Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra
thành lập và chịu trách nhiệm, do đó, việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ
giá hình thành trên thị trƣờng vàng Việt Nam, giá mua cũng nhƣ giá bán sẽ đƣợc minh
bạch và khách quan nhất.
Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái
sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trƣờng vàng thế giới biến động bất thƣờng.
Trƣờng hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng hoặc đáp ứng các nhu cầu
vàng vật chất cho nhà đầu tƣ. Nhà đầu tƣ sẽ đƣợc tính giá mua, giá bán trên cơ sở
khớp giá hàng ngày của nhiều ngƣời mua, nhiều ngƣời bán, nếu lƣợng khách giao dịch
càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn.
Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc sẽ là rất lớn. Nếu hình thành đƣợc
sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế đƣợc lƣợng giao dịch không chính thức, tránh
đƣợc những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan quản lý cũng nắm đƣợc
lƣợng cung, cầu của thị trƣờng vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng nhƣ
lƣợng tiền giao dịch trên thị trƣờng vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có
những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra.
120 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 4660 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng và tác động tới các doanh nghiệp kinh doanh vàng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐOÀN HOÀ PHÁT
7 NGÂN HÀNG TMCP SÀI GÒN THƢƠNG TÍN
8 NGÂN HÀNG TMCP KỸ THƢƠNG VIỆT NAM
9 CÔNG TY CP PRIME GROUP
10 CÔNG TY CP XUẤT NHẬP KHẨU INTIMEX
Nguồn: VNR500
2.4.2. Tác động tiêu cực
Hiện nay, các tác động chủ yếu tới các doanh nghiệp kinh doanh vàng Việt Nam
đó chính là các chính sách quản lý của nhà nƣớc về các hình thức kinh doanh mặt hàng
này. Sau quyết định đóng cửa sàn vàng do Chính phủ đƣa ra ngày 30/12/2009, các
trung tâm giao dịch vàng thƣa thớt nhà đầu tƣ do một số nhà đầu tƣ đã đóng tài khoản
giao dịch và một số khác giao dịch hạn chế hoặc ngừng giao dịch để xem xét tình hình.
Cùng với sự co cụm và thận trọng của các nhà đầu tƣ, khối lƣợng giao dịch trên các
sàn cũng sụt giảm mạnh. Tại trung tâm Giao dịch vàng SBJ thuộc Công ty vàng bạc đá
quý ngân hàng Sacombank, khối lƣợng khớp lệnh từ sáng đến 15h chiều ngày
5/1/2010 mới chỉ đạt mức 71.000 lƣợng vàng, bằng khoảng 1/3 so với khối lƣợng
khớp lệnh chỉ trong vòng buổi sáng của sàn này cách đó 1 tuần. Trên sàn vàng ACB,
khối lƣợng khớp lệnh cùng thời điểm trên đạt chƣa đầy 10.000 lƣợng, với tổng giá trị
trên 248 tỷ đồng. Trong khi đó, theo báo cáo mà NHNN vừa công bố về hoạt động sàn
79
vàng, ở thời điểm giao dịch sôi động nhất, một ngày sàn vàng này có doanh số lên đến
hơn 8.000 tỷ đồng.
Thiệt hại đối với các sàn vàng vì phải đóng cửa là điều mà ai cũng nhận thấy rõ,
bao gồm thiệt hại về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, cộng với việc mất đi một nguồn
thu quan trọng. Chi phí trung bình cho cơ sở hạ tầng ban đầu của một sàn vàng khoảng
10 – 20 tỷ đồng. Đối với những sàn vàng mới thành lập và không tìm đƣợc hƣớng kinh
doanh khác để sử dụng cơ sở hạ tầng đã đầu tƣ thì gần nhƣ số tiền đầu tƣ ban đầu này
là mất trắng. Đối với những sàn vàng đã hoạt động đƣợc một thời gian tƣơng đối thì
thiệt hại sẽ nhỏ hơn, nhƣng chắc chắn vẫn sẽ thiệt hại. Ví dụ sàn vàng VGB thành lập
9/2008, hiện nay sàn vàng này có khoảng 100 đại lý với vốn đầu tƣ từ 150 triệu – 1 tỷ
đồng mỗi đại lý. Ƣớc tính sơ bộ thiệt hại về cơ sở vật chất đối với hệ thống của VGB
là từ 30 – 40 tỷ đồng, chƣa kể chi phí đào tạo nhân lực, thuê mặt bằng.
Bên cạnh đó, việc đóng cửa sàn vàng đồng nghĩa với việc phải sa thải nhân viên.
VGB có hơn 100 nhân viên tại hội sở chính và chi nhánh, cộng thêm khoảng 400 –
500 nhân viên tại hệ thống đại lý, sàn vàng Phố Wall có hơn 100 nhân viên. Hiện tại
có tổng sso 20 sàn vàng nên số nhân lực dôi dƣ sắp tới sẽ lên đến cả nghìn ngƣời.
Trong thời gian qua, việc Nhà nƣớc ra lệnh ngƣng nhập khẩu vàng đã khiến cho
giá vàng tại thị trƣờng Việt Nam bị điều chỉnh thất thƣờng và không theo xu hƣớng
của giá vàng thế giới khiến nhiều các doanh nghiệp kinh doanh vàng luôn trong tình
trạng thiếu nguyên liệu sản xuất khi không có quota nhập khẩu vàng, khiến giá vàng bị
đẩy lên rất cao. Không đƣợc nhập khẩu vàng, trong khi nhu cầu đầu tƣ của ngƣời dân
vẫn tăng cao, khiến mặt bằng giá trong nƣớc luôn chênh so với giá thế giới. Trong mấy
ngày vừa qua, dù có điều chỉnh theo xu hƣớng thế giới, nhƣng giá vàng trong nƣớc vẫn
cao hơn thế giới trên 200.000 đồng/chỉ. Chính sự không tƣơng thích giữa cung và cầu
trên thị trƣờng đã khiến các công ty kinh doanh vàng phải nới rộng khoảng cách mua
và – bán ra để bảo toàn vốn
80
Bên cạnh đó, việc thị trƣờng vàng trong nƣớc không liên thông với thị trƣờng
vàng thế giới còn có khả năng dẫn đến tình trạng nhập lậu vàng. Tại Thái Lan, 6 tháng
cuối năm 2008, nhập khẩu vàng tăng đột biến, lên tới 90 tấn mà nguyên nhân đƣợc cho
là nhằm mục đích xuất khẩu sang các quốc gia lân cận. Trong khi đó, Việt Nam ngƣng
nhập khẩu, có thời điểm giá vàng trong nƣớc cao hơn giá vàng thế giới từ 1 – 1,5 triệu
đồng/ lƣợng khiến cho đối tƣợng nhập lậu vàng gia tăng hoạt động, biểu hiện rõ nhất
là các cơ quan chức năng đã bắt giữ nhiều trƣờng hợp nhập lậu vàng từ biên giới Tây
Nam. Hoạt động nhập lậu vàng nay gây.
Hơn nữa, quy định cấm nhập khẩu vàng và hạn chế xuất khẩu vàng của NHNN
cũng gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh vàng. Khi nhu cầu mua
vàng của nhà đầu tƣ lên cao nhƣng doanh nghiệp không đủ nguồn cung vàng để cung
cấp cũng khiến doanh nghiệp kinh doanh vàng mất đi một khoản lợi nhuận đáng kể.
Ngƣợc lại, khi giá vàng trong nƣớc thấp hơn nhiều so với giá vàng thế giới nhƣng do
quy định hạn chế xuất khẩu vàng của NHNN cũng khiến doanh nghiệp mất cơ hội xuất
khẩu vàng ra nƣớc ngoài kiếm lợi nhuận.
