
ngành công nghiệp Việt Nam quyết tâm phấn đấu từ nay đến năm 2000
tăng giá trị tổng sản lợng hàng năm 15% và tăng kim ngạch xuất khẩu
hàng năm 25%, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc.
- Cơ quan Hải quan Việt Nam tham gia với các nớc ASEAN khác, trong
việc điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan giữa các nớc thành
viên AFTA, thống nhất hệ thống xác định trị giá để tính thuế, thống nhất
hệ thống xác định trị giá để tính thuế, thống nhất quy trình thủ tục Hải
quan, nhanh chóng hoàn thành thủ tục Hải quan cho các sản phẩm của
CEPT, lập mẫu tờ khai Hải quan chung. Vì sự khác biệt giữa Việt Nam
và các nớc khác về danh mục biểu thuế, quy trình thủ tục hải quan... sẽ
gặp nhiều khó khăn khi tiến hành việc điều hoà thống nhất nói trên. Bởi
vậy, cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa Hải quan với các cơ quan
chức năng và các cơ quan hữu quan khác trong công việc trên.
Sớm thành lập bổ xung các thiết chế và ban hành bổ xung các chính
sách hỗ trợ kinh doanh phù hợp với các định chế chung nh xúc tiến thơng
mại, hỗ trợ nghiên cứu và ứng dụng (R &D) trong những lĩnh vực chọn
lọc, hỗ trợ tạo việc làm mới, hỗ trợ đào tạo lại, hỗ trợ các hoạt động xúc
tiến sản phẩm sản xuất tại Việt Nam… Nghiên cứu thành lập và thúc đẩy
sự hoạt động của các hệ thống quản lý chất lợng, vệ sinh và an toàn tiêu
dùng cả với mọi loại hàng hoá tiêu dùng trong nớc nói chung và hàng nhập
khẩu nói riêng.
Vai trò của Chính phủ trong quá trình này là đảm bảo rằng môi trờng kinh tế tổng thể
không bị bóp méo và rằng những hàng hoá công cộng (nh hạ tầng cơ sở) luôn sẵn sàng để
các doanh nghiệp khai thác, ở Việt Nam, gần một nửa doanh nghiệp - tính theo trên giá trị
sản lợng công nghiệp - là các doanh nghiệp nhà nớc (48,3%). Các doanh nghiệp phi quốc
doanh và doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài chiếm 23,2% và 28,5%.
Để đối chọi với thách thức của một nền kinh tế mở đặc biệt là khi tham
gia vào khu vực mậu dịch tự do AFTA, các doanh nghiệp không chỉ cần
hoạt động có hiệu quả mà họ phải thích ứng và phản ứng nhanh nhạy với
những biến động liên tục. Nói chung các doanh nghiệp Nhà nớc hoạt động
kém hiệu quả và thụ động, việc mở cửa thị trờng theo các yêu cầu của
AFTA sẽ đặt các doanh nghiệp Nhà nớc Việt Nam vào tình thế khó khăn.
Chính vì vậy, sau khi giảm số doanh nghiệp nhà nớc khoảng 50% xuống
còn 6.000 doanh nghiệp, Chính phủ bắt đầu chơng trình cổ phần hoá và sẽ
tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá trong thời gian tới.
1.3. . Những ý kiến đóng góp lên Bộ Tài chính
Việc cần làm đầu tiên là phải sớm xây dựng và hoàn tất lộ trình tổng thể thực hiện CEPT -
AFTA cả thuế và phi thuế đến 2006 để kịp thời công bố cho các ngành, các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế, để họ chủ động xây dựng kế hoạch kinh doanh sản xuất và đầu
t, với mục tiêu nhằm nâng cao tính cạnh tranh trong bối cảnh nền kinh tế khu vực và quốc tế
đang trong quá trình toàn cầu hoá. Công bố rõ lộ trình thực hiện, khuyến khích doanh nghiệp
có tích luỹ trong thời gian còn đợc bảo hộ trực tiếp nên tập trung mở rộng và nâng cao năng
lực cạnh tranh và thích hợp với mức bảo hộ giảm dần. Song song với việc đó, việc tăng cờng
phổ biến kiến thức về AFTA cả về chiều sâu và chiều rộng là vấn đề vô cùng quan trọng.
Nâng cấp hệ thống chính sách và năng lực thực thi chính sách thuế sao cho mọi hoạt động
kinh doanh, mọi khoản thu nhập của doanh nghiệp, của cá nhân dới mọi hình thức đều chịu
một mức thuế ngang nhau, hạn chế trốn thuế và đảm bảo nguồn thu Nhà nớc.
Về mặt đối ngoại, theo tinh thần CEPT năm 2001, tất cả các mặt hàng đã đa vào cắt giảm
của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%.
