Về công nghệ xuất khẩu
Mặc dù chúng ta đưa ra mục tiêu phát triển công nghệ sinh học ứng
dụng vào ngành thuỷ sản. Tuy đ ã đạt dược kết quả đáng khích lệ song
trên 136 doanh nghiệp chế biến (chiếm 59%) hiện nay của Việt Nam vẫn
trong tình tr ạng chưa đáp ứng được yêu vầu vệ sinh an toàn thực phẩm và
đang trong tình trạng thu động marketing. Vì vậy công nghệ thuỷ sản của
ta vẫn kém xa so với khu vực và thế giới.
83 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2445 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những kết luận rút ra từ thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c
ta. Với thực trạng từng vùng là cơ sở để chúng ta nghiên cứu để xem vùng
nào có thế mạnh để tập trung đầu tư có hiệu quả đó vấn đề đặt ra cho các
vùng hiện nay.
2.1.2. Phân bố địa lý đánh bắt thủy sản và nuôi trồng thủy sản
Sự phân bố địa lý mất cân đối giữa miền nam và miền bắc. Mặc dù
hầu hết các tỉnh ven biển đều tham gia hoạt động đánh bắt và nuôi trồng
thủy sản, song tổng đánh bắt của các tỉnh miền bắc Ttừ Quảng Trị trở ra)
chỉ là 13% so với đánh bắt hải sản của cả nước năm 2000. Đánh bắt của
các tỉnh nam bộ là 54% trong đó riêng 2 tỉnh Kiên Giang và Minh Hải đã
khai thác tới 27,5% sản lượng khai thác hải sản của cả nước, gấp 2 lần
khai thác của các tỉnh phía bắc
Về tình hình nuôi trồng, việc phân bố khu vực nuôi trồng cũng có
những mất cân đối tương tự. Nuôi trồng ở các tỉnh phía bắc chiếm 20%
tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng của cả nước. Riêng về, nuôi tôm tập
trung ở Nam bộ tới 73% tổng sản lượng tôm cả nước năm 2000, còn lại ở
các tỉnh miền trung (7%) trong khi các tỉnh ở miền bắc gồm Quảng Ninh,
Thái Bình và Nam Định chỉ chiếm chưa đầy 2,5% sản lượng tôm nuôi toàn
quốc. Sự phân bố địa lý không đều trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
có nguyên nhân khác quan trọng là do sự phân bố khoong đều của nguồn
tài nguyên biển như đã nêu trên.
Về diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản
2.1.3. Những nhận xét chung về đánh bắt và nuôi trồng thủy sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn tài
nguyên đó đã tạo lợi thế so sánh của đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Từ
những lợi thế đó là yếu tố khách quan làm tăng sản lượng thủy sản thời
gian qua
Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ quản lý cũng như trình độ
công nghệ mà việc duy trì nguồn tài nguyên ven bờ cũng bị tàn phá rừng
ngập mặn để nuôi tôm, tàn phá môi trường sinh thái và gây ra những hậu
quả có thể rất nghiêm trọng đến việc duy trì nguồn tài nguyên thủy sản
lâu dài.
2.2. Ngành công nghiệp chế biến thủy sản Việt Nam
Sau khi chính phủ ban hành Nghị quyết 18/CP về phát triển công
nghệ sinh học (CNSH) ở Việt Nam, các cơ sở nghiên cứu và đơn vị sản
xuất kinh doanh có liên quan đến CNSH trong ngành thủy sản đã xây dựng
chương trình hành động cụ thể để thực hiện nghị quyết đó. Trong quá
trình triển khai, đã coi trọng việc quán triệt quan điểm và mục tiêu phát
triển CNSH chung của cả nước gắn với thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm
của các chương trình kinh tế xã hội quan trọng của ngành nhằm đưa nhanh
tiến bộ CNSH vào sản xuất nghề cá ở nước ta.
Ngoài những kết quả về tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và nâng
cao năng lực nghiên cứu cho các cơ sở nghiên cứu trong ngành từ năm
1994 đến nay, các Viện, Trung tâm nghiên cứu đã triển khai thực hiện rất
nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng CNSH trong các lĩnh vực giống, sản
xuất thức ăn phòng ngừa dịch bệnh, quản lý môi trường, kiểm tra chất
lượng vệ sinh thủy sản trong chế biến thủy sản
Về ứng dụng công nghệ sinh học trong nghiên cứu về giống.
Hơn 20 đề tài nghiên cứu về gióng thủy sản trong thời gian qua đã
ứng dụng công nghệ gen; lai tạo và điều khiển giới tính nhằm nâng cao
phẩm giống, cong nghệ nuỗi vỗ thuần thục thủy sản bố mẹ; công nghệ
ương, ấp và nuôi dưỡng trứng từ giai đoạn sau thụ tinh của trứng đến giai
đoạn giống; thức ăn công nghiệp có liên quan đến quá trình nuôi dưỡng
động vật thủy sản.
Cho đến nay đã sản xuất thành công nhiều đối tượng thủy sản ở Việt
Nam, cung cấp giống cho sản xuất với khối lượng lớn và chất lượng được
nâng cao. Có thể kể đến:
+ Giống tôm sú (Penaeus monodon): Công nghệ sản xuất giống tôm
sú đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều địa phương trong cả nước 11 tháng
đầu năm 2002 ước sản xuất 16,5 tỷ giống tôm sú P15
+ Giống tôm rảo (Metapenaeus ensis) đã cho đẻ thành công, xây
dựng quy trình sản xuất giống và nuôi tôm rảo. Hiện có 12 tỉnh đang được
chuyển giao công nghệ sản xuất giống và nuôi tôm rảo. Ngoài ra cũng có
đã cho đẻ thành công tôm càng xanh (Macrobaranchium rosenbergii), tôm
nương (P.orientalis), tôm bạc (P.merguiensis)
+ Cua biển (Scylla spp) và ghẹ xanh: đã nghiên cứu thành công quy
trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm 2 đối tượng này. Đã sản xuất
giống và nuôi một số loài động vật thân mềm như ốc hương, điệp, trai
biển, trai nước ngọt, bào ngư, hiện đang được áp dụng vào sản xuất tại
nhiều nơi.
+ Nhóm cá biển: Đã nghiên cứu quy trình sản xuất giống cá gò, cá
vược, cá song. Năm 2002, lần đầu tiên đã cho đẻ và ương đạt tỷ lệ sống
cao giống cá song, sản xuất được khoảng 20 vạn cá song chấm giống và
hàng vạn cá giò cung cấp cho khu vực Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An,
Vũng Tàu
+ Nhóm cá nước ngọt: đã lưu giữ và bảo quản quỹ gen cá nước ngọt
gồm 27 loài, dòng và giống gốc. ứng dụng công nghệ điều khiển sinh sản
nhân tạo thành công một số loài cá nước ngọt: chép, mè trôi, trắm cỏ, mè
vinh, basa, tra, bống, quả, bống tượng, rô đồng, cá chim trắng. Hàng năm
sản xuất trên 10 tỷ cá bột một số loài cá nước ngọt chủ yếu, cung cấp đủ
giống cho sản xuất.
Kết quả nghiên cứu nổi bật trong những năm gần đây là ứng dụng
côngng hệ di truyền điều khiển giới tính tạo đàn cá rô phi siêu đực, cá mè
vinh toàn cái, giải phẫu tuyến andrrogenic để điều khiển giới tính tôm
càng xanh, thông qua chọng giống cá rô phi dòng GIFT đã nâng cao tốc
độ sinh trưởng 18% sau 2 thế hệ giống. Công nghệ sản xuất giống cá rô
phi siêu đực dòng GIFT đã sản xuất khaỏng 75 vạn cá giống cung cấp cho
25 tỉnh. Hiện nay giống này rất được ưa chuộng và có nhu cầu cao để phát
triển nuôi cá rô phi siêu đực xuất khẩu trong những năm đến. Đã xây dựng
quy trình bảo quản tinh một số loài cá nước ngọt, một số loài vi tảo, bước
đầu nghiên cứu các marker ADN phục vụ chọn giống, nâng cao tốc độ
sinh trưởng cá tra, tôm su và marker ADN liên quan đến màu sắc thịt cá
tra
+ Nhóm rong biển: đã nghiên cứu ứng dụng công nghệ sản xuất
giống một số loài rong biển kinh tế như sản xuất giống dinh dưỡng rong
câu chỉ vàng (Gracilaria asiatica) rong câu cước (G.heteroclada) rong câu
thắt (B.blodgettii), rong câu sợi mảnh (G.tenuistipitata) rong sụn
(Kappaphycú alvarezii)
Về ứng dụng CNSH trong nghiên cứu thức ăn cho động vật thủy sản
nuôi.