81
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ỔN ĐỊNH GIÁ VÀNG VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT
NAM
3.1. DỰ BÁO VỀ XU HƢỚNG GIÁ VÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1.1. Cơ sở dự báo
3.1.1.1.Triển vọng của nền kinh tế toàn cầu
Trƣớc ngƣỡng cửa năm 2010, một loạt các tổ chức quốc tế, các chuyên gia kinh
tế đã nhận định về triển vọng kinh tế toàn cầu năm tới và cho rằng nền kinh tế thế giới
sẽ tăng trƣởng khả quan trong năm 2010. Tuy nhiên, các nền kinh tế vẫn đối mặt với
nhiều khó khăn do thâm hụt ngân sách, tỷ lệ thất nghiệp cao.
Phần lớn những ý kiến cho rằng, trải qua năm 2009 nhiều khó khăn, các nền kinh
tế sẽ tiếp tục những nỗ lực lấy lại đà tăng trƣởng và năm 2010 hy vọng ghi nhận những
tín hiệu tích cực của kinh tế toàn cầu.
Nhận định chung của khoảng 150 chuyên gia kinh tế quốc tế trong cuộc thăm dò
dƣ luận do hãng Reuters tiến hành cho rằng, năm 2009 các nền kinh tế thế giới đã tung
ra các chƣơng trình chi tiêu, kích thích kinh tế, các khoản cho vay đặc biệt..., với tổng
trị giá khoảng năm nghìn tỷ USD. Năm 2010 sẽ chứng kiến kết quả những nỗ lực này.
Các chuyên gia thuộc Hãng dự báo và phân tích tài chính - kinh tế IHS Global Insight
nhận định, các nền kinh tế mới nổi ở khu vực châu Á - Thái Bình Dƣơng tiếp tục đà
tăng trƣởng và dẫn đầu quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Tăng trƣởng GDP tại các
nền kinh tế này sẽ phục hồi vào năm 2010. Châu Á (trừ Nhật Bản) dự báo đạt mức
tăng GDP 7,1% năm 2010; Mỹ la-tinh, Trung Ðông và châu Phi tăng 3%-4%. Khu vực
chậm nhất sẽ là các nền kinh tế đang nổi lên ở châu Âu, chỉ tăng 1,7%.
Tạp chí kinh tế uy tín của Pháp L'Expansion cũng chia sẻ dự báo lạc quan rằng,
năm 2010 kinh tế thế giới tiếp tục "khỏe lên", trong lúc chờ phục hồi thật sự, nhất là
các nền kinh tế châu Á. Trong đó, Trung Quốc sẽ tăng trƣởng cao nhất (9%); tiếp theo
82
là Ấn Ðộ (7%); Việt Nam, Lào (5%). Việc các nƣớc châu Á tích cực chuyển hƣớng,
chú trọng hơn thị trƣờng nội địa, nhằm giảm phụ thuộc xuất khẩu là hƣớng đi hiệu
quả, giúp lấy lại ổn định và tăng trƣởng sau khủng hoảng. Bra-xin, nền kinh tế lớn ở
Mỹ la-tinh có thể tăng đạt mức tăng trƣởng hơn 5%, nhờ nhu cầu trong nƣớc mạnh.
Tăng trƣởng của Nga có thể đạt 3,5%-4,5%. Nam Phi, nền kinh tế lớn nhất châu Phi,
có thể tăng 1,5%...
Theo Reuters, nền kinh tế đầu tàu thế giới là Mỹ, khu vực đồng euro, Anh và
Nhật Bản dự báo sẽ tăng trƣởng trong quý IV - 2009, tạo đà cho năm 2010. Nhìn
chung, các nƣớc phát triển ở phƣơng Tây đã thoát khỏi suy thoái; các hoạt động kinh
tế tốt hơn và dần dần ổn định trở lại ở mức trƣớc khi ngân hàng Lehman Brothers
(Mỹ) sụp đổ. L'Expansion cho rằng, châu Âu sẽ thoát khỏi suy thoái với mức tăng
trƣởng dự kiến 0,9% trong năm 2010, tuy nhiên vẫn cần cảnh giác với những diễn biến
bất thƣờng, trong đó có nguy cơ khủng hoảng tín dụng trong năm nay. IHS Global
Insight dự báo, tăng trƣởng kinh tế của Mỹ sẽ ở mức 2%-2,5%. Ðộng lực cơ bản cho
nền kinh tế Mỹ trong ngắn hạn vẫn sẽ là chi tiêu dùng, chiếm gần 70% GDP, tuy nhiên
động lực này tiếp tục yếu trong năm 2010. Tiêu dùng giảm mạnh vào đầu năm 2010,
kéo theo việc giảm tốc độ tăng GDP và sẽ tăng lại vào giữa năm 2010. Châu Âu và
Nhật Bản trải qua suy thoái sâu hơn Mỹ và có thể sẽ phục hồi yếu hơn. Các nền kinh tế
khu vực sử dụng đồng euro và Anh dự kiến tăng trƣởng tƣơng ứng là 0,9% và 0,8%.
Một số nền kinh tế Tây Âu, nhƣ Iceland, Ireland và Tây Ban Nha, tiếp tục giảm do ảnh
hƣởng của khủng hoảng tài chính. Trong khi đó, kinh tế Nhật Bản sẽ vận hành tốt hơn,
với mức tăng nhẹ 1,4%...
Mặc dù nhận định lạc quan về triển vọng phục hồi của các nền kinh tế thế giới,
giới chuyên gia cũng cảnh báo tốc độ tăng trƣởng năm 2010 có thể chậm và tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao, gánh nặng nợ chính phủ trở nên nghiêm trọng. Quỹ Tiền tệ
quốc tế (IMF) cho rằng, năm 2010 nợ của các nƣớc thuộc Nhóm bảy nƣớc phát triển
83
nhất thế giới (G-7) sẽ tăng và xu thế này có thể duy trì đến năm 2014. Tờ Le Figaro
(Pháp) cho rằng, thế giới sẽ phải đối mặt thách thức thâm hụt ngân sách tăng lên mức
kỷ lục năm 2010 và khó khăn trong việc thanh toán nợ công vào các năm tiếp theo. Dự
đoán, tại các nƣớc thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), nợ ngân sách
trung bình chiếm 73,1% GDP năm 2007, sẽ tăng lên 100% vào năm 2011. Tổng nợ
ngân sách các quốc gia thuộc khu vực đồng tiền chung euro ƣớc tính khoảng 1.000 tỷ
euro năm 2010, so với 650 tỷ euro năm 2008. Nhật Bản nợ công tăng từ 167% lên
204%; Pháp tăng từ 70% lên 99%; Hy Lạp từ 103% lên 130%. Ngay cả Ðức, một hình
mẫu về điều tiết ngân sách, cũng phải chấp nhận thực tế tăng từ 65% lên 85,5% GDP...
OECD đánh giá, hiện các chính phủ rơi vào tình cảnh hết sức khó khăn: nguồn thu
ngân sách từ thuế, phụ thuộc các hoạt động kinh tế bị giảm mạnh do suy thoái, trong
khi các khoản chi tiêu công tăng vọt, do nạn thất nghiệp tăng, kéo theo các khoản trợ
cấp xã hội tăng cùng chi phí bổ sung cho các giải pháp an sinh xã hội. Ðó là chƣa kể
ngân sách dành cho các kế hoạch phục hồi kinh tế cũng khiến nợ ngân sách tăng đột
biến.