Từ các năm sau đó, mức thuế suất thực hiện CEPT của những mặt hàng bắt đầu đợc chuyển
vào thực hiện cắt giảm cũng không đợc cao hơn 20%. Theo đó, Việt Nam sẽ vấp phải không
ít khó khăn, trở ngại. Vì vậy, Bộ Tài chính đã có dự kiến tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
trên cơ sở phát triển kinh tế của các bộ, ngành đã đợc Thủ tớng Chính phủ thông qua, kết hợp
với việc phân tích về chiến lợc kinh tế giữa Việt Nam và các nớc ASEAN để lựa chọn những
mặt hàng thật sự cần thiết, duy trì những mặt hàng có thuế suất cao và không chịu quản lý
bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt giảm trớc, đảm bảo thực hiện đúng cam
kết mà vẫn giữ đợc thế chủ động cho các doanh nghiệp trong nớc.
Bộ Tài chính đã có kế hoạch tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ
thể là trên cơ sở nhiệm vụ phát triển kinh tế của các bộ, ngành sẽ đợc Thủ
tớng Chính phủ thông qua, kết hợp với việc phân tích về kinh tế giữa Việt
Nam và các nớc ASEAN để lựa chọn những mặt hàng thực sự cần thiết
duy trì mức thuế suất và đa vào cắt 3/4 thuế giảm muộn.
Xây dựng chiến lợc tài chính quốc gia theo hớng tạo dựng một môi tr-
ờng tài chính lành mạnh, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
- Sẽ nghiên cứu giải pháp để thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp nhà
nớc (cơ cấu lại nợ, xắp xếp doanh nghiệp, xử lý vốn).
- Nghiên cứu cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp theo hớng bảo hộ có
điều kiện và có thời hạn, tạo môi trờngtài chính lành mạnh, bình đẳng
(cả trong và ngoài quốc doanh).
- Sử dụng có hiệu quả một số công cụ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh tín
dụngcác doanh nghiệp vừa và nhỏ, quỹ hỗ trợ phát triển, quỹ đầu t địa
phơng, thị trờng chứng khoán, quỹ xắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Hoàn thiện hệ thống tài chính:
+ Hoàn thiện hệ thống chính sách thuế (đặc biệt là thuế VAT) theo hớng
đơn giản, rõ ràng, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển.
+ Xây dựng Luật kế toán- kiểm toán
+ Hớng dẫn Luật kinh doanh bảo hiểm
+ Phối hợp với các bộ ngành liên quan xây dựng hệ thống luật pháp
chống gian lận thơng mại, chống bán phá giá, chống cạnh tranh không
lành mạnh.
- Nâng cao năng lực hệ thống tài chính để hỗ trợ doanh nghiệp có hiệu quả
hơn:
+ Cải cách công tác quản lý thuế theo hớng đơn giản thủ tục, thông
thoáng.
+ Có giải pháp để phát triển các dịnh vụ tài chính nh bảo hiểm, kế toán,
kiểm toán và t vấn thuế để môi trờng tài chính lành mạnh, rõ ràng,
thúc đẩy đầu t và thơng mại.
- Đơn giản hơn nữa các mức thuế suất, nên cách nhau xa hơn, giảm số l-
ợng mặt hàng đợc hởng thuế suất 0% để đảm bảo nguồn thu ngân sách.
Không nên căn cứ vào mục tiêu sử dụng để định thuế suất mà nên căn cứ
vào tính chất của hàng hoá, để ngăn chặn hành vi trốn thuế cùng với việc
điều hoà thống nhất hệ thống xác định giá trị tính thuế quan theo yêu cầu
của CEPT, sẽ áp dụng giá tính thuế hàng nhập khẩu theo nguyên tắc của
GATT. Theo bản thỏa thuận định giá của GATT, giá tính thuế nhập khẩu
chủ yếu dựa vào giá kinh doanh của hàng hóa tơng đơng hoặc giống hệt.
Do đó, cần có sự sửa đổi cơ bản về thuế nhập khẩu. Mức thuế nhập khẩu có thể hạ thấp
phù hợp với yêu cầu của CEPT và có thể hạ đến mức thấp nhất để đáp ứng yêu cầu khuyến
khích nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Còn các mức thuế giá trị gia tăng
và thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào hàng nhập khẩu không phải chịu cam kết giảm thuế sẽ đợc
điều chỉnh phù hợp, đáp ứng đợc yêu cầu bảo hộ gián tiếp và đảm bảo cho nguồn thu ngân
sách. Hơn nữa, để đáp ứng đợc yêu cầu của nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) mức thuế tiêu
thụ đặc biệt áp dụng cho hàng nhập khẩu và sản xuất trong nớc là nh nhau, nếu có khác nhau
về hỗ trợ sản xuất trong nớc chỉ là khác về quy định giá tính thuế giữa sản phẩm nhập khẩu
và sản xuất trong nớc.