Đã ứng dụng công nghệ điều khiển môi trường nôi sinh khối vi tảo
cung cấp thức ăn cho quá trình ương một số loài thủy sản nuôi, công nghệ
sản xuất thức ăn công nghiệp trong nuôi trồng thủy sản.
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong phòng ngừa dịch bệnh
thủy sản.
Đã nghiên cứu xây dựng được quy trình kỹ thuật phát hiện virus gây
bệnh đốm trắng, đầu vàng ở tôm sú bằng phương pháp PCR, hiện được áp
dụng mở rộng trong kiểm dịch bệnh tôm sú, giúp sản xuất kiểm tra chất
lượng giống tôm
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong quản lý môi trường nuôi
thủy sản.
Đã nghiên cứu bước đầu xử lý chất thải bùn ao nuôi tôm, xử lý nước
sạch cung cấp cho ao nuôi tôm, nước thải của các ao nuôi tôm bằng công
nghệ vi sinh hoặc sử dụng công nghệ nuôi ghép rong câu, nuôi hàu, vẹm
xanh trong hệ thống nuôi tuần hoàn nước hoặc áp dụng phương pháp nuôi
sinh thái, nuôi sạch bằng chế phẩm sinh học. Vấn đề nuôi sinh thái và
nuôi sạch đang được khuyến khích áp dụng trong nuôi trồng thủy sản hiện
nay nahừm bảo đảm tạo ra sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người
tiêu dùng trong nước và xuất khẩu
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong kiểm tra dư lượng kháng
sinh, thuốc trừ sâu, kim loại nặng và độc tố, tạo độc trong động vật thủy
sản.
Đã áp dụng các phương pháp mới nhất về vi sinh vật học của NMKL
(Bắc Âu), AOAC và FDA (Hoa Kỳ) để kiểm tra chất lượng hàng thủy sản.
Triển khai áp dụng thành công kỹ thuật ELISA (kỹ thuật miễn dịch gắn
enzim đặc hiệu) là kỹ thuật tiên tiến trong ngành sinh học phân tử để phát
hiện nhanh dư lượng chloramphenicol trong sản xuất thủy sản. Trong thời
gian tới sẽ mở rộng các chỉ tiêu kiểm tra dư lương jchất kích thích sinh
sản, sinh trưởng, histamin và một số kháng sinh bị cấm khác. Đã nghiên
cứu áp dụng kỹ thuật PCR để phát hiện nhanh với độ chính xác cao các vi
sinh vật gây bệnh có trong sản phẩm thủy sản như Salmonella, Shigella.
Kết quả bước đầu đã giúp ngành sản xuất từng bước kiểm soát môi trường
và giảm thiểu dư lượng các chất kể trên trong động vật thủy sản nuôi.
* Về ứng dụng công nghệ sinh học trong chế biến thủy sản
Đã nghiên cứu công nghệ chiết suất một số chất có hoạt tính sinh
học: phycoerythrin, phycocyanin, carageenan từ rong đỏ, enzim
proteinaza, astaxanthin tư vỏ đầu tôm,. công nghệ sử dụng chitosan nâng
cao hiệu suât thu hồi agar trong rong đỏ, một số chất có hoạt tính sinh học
cao trong sam biển. Đã áp dụng công nghệ enzim trong sản xuất nước
mắm. Đã nghiene cứu và sử dụng quy trình công nghệ làm lạnh nước biển
bảo quản sản phẩm hải sản phục vụ cho các tàu đánh cá xa bờ, giảm rõ rệt
chi phí mua và vận chuyển đá. Một vấn đề quan trọng trong lĩnhv ực chế
biến thủy sản hiện nay là nước thải của nhiều xí nghiệp chế biến thủy sản
có mức độ ô nhiễm vượt quá nhiều lần so với quy định cho phép. Để bảo
vệ môi trường chung, trong thời gian qua đã có khoảng 50% số nhà máy
chế biến thủy sản của Việt Nam đã áp dụng công nghệ xử lý thải. Nhiều
cơ sở chế biến thủy sản đã mạnh dạn đầu tư nhập công nghệ và xây dựng
hệ thống xử lý thải.
Về mặt quản lý, trong quá trình thực hiện Nghị quyết 18/CP, ngành
thủy sản đã nghiên cứu và xây dựng nhiều văn bản pháp quy, quy trình,
quy phạm về quản lý môi trường, giống thuốc, chế phẩm sinh học, thức
ăn, xây dựng nhiều tài liệu hướng dẫn kỹ thuật về các mô hình nuôi trồng
và chế biến thủy sản có liên quan đến công nghệ sinh học
Kết quả ứng dụng công nghệ sinh học trong các hoạt động sản xuất
của ngành thủy sản thời gian qua đã góp phần quan trọng tạo ra các kỹ
thuật bảo vệ sản xuất giống, quản lý môi trường, kiểm soát bệnh dịch,
phát triển nuôi trồng thủy sản, mở rộng chế biến, góp pahảm đảm bảo kinh
tế thủy sản tăng trưởng nhanh chóng. Năm 2002, tổng sản lượng thủy sản
đạt 2,410 triệu tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,014 tỷ USD
Thời gian tới, ngành thủy sản tiếp tục thực hiện Nghị quyết 18/CP
của chính phủ, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong mọi lĩnh vực
nghiên cứu và thực tiễn sản xuất của ngành, thông qua chú trọng các giải
pháp về đào tạo bổ sung nguồn nhân lực, ưu tiên triển khai các đề tài
nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ sinh học... nhằm mục tiêu đưa nhanh
các tiến bộ về công nghệ sinh học vào sản xuất nghề cá nước ta, tạo khối
lượng lớn sản phẩm thủy sản đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu, đóng góp tích cực vào tăng trưởng của ngành và của kinh tế đất
nước.
II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
1.Mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Bảng 1.1 Các đầu mối xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu ở Việt Nam.
(Đơn vi:TriệuUSD)
STT Tên Mặt hàng XK
chính
Tỷ trọng
XK2001
Thị trường
1. -Tổng công ty thuỷ sản
Việt Nam(Seaprodex)
Tôm, Mực, Cua,
Cá các loạivà các
loại hải sản thân
mềm
124 Nhật Bản, Trung
Quốc, Singapo,
Mỹ..
2. -Công ty XNK Minh Hải Tôm, Cá đông
lạnh, Mực đông
< 14 Nhật, Singapo,
Nhật, Đài Loan
3. -Công ty CBĐông lạnh
Nha Trang
Tôm Đông Lạnh,
Cua
20 Nhật, Đài Loan
4. -Công ty XNK Tổng hợp
Cà Mau
Tôm đông, Nhuyễn
thể đông, thuỷ sản
khô
36 Nhật , Các nước
ASEAN
5. -Công ty Cá hộp Hạ Long
XK
Cá đông lạnh, Cá
hộp
4,8 CHLB Đức, LiBi,
Trung Quốc.
Nguồn : Bộ thuỷ sản, Tổng cục thống kê 9/2001.
Các công ty xuất khẩu thuỷ sản lớn của Việt Nam là Tổng công ty thuỷ sản
Việt Nam, Công ty xuất nhập khẩu Thuỷ sản Minh Hải, Công ty thuỷ sản xuất nhập
khẩu tổng hợp Sóc Trăng, Công ty chế biến thuỷ sản xuất khẩu Nha trang, Công ty
xuất nhập khẩu tổng hợp Cà Mau.... dù còn nhiều vấn đề phải giải quyết, nhưng các
công ty đã cố gắng để thích ứng dần với môi trường kinh doanh quốc tế và đạt được
vị trí nhất định trên thị trường thuỷ sản quốc tế thông qua việc cung cấp dạng sản
phẩm xuất khẩu phong phú ( hầu như mọi dạng sản phẩm thuỷ sản) ra hầu như khắp
thị trường thuỷ sản lớn của thế giới như Nhật Bản , Hoa Kỳ và liên minh châu Âu (
dù rằng xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn là lớn nhất).
* Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Tổng công ty Thuỷ sản Việt Nam-
(SEAPRODEX) : thị trường trọng điểm của công ty là Nhật Bản chiếm 51% tổng
kim ngạch xuất khẩu của công ty sau đó là các nước ASEAN( 8%) và EU( 8%). Xuất
khẩu sang Mỹ chỉ chiếm 2% trị giá xuất khẩu ra các nước khác. Như vậy, xuất khẩu
sang Đông và Đông Nam á chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
của SEAPRODEX, một tỷ lệ nhỏ khoảng 10% được xuất khẩu sang EU và Mỹ ....Cơ
cấu xuất khẩu của SEAPRODEX có thể đại diện cho cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản
chung của cả nước như đã phân tích ở phần trên.
Cơ cấu này cũng phản ánh những mất cân đối về thị trường xuất khẩu ( tập
trung lớn vào thị trường khu vực Châu á) và giải thích trình độ kỹ thuật nghiệp vụ
chưa cao của doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số công ty xuất nhập thuỷ sản khác của Việt Nam, thì thị
trường truyền thống xuất khẩu của họ cũng là Nhật Bản, các nước ASEAN và các
nước khác trong khu vực , trong đó Singapo hoặc Đài Loan hoặc Hồng Kông là bạn
hàng lớn thứ hai sau Nhật Bản. Chẳng hạn công ty chế biến thuỷ sản đông lạnh Nha
Trang xuất khẩu hàng năm 20 triệu đôla hàng thuỷ sản, thì xuất khẩu sang thị trường
Nhật là 13 trỉệu đôla, xuất khẩu sang Đài Loan là 5 triệu đôla, Công ty xuất khẩu
tổng hợp Cà mau xuất khẩu hàng năm 36 triệu đôla hàng thuỷ sản thì riêng xuất sang
thị trường Nhật đã là gần 30 triệu đôla, các nước ASEAN 1,1 triệu đôla, hay Công ty
xuất khẩu Minh Hải xuất khẩu trên 14 triệu đôla thuỷ sản thì có tới 13 triệu là xuất
sang thị trường Nhật, công ty cổ phần ngoại thương và phát triển đầu tư thành phố
Hồ Chí Minh-FIDECO xuất khẩu 10,9 triệu đôla hàng thuỷ sản năm 1996 thì riêng
xuất sangthị trường Nhật đã là 9,4% triệu đôla còn lại là xuất khẩu sang Singapo
0,67 triệu và Hồng Kông 0,53 triệu đôla..
Điều này hoàn toàn có thể giải thích được, ngay cả khi chúng ta so sánh xuất
khẩu với các nước trong khu vực như Inđônêxia chẳng hạn, Nhật Bản là thị trường
nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ nhất thế giới, Nhật Bản ở gần Việt Nam hơn, hơn nữa
Nhật Bản cũng quan tâm khai thác nguồn hàng từ các nước trong vùng, sự gần gũi
về địa lý do kinh tế , kỹ thuật khác.
Công ty cá hộp Hạ Long, xuất khẩu 4,8 triệu đôla cá đông lạnh và cá hộp xuất
khẩu chủ yếu đi CHLB Đức và LiBi( những thị trường không truyền thống của Việt
Nam ) -3,8 triệu đôla còn lại 1 triệu đôla là xuất khẩu sang Trung Quốc.
Xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản và các nước ASEAN, ngoài những thuận
lợi trên, các công ty xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng phải đương đầu với
những khó khăn lớn.
+Thứ nhất, đó là việc cảm thấy có thị trường tiêu thụ dễ tính hơn sẽ làm giảm
tính năng động và những nỗ lực của các công ty trong việc thực hiện đa dạng hoá thị
trường xuất khẩu.
+Thứ hai, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tuy chủ yếu là sang các thị trường nêu
trên nhưng các nước khác trong vùng cũng xuất khẩu lớn vào thị trường lớn vào thị
trường này và họ thường là những nhà xuất khẩu hàng đầu sang các thị trường đó
chẳng hạn như Inđônexi, Thái Lan, ấn độ, Trung quốc là những là xuất khẩu tôm lớn
nhất không những sang Nhật Bản mà còn sang mọi thị trường khác của thế giới. Việt
Nam hiện nay đang là lực lượng thách thức, tuycác đối thủ phải đè chừng nhưng
những nước trên vẫn giữ vai trò quyết định trên thị trường, và nếu họ gặp khó khăn ở
trên thị trường khác thì họ cũng dễ dàng hơn nhiều trong việc củng cố thị phần ở thị
trường do họ đứng đầu và như vậy Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc tăng thị phần
hay thực hiện một ý đồ thương mại nào đó( vấn đề giá cả, tìm bạn hàng mới hay đưa
sản phẩm mới vào thâm nhập thị trường...)
Ví dụ: Inđônêxia là nước xuất khẩu tôm lớn nhất sang thị trường Nhật bản
những năm qua và có những lợi thế cơ bản của nước đứng đầu như sau:
* quan hệ truyền thống với các nhà đầu tư và nhập khẩu , Nhật Bản đã giúp
cho sản phẩm của Inđônêxia có vị trí vững vàng trên thị trường Nhật bản.....
Chính các nhà nhập khẩu Nhật Bản chứ không phải các nhà xuất khẩu
Inđônêxia đã làm cho người tiêu dùng Nhật Bản quên thuộc với những loại tôm của
Inđônêxia ngay cả tôm sú nuôi của Inđônêxia cũng được chấp nhận rộng rãi ở
NhậtBản vì chất lượng tốt thậm chí giá có cao hơn từ các nguồn cung cấp khác.
* Vì có quan hệ truyền thống rất gắn bó với các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các
nhà chế biến và xuất khẩu Inđônexia coi thị trường Nhật Bản là thị trường lớn nhất
và là sự lựa chọn đầu tiên của họ. Vì Nhật Bản là thị trường trả giá cao nhất so với
các thị trường khác trong khi cũng đòi hỏi rất cao về chất lượng, các vấn đề trong
buôn bán cũng như các vấn đề khác nhiều khi được giải quyết không chính thức để
đảm bảo lợi ích của cả hai bên. Liệu Việt Nam có thể được ưu ái như vậy của thị
trường Nhật Bản hay không? Dù rằng để đổi lại các nhà sản xuất và chế biến
Inđônexia luôn bày tỏ thiện chí đối với thị trường Nhật Bản và đảm bảo giữ vững thị
phần ở thị trường này. Khi sản lượng giảm sút, Inđônêxia có thể giảm xuất khẩu
sang các thị trường khác cũng vẫn cố gắng duy trì xuất khẩu sang Nhật Bản ....
Ngoài ra, khi những thị trường này có khó khăn hay trì trệ, chẳng hạn những
khó khăn về kinh tế tài chính ở các nước Đông và Đông Nam á hiện nay, với sự trì
trệ nhập khẩu của các thị trưòng NhậtBản , Hàn Quốc... sẽ gây khó khăn lớn hơn cho
các nhà xuất khẩu thuỷ sản, Việt Nam khi không có được các thị trường thay thế và
họ không đủ mạnh so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Xét về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu, hàng thuỷ sản đông lạnh chiếm gần
70% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu của tổng công ty ( Tôm đông là 39%, Mực
đông là 17%, Cá đông là 10%, Cua đông gần 1%, Nhuyễn thể đông là 1%, thuỷ sản
khô chiếm 5% còn lại là các loại sản phẩm khác. Cơ cấu này mang tính điển hình
của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và có thể đại diệncho cơ cấu xuất khẩu của các
doanh nghiệp thương mại về hàng thuỷ sản ở Việt Nam như Công ty xuất nhập tổng
hợp Cà Mau, Công ty FIDECO, Công ty thuỷ sản xuất nhập khẩu tổng hợp Sóc
Trăng- STAPIMEX...