Những biến động của giá vàng và đồng USD sẽ tiếp tục trở thành tâm điểm chú ý
của thế giới trong năm 2010. IHS Global Insight dự báo, nhờ triển vọng kinh tế Mỹ
sáng sủa hơn đôi chút so với kinh tế châu Âu và Nhật Bản, nhu cầu về đồng USD sẽ
cải thiện, nghĩa là giá trị đồng tiền Mỹ có thể tăng trong vài tháng tới. Tuy nhiên, sức
ép giảm giá của đồng USD vẫn tiếp tục trong năm 2010 và đà giảm này chắc chắn sẽ
là sâu hơn, so với các đồng tiền của những thị trƣờng đang nổi. Tạp chí Tuần kinh
doanh cũng cho rằng, đồng USD tiếp tục giảm giá trong những tháng đầu năm 2010,
tác động xấu đối với tăng trƣởng kinh tế toàn cầu, nhƣng về lâu dài, sẽ khôi phục lại vị
trí của mình.
Tóm lại, triển vọng kinh tế toàn cầu hiện nay là vô cùng bất ổn với vẫn nhiều rủi
ro suy giảm. Mối quan ngại chủ yếu đó là các chính sách sẽ vẫn còn chƣa đủ để ngăn
84
chặn những tác động tiêu cực giữa tình trạng tài chính trầm trọng và suy yếu kinh tế,
đặc biệt trong điều kiện hỗ trợ của khu vực công cho các hành động chính sách này
đang bị hạn chế. Các kênh truyền dẫn chính bao gồm tình trạng vỡ nợ ngày một tăng
của các hộ gia đình và tập đoàn khiến giá tài sản tiếp tục giảm và hàng loạt những
khoản lỗ ngày một lớn trên bảng cân đối tài chính, và những biến động mới một cách
có hệ thống đang càng khiến nhiệm vụ khôi phục lại lòng tin trở nên phức tạp. Hơn
nữa, trong điều kiện rất bất ổn, các chính sách tài khoá và tiền tệ có thể sẽ thất bại
trong
việc khôi phục lại sức mua do xu hƣớng phòng ngừa tiết kiệm tăng cao có thể làm
giảm số nhân của chính sách tài khoá, và những bƣớc nới lỏng các nguồn vốn có thể sẽ
thất bại trong việc làm chậm lại xu hƣớng giảm vay tín dụng. Tuy vậy, trên góc độ lạc
quan, khi việc thực thi chính sách một cách quyết liệt có thể thuyết phục đƣợc thị
trƣờng rằng các căng thẳng tài chính đã đƣợc xử lý một cách kiên quyết, nó có thể
giúp khôi phục lại lòng tin và thúc đẩy chi tiêu trở lại.
3.1.1.2. Xu hướng biến động của đồng USD
Đồng USD có vai trò lớn trong thƣơng mại quốc tế và là đồng tiền dự trữ của hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Vai trò của đồng USD đƣợc khẳng định qua một thời
gian dài của lịch sử, kể cả trong các đợt biến động lớn của nền kinh tế toàn cầu. Trong
thời gian gần đây, kinh tế Mỹ có biến động, đặc biệt là khủng hoảng tín dụng cho vay
mua nhà thế chấp dƣới chuẩn, ảnh hƣởng đến khả năng thanh toán của các ngân hàng,
qua đó làm giảm giá đồng USD trên toàn thế giới. Tuy nhiên, vào thời điểm đầu tháng
5/ 2009, đồng USD đang lấy lại dần sức tăng giá của mình, đây vẫn là một kênh đầu tƣ
thay thế bên cạnh vàng và cũng có ảnh hƣởng khá lớn đến biến động của giá vàng.
Sau khi theo dõi diễn biến đi xuống của đồng USD trong năm qua, nhiều chuyên
gia phân tích cho rằng đồng USD sẽ mạnh lên trong nửa đầu năm 2010 khi kinh tế Mỹ
hồi phục nhanh hơn các nền kinh tế khác tại Nhật và phần lớn châu Âu [3]. Thế nhƣng
85
sau đó, triển vọng dài hạn u ám hơn. Đà biến động của đồng USD sẽ còn phụ thuộc
vào tốc độ phục hồi kinh tế và những thay đổi đối với kế hoạch kích cầu mà FED và
chính phủ Mỹ đã đƣa ra. Hệ thống tài chính gần sụp đổ, đồng USD tăng giá gần 16%
trong khoảng thời gian từ tháng 10/2008 cho đến tháng 3/2009, nhà đầu tƣ tìm đến sự
an toàn của đồng USD. Sau đó, trong khoảng thời gian từ tháng 3/2009 đến tháng
11/2009, đồng USD giảm giá tới 17%. Từ đó đến nay, đồng USD đã hồi phục 5%, dù
vậy các chuyên gia vẫn tranh cãi về lý do tại sao lại có sự hồi phục này. Sự hồi phục
diễn ra ở thời điểm vấn đề nợ Dubai trở nên trầm trọng, nhà đầu tƣ một lần nữa lại tìm
đến sự an toàn của đồng USD. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) ngày 29/ 4/ 2009
tuyên bố giữ nguyên mức lãi suất cơ bản thấp kỷ lục (từ 0,0% đến 0,25%) đã công bố
từ tháng 12/ 2008, và khẳng định sẽ tiếp tục sử dụng tất cả các công cụ hiện hành để
tăng tính thanh khoản của thị trƣờng tín dụng và tăng hoạt động cho vay của ngân
hàng. Ủy ban Thị trƣờng Mở của FED (FOMC) cũng cho biết từ nay đến cuối năm,
FED sẽ mua 1.250 tỷ USD trái phiếu có thế chấp bảo đảm và 200 tỷ USD công cụ nợ
khác. FED cũng có kế hoạch vào mùa thu năm nay thực hiện Kế hoạch cho vay đƣợc
đảm bảo bằng tài sản có kỳ hạn với việc mua tối đa 300 tỷ USD trái phiếu chính phủ
dài hạn. Ngoài ra, FED sẽ giảm bớt kế hoạch mở rộng thế chấp đối với các khoản vay
trực tiếp của các doanh nghiệp. Thông báo của FED đƣợc đƣa ra vài giờ sau khi Bộ
Thƣơng mại Mỹ cho biết trong quý 1/ 2009, kinh tế Mỹ giảm 6,1%, thấp hơn nhiều so
với dự đoán, do sự suy giảm trong lĩnh vực xuất khẩu, kinh doanh và nhu cầu nhà đất
vẫn yếu. Trong quý 1/ 2009, đầu tƣ nhà đất của Mỹ giảm 38% và đầu tƣ kinh doanh
trong các lĩnh vực khác giảm 37,9%, riêng kinh doanh phần mềm và thiết bị đã sụt
giảm 33,8%. Ngoài ra, kim ngạch xuất khẩu của Mỹ trong quý 1/ 2009 cũng giảm tới
30% và đầu tƣ của chính phủ giảm 4%.
Nhƣ vậy, giá của đồng USD vẫn có xu hƣớng giảm trong thời gian tới khi mức
lãi suất cho vay vẫn giữ ở mức thấp với mục tiêu kích thích nền kinh tế.
86
3.1.1.3. Xu hướng giá dầu thế giới
Kể từ mức đỉnh gần 84 USD/thùng đƣợc thiết lập vào ngày 6/1/2010, mức cao
nhất trong vòng 15 tháng trở lại đây, giá dầu giao kỳ hạn tháng 2 đã mất 54 cent,
tƣơng đƣơng với 0,7% xuống còn 78,85 USD/thùng trên nhánh giao dịch điện tử của
sàn Niu Yoóc. Dầu Brent giao kỳ hạn tháng 3 hạ 58 xen, còn 77,99 USD/thùng trên
sàn giao dịch châu Âu trong khi hợp đồng dầu giao tháng 2 đã hết hạn vào ngày 14-1,
chốt phiên tại mốc 77,82 USD/thùng, giảm 49 xen. Đây cũng là chuỗi trƣợt giảm
mạnh nhất của dầu mỏ trong vòng 4 tuần qua.