Trong thời gian đầu, ích lợi cho việc tham gia AFTA đối với Việt Nam cha nhiều vì kim
ngạch ngoại thơng giữa Việt Nam với các nớc ASEAN chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ: tỷ lệ xuất khẩu
của Việt Nam sang ASEAN-4 năm 1994 chỉ là 5% và nhập khẩu là 8% kim ngạch nhập khẩu
của Việt Nam. Nếu tính cả Singapore là nớc trung chuyển mậu dịch thì chỉ tiêu trên cũng chỉ
là 20,4% và 30%. Bởi vậy, để hội nhập vào AFTA, do tình hình đặc thù của Việt Nam,
chúng ta sẽ không áp dụng tiến trình cắt giảm thuế nhanh để có thời gian rút kinh nghiệm
thực hiện chơng trình CEPT và cho các doanh nghiệp trong nớc có thể thích ứng dần. Nhng
vì Việt Nam có tới 53,1% số mặt hàng có thuế suất dới 5%, tức là đã thoả mãn mục tiêu của
CEPT nên có thể coi nh đã thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh.
2. Giải pháp vi mô - Về phía doanh nghiệp
Mỗi đơn vị, doanh nghiệp dù lớn dù nhỏ cần lập ngay bộ phận chuyên trách, thu thập
nghiên cứu các tài liệu thông tin liên quan tới AFTA để vận dụng các cam kết quốc tế vào
chơng trình hành động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Hội nhập là tất yếu để phát
triển. Việc thực hiện lịch trình cắt giảm thuế quan trong ASEAN, hiệp định thơng mại Việt
Mỹ và trong tơng lai khi gia nhập Tổ chức thơng mại thế giới - WTO là một khâu quan trọng
để thực hiện việc tự do hoá thơng mại mở cửa hội nhập. Trong đó, doanh nghiệp có vai trò
đặc biệt quan trọng, đảm bảo sự thành công của hội nhập. Vì vậy, các doanh nghiệp cần chủ
động tận dụng cơ hội và vợt qua thách thức để nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hoá và uy
tín của mình trên thị trờng trong nớc và quốc tế.
Tác động hai mặt của việc xoá bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch đối với các doanh nghiệp tuy
dễ thấy về định tính, song khó dự báo định lợng. Xoá bỏ bảo hộ có thể buộc doanh nghiệp
phải cải tổ toàn diện để đối đầu trực diện với sức ép cạnh tranh từ các nớc AFTA. Cạnh tranh
có thể thúc đẩy sản xuất phát triển, nhng đồng thời cũng có thể làm phá sản hàng loạt doanh
nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Nh vậy, xoá bỏ bảo hộ chắc chắn dẫn đến việc thay đổi cơ
cấu kinh tế.
2.1 . Cần có chiến lợc dài hạn và cụ thể, thiết thực
Trong quá trình hội nhập kinh tế vơn ra thị trờng quốc tế và khu vực, Nhà nớc chỉ hỗ trợ,
tạo môi trờng pháp lý thông thoáng và thuận lợi. Sự thành công tới đâu trong quá trình này là
tuỳ thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của các doanh nghiệp. Do vậy các
doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình. T tởng bảo hộ trông chờ vào
Nhà nớc hỗ trợ tất yếu sẽ dẫn tới sự đào thải. Trong quá trình cạnh tranh vơn lên này Nhà n-
ớc sẽ hỗ trợ thích đáng cho các doanh nghiệp, nhng sự hỗ trợ đó là có chọn lọc, có điều kiện,
có thời gian. Nh vậy con đờng tất yếu cho các doanh nghiệp là: Kết hợp chặt chẽ sản xuất với
kinh doanh. Mỗi đơn vị cần có chiến lợc riêng cho đơn vị mình. Một mặt quy hoạch sản xuất,
điều chỉnh cơ cấu, u tiên tập trung nỗ lực đầu t cho sản xuất các mặt hàng chủ lực có thế
mạnh, có khả năng cạnh tranh của đơn vị, của địa phơng mình, lấy thị trờng làm kim chỉ nam
định hớng cho sản xuất. Không nên giàn trải, cần chuyên sâu theo thế mạnh. Một mặt cần
đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh hợp tác quốc tế, khai thác lợi thế từ các cam kết trong
hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cờng các hoạt động xúc tiến thơng mại khuyếch trơng đầu t.
Hạch toán chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh tiêu thụ trên thị trờng trong và ngoài nớc.
Xem thị trờng trong nớc là hậu thuẫn, là thế mạnh cho việc thâm nhập thị trờng nớc ngoài.