Tuy nhiên cơ cấu trên không đại diện cho các đơn vị chế biến hàng thuỷ sản
xuất khẩuchuyên môn hoá như Công ty đồ hộp Hạ long sảnphẩm xuất khẩu chủ
yếulại là Cá hộp ( 79%) , Cá đông lạnh ( 21%) hay Công ty chế biến thuỷ sản xuất
khẩu Nha Trang xuất khẩu chủ yếu hàng thuỷ sản đông lạnh ( trên 95%, riêng tôm
đông 93%), Xí nghiệp cầu tre xuất khẩu 100% hàng thuỷ sản đông lạnh gồm các loại
cá, cua, mực và các loại nhuyễn thể khác...
Điều cũng cần phải nói thêm là, ngoài sự mất cân đối về tỷ lệ giữa cá và các
loại giáp xác, nhuyễn thể đông lạnh ( Việt Nam 10% cá và 60%-70% giáp xác và
nhuyễn thể /100% xuất khẩu thuỷ sản, thế giới 40%cá, 33% giáp xác và nhuyễn thể /
100% xuất khẩu thủy sản) thì thống kê về xuất khẩu của thế giới còn bao gồm cả
dạng cá và giáp xác, nhuyễn thể tươi sống hay ướp đá nữa còn của Việt Nam tỷ lệ
trên hầu hết là đông lạnh sơ chế và chính dạng sản phẩm thuỷ sản sống được xem
như một dạng thuỷ sản buôn bán quốc tế có giá trị gia tăng cao, vì vậy xuất khẩu thuỷ
sản của Việt Nam còn vấn đề lớn phải giải quyết là cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu.
2.Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Hơn 10 năm với sự nỗ lực trong việc tăng cường và mở rộng thị
trường xuất khẩu thuỷ sản. Từ chỗ chỉ xuất khẩu qia 2 thị trường trung
gian là hồng công và Singapo, thì ngày nay sản phẩm của Việt Nam đã có
mặt ở 62 quốc gia trên khắp thế giới và được nhiều quốc gia ưa chuộng.
Đặc biệt vào năm2001 Việt Nam đã có 49 doanh nghiệp được EU công
nhận vào danh sách xuất khẩu thuỷ sản và nhuyễn thể hai mảnh vỏ, 60
doanh nghiệp được công nhân vào thị trường Bắc Mỹ đã góp phần làm
tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Hiện nay chúng ta có 5 thị trường xuất khẩu chính Nhật Bản, Mỹ,
EU, Trung Quốc và khu vực Đông Nam á. Mỗi thị trường có đặc tính khác
nhauvà cho lượng kim ngạch xuất khẩu khác nhau thể hiện cơ cấu sau.
Bảng: Cơ cấu thị trường thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam.
Đơn vị: Kim Ngạch xuất khẩu thuỷ sản: triệu USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
KNXKTS cả nước 670 776 858,6 971 1478,6 1760,1 2021
KNXKTS vào Nhật Bản 319,34 360,41
3
347,10
3
353,37
8
469,02
2
471,03 540,1
Tỷ trọng 47,6 46,4 40,4 42,46 33 27%
KNXKTS vào Mỹ 28,527 42,652 81,551 125,59
5
304,35
9
500,8 600,9
Tỷ trọng 4,25 5,5 9,5 13 20,58 32%
KNXKTS vào Eu 34,799 69,619 91,539 89,113 100,26
3
Tỷ trọng 5,2 8,97 10,66 9,17 6,78
KNXKTS vào T.Quốc
Hồng Kông
91,881 118,01
3
137,51
5
117,09
8
213,15
6
279 314
Tỷ trọng 13,7 15,2 16,01 12,06 19,8 15,7%
KNXK thị trường khác 195,45
3
185,30
3
200,89 226,81
6
Tỷ trọng 32,1 24,7 23,3 23,25 19,9
Nguồn: Qui hoạch tổng thể PT KT - XH
Để hiểu được rõ khả năng, nhu cầu mỗi thị trường thì ta đi vào từng
thị trường riêng biệt sau:
2.1. Thị trường Mỹ.
Đây là một thị trường có sức mua lớn với những đặc sản có giá trị
cao ngày càng dễ bán, nhưng phải đạt tiêu chuẩn HACCP và phải bảo đảm
điều kiện cam kết. Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này là
28,527 triệu USD và đạt tỷ trọng 4,25% đến năm 1999 đạt là 125,595 triệu
tấn, năm 2000 lên 304,359 triệu USD tăng 2,32 lần năm 2001 tăng 500,1
triệu USD tăng so năm 1999 là 3,85 lần và năm 2002 lên 600,9 triệu USD
tăng so năm 1999 là 4,62 lần. Thị trường Mỹ từ năm 2001 - 2002 đã
chiếm nguôi đầu bảng với tỷ trọng chiếm khoảng 32% tổng kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản hàng năm của Việt Nam.
2.2. Thị trường Nhật Bản
Hai mươi năm qua nhật bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ sản
với khối lượng lớn từ Việt Nam, bởi vậy đã có 150 doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu sang thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản năm 1996 là 319,34 triệu USD và đạt tỷ
trọng là 47,6% đến năm 1999 là 319,34 triệu USD và đạt tỷ trọng là
47,6% đến năm 1999 là 353,378 triệu USD; năm 2000 là 469,022 triệu
USD năm 2001 đạt 471 triệu USD và đến năm 2002 đã đạt 540 triệu USD,
chiếm tỷ trọng 27%. Nhưng ta thấy tỷ trọng của thị trường này có xu
hướng giảm dần vào những năm gần đây.
Việc giảm tỷ trọng này được giải thích như sau:
Năm 1997, do ảnh hưởng biến động kinh tế trong khu vực và do sự
mất giá của đồng Yên. Mặt khác do một số nước bị đình chỉ hay bị hạn
chế xuất hàng sang EU nên đã chuyển sang thị trường khác trong đó có thị
trường Nhật Bản, tạo cạnh tranh gay gắt với hàng thuỷ sản Việt Nam. Bên
cạnh đó, chính phủ Nhật Bản tăng thuế ban hàng đã khiến hàng thuỷ sản
xuất khẩu của Việt Nam tại Nhật Bản giảm về tỷ trọng. Tuy nhiên Nhật
Bản vẫn là thị trường chiếm tỷ trọng xuất khẩu lớn nhất, vào thời điểm
1997 là 47,6% và hiện nay đứng thứ 2 sau Mỹ là 27%
Vào năm 2002 kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này 540,1 tỷ
USD xuống mức thấp nhất từ trước tới nay 27%. Trong năm2002 nền kinh
tế vẫn bị suy thoái đồng Yên bị mất giá so với đồng USD. Tuy nhiên nếu
so với tỷ trọng 80% của thị trường Nhật vào đầu thập kỷ 90 thì ta thấy rõ
quá trình đa dangj hoá thị trường, giảm sự lệ thuộc vào một thị trường duy
nhất xuất khẩu Việt Nam.
Kết luận: Thị trường khổng lồ này thì thị phần Việt Nam vẫn khiêm
tốn. Nếu chúng ta tập trung khai thác triệt để hơn thì khả năng lớn xuất
khẩu của Việt Nam còn lớn hơn. Vì vậy chúng ta nhanh chóng tiến cải
tiến công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu để nâng cao chất lượng sản
phẩm đó, bên cạnh đó chúng ta đa dạng hoá hơn nữa những sản phẩm xuất
khẩu như đồ hộp, nhuyễn thế hai vỏ...
2.3. Thị trường Trung Quốc - Hồng Kông
Với đất nước 1,3 tỷ dân đang yêu cầu về hàng thuỷ sản rất phong
phú và đa dạng, chất lượng từ thấp tới cao. Đây chính là cơ hội tạo cánh
cửa "mở rộng" để các hàng thuỷ sản Việt Nam thâm hập dễ dàng hơn.