Nguyên nhân khiến giá dầu đi xuống và ấn định đà giảm không nằm ngoài yếu tố
kinh tế. Những số liệu mới nhất cho thấy "sức khỏe" của nền kinh tế số 1 thế giới vẫn
chƣa thực sự ổn định khi doanh số bán lẻ tháng 12-2009 tại Mỹ hạ 0,3% trong khi số
ngƣời xin trợ cấp thất nghiệp ở quốc gia này đã tăng thêm 2,5% trong tuần qua. Điều
đó khiến niềm tin về sự hồi phục vững chắc của nền kinh tế toàn cầu suy giảm và tác
động mạnh tới tâm lý của giới đầu tƣ khắp hành tinh. Vì vậy, dù mùa đông lạnh giá
đang tiếp tục bao trùm nhiều khu vực của thế giới, đẩy nhu cầu tiêu thụ dầu sƣởi ấm
tăng cao vốn đƣợc xem là yếu tố đẩy giá dầu đi lên trong những tuần qua cũng đã
không thể khiến giá dầu tiếp tục tăng giá.
Bên cạnh đó, báo cáo về dự trữ dầu của Mỹ vẫn giữ vai trò chi phối khá mạnh
đối với các bƣớc điều chỉnh của thị trƣờng năng lƣợng. Trên thực tế, giá dầu đã giảm
ngay sau khi Bộ Năng lƣợng Mỹ thông báo dự trữ dầu thô của nƣớc này trong tuần qua
tăng 3,7 triệu thùng, cao hơn nhiều so với dự đoán 1 triệu thùng. Dự trữ dầu chƣng cất,
bao gồm cả dầu sƣởi ấm và dầu điêden cũng tăng khoảng 1,4 triệu thùng. Những con
số này cho thấy nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu của quốc gia sử dụng năng lƣợng lớn nhất
thế giới không ở đà tăng nhƣ đƣợc dự báo. Ngoài ra, đồng USD leo lên ngƣỡng 1,4421
USD/ơrô cũng đƣợc nhìn nhận là yếu tố khiến sự hấp dẫn của dầu mỏ suy giảm.
Sự điều chỉnh theo hƣớng đi xuống của thị trƣờng nhiên liệu còn bị tác động trƣớc
87
thông tin Trung Quốc lần đầu tiên kể từ năm 2008 quyết định nâng mức dự trữ bắt
buộc của các ngân hàng thƣơng mại nhằm hạn chế cơn bùng phát tín dụng, hạn chế
bong bóng bất động sản và ngăn chặn nền kinh tế rơi vào tình trạng phát triển quá
nóng. Chuyên gia phân tích Tôbi Haxan của CWA Global Markets Pty (Ôxtrâylia) cho
rằng, nỗ lực kiểm soát hoạt động vay nợ của Chính phủ Trung Quốc đã ảnh hƣởng tới
thị trƣờng dầu mỏ khi nƣớc này đang là quốc gia tiêu thụ dầu lớn thứ hai hành tinh sau
Mỹ; đồng thời là nền kinh tế có tốc độ tăng trƣởng mạnh nhất thế giới.
Theo các phân tích kỹ thuật, sức bật của nhu cầu tiếp tục trở thành lực hỗ trợ cho giá
dầu trong thời gian tới khi tâm lý thị trƣờng thay đổi mạnh. Tuy nhiên, cũng không
loại trừ vấn đề cung vƣợt quá cầu khiến giá dầu khó có thể leo cao đột biến. Trong khi
đó, OPEC vừa nhóm họp tại thủ đô Luanđa của Ăngôla và tuyên bố giữ nguyên hạn
ngạch sản xuất ở mức 24.845 triệu thùng/ngày để duy trì sự phát triển ổn định của thị
trƣờng năng lƣợng. Quyết định này xem ra phù hợp với kỳ vọng của giới đầu tƣ để giá
cả không bị áp lực do sản lƣợng tăng hay giảm đột biến. OPEC khẳng định mức giá
trên 75 USD/thùng nhƣ hiện nay là hoàn toàn hợp lý và tổ chức này sẽ không thay đổi
hạn ngạch nếu giá dầu không bị đẩy xuống mức thấp hơn ngƣỡng trên. OPEC cũng
thừa nhận sự phục hồi còn mong manh của nền kinh tế thế giới vẫn là những nguy cơ
lớn của thị trƣờng dầu mỏ. Ông Brison Bikelton, nhà phân tích chiến lƣợc của RBS
Sempra Commodities cho rằng giá dầu sẽ dao động trong khoảng 78-80 USD/thùng
vào đầu năm 2010 và có thể sẽ lên tới 85 USD/thùng vào giai đoạn cuối năm do sự gia
tăng nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc. Nhƣng trƣớc mắt trong dịp năm mới, thế giới sẽ
yên ổn với giá dầu khá ổn định nhƣ hiện nay.
3.1.1.4. Tình hình cung – cầu về vàng
Theo dự báo của GFMS, năm 2009, sản lƣợng khai thác vàng của thế giới sẽ tăng
khoảng 20 – 30 tấn so với năm 2008 do mức tăng sản lƣợng của một số nƣớc châu Á,
Australia và Tây Phi [16]. Tuy nhiên, lƣợng vàng bán ra từ các NHTW sẽ tiếp tục
88
giảm, các NHTW sẽ vẫn bán dƣới mức cam kết trong Hiệp định bán vàng CBGA, hiệp
định này sẽ hết hiệu lực vào tháng 9/ 2009.
Trong khi đó, nhu cầu về vàng trong năm 2009 có thể tăng nhẹ so với năm ngoái.
Tuy thời kỳ đỉnh điểm tại một số thị trƣờng có lƣợng cầu lớn đã qua nhƣng vẫn còn
những hỗ trợ khác cho cầu về vàng trong năm nay. Ấn Độ - một nƣớc nhập khẩu vàng
khá lớn đã không đạt đƣợc kỳ vọng nhƣ mọi năm do giá vàng tăng cao tại thời điểm
tháng 2/ 2009. Cùng thời điểm năm ngoái, quốc gia này nhập về 23 tấn vàng, trung
bình hàng năm Ấn Độ nhập khẩu khoảng 500 – 700 tấn vàng. Giá vàng cao kỷ lục và
quá nhạy cảm đã gây tác động lớn lên nhu cầu về vàng trang sức toàn cầu. Tuy nhiên,
trong tình hình nền kinh tế thế giới còn nhiều bất ổn nhƣ hiện nay, vàng vẫn là một
công cụ đầu tƣ và tích trữ an toàn. Hiện nhu cầu vàng đang đƣợc hỗ trợ vững chắc bởi
các yếu tố nhƣ nhu cầu mua vàng tích trữ của các NHTW nhằm tăng dự trữ vàng khi
đồng USD có xu hƣớng giảm giá; nhu cầu về đầu tƣ vàng thỏi và đầu cơ tại các quỹ
đầu tƣ vàng ETFs.