Chiến lợc hai trọng điểm sản xuất và kinh doanh tiêu thụ là đòi hỏi rất thực tiễn đảm bảo
thắng lợi cho mỗi doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Thị tr-
ờng mà chúng ta cần xem xét là thị trờng hớng ngoại, nhng hiện tại chỉ khoảng hơn 20% giá
trị sản phẩm công nghiệp đợc xuất ra thị trờng nớc ngoài. Hớng ngoại phải là chiến lợc lâu
dài, bởi sức mua trong nớc thấp, tuy dân số là 80 triệu ngời. Nói vậy, không có nghĩa là
chúng ta có thể quên thị trờng trong nớc, mà ở đây, đúng ra, có thứ chúng ta phải giành dật
lấy, đặc biệt là những hàng hoá nớc ngoài đang chiếm lĩnh: hàng dệt may, hoá mỹ phẩm,
điện tử, điện dân dụng, cơ khí tiêu dùng, gốm sứ…
Những tồn tại trên, thực sự là những trở ngại phải vợt qua trên con đờng phát triển ngành
công nghiệp với tốc độ 14 -15%/năm từ nay đến năm 2000. Đặc biệt là vấn đề hội nhập
ASEAN, và tham gia AFTA
2.2 . Khẩn trơng sắp xếp lại hoạt động sản xuất kinh doanh phù hợp với cam
kết hội nhập khu vực và quốc tế, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh
Sắp xếp lại sản xuất và cơ cấu lại nền công nghiệp đi đôi với việc đổi mới doanh nghiệp
trên các mặt công nghệ và quản lý. Thực hiện cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu tại những
doanh nghiệp có đủ điều kiện và theo sự chỉ đạo của Nhà nớc.
Cùng với cắt giảm bảo hộ mậu dịch trong khuôn khổ AFTA, còn cần phải tính toán xa
hơn, đến phơng hớng chuyên môn hoá sản xuất trong phạm vi ASEAN. Do cơ cấu giữa Việt
Nam và các nớc ASEAN có một số điểm tơng đồng, nên càng sớm xác định đợc phơng hớng
chuyên môn hoá và liên kết quốc tế của các ngành sản xuất, nhất là sản xuất công nghiệp
trong bối cảnh nền kinh tế hoàn toàn không còn hàng rào bảo hộ ngăn với các nớc trong khu
vực, thì sẽ có thể tránh đợc những cuộc cạnh tranh không cần thiết, khai thác những lợi ích
của hợp tác và chuyên môn hoá sản xuất, rút ngắn đợc những khúc quanh co trong con đờng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá sắp tới.
Đối với những mặt hàng u tiên đa vào những mặt hàng có thuế suất cao
và không chịu quản lý bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt
giảm trớc, bảo đảm thực hiện đúng cam kết mà vẫn giữ đợc thế chủ động
cho doanh nghiệp trong nớc. Song có lẽ giải pháp quan trọng nhất vẫn là
từ chính các doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải tự sắp xếp, đổi mới
công nghệ, trình độ quản lý và nâng cao năng lực cạnh tranh… để tham gia
hội nhập khu vực và quốc tế.
2.3. Có giải pháp xử lý nợ
Việc huy động các nguồn vốn phải thực hiện bằng nhiều biện pháp, không những chỉ dới
dạng đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI), hay các nguồn viện trợ phát triển chinh thức
(ODA)… mà còn phải coi trọng việc huy động các nguồn vốn tiềm tàng trong nhân dân.
Nguồn vốn này không phải là nhỏ, nhng tâm lý ngần ngại trong việc bỏ vốn đầu t phát triển
công nghiệp còn khá phổ biến trong nhân dân, một phần là do kinh nghiệm hoạt động kinh
doanh còn ít, phần khác là do môi trờng kinh doanh cha đủ hấp dẫn.
2.4. Chủ động trong việc tạo lập nguồn vốn, tìm kiếm thị trờng
Trớc tiên, các doanh nghiệp sản xuất trong nớc cần căn cứ
theo hớng phát triển trong tình hình mới để có những định hớng
đầu t phù hợp. Trong từng ngành, với từng mặt hàng, các doanh
nghiệp phải có dự kiến trớc đợc các khả năng có thể ảnh hởng
hay tác động tới tình hình sản xuất kinh doanh khi Việt Nam đa
mặt hàng đó vào thực hiện chơng trình CEPT. Qua đó, doanh
nghiệp có thể tìm ra các sản phẩm mới hay phát triển các sản
phẩm có tiềm năng xuất khẩu, tìm ra thị trờng mới cho sản phẩm
của mình; Các giải pháp để có thể làm chủ đợc thị trờng nội địa
và sau đó phải tìm kiếm khả năng xuất khaảu; Định hớng về sản
phẩm chủ lực, thị trờng trọng điểm để có phơng án sản xuất kinh
doanh đáp ứng các nhu cầu xuất khẩu sang ASEAN hoặc ngoài
ASEAN.