Tầng lớp giàu có đòi hỏi hải sản phải "chất lượng cao" bởi họ "sính" hàng
nhập khẩu hơn hàng xuất trong trong nước còn đại đa số người Trung
Quốc có mức sống trung bình nên hàng thuỷ sản cũng không đỏi hỏi chất
lượng cao họ thích ăn hàn khô, muối, được tiêu thụ rất mạnh ở các tỉnh
giáp biên giới.
Nắm bắt nhu cầu đó, chúng ta nhanh chóng sản xuất mặt hàng thích
ứng cho từng đối tượng tiêu dùng, thâm nhập sâuvào thị trường Trung
Quốc, do vậy giá trị hàng thuỷ sản Việt Nam vào Trung Quốc trong những
năm gần đây đạt mức cao: năm 1996 kim ngạch xuất khẩu 91,881 triệu
USD, đến năm 1999 là 117,098 triệu USD, năm 2000 là 223,156 triệu
USD năm 2001 là 279 triệu USD và năm 2002 là 314 triệu USD chiếm
15,7%.
Số doanh nghiệp đặt chân và thâm nhập được vào thị trường Trung
Quốc cũng ngày càng tăng. Nếu năm 1998 mới có 52 doanh nghiệp Việt
Nam xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc thì đến năm 2002 ta có 100
doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc.
Thuận lợi lớn nahát khi thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Trung
Quốc hiện nay là về chất lượng người tiêu dùng chưa đòi hỏi khắt khe như
thị trường EU, Mỹ, Nhật Bản. Mặt khác khi đã quen hãng thì thị trường
này tiêu thụ khối lượng lớn, có những mặt hàng chúng ta không cung cấp
đủ. Dự kiến đến năm 2005 nhu cầu thuỷ sản của Trung Quốc có thể vượt
trên EU chỉ đứng sau Mỹ và Nhật Bản... Phải thắng đây là cơ hội lớn cho
ngành thuỷ sản nước ta.
2.4. Thị trường EU
Với 15 thành viên, 337 triệu dân, GDP hơn 9.000 tỷ USD/năm nên
hàng năm thị trường này chủ yếu tiêu thụ những mặt hàng có chất lượng
cao. Đây là thị trường nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam lớn thứ ba, với mức
tiêu thụ thuỷ sản lớn, trung bình khoảng 17kg/người/năm, tăng dần hàng
năm 3%. Giá mặt hàng thuỷ sản ở thị trường EU cũng cao, hơn so thị
trường Châu á trung bình khoảng 1,1, - 1,4 lần và có tính ổn định. Trong
15 nước Việt Nam đã có quan hệ thương mại 12 nước, áp dụng thống nhất
chính sách và chế độ quản lý xuất khẩu cho 15 nước.
Việt nam bắt đầu quan hệ ngoại giao với EU từ tháng 10/1980 tính
đến nay có quan hệ hơn 10 năm. Từ tháng 1/1995, hai bên tham gia hiệp
định khung hợp tác thương mại Việt Nam - EU Việt Nam hưởng chế độ ưu
đãi thuế quan phổ cập GSP. Theo chế độ này, tuỳ theo mức độ nhạy cảm
của hàng hoá (mức độ ảnh hưởng đến sản xuất của EU) mỗi mặt hàng có
thể giảm từ 15,3 - 65% mức thuế MFN áp dụng một hàng đó thậm chí còn
được miến thuế. . NHờ đó kim ngạch xuất khẩu sang EU chiếm khoảng
20-28% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong số hàng hoá xuất khẩu
chủ yếu song EU thuỷ sản là mặt hàng quan trọng, chiếm khoảng 10%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang EU. Giá trị kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản vào EU năm 1996 là 34,7999 triệu USD chiếm tỷ trọng là 5,2%,
đến năm 1999 là 89,113 triệu USD chiếm 9,57% trong tổng kim ngạch cả
nước. Vì yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm
nên hàng thuỷ sản Việt Nam không được EU đánh giá cao. Năm 2000 Việt
Nam chỉ có 18 doanh nghiệp được EU công nhận danh sách I xuất khẩu
vào EU và hiện nay kim ngạch cuả Việt Nam vào thị trường EU chỉ ổn
định trong khoảng 80-100 triệu USD.
Tóm lại thị trường EU là thị trường rộng lớn nhưng đòi hỏi chất
lượng cao yếu tố chế biến vẫn là yếu tố hàng đầu trong thị trường này. Vì
vậy, để cải biên thị phần trong thị trường này thì Việt Nam cải biến công
nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm.
2.5. Thị trường khác.
Ngoaif các thị trường chính ở trên, với chủ trương mở rộng tìm
kiếm thị trường xuất khẩu của bộ thuỷ sản, Bộ thương mại với thị trường
khác: ASEAN, úc, Đài Loan... Được nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan
tâm hơn.
- Thị trường khu vực ASEAN là thị trường dễ tính hàng năm nhập
khẩu hàn thuỷ sản Việt Nam với tỷ trọng cao và tăng đều qua các năm.
Hàng thuỷ sản xuất khẩu trong khu vực chỉ đứng sau đầu thô, gạo, kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường khu vực năm 2000 là 79,889 triệu USD
(chiếm 5,4%) tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
- Thị trường Hàn Quốc: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào thị
trường này năm 2000 là 73,02 triệu USD. Hiện nay chính phủ Hàn Quốc
đã triển khai chính sách bảo vệ nguồn lợi biển và ký các hiệp định nghề
cá đơn phương và đa phương với Nga và T.Quốc, sẽ cắt giảm và hạn chế
sản lượng khai thác trong 5 năm tới. Hiệp định này tăng cường nhập khẩu
từ các nước, trong đó có Việt Nam.
- Thị trường Đài Loan: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị
trường Đài Loan khá cao 1999 là 55,171 triệu USD đến năm 2000 là
68,233 triệu USD. Năm 1999 khi chính quyền Đài Loan công bố chính
sách mới về quản lý hàng nhập khẩu bằng han ngạch, giấy phép và kiểm
dịch đối một số mặt hàn trong đó có thuỷ sản nên đã hạn chế doanh
nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. Tuy nhiên thị trường này vẫn phát
triển, đây là thị trường tiêu thụ nhiều tôm sú, cá cơm và mực ống, đặc biệt
là cá ngư với giá tương đối ổn định và năm 2002 tốc độ tăng trưởng thị
trường này là 5%.
Ngoài ra còn nhiều thị trường khác cũng có thị phần xuất khẩu của
Việt Nam tương đối như Canada, Nauy....
3.Những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay.
Để đáp ứng nhu cầu thị trường thị trường của các nước trong khu vực và thế giới
những sản phẩm được ưa chuộng, tiêu dùng. Trên cơ sở tiềm năng kinh tế, chúng ta
nuôi trồng và khai thác các loại sản phẩm chủ yếu; tôm, mực …vv. Chủ yếu là sản
phẩm xuất khẩu của Việt Nam những sản phẩm này được ưa chuộng chủ yếu ở các
nước Nhật Bản,Mỹ,Hồng Kông.Nó đạt được thể hiện qua bảng sau:
Bảng: Tổng hợp tình hình sản phẩm chủ yếu (1995- 2001)
STT Sản phẩm 1995 1998 1999 2001 2002
1 Cá 209142 2856626 335979 391053 421020
2 Tôm 55316,0 54886,4 57452,0 93503,1 154911.0
3 Mực khô 4012 4100 3585 3212 4010
4 Thuỷ sản 3320 5724 5984 8865 14500
Trong những sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam hiên nay cả đang chiếm vị trí đầu, có
giá trị kinh tế cao. Cá là sản phẩm thực sự mang lại giá trị gía trị suất khẩu cho nền
kinh tế thuỷ sản Việt Nam. Cá rất phong phú về chủng loại như: Cá tra- Cá ba sa, cá
hồng 4,16%, cá mòi 7,17%, cá chim ấn độ 1,16% …Ngoài ra nhiều loại cá khác có
giá trị kinh tế cao như cá chuồn, cá ngừ, cá lầm,cá trích…Và nó đựơc mở rộng thị
trường xuất khẩu cho nhiều nước hiện nay như: Mỹ Nhật Bản, EU…
Đứng sau cá là tôm xuất khẩu năm 1995 là 55316,0 tấn đến năm 2001 là
154911,0,nó chiếm vị trí cao trong hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế. Tôm là mặt hàng
cũng có nhiều chủng loại:Tốm sú,tôm chân trăng tôm càng xanh tôm hùm chúng có
thể được khai thác hoăc nuôi trồn.