Mặt khác, những lo ngại về đồng USD cũng khiến nhà đầu tƣ ngày một quan tâm
đến vàng hơn. Để bù đắp thâm hụt ngân sách và kích cầu đầu tƣ, có nhiều ý kiến cho
rằng, các chính phủ tìm kiếm các nguồn tiền nhƣ phát hành trái phiếu (và có thể cả in
thêm tiền) nhằm tạo nguồn tiền cho chi tiêu chính phủ. Kế hoạch giải cứu và kích thích
kinh tế đã đƣợc công bố của các nƣớc lớn nhƣ Mỹ có giá trị hàng ngàn tỷ USD. Trong
bối cảnh lãi suất ngân hàng rất thấp, đây chính là nhân tố tiềm ẩn lạm phát tiền tệ và
càng đè nặng nên tâm lý e ngại nắm giữ tiền mặt trong công chúng và các nhà đầu tƣ.
Để đối phó với nguy cơ đồng tiền mất giá, nhiều khả năng các cá nhân và tổ chức có
thể sẽ quay sang nắm giữ vàng thay vì tiền mặt.
3.1.2. Dự báo về xu hƣớng giá vàng trong thời gian tới
3.1.2.1. Dự báo về xu hướng giá vàng quốc tế
Giá vàng hiện đang rất nhạy cảm với tình hình kinh tế và các thị trƣờng khác liên
89
quan. Những tăng giảm bất thƣờng có thể đƣợc thấy rõ trong xu hƣớng giá trong thời
gian vừa qua. Vàng là một kênh đầu tƣ hấp dẫn những tính rủi ro cũng tƣơng đối cao
do giá vàng có thể đảo chiều rất nhanh khiến các nhà đầu tƣ không kịp trở tay. Trong
trung hạn, các chuyên gia vẫn kỳ vọng giá vàng sẽ tăng. Căn cứ lớn nhất cho dự báo
này là nguy cơ lạm phát tiềm ẩn có thể bùng nổ khi các gói kích cầu của các chính phủ
phát huy tác dụng, và sự trở lại tất nhiên của nhu cầu tiêu dùng, đầu tƣ sau một thời
gian dài bị kìm nén do khủng hoảng kinh tế. Những lo ngại về đồng USD mất giá sẽ có
thể làm tăng khối lƣợng vàng đƣợc mua từ cả các nhà đầu tƣ cá nhân và các NHTW.
Hiện tại, sự tập trung đang dồn về phía đồng USD do trong thời gian gần đây, giá
trị của đồng tiền này có tác động tƣơng đối mạnh lên các thị trƣờng, trong đó có thị
trƣờng vàng. Bảng cân đối của Cục dự trữ liên bang Mỹ FED thời gian vừa rồi đã cho
thấy sự thâm hụt trong ngân sách Mỹ đang ngày càng bị nới rộng càng củng cố lo ngại
về nguy cơ FED phải in thêm tiền để đƣa vào lƣu thông. Tình hình lạm phát trong thời
gian tới cũng đƣợc các nhà phân tích hết sức quan tâm.
Ngân hàng J.P Morgan (Mỹ) dự báo giá vàng sẽ lên tới 1.400-1.450 USD/ounce
trong quý II năm 2010, trƣớc khi bƣớc vào giai đoạn giảm mạnh. Theo J.P Morgan,
không có bất cứ lý do nào để tin rằng, cơn sốt giá vàng hiện nay sẽ sớm kết thúc,
nguyên nhân chính là đồng USD đang mất giá và điều này sẽ tiếp tục đến giữa năm
tới.
Một loạt nhân tố khác cũng khiến giá vàng leo thang trong đầu năm tới là lãi suất
tại Mỹ ở mức thấp kỷ lục, nhu cầu đầu tƣ vào kim loại quý này tăng mạnh, các ngân
hàng trung ƣơng hạn chế bán ra, tâm lý chờ đợi giá tiếp tục lên của những ngƣời bán
và nhu cầu thực tế trên thế giới tăng.
Tuy nhiên, các chuyên gia dự báo, sau khi lên tới điểm đỉnh vào giữa năm 2010,
giá vàng sẽ hạ xuống mức 1.225 USD/ounce trong năm 2011 và sau đó có thể giảm
xuống 950 USD/ounce. Mối lo ngại về lạm phát, lãi suất sẽ tăng, đồng USD sẽ phục
90
hồi nhẹ là những lý do khiến giá kim loại, đặc biệt là vàng, sẽ bắt đầu hạ trong nửa
cuối năm 2010.
Ngân hàng Standard Chartered, ngân hàng của Anh thu đƣợc rất nhiều lợi nhuận
từ thị trƣờng các nƣớc mới nổi, dự báo giá kim loại, dầu và đƣờng sẽ giảm trong nửa
đầu năm 2010 bởi đồng USD mạnh lên và nhu cầu không tăng nhƣ dự báo của các
chuyên gia.
Chỉ số Reuters/Jefferies CRB theo dõi giá cả của 19 loại hàng hóa đã tăng 20%
trong năm nay, nguyên nhân chính là giá đồng, đƣờng, dầu và vàng tăng mạnh.
Chỉ số USD, chỉ số đo biến động của USD so với 6 loại tiền tệ lớn khác, trong
năm nay đã giảm 7,3%, nhu cầu đối với các loại hàng hóa định giá bằng USD của
những ngƣời mua nắm giữ các loại tiền tệ khác tăng cao.
Giá đồng, chì và palladium đã tăng gấp đôi trong năm nay, giá vàng lập mức đỉnh
cao chƣa từng có, giá dầu và đƣờng tăng.
Sau khi giá các loại hàng hóa giảm sâu kỷ lục trong quý 4/2008, từ đó đến nay
giá hàng hóa liên tục tăng, nguồn tiền đầu tƣ vào thị trƣờng hàng hóa tăng lên, dự kiến
số tiền rót vào thị trƣờng hàng hóa trong năm nay lên mức 60 tỷ USD.
Trong nửa sau năm 2010, Standard Chartered cho rằng USD sẽ lại suy yếu, kinh
tế toàn cầu hồi phục, thanh khoản trên thị trƣờng tài chính cải thiện, dòng vốn vào thị
trƣờng hàng hóa sẽ lại cải thiện.
Standard Chartered dự báo giá vàng sẽ ở mức trung bình 1.300USD/ounce trong
quý 4/2010 sau khi giảm trong nửa đầu năm 2010. Giá vàng đã tăng 32% trong năm
nay và lên mức 1.174USD/ounce tại thị trƣờng London phiên ngày hôm qua.
Chuyên gia Helen Henton thuộc bộ phận kinh doanh hàng hóa của ngân hàng
Standard Chartered nhận định: “Trong nửa đầu năm 2010, đồng USD sẽ hồi phục, lo
ngại về đà phục hồi của nên kinh tế sẽ tăng lên. Khi thanh khoản còn đang dồi dào, giá
hàng hóa dù có giảm cũng sẽ không giảm sâu.”