Cần phải có một bức tranh rõ ràng về vị trí hiện tại của doanh
nghiệp để định hớng đầu t phát triển hay chủ động liên doanh,
liên kết để nâng cao năng lực thị trờng của doanh nghiệp.
ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác
thông tin, trực tiếp và thờng xuyên tiếp xúc với thị trờng thế giới thông qua các hội thảo khoa
học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt thị trờng, bám sát và tiếp cận đ-
ợc tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trờng, ký hợp
đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trờng, tránh t tởng ỷ lại
vào các cơ quan quản lý Nhà nớc hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá.
2.5. Kiên quyết không đầu t vào những ngành hàng không có khả năng cạnh
tranh
Tham gia AFTA, các doanh nghiệp phải đối diện với môi tr-
ờng cạnh tranh lớn hơn. Thực tế, trớc khi tham gia CEPT thì
những năm gần đây các doanh nghiệp trong nớc đã phải chịu sức
cạnh tranh mạnh từ khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc
ngoài, đã và đang nhờng từng phần thị trờng cho khu vực này.
Do đó, một vấn đề thực tế hiện nay là cần đánh giá hiện trạng
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành, về chất lợng
hay mẫu mã - so sánh với các hàng hoá từ ASEAN trên thị trờng
trong nớc hay cả trên thị trờng khu vực. Từ đó có hớng khai thác,
phát triển các khả năng cạnh tranh riêng biệt này.
Trong việc thu hút đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI), cần quy
định rõ việc u tiên cho những ngành công nghiệp kỹ thuật cao
(hitech), công nghiệp chế biến…, dần dần tạo nên những ngành
công nghiệp mạnh, những khu công nghiệp mạnh của nớc ta, đủ
sức làm ăn bình đẳng với các nớc ASEAN (công nghiệp điện tử,
công nghiệp dệt may, da giày, công nghiệp luyện kim,…) và góp
phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đờng lối của
Đảng và Nhà nớc Việt Nam.
Doanh nghiệp cần xem xét, đánh giá cụ thể các yếu tố liên
quan đến sản xuất, tiêu thụ của từng mặt hàng trong tơng quan so
sánh với các mặt hàng cùng loại từ ASEAN. Chúng ta có thể
thấy, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trớc một thực trạng là có
một lực lợng lao động dồi dào nhng thiếu các lao động lành
nghề. Một số ngành công nghiệp còn gặp phải khó khăn trong
vấn đề nhập khẩu nguyên liệu thô và các máy móc chuyên dụng
do các chính sách quá khắt khe. Song để có thể hội nhập một
cách thành công, chúng ta phải phát huy, tận dụng đợc những lợi
thế của mình mà một trong những cách thức để thực hiện điều đó
là phải đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng mà Việt Nam có lợi
thế so sánh. Khi các hàng rào thuế quan và phi quan thuế đợc gỡ
bỏ, hàng hoá của các nớc ASEAN sẽ đợc cạnh tranh trong một
môi trờng lành mạnh và nếu hàng hoá của Việt Nam hiện đã
chiếm đợc những thị phần tơng đối sẽ dễ phát huy đợc tính u việt
và thâm nhập vào các thị trờng láng giềng nh các sản phẩm da
giày, dệt may, hay nông sản.
- Mở rộng hơn nữa thị trờng xuất khẩu đồng thời tiếp tục đẩy mạnh xuất
khẩu sang các thị trờng truyền thống đồng thời phải tìm hiểu kỹ thị hiếu
của khách hàng và sở thích công nghiệp của các thị trờng, đặc biệt là thị
trờng rộng lớn nh Mỹ khi Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ đợc phê chuẩn.
- Loại bỏ các rào cản kỹ thuật với thơng mại (TBT) bằng cách quản lý chất
lợng sản phẩm chặt chẽ hơn.
- Cho phép nhập khẩu miễn thuế hàng t liệu sản xuất và các đầu vào trực
tiếp phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu.
- Tạo đợc một chuyển biến bớc ngoặt cũng nh nghiên cứu thị trờng để cố
gắng tăng cờng giá trị gia tăng nội địa cho sản phẩm.
- Xúc tiến đầu t nớc ngoài và đầu t trong nớc bằng cách loại bỏ thuế quan
đánh vào hàng nhập khẩu hàng t liệu sản xuất và các đầu vào trực
tiếp dùng trong sản xuất hàng xuất khẩu.