Ngoài tôm và cá, mực cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị chiếm khoảng 10-15%
giá trị xuất khẩu, mức tập trung chủ yếu vùng Thanh Hoá, Qui Nhơn…Các vụ khai
thác mực chủ yếu vào tháng năm đến tháng 12 đó là mực ống, Mực lang từ tháng 1
đến tháng 3.
Ngoài các sản phẩm chính trên thì các sản phẩm khác ngành thuỷ sản cũng góp
phầm rất lớn cho xuất khẩu như (ba ba…) và nó góp phần vào kim nghạch thuỷ sản
Việt Nam.
4. Giá cả thuỷ sản Việt Nam.
Do những đặc điểm như trên của hoạt động xuất khẩu, xuất khẩu của chúng ta chủ
yếu là những nguyên liệu thô, lại xuất khẩu qua khâu trung gian chưa thiết lập thị
phần cần thiết ở các thị trường lớn. Nên giá thuỷ sản của Việt Nam thường thấp hơn
so các nước trong khu vực và thế giới. Hơn nữa trong quá trình xuất khẩu chung ta
còn bị ép gia do nứơc sở tại đưa ra nhiều lý do này hay lý do khác, giá thể hiện qua
bảng sau:
Năm KNTSXK
(Triêu: USD)
Giá KNTS bình
quân (USD/
kg)
Mức độ tăng trưởng
Tuyệt đối Tương đối (%)
1995 550 4,3
1996 670 4,45 0,15 3,48
1997 776 4,13 - 0,32 - 7,2
1998 858,6 4,09 - 0,04 0,96
1999 971,1 4,13 0,04 0,97
2000 1478,6 5,06 0,93 22,51
2001 1777,6 6,8 1,74 34,38
Nguồn: Bộ Thương Mai
Quabiểu đồ ta thấy gia thuỷ sản tuy có biến động nhưng rất nhỏ, thể hiện qua
đường biểu diễn: vào năm 1995 gia bình quân xo là 4,3 USD/ kg; năm 1996 là 4,45
USD/ kg, cao hơn năm 1995 là 0,15 USD/kg tức là 3,48%. Nhưng đến năm 1997 chỉ
còn 4,13 USD/kg, giảm 0,32 USD/kg tương đương với 7,2 %. Nguyên nhân do tình
trạng giảm này là do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á đã ảnh
hưởng tới sức mua nguyên liệu và giá xuất khẩu thuỷ sản. Cuộc khủng hoảng làm
ảnh hưởng sang năm 1998 là 4,09 USD/kg giảm 0,04 USD/kg ( tức là 0,96%). Đến
năm 1999, 2000 giá xuất khẩu đã dần phục hồi và tăng. Năm 2001 giá trung bình
thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam là 6,8 USD/kg, tăng là 1,74 USD/kg( tương ứng là
34,38%).
Giá bình quân của mặt hành xuất khẩu thuỷ sản trong nhưng năm qua tăng do góp
phầm của giá những mặt hàng sau:
- Mặt hàng tôm đông lạnh, trong năm qua mặt hàng này tăng đáng kể, Năm 1999
là 6,84 USD/kg, năm là 9,8 USD/kg, đến năm 2001 là 10,8 USD/kg, tăng nó
phầm vào giá trung bình của Việt Nam trong nhưng năm qua.
- Mặt hàng mực đông ổn định hơn so mặt hàng khác từ năm 1997 là 4,26
USD/kg; năm 1999 giá 4,75 USD/kg; năm 2000 giá mặt hàng này đã giảm với
một lượng nhỏ hơn so với năm trước và đạt 3,88 USD/kg, sang năm 2001 giá
mặt hàng này đã được phục hồi trở lại gia trị đã đạt được 4,97 USD/kg.
BiÓu ®å gi¸ trung b×nh thuû s¶n ViÖt Nam
0
1
2
3
4
5
6
7
8
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
U
S
D
/k
g
- Ngoài những mặt hàng trên thì mặt hàng cá có giá trị kinh tế cao, cũng tang
trong những nam gần đây như giá cá tra, cá basa, cá hồng..
Nguyên nhân tăng giá trong nhưng năm qua là do trình độ công nghệ của
chúng ta trong những năm qua đã nhiều tiến bộ. Nên nó đã đóng góp rất lớn vào
chất lượng cũng như giá cả hàng thuỷ sản xuất khẩu. Bên cạnh đó, trong những
năm gần đây, giá một số mặt hàng xuất khẩu tăng lên là do tăng giá quốc tế hàng
thuỷ sản; ví dụ tăng gia quốc tế hàng tôm trong những năm vừa qua giúp Việt Nam
tăng kim nghạch xuất khẩu hàng thuỷ sản. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác
dẫn tăng giá xuất khẩu.
Kết luận: Xét trên những đặc thù hàng xuất khẩu Việt Nam về cơ cấu dạng sản
phẩm xuất khẩu, về mức giá xuất khẩu so với mức giá cả trung bình của thế giới và
về các tương quan khác. Việt Nam có thế mạnh về mức giá thấp hơn so hàng cùng
loại trong khu vực là 75%- 85%. Tuy nhiên, chung ta cũng đẩy mạnh việc tăng giá,
nhưng phải bảo đảm hảng thuỷ sản Việt Nam có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị
trường quốc tế đảm bảo kim nghạch của Việt Nam hàng năm tăng là 20%. Như
vậy, muốn tăng giá thuỷ sản xuất khẩu thì trong thời gian tới Việt Nam cần thay
đổi cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu, nâng cao tỷ trong hàng chế biến sâUSD/kg
như đồ hộp thuỷ sản xuất khẩu hay thuỷ sản ăn liền, cũng như áp dụng những công
nghệ vào thuỷ sản có giá trị cao là chiến lược lâu dài.
5. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản.
Hoạt động thuỷ sản trong những năm qua do sản lượng và giá cả tăng thương
xuyên lên kim ngạch thuỷ sản cũng tăng: Năm 1996 sản lượng thuỷ sản xuất khẩu
tăng 17,85% so với năm 1995, tăng tương ứng là 22.800 tấn; giá trị kim ngạch tăng
21,81% tăng là 120 triệu USD so với năm 1995.
Đến năm 1997,1998 sản giảm dầm lên kim ngạch cũng giảm dầm. năm 1998 sản
lượng tăng là 11,59% lên kim ngạch trong thời gian này đạt 10,58% thể hiên qua
bảng sau:
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thời kỳ ( 1995 - 2002)
Năm KNXKTS ( tấn) Mức độ tăng trưởng
Tương đối Tuyệt đối
1995 550
1996 670 120 21,81
1997 776,4 106,4 15,88
1998 858,6 82,2 10,58
1999 971,1 112,5 13,18
2000 1478,6 507,5 52,26
2001 1777,6 299 20,22
2002 2021 243,4 13,69
Nguồn: Vụ Tổng Hợp KTQD – Bộ kế hoạch và Đầu Tư.
Với năm 1997,1998 kim ngạch thấp như vây là do ảnh hưởng cuộc khungr hoảng
tài chính tiền tệ bắt đầu tư khu vực đông Nam á và lam sang toàn thế giới, mặt khác
sự giảm sút này là cũng do nhiều thị trường truyền thống bị thu hẹp ví dụ như thị
trừng chỉ băng 90% so năm trước.
Năm 1999, tình hinh kim ngạch có thấy đổi khác rất nhiều so năm trước đó sản
lương xuất khẩu đã tăng lên là 12,1% có ngiã là tăng 25375 tấn, kim ngạch đã tăng
lên là 13,1% và đạt kim ngạch là 112,5 triệu USD . Sự tăng trưởng trong những năm
này là do giá cả, tình hình kinh tế đã ổn định hơn, bên cạnh đó chung ta đã tăng
cương mở rông đa dang nhiều thị trường hơn.