91
3.1.2.2. Dự báo về xu hướng giá vàng tại thị trường Việt Nam
Theo các chuyên gia kinh tế nhận định, giá vàng tại Việt Nam sẽ có xu hƣớng
tƣơng đƣơng với giá vàng thế giới. Theo ông Đỗ Minh Phú – Tổng Giám đốc tập đoàn
Vàng bạc đá quý Doji, Phó chủ tịch Hiệp hội kinh doanh vàng Việt Nam VGTA thì
việc giá vàng ở thời điểm cuối năm 2009 chững lại và có lúc giảm dƣới mức 1.100
USD/ounce là kết quả của hoạt động tất toán và chốt lãi của giới đầu tƣ. Sang Quý 1
và quý 2 năm 2010, một vòng đầu cơ mới bắt đầu, cộng thêm USD còn yếu do nền
kinh tế Mỹ vẫn đƣơng đầu với những bất ổn, giá vàng có thể tăng trở lại trên mức
1.100 USD/ounce. Việc giá vàng vƣợt mức đỉnh 1.226,56 USD/ounce có thể xảy ra
nhƣng ít có khả năng vàng lên tới 1.300 USD/ounce. Trong nƣớc, các nhà kim hoàn dự
báo NHNN sẽ tiếp tục chủ trƣơng chống nhập siêu trong năm 2010 nên hạn ngạch
(quota) nhập vàng nếu đƣợc cấp sẽ rất thấp, hoặc thậm chí không đƣợc cấp. Vì thế sự
chênh lệch giá vàng trong nƣớc và giá vàng thế giới quy đổi sẽ phụ thuộc vào nhu cầu
của ngƣời dân. Nếu các nhà đầu tƣ quan tâm tới vàng và mua nhiều thì mức chênh lệch
có thể lên đến 1 triệu đồng/lƣợng. Ngƣợc lại, nếu sự quan tâm đến vàng thấp thì mức
chênh lệch sẽ ở mức khoảng 300 nghìn đồng/lƣợng. Tuy nhiên, nhìn vào nhu cầu đầu
tƣ vàng của nhà đầu tƣ vẫn khá mạnh, ông Tôn Thế Vĩnh Quyền (Giám đốc kinh
doanh Công ty vàng bạc đá quý Ngân hàng Sacombank – SBJ) dự đoán giá vàng năm
2010 có thể lên đến 31 triệu đồng/lƣợng. Theo ông Quyền, năm 2010 đƣợc đánh giá là
năm các nƣớc có thể hoàn toàn hồi phục sau cơn khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa
qua, áp lực lạm phát sẽ tăng mạnh là hệ quả của hàng loạt các gói kích thích kinh tế
của các nƣớc. Hơn nữa, cán cân thƣơng mại của Mỹ sẽ tiếp tục thâm hụt nặng nề và
USD đƣợc dự báo sẽ chịu ấp lực giảm giá mạnh. Do vậy, giá vàng quốc tế đƣợc nhận
định vƣợt mức 1.300 USD/ounce. Giá vàng ở trong nƣớc theo đó sẽ ở mức cao và nhu
cầu của thị trƣờng với kim loại quý này sẽ ngày càng tăng. Lực cầu trong nƣớc luôn
tăng cao khi giá vàng điều chỉnh giảm đến một mức nhất định chính là yếu tố hỗ trợ tốt
92
đối với giá vàng trong nƣớc. Với các yếu tố trên, vàng miếng giao dịch ở thị trƣờng
trong nƣớc có khả năng sẽ tiếp tục tăng và lập các kỉ lục về giá mới, và giá đƣợc dự
báo sẽ giao động trong biên độ giá từ 25,5 -31 triệu đồng/lƣợng.
Nếu không có những biện pháp cải thiện cơ chế kinh doanh vàng từ phía Chính
phủ và Ngân hàng Nhà nƣớc, thị trƣờng vàng Việt Nam nhiều nguy cơ vẫn sẽ bị bóp
méo và vẫn không liên thông đƣợc với thị trƣờng thế giới.
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ỔN ĐỊNH GIÁ VÀNG VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH VÀNG TẠI VIỆT NAM
3.2.1. Những kiến nghị đối với chính sách tỷ giá
Qua thực tiễn điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2009, có thể rút ra một số
kiến nghị trong công tác điều hành tỷ giá nhƣ sau:
- Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào hội nhập kinh tế
quốc tế và mức độ tự do hoá các giao dịch vốn tƣơng đối cao, biến động của dòng vốn
đầu tƣ, đặc biệt là các dòng vốn đầu tƣ gián tiếp ảnh hƣởng mạnh tới cung cầu ngoại tệ
và diễn biến tỷ giá. Do đó, việc giám sát và tiến tới kiểm soát có chọn lọc các luồng
vốn này là một yêu cầu hết sức cấp thiết để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập siêu không đƣợc quản lý chặt chẽ và duy trì ở mức cao làm ảnh hƣởng tới
cán cân thanh toán quốc tế và gây khó khăn cho công tác điều hành tỷ giá.
- Lạm phát tăng cao ảnh hƣởng đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam,
trong khi đó, các công cụ kiềm chế lạm phát lại khiến cho việc duy trì tỷ giá để hỗ trợ
sức cạnh tranh đối mặt với những giới hạn nhất định. Vì vậy, trong bối cảnh lạm phát
tăng cao, sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá là hết sức
cần thiết.
- Việc kiên trì mục tiêu điều hành tỷ giá linh hoạt trong ngắn hạn, tƣơng đối ổn
định trong dài hạn là rất quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và khôi phục ổn định
kinh tế vĩ mô.
93
- Sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các Bộ, ngành đóng vai trò rất quan trọng
và quyết định sự thành công của công tác điều hành tỷ giá. Trong năm 2009, NHNN
đã phối hợp chặt chẽ và thƣờng xuyên với Bộ Công thƣơng trong việc kiểm soát nhập
siêu và với Bộ Tài chính trong việc huy động các nguồn ngoại tệ để tăng dự trữ quốc
gia cũng nhƣ khả năng can thiệp thị trƣờng.
- Với tính nhạy cảm của tỷ giá và trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng hội nhập
kinh tế quốc tế, các luồng chu chuyển vốn gia tăng, công tác điều hành tỷ giá phải gắn
với việc bám sát mọi diễn biến của thị trƣờng để có biện pháp kịp thời, phù hợp với
diễn biến thị trƣờng.
- Sự phối hợp chặt chẽ với các NHTM đóng góp đáng kể vào hiệu quả công tác
điều hành tỷ giá do các NHTM có ảnh hƣởng lớn trên thị trƣờng là kênh truyền tải
nhanh, hiệu quả ý đồ can thiệp của NHNN đến thị trƣờng.
- Công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố lòng tin của
ngƣời dân, doanh nghiệp, tăng cƣờng hiệu quả điều hành chính sách.
Mục tiêu điều hành chính sách tỷ giá trong năm 2010 là ổn định để tạo lòng tin
về chính sách cho thị trƣờng, góp phần khôi phục sự ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động
ngăn chặn suy giảm kinh tế
Sự ổn định của thị trƣờng tài chính là vô cùng quan trọng. Nhƣ đã thấy những
biến động tỷ giá vào thời điểm tháng 6/2008, USD bị hút quá mạnh làm tỷ giá
USD/VND trên thị trƣờng tự do và thậm chí ngân hàng đã biến động hết sức hỗn loạn.
Giá USD ngày 19/6/2008 trên thị trƣờng tự do lên đến 19.500 đồng khiến giá vàng
trong nƣớc cao hơn giá thế giới gần 800.000 đồng/lƣợng. Giới đầu cơ nhân cơ hội này
đã đồn thổi những tin tức tiêu cực để trục lợi. Khi tỷ giá đƣợc điều chỉnh thì giá vàng
biến động theo chiều hƣớng ngƣợc lại (thấp hơn giá quy đổi gần 700.000 đồng/lƣợng)
mặc dù giá thế giới lại đi lên. Đa số những ngƣời mua vàng nhỏ lẻ sợ tâm lý vàng còn
lên nữa đã mua vàng vào và lỗ nặng sau đó khi NHNN điều chỉnh lại tỷ giá và có
94
những biện pháp khống chế. Ngày 11/6/2008, NHNN niêm yết USD/VND = 16.461
thì bên ngoài bị đẩy lên 17.500 đồng/USD. Ngày 19/6, NHNN niêm yết tỷ giá
USD/VND = 16.454 nhƣng thị trƣờng tự do là 19.500 đồng/USD. Nhận thấy biến
động lớn gây thiệt hại không chỉ khu vực ngoại tệ mà còn ảnh hƣởng đến tình hình sản
xuất kinh doanh khi nhiều doanh nghiệp không thể có USD nhập hàng cũng nhƣ
không dám nhận các dự án nhập rồi tái xuất, NHNN lúc này mới điều chỉnh tỷ giá.