Tóm lại, tham gia vào AFTA là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam mà cần sự nỗ
lực tổng thể, bổ sung lẫn nhau của tất cả các ngành giúp cho nền kinh tế Việt Nam thực sự đ-
ợc cất cánh.
2.6. Cải tiến công nghệ, cải tiến quản lý, tăng cờng đào tạo
Trong việc lựa chọn công nghệ và chuyển giao công nghệ, nhất thiết phải coi trọng việc
chọn công nghệ cao, hiện đại, có sức cạnh tranh không tiếp nhận công nghệ cũ, lạc hậu, dù
với bất kỳ hình thức nào (kể cả bằng nguồn vốn ODA hoặc viện trợ nhân đạo, viện trợ của
các tổ chức phi Chính phủ). Coi trọng các hàm lợng công nghệ mới, thông tin, chất xám và
trình độ tổ chức cao (T, I, H, O) trong quá trình chuyển giao công nghệ (Technoware,
Inforware, Humanware, Organware) vào Việt Nam.
Nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý tăng năng suất nh thế nào để đảm bảo
rằng với mức thuế Việt Nam cam kết nh trong CEPT, dù mặt hàng của các nớc ASEAN có
nhập vào Việt Nam cũng không thể cạnh tranh đợc với mặt hàng của ta sản xuất. Theo hớng
đó, các doanh nghiệp cần xây dựng chơng trình hành động cụ thể của mình kết hợp giữa
năng lực sản xuất với năng lực kinh doanh để đảm bảo không ngừng nâng cao sức cạnh
tranh, kết hợp với các lợi thế cam kết quốc tế, đa đợc ngày càng nhiều hàng của mình ra thị
trờng nớc ngoài, khẳng định đợc vị trí trên trờng quốc tế đồng thời nhập khẩu đợc nhiều vật t
thiết bị tốt, thuế thấp, nhất là các vật t phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu.
Cần hết sức chú ý việc bảo vệ môi trờng, tránh hậu quả của việc nhập không tính toán kỹ
các công nghệ nặng nhọc, ô nhiễm và nguy hiểm, cũng nh tốn năng lợng, làm mất khả năng
cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam và gây tác hại đến môi trờng sau này.
Nếu nh nền kinh tế thế giới chủ yếu vẫn dựa vào những ngành công nghiệp truyền thống
với nguyên liệu cơ bản là tài nguyên thiên nhiên chứ không phải dựa vào các ngành công
nghệ cao và dịch vụ tri thức với tài nguyên thông tin và trí tuệ; và nếu nh nền kinh tế thế giới
không đợc toàn cầu hoá nh đang diễn ra, thì tính cạnh tranh của nó chắc sẽ không khốc liệt
nh ta đang thấy và đồng thời cũng ít cơ hội để lựa chọn hơn: nớc giàu sẽ giàu mãi, nớc ngèo
sẽ càng nghèo hơn. Nhng từ nay tình hình đã khác: nớc giàu vẫn có thể bị chững lại và nớc
nghèo vẫn có hy vọng vợt lên. Thịnh và suy bây giờ phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tạo ra,
duy trì và tăng cờng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế của mỗi
nớc phụ thuộc một loạt yếu tố, trong đó trình độ khoa học và công nghệ là yếu tố quyết đinh,
bởi vì, nh trên ta đã thấy, ngày nay khoa học và công nghệ đã trở thành lực lợng sản xuất trực
tiếp, là động lực quan trọng nhất của phát triển kinh tế - xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà vào đầu những năm 90 rất nhiều nớc đặc biệt các nớc phát
triển cao, đã điều chỉnh lại những chính sách của mình đối với khoa học và công nghệ. Thấy
rõ con đờng duy nhất để tăng cờng sức cạnh tranh của nền kinh tế là dựa hẳn vào khoa học
và công nghệ, tức là bằng khoa học và công nghệ, vì vậy Chính phủ nhiều nớc đã làm hết
mình cho khoa học và công nghệ.
Nhu cầu nhân lực có tính quyết định. Các cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, cán bộ chuyên
môn đều phải giỏi, tinh thông nghề nghiệp, nắm bắt kịp thời thông tin mới nhất và đối phó đ-
ợc với các mánh khoé làm ăn trên thơng trờng.
Vấn đề đào tạo cán bộ ở các doanh nghiệp là vấn đề đợc thờng xuyên nhấn mạnh bởi con
ngời là yếu tố quyết định. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở đây để khẳng định lại tầm quan
trọng cần đặc biệt u tiên để đảm bảo thắng lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc
đào tạo cần đợc qui hoạch, phân loại, để đào tạo theo năng lực sở trờng dựa trên yêu cầu
công việc. Đào tạo lại và đào tạo mới cần kết hợp để đáp ứng đợc những nhu cầu mới phát
sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trớc mắt cần tới 3 loại cán bộ sau đây:
- Đào tạo công nhân lành nghề ở từng lĩnh vực, dây chuyền sản xuất. Vấn
đề này cần đợc nhấn mạnh ở thời điểm này bởi thời gian qua đào tạo ở
cấp đại học đã đợc chú trọng nhiều, tuy cần thiết, nhng sẽ thiếu tác dụng
động lực nếu thiếu công nhân kỹ thuật lành nghề.