Năm 2000,2001 kim ngạch đã có bước đột phá nhanh chóng, từ chỗ đạt kim ngạch
năm 2000 đạt là 1478,6 triệu USD và năm 2001 là 1777,6 triệu USD tăng tương ứng
là 52% và 20,22% đã đánh dấu những khởi sắc cho nghành thuỷ sản tư trước đến
nay. Đặc biệt là năm 2002 chúng ta đã đạt kim ngạch theo đúng kế hoạch đã đề ra,
chúng ta đã thực hiện được là 2021 triệu USD, đã tăng là 243,4 triệu USD, tăng
tương ứng là 13,69%
Nói tóm lại, kim ngạch thuỷ sản Việt Nam tăng trong những năm qua là do chúng
ta có sự mở rông thị trường, tăng cường áp dụng những công nghệ tiên tiến vào các
khâu của ngành thuỷ sản và tăng cường mở rông diện tích nuôi trồng những yếu tố đó
lam kim ngạch lớn lên.
III. Những kết luận rút ra từ thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản.
1. Những nhận định xu hướng xuất khẩu thuỷ sản 10 năm tới và triển vọng của
Việt Nam.
Theo dự báo của nhiều chuyên gia kinh tế, trong thời kỳ 2001 2004
nhu cầu thủy sản trên thị trường thế giới sẽ lớn hơn cung, giá phần lớn
các loại thuỷ sản sẽ tăng lên cao hơn hiện nay. Trong khi đó sản lượng
khai thác hải sản thì không tăng có xu hướng giảm sút vì nguồn lợi hải
sanr có hạn, mà sản lượng khai thác thuỷ sản tăng nhờ vào nuôi trồng.
Cũng theo các chuyên gia dự báo trong vòng 10-20 năm tới, sản lượng
nuôi trồng thuỷ sản phải tăng lên: 50 tấn. Đây là cơ hội cho Việt Nam
trong xuất khẩu thuỷ sản, tuy nhiên cũng là thách thức đối với Việt Nam.
Xu hướng trong tương lai ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ đối đầu cạnh
tranh rất gay gắt với các nước trong khu vực và thế giới như: Thái Lan,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ... về khai thác cũng như chế biến.
Thậm chí có những nước không có nguồn tài nguyên xuất khẩu, nhưng
nhưng họ nhập nguyên liệu về chế biến dựa vào công nghệ của họ trên
thực tế họ vừa là nước xuất khẩu cũng là nước nhập khẩu.
Tóm lại trình độ công nghệ chế biến thuỷ sản xuất khẩu quyết định
rất lớn đến sản lượng thuỷ sản xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản,
cơ cấu sản sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, giá và những yêu tố khác... như
vậy Việt Nam muốn thúc đẩy thuỷ sản xuất khẩu không chỉ dựa vào nguồn
tài nguyên mà phải nâng cao trình độ công nghệ chế biến và mở rộng thị
trường hơn nữa.
2. Những thành tự đã đạt được.
* Về sản lượng nuôi trồng và khai thác xuất khẩu.
Chúng ta đã đạt được sản lượng nuôi trồng và khai thác xuất khẩu
đáng kể. Với sản lượng tăng trưởng tốc độ trung bình tương đối cao
17,8%/năm trong giai đoạn 1995-2000 (từ 127.000 tấn vào năm1995 tăng
lên vào năm 2000 là 291.923 tấn). Trong đó các mặt hàng xuất khẩu chính
của Việt Nam là tôm đông lạnh, cá đông lạnh mực đông lạnh, mực khô...
Về nuôi trồng chung ta mở rộng nhiều diện tích nuôi trồng đặc biệt
đồng bằng sông cửu long, nhiều diện tích hoang hoá đưa vào sử dụng và
khai thác nuôi trồng.
Về tầu thuyền chúng ta đưa nhiều tàu thuyền có mã lực lớn để khai
thác như năm 2001 công suất bình quân năm tầu đưa vào khai táhc là
42,2CV/ chiếc đến năm 2002 là 42,8 CV/chiếc như vậy tầu thuyền đánh
bắt cũng ngày càng hiện đại hoá đó là kết qảu cở bản của ngành thủy sản
về nuôi trồng và đánh bắt.
* Về thị trường xuất khẩu.
Trong những năm qua sự nỗ lực trong việc tăng cường và mở roọng
thị trường xuất khẩu thuỷ sản đã và dang vươn ra thị trường thế giới. Từ
chỗ chỉ xuất khẩu qua hai thị trường (Hồng Kông, Singapo) hiện nay hàng
thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam đã có mặt ở nhiều nơi trên thế giới như (Mỹ,
EU, Trung Quốc, Hàn Quốc...) hiện nó vấn được các doanh nghiệp Việt
Nam tìm kiếm thị trường và chiếm lĩnh thị trường thế giới.
* Về cơ bản sản phẩm xuất khẩu.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu cũng có nhiều thay dodỏi.
Nó đã thay đổi theo nhu cầu của từng nước, từng khu vực.
+ Tỷ trọng những mặt hàng xuất khẩu có giá trị tăng lên những mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu như tôm (tôm càng xanh, tôm chân trắng...), cá
(cá tra - basa) cá ngừ đại dương, các loại mực những mặt hàng này góp
phần lớn vào kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
* Về kim ngạch xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu đã thayđổi vị trí đáng kể từ trỗ có kim ngạch
xuất khẩu rất thấp hiện nay kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đứng thứ 3 sau
dầu thô, thàng dệt may. Từ chỗ kim ngạch xuất khẩu năm 1998 là 0,858 tỷ
USD đến năm 2001 là 1,7 tỷ USD. Đó là thay đổi rất nhiều về kim ngạch
trong những năm gần đây.
* Giá thuỷ sản:
Chúng ta quan tâm nhiều đến công nghệ chế biến nên chất lượng thuỷ sản
tăng cao. Nên giá thuỷ sản ta cũng tăng lên rất to từ chỗ giá thấp 4,3
USD/kg/năm 1995 tăng lên 5,06USD/kg (200) và năm 2002 là.......... Tuy
vậy giá thuỷ sản của ta vẫn còn thấp so với trong khu vực và thế giới đó
là điều phải quan tâm hiện nay.
* Đã đào tạo được đội ngũ doanh nghiệp thuỷ sản
Sự phát triển ngành thuỷ sản lôi kéo nhiều lao động. Cũng trên cơ sở đó,
đội ngũ doanh nghiệp thuỷ sản có kiến thức và kinh nghiệm được đào tạo
có trình độ cao. Nhiều kỹ sư thuỷ sản họ nắm bắt được kiến thức và tiếp
cận những khoa học kỹ thuật hiện đại ứng dụng trong ngành phục vụ cho
xuất khẩu. Đó là điều kiện nuôi dưỡng ngành thuỷ sản tương lai
3. Những mặt tồn tại
Tuy những thành tựu đạt được trong năm qua là lớn nhưng nó chỉ
đánh giá được những bước đầu phát triển ngành thuỷ sản thực sự chưa
tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trong hoạt động ngành thuỷ sản
còn bộc lộ nhiều điểm yếu kém
3.1. Về khâu nuôi trồng và quy hoạch ngành thuỷ sản
Khâu nuôi trồng thuỷ sản, luon là khâu trung tâm và được quan tâm
hiẹn nay. Nó luôn luôn tồn tại mặt hạn chế như:
- Khâu giống tôm: làm giảm năng suất nuôi tôm do chúng ta chưa
chủ động các giống tôm, chất lượng con giống nhiều khi nhập ngoạ kém.
dẫn tình trạng chết hoặc bị sâu bệnh khi nuôi. Có giống tôm không chịu
điều kiện môi tường của ta mà chết. Tình trạng đó gây thiệt hại rất lớn
ngành thuỷ sản.