Ngày 10/6, NHNN niêm yết 1 USD = 16.139 đồng, ngày 11/6, NHNN tăng 322
đồng/USD – một mức tăng chƣa từng có. Với biên độ rộng 2%, giá USD đƣợc quy đổi
tối đa thành 16.790 đồng/USD, dễ dàng thấy rằng VND đƣợc neo giữ ổn định ở mức
ổn định nhằm thu hút đầu tƣ nhƣng không thể vƣợt qua đƣợc cung cầu thị trƣờng và
sức mạnh thật sự của đồng tiền. USD càng dần về sau thì ổn định xoay quanh mức
trung bình 16.500 đồng/USD đến hiện nay. Một điều cần lƣu ý là hiện nay nhiều sàn
giao dịch vàng sử dụng tỷ giá niêm yết của Ngân hàng nhà nƣớc với mức biên độ cao
tối đa là 2% để quy đổi giá vàng quốc tế ra VND. Tuy nhiên, nhiều sàn giao dịch vàng
ra đời, mỗi sàn giao dịch sử dụng những mức tỷ giá khác nhau thậm chí trong giai
đoạn đầu là sai lệch rất nhiều so với giá niêm yết của Ngân hàng nhà nƣớc khiến nhà
đầu tƣ không thể tránh khỏi rủi ro tỷ giá khi giá vàng biến động mạnh bất ngờ đầu
ngày do tỷ giá không hợp lý.
Các thị trƣờng nƣớc ngoài khi có những biến động vẫn phải sử dụng các biện
pháp hành chính để ổn định thị trƣờng nhƣng NHNN lúc đó đã chậm trễ trong việc
thông báo dự trữ ngoại hối và có những biện pháp hành chánh buộc thị trƣờng chợ
đen phải chấm dứt hiện tƣợng làm giá.
Tuy nhiên, điều cần thiết ở đây thiết nghĩ NHNN nên kịp thời điều chỉnh tỷ giá
USD/VND hợp lý, tránh tình trạng nhƣ tỷ giá niêm yết USD/VND ngày 11/06 trên
Website của NHNN là 16.461 nhƣng theo quy đổi tỷ giá chéo tại các ngân hàng
thông qua EUR và GBP thì tỷ giá thực giữa USD/VND lên đến khoảng 17.500
95
đồng/1USD.
3.2.2. Những kiến nghị về vấn đề xuất nhập khẩu vàng
Việt Nam nhƣ đã biết trung bình mỗi năm nhập trên dƣới 60 tấn vàng chƣa kể
khối lƣợng nhập lậu tiêu tốn rất nhiều ngoại tệ mà việc sử dụng vẫn chƣa hiệu quả,
chủ yếu là nằm trong khu vực dân cƣ. Thiết nghĩ NHNN và Vụ ngoại hối cũng nhƣ
các ban ngành liên quan nên xem xét kỹ lợi hại để việc xuất nhập khẩu vàng đƣợc
linh hoạt và đáp ứng đƣợc những lợi ích sau:
- Giá vàng trong nƣớc sẽ đi dần về hƣớng tƣơng đƣơng và biến động sát với
thế giới hơn do đó các doanh nghiệp kinh doanh vàng và ngân hàng sẽ linh động hơn
trong việc mua bán vàng. Trong khi hiện nay trong một số thời điểm giá vàng
trong nƣớc thấp hơn thế giới rất nhiều, ngƣời dân và nhà đầu tƣ không muốn giữ
nhƣng doanh nghiệp kinh doanh vàng vẫn phải mua vào. Nếu đƣợc phép xuất khẩu,
doanh nghiệp kinh doanh sẽ hiệu quả hơn. Ngƣợc lại khi giá vàng trong nƣớc cao hơn
thế giới thì các đơn vị kinh doanh vàng sẽ phải tính toán hạ thấp giá vàng bán ra để
cạnh tranh và nhập khẩu về khối lƣợng khác với giá thấp hơn, vì thế ngƣời dân sẽ
đƣợc lợi và tiến dần đến cân bằng hơn với giá thế giới.
- Nếu xuất khẩu vàng đƣợc khai thông, sẽ huy động đƣợc một lƣợng vốn
bằng vàng lớn trong dân cƣ và mang về nguồn ngoại tệ rất lớn trở thành nguồn vốn
đầu tƣ trực tiếp phục vụ sản xuất kinh doanh.
Đồng thời, nên mở rộng loại vàng đƣợc phép xuất khẩu thành vàng thỏi hay
vàng miếng thay vì chỉ là vàng nguyên liệu hoặc nữ trang nhƣ hiện nay. Bởi khi nhập
giá đã cao do thị trƣờng nƣớc ngoài đã phải biến vàng thỏi thành vàng nguyên liệu
để xuất cho Việt Nam, rồi nếu đƣợc phép xuất, phía Việt Nam lại phải nấu vàng miếng
lại thành vàng nguyên liệu mới đƣợc xuất đi. Quy định này gây tốn kém nhiều chi phí
cho các ngân hàng và doanh nghiệp muốn xuất khẩu vàng.
96
3.2.3. Phát triển vàng tiền tệ và sản xuất vàng theo tiêu chuẩn quốc tế
Hiện nay, vàng miếng Việt Nam chƣa đƣợc chấp nhận lƣu thông trên thị trƣờng
quốc tế do 2 vấn đề sau:
- Quy định 1 lƣợng = 1,20556 ounce khiến việc quy đổi chậm và không thích
ứng với việc kinh doanh vàng tài khoản quốc tế chỉ sử dụng ounce.
- Uy tín và năng lực của nhà sản xuất tại Việt Nam. Việc sản xuất nên đƣợc
đảm bảo từ một ngân hàng đặc biệt là ngân hàng thuộc nhà nƣớc quản lý chứ không
nên thuộc về trách nhiệm của riêng 1 doanh nghiệp nào đó (nhƣ SJC, Bảo Tín Minh
Châu..) hay một ngân hàng thƣơng mại đảm trách (ACB, AAA của NH Nông
nghiệp…) để có thể đảm bảo đƣợc chất lƣợng và uy tín đối với thị trƣờng nƣớc ngoài,
dần dần tạo đƣợc niềm tin khi mà Việt Nam không phải là một thị trƣờng kinh doanh
vàng truyền thống và lâu đời hay có thể nói là khá mới mẻ.
Do vậy, trong khi đợi thời gian để đƣợc chấp nhận chất lƣợng và lƣu thông trên
thị trƣờng quốc tế thì Nhà nƣớc nên có biện pháp khuyến khích đẩy mạnh lƣu thông
vàng theo tiêu chuẩn quốc tế tại Việt Nam để sớm có cơ hội gắn kết việc kinh doanh
trên thị trƣờng quốc tế và giúp việc xuất nhập đƣợc dễ dàng.
3.2.4. Xây dựng sàn giao dịch vàng quốc gia
Hiện tại, nhu cầu đầu tƣ vàng ở Việt Nam đang phát triển mạnh, vì vậy, ngoài
việc sớm ban hành cơ chế hoạt động cho hình thức kinh doanh vàng qua tài khoản, cần
phải xây dựng một sàn giao dịch vàng quốc gia. Do vậy cần phải có một sàn giao dịch
vàng mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu của thị trƣờng và hạn chế rủi ro cho các
nhà đầu tƣ khi giao dịch tại các sàn nhỏ.