- Đào tạo cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi. Đây là loại hình cán
bộ rất tổng hợp cả am hiểu sản xuất, cả am hiểu thị trờng, kỹ thuật
đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng, và thạo ngoại ngữ. Chúng ta rất
thiếu, và rất cần loại cán bộ này.
- Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và thơng mại
quốc tế, để đủ trình độ t vấn, trợ lý giúp giám đốc trong kinh doanh và
hợp tác quốc tế.
2.7. Tham gia với Chính phủ và các cơ quan chức năng trong việc rà soát chính sách
Các doanh nghiệp cần có cơ chế theo dõi sát chơng trình CEPT, vì tuỳ mức độ sẽ trực
tiếp hay gián tiếp, doanh nghiệp sẽ đối mặt với các cơ hội hoặc thách thức nh:
- Khả năng lựa chọn đợc nguồn cung cấp rẻ hơn từ ASEAN với lý do
việc giảm thuế nhập khẩu trong nội bộ khu vực.
- Dung lợng và cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, dẫn đến thay đổi cơ cấu
thị trờng cung và cầu.
- Vị trí độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nớc sẽ thay đổi. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ bị tổn thơng nhất…
Đa số các doanh nghiệp trong nớc hiện nay đều có quy mô nhỏ, khó đủ sức làm chủ thị
trờng trong nớc cũng nh không đủ sức vơn ra thị trờng nớc ngoài. Vì vậy, các doanh
nghiệp nhỏ lẻ, rời rạc hiện nay nên tập hợp thành các Hiệp hội ngành, hàng thì mới tạo
thành sức mạnh để tham gia các hoạt động trên thị trờng với quy mô lớn hơn nh: thu nhập
thông tin, khảo sát thị trờng ngoài nớc, phối hợp các khả năng sản xuất để có thể cung cấp
hàng hoá có số lợng lớn, hợp sức cải tiến các vấn đề về chất lợng..
Nh vậy, trong môi trờng ngày càng đa dạng và phức tạp, doanh nghiệp cần phải năng
động hơn, chú trọng hơn đến các vấn đề về thông tin, t vấn. Cần thiết lập các mối liên hệ
với các đầu mối thông tin nh các cơ quan Nhà nớc, các Hiệp hội ngành hàng, các cơ quan
t vấn trong và ngoài nớc…
Trong quá trình đàm phán ký kết hợp ồng với bạn hàng ở các nớc, các
doanh nghiệp cần quan tâm tổng kết thực tiễn, so sánh đối chiếu với các
cam kết quốc tế, xem chính sách của nớc đó đối với hàng hoá của Việt
Nam thế nào, mức thuế cao hay thấp. Các chế độ chính sách thủ tục phi
quan thuế trong xuất nhập khẩu và đầu t đối với ta có điều gì trở ngại bất
hợp lý cần tháo gỡ kịp thời để phản ánh cho các cấp quản lý, phản ánh cho
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế tổng hợp đa ra đàm phán, đòi
các nớc này sửa đổi.
Với việc nghiên cứu đúc rút thực tiễn trong quan hệ bạn hàng với các n-
ớc, kết hợp với năng lực sản xuất và kinh doanh của ta, các đơn vị doanh
nghiệp cần thông qua các đơn vị chủ quản của mình, các Hiệp hội ngành
hàng, phản ánh nguyện vọng, đóng góp vào việc xây dựng chiến lợc và ph-
ơng án đàm phán cụ thể với từng tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nói
khác đi, mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan quản lý của Nhà nớc và
doanh nghiệp cần đợc tăng cờng, duy trì thờng xuyên và đều đặn.
Đứng trớc nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao, Đảng và
Nhà nớc ta đã đề ra chủ trơng khuyến khích mọi thành phân kinh tế (quốc
doanh và ngoài quốc doanh) cùng phát triển. Vấn đề còn phải làm tiếp là
tạo ra môi trờng pháp lý, môi trờng kinh doanh thuận lợi, cạnh tranh lành
mạnh cho các nguồn đầu t.