- Khâu giống cá: cũng vậy giống cá, tình trạng cá nhập từ bên ngoài
kém chất lượng, khả năng chống chọi thời tiết khó khăn, gây chết hoặc
sâu bệnh. Nhiều loại cá có khả năng sinh trưởng rất kém cho được khối
lượng từ 4-5 kg/con như: cá mè hoa (Trung Quốc) nhưng khối lượng đó
toàn tập trung ở đầu v.v...
Khâu quy hoạch trong nuôi trồng mấy năm gần đây diễn ra hết sức
phức tạp: tình trạng tự phát trong sản xuất, thể hiện rõ nhất qua quá trình
chuyển mục đích sử dụng diện tích đất canh tác sang nuôi trồng thuỷ sản
(tỉnh Nam bộ...), hay dự án được quy hoạch diễn ra rất chậm chạp
Đó là vấn đề nhức nhối tron gnt và quy hoạch hiện nay diễn ra hầu
hết các địa phương có nuôi trồng thuỷ sản.
3.2. Về khai thác hải sản xa bờ
Về sản phẩm khai thác hải sản xa bờ thường rất bấp bênh chưa có
tính ổn định, năng suất thấp. Tình trạng đánh bắt xa bờ còn mang tính
mùa vụ, chủ yếu khai thác cá nhỏ. Thực sự chúng ta chưa khai thác những
tiềm năng mà ta có
Phương tiện đánh bắt: tuy đã có tàu, thuyền có công suất lớn đưa
vào khai thác. Nhưng so các nước trong khu vực, trêntg thì tầu, thuyền
của ta còn quá nhỏ để có thể khai thác xa bờ hơn. Điều đó làm hạn chế rất
lớn việc tăng sản lượng thuỷ sản.
Bên cạnh đó chúng ta gặp khó khăn rất lớn về vốn cho việc xây
dựng cơ sở hạ tầng cho việc đánh bắt xa bờ như: hệ thống cảng cá, chợ cá,
bến cá, hệ thống dịch vụ, hậu cần, điều tra nguồn lợi thuỷ sản xa bờ; hệ
thống thông tin liên lạc; đào tạo cán bộ, thuyền viên; khâu tiêu thụ sản
phẩm... Đó là trương trình thực hiện đồng bộ chúng ta đầu tư cho việc
khai thác hải sản xa bờ, đồng hạch toánời yêu cầu về công tác quản lý cao
hơn.
3.3. Về chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản
Chất lượng và vệ sinh an toàn sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu.
Do điều kiện về khai thác và chế biến vẫn còn lạc hậu lên về chất
lượng và vệ sinh an toàn vẫn còn thấp, chưa đạt được tiêu chuẩn quốc tế,
chưa phù hpj với yêu cầu của các nước nhập khẩu lớn. Mặt khác mặt hàng
chủ yếu qua sơ chế nên giá trị thấp. Nên hàng năm lượng xuất khẩu thuỷ
sản ta vẫn bị hạn chế bởi lý do đó sang các thị trường có yêu cầu cao như:
Mỹ, EU, Nhật Bản.
* Về thị trường xuất khẩu thuỷ sản
Thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam chưa có vai trò đáng kể trong các
thị trường xuất khẩu. Mà nó chỉ có vai trò cụ thể một vài thị trường trọng
điểm thường xuyên xuất sang như: Nhật Bản, và các nước trong khu vực
Thái Lan, Indonexia, Singapore.
Mặc dù ta đã nỗ lực trong việc tìm kiếm thị trường để đa dạng hoá
hơn các thị trường xuất khẩu. Nhưng về thị trường chúng ta vẫn mất cân
đối chỉ tập trung vào thị trường truyền thống, còn các thị trường khác
(Mỹ, EU) tì có nhưng vẫn chậm chạp.
* Về giá xuất khẩu
Tuy lợi thế do điều kiện thiên nhiên ưu đãi và nhân công rẻ làm giá
hàng xuất khẩu của ta thấp. Nhưng chúng ta lại bị ép giá rất mạnh bởi các
thị trường xuất khẩu vào như: dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu nước
bạn làm tăng giá mặt hàng của ta tăng lên, làm giảm thế mạnh cạnh tranh.
Nên nhìn chung ta xuất khẩu vẫn thấp hơn các nước trong khu vực (chỉ
bằng khoảng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và
Indonexia).
* Về mạng lưới phân phối xử lý.
Thực chất thì chúng ta đang xuất khẩu các thị trường chính không
được nhiều. Chủ yếu qua môi giới trung gian nước bạn, để thực hiện tái
xuất lần hai là Singapore, Hồng Kông, chúng ta chưa có đại lý bán ở các
thị trường lớn như (eU, Mỹ...). Có thì chỉ ở hình thức bán nhỏ lẻ. Nên
chúng ta bỏ lỡ rất niều cơ hội tăng xuất khẩu.
* Về công nghệ xuất khẩu
Mặc dù chúng ta đưa ra mục tiêu phát triển công nghệ sinh học ứng
dụng vào ngành thuỷ sản. Tuy đã đạt dược kết quả đáng khích lệ song
trên 136 doanh nghiệp chế biến (chiếm 59%) hiện nay của Việt Nam vẫn
trong tình trạng chưa đáp ứng được yêu vầu vệ sinh an toàn thực phẩm và
đang trong tình trạng thu động marketing. Vì vậy công nghệ thuỷ sản của
ta vẫn kém xa so với khu vực và thế giới.
* Về xúc tiến xuất khẩu
Chúng ta còn lúng túng trong việc vạch ra kế hoạch và chương trình
cụ thể cho việc xúc tiến hàng xuất khẩu Việt Nam ở nước ngoài. Mặc dù
chúng ta có tìm hiểu thị trường, tham gia hoạt động hội chợ phục vụ xuất
khẩu. Những yếu tố đó marketing chỉ coi đó là yếu tố ban đầu cho xuất
khẩu cơ bản chưa phải xúc tiến xuất khẩu. Vì vậy những chương trình và
kế hoạch cho mặt hàng xuất khẩu là rất quan trọng trong thị trường thế
giới hiện nay
3.4. Những yếu tố khác
* Về nguồn nhân lực: Trong những năm gần đây, tuy cố gắng trong
việc đào tạo đội ngũ cán bộ thuỷ sản, và phổ cập kiến thức cho ngư dân về
đánh bắt và nuôi trồng. Nhưng những lao động Việt Nam vẫn rất đuối về
tay nghề, khả năng làm việc, tuy họ rất cần cù chịu khó. Chúng ta lại
thiếu trầm trọng lượng cán bộ thuỷ sản giỏi phục vụ trong ngành.
Mục lục
nội dung ....................................................................... Error! Bookmark not defined.
Phần một .......................................................................................................................... 1
Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản trong quá trình phát triển kinh
tế việt nam ....................................................................................................................... 2
I- Vai trò của ngành thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. ................... 2
1- Vai trò xuất khẩu, sự phát triển kinh tế - xã hội. ............................................. 2
2- Vai trò ngành thuỷ sản với phát triển kinh tế. ................................................. 6
II. Khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ............................................................ 10
1. Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển thuỷ sản Việt Nam ................... 10
2. Thị trường thuỷ sản thế giới............................................................................ 18
3. Khả năng tham gia thị trường thuỷ sản Việt Nam vào thị trường thế giới. . 32
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. ..................... 34
Chương II ...................................................................................................................... 44
Thực trạng sản xuất và xuất khẩu ................................................................................ 44
thủy sản Việt Nam thời gian qua. ................................................................................ 44
I. Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam .................................................................. 44
1. Tiềm năng thủy sản ......................................................................................... 45
2. Tình hình đánh bắt thủy sản thời gian qua. .................................................... 46
II. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. ......................................................... 59
1.Mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. ....................................................... 59
2.Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. ........................................................... 63
3.Những mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay. ....................................................................................................................... 70
4. Giá cả thuỷ sản Việt Nam. .............................................................................. 71
III. Những kết luận rút ra từ thực trạng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. ............. 75
1. Những nhận định xu hướng xuất khẩu thuỷ sản 10 năm tới và triển vọng của
Việt Nam. ............................................................................................................. 75
2. Những thành tự đã đạt được............................................................................ 76
3. Những mặt tồn tại ............................................................................................ 78
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100783_8234.pdf