Trên đây là một vài đề xuất, ý kiến đóng góp của luận văn đối với một vấn đề hiện đang
còn nhiều tranh luận. Trong khuôn khổ của đề tài này, em xin nhấn mạnh một điều là các giải
pháp và biện pháp này cần phải xây dựng trong khuôn khổ một chiến lợc nhất quán của quốc
gia là đẩy mạnh phát triển kinh tế, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong
một bối cảnh nền kinh tế quốc tế và khu vực đang diễn ra quá trình toàn cầu hoá một cách
mạnh mẽ. Nhìn chung, vấn đề đẩy nhanh tiến trình thực hiện AFTA hiện nay đang đứng trớc
nhiều thách thức về cả các điều kiện khách quan và chủ quan. Những biến động về tình hình
chính trị của một số quốc gia thành viên hiện nay đang đặt AFTA dới một áp lực lớn cần sự
phối hợp nỗ lực của từng thành viên trong ngôi nhà chung ASEAN.
KếT LUậN
Tham gia thực hiện AFTA sẽ là bớc tập dợt đầu tiên trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế khu vực và thế giới của Việt Nam để thực hiện đờng lối phát triển kinh tế theo hớng mở
cửa của Nhà nớc. Mức độ ảnh hởng do việc thực hiện những cam kết về tự do hoá thơng mại
trong khuôn khổ ASEAN đến nền kinh tế Việt Nam sẽ là nhỏ hơn rất nhiều so với những ảnh
hởng sau này khi chúng ta phải thực hiện các cam kết để tham gia APEC hay WTO. Do đó,
việc tham gia thực hiện AFTA cũng cần đợc xem xét đánh giá trong một tổng thể các chính
sách phát triển, định hớng cho cả quá trình hội nhập của nền kinh tế Việt Nam vào khu vực
và thế giới.
Để thích ứng với điều kiện mới, chúng ta phải chủ động nắm bắt các diễn biến tác động
đến môi trờng kinh tế quốc tế để có đợc các định hớng đúng đắn. Nếu không chủ động, tích
cực chuẩn bị đầy đủ, không sẵn sàng điều chỉnh thì chúng ta sẽ bị thua thiệt và trở nên phụ
thuộc khi nền kinh tế đã đợc mở cửa mà sức mạnh kinh tế không đợc cải thiện. Do đó, việc
Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập và thực hiện AFTA đòi hỏi một sự chủ động không
chỉ từ các Bộ, ngành quản lý Nhà nớc, mà quan tọng hơn là sự củ động tự điều chỉnh của các
doanh nghiệp sản xuất trong nớc, để nâng cao khả năng cạnh tranh của mình và tham gia có
hiệu quả vào quá trinhg thực hiện AFTA.
Do phải đối diện với môi trờng cạnh tranh lớn hơn, một vấn đề thực tế hiện nay là, cần
đánh giá hiện trạng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về giá thành, về chất lợng hay
mẫu mã, so sánh với các hàng hoá từ ASEAN trên thị trờng trong nớc hay cả trên thị trờng
khu vực. Từ đó, có hớng khai thác, phát triển các khả năng cạnh tranh riêng biệt. Cần phải
có một bứa tranh rõ rệt về vị trí hiện tại của doanh nghiệp, liên kết để nâng cao năng lực thị
trờng của doanh nghiệp.
Đa số các doanh nghiệp trong nớc hiện nay đều có quy mô nhỏ, khó đủ sức làm chủ thị tr-
ờng trong nớc cũng nh vơn ra thị trờng nớc ngoài. Vì vậy, các doanh nghiệp nhỏ lẻ, rời rạc
hiện nay nên tập hợp thành các hiệp hội ngành, thì mới tạo thành sức mạnh để tham gia các
hoạt động trên thị trờng với quy mô lớn hơn nh thu thập thông tin, khảo sát thị trờng ngoài
nớc, phối hợp các khả năng sản xuất để có thể cung cấp hàng hoá có số lợng lớn, hợp sức
cải tiến các vấn đề về chất lợng… Trong môi trờng ngày càng đa dạng và phức tạp, doanh
nghiệp cần phải năng động hơn, chú trọng hơn đến các vấn đề về thông tin, t vấn. Cần thiết
lập các mối liên hệ với các đầu mối thông tin nh các cơ quan Nhà nớc, các hiệp hội ngành
hàng, các cơ quan t vấn trong và ngoài nớc.
Hy vọng rằng, việc chúng ta tham gia AFTA cùng với những nỗ lực chủ động điều chỉnh ở
cả cấp vĩ mô và vi mô, sẽ là một yếu tố góp phần kích thích nền kinh tế Việt Nam phát triển,
nâng cao hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế, từng bớc đa nền kinh tế Việt Nam hoà nhập với
nền kinh tế thế giới và làm cho nền kinh tế Việt Nam thích nghi với môi trờng cạnh tranh
quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn -Những giải pháp nhằm đẩy nhanh việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA..pdf