Hiện Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đang tập trung nghiên cứu kinh
nghiệm của các sàn giao dịch vàng quốc tế đang hoạt động hiệu quả, kết hợp với
nghiên cứu tình hình giao dịch của thị trƣờng vàng trong nƣớc và các cơ chế pháp luật
hiện hành để sớm cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia. Điểm khác biệt lớn nhất
97
so với các sàn giao dịch nhỏ lẻ là không phải do một doanh nghiệp, một đơn vị tổ chức
mà là do nhiều ngân hàng thƣơng mại, nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng
tham gia. Hoạt động của sàn giao dịch độc lập, không phụ thuộc hoặc hoạt động vì lợi
ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự
cạnh tranh kinh doanh giữa các hội viên, các doanh nghiệp.
Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra
thành lập và chịu trách nhiệm, do đó, việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ
giá hình thành trên thị trƣờng vàng Việt Nam, giá mua cũng nhƣ giá bán sẽ đƣợc minh
bạch và khách quan nhất.
Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái
sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trƣờng vàng thế giới biến động bất thƣờng.
Trƣờng hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng hoặc đáp ứng các nhu cầu
vàng vật chất cho nhà đầu tƣ. Nhà đầu tƣ sẽ đƣợc tính giá mua, giá bán trên cơ sở
khớp giá hàng ngày của nhiều ngƣời mua, nhiều ngƣời bán, nếu lƣợng khách giao dịch
càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn.
Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc sẽ là rất lớn. Nếu hình thành đƣợc
sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế đƣợc lƣợng giao dịch không chính thức, tránh
đƣợc những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan quản lý cũng nắm đƣợc
lƣợng cung, cầu của thị trƣờng vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng nhƣ
lƣợng tiền giao dịch trên thị trƣờng vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có
những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra.
Ngoài ra, qua sàn giao dịch này, Ngân hàng Nhà nƣớc sẽ có cơ sở để ban hành
các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trƣờng vàng. Tuy nhiên, vấn đề là phải làm
sao vừa phải bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tƣ, vừa phải phát triển sàn theo đúng định
hƣớng của Chính phủ, bảo đảm tính minh bạch và hạn chế các yếu tố đầu cơ,
trong điều kiện chúng ta chƣa có một cơ chế, chính sách nào về hình thành và quản lý
98
sàn giao dịch vàng. Chính vì vậy, khi đi vào hoạt động, sàn giao dịch vàng quốc gia
cần phải đƣợc hƣởng những chính sách thỏa đáng để tạo điều kiện cho thị trƣờng phát
triển ổn định với đúng nghĩa là một thị trƣờng dịch vụ nhƣng vẫn bảo vệ đƣợc lợi ích
cho nhà đầu tƣ và cơ quan quản lý. Và nếu sàn hoạt động tốt sẽ góp phần kiểm soát thị
trƣờng tiền tệ.
Cùng với việc đề nghị cho phép thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, Hiệp hội
cũng đã đề nghị Ngân hàng Nhà nƣớc ban hành quy chế về việc kết nối giữa các sàn
giao dịch nhỏ với sàn giao dịch quốc gia.
3.2.5. Tăng cƣờng hiểu biết và hạn chế các yếu tố tâm lý trong kinh doanh vàng
Các nhà đầu tƣ và ngƣời dân mua vàng ở Việt Nam hiện nay vẫn theo tâm lý đám
đông, đổ xô đi mua vàng hoặc bán vàng khi giá vàng biến động lớn mà không để ý đầy
đủ tới các yếu tố liên quan xung quanh biến động đó. Điều này có thể dẫn đến việc giá
vàng trong nƣớc không phản ánh đúng xu hƣớng giá vàng thế giới mà bị điều chỉnh
mạnh do tâm lý nhà đầu tƣ. Bởi vậy, nhà đầu tƣ cần phải đƣợc trang bị những kiến
thức cần thiết khi tham gia thị trƣờng vàng, bao gồm cả thị trƣờng vàng vật chất và thị
trƣờng vàng giao dịch qua tài khoản. Ở thị trƣờng vàng vật chất, ngoài việc phải nắm
đƣợc xu hƣớng của giá vàng thế giới, nhà đầu tƣ còn phải hiểu cơ chế giá vàng vật
chất ở Việt Nam cũng nhƣ các cơ chế, chính sách đang đƣợc áp dụng cho thị trƣờng
này. Một số ý kiến của các chuyên gia cho rằng, ngƣời dân Việt Nam hiện đang có xu
hƣớng đầu tƣ khá ngƣợc, khi giá lên thì đổ xô đi mua do ý nghĩ giá sẽ còn lên nữa và
họ mua để tích trữ đợi bán với mức giá cao hơn, còn khi giá xuống thì lại đổ xô đi bán.
Hầu hết những hoạt động đầu tƣ này chỉ theo cảm tính, đó là một trong những nguyên
nhân dẫn đến những thiệt hại lớn khi giá vàng đảo chiều. Việc đầu tƣ vào thị trƣờng
vàng sàn còn đòi hỏi nhà đầu tƣ cao hơn nữa, vì giá vàng giao dịch trên sàn thƣờng
bám sát với giá thế giới, giá vàng hiện nay tƣơng đối nhạy cảm và có thể đảo chiều rất
nhanh. Ở nƣớc ngoài có các quỹ đầu tƣ, các công ty tƣ vấn và đầu tƣ tài chính với
99
những chuyên gia có kiến thức chuyên sâu về thị trƣờng và kinh nghiệm để các nhà
đầu tƣ có thể ủy thác đầu tƣ. Tuy nhiên hiện nay, dịch vụ này ở Việt Nam chƣa phát
triển. Vì thế trƣớc khi đầu tƣ, nhà đầu tƣ cần có những kiến thức nhất định. Chẳng hạn
kiến thức về phân tích kỹ thuật (về bản chất cũng nhƣ phân tích chứng khoán), phân
tích cơ bản (những yếu tố vĩ mô tác động đến giá vàng), nắm đƣợc quy luật về cung –
cầu, dự báo các động thái trên thị trƣờng quốc tế… Các phƣơng pháp phân tích có thể
học từ những giáo trình trong các trƣờng đại học chuyên ngành hoặc thông qua các
khoá đào tạo ngắn hạn do các tổ chức chuyên nghiệp trong và ngoài nƣớc thực hiện...
KẾT LUẬN CHƢƠNG III:
Chƣơng III đã đƣa ra các dự báo về giá vàng trong thời gian tới dựa trên các cơ
sở về triển vọng nền kinh tế quốc tế, về xu hƣớng biến động của đồng đô la Mỹ, xu
hƣớng giá dầu thế giới và cung cầu về vàng. Từ đó đƣa ra các kiến nghị giúp ổn định
giá vàng và phát triển kinh doanh vàng tại Việt Nam.
Ngoài một số yếu tố cần thiết để phát triển thị trƣờng vàng Việt Nam ở trên, các
doanh nghiệp kinh doanh vàng cũng cần cải thiện trình độ công nghệ và độ tinh xảo
trong chế tác vàng. Chủ yếu hiện nay, Việt Nam xuất khẩu đồ trang sức sang các nƣớc
khác, bởi vậy trong quá trình gia công, chế tác vàng, cần phải đảm bảo sự tinh khiết
của vàng trong sản phẩm. Điều này sẽ tránh thua thiệt cho các doanh nghiệp Việt Nam
khi bạn hàng tiến hành phân kim và phát hiện hao hụt trong sản phẩm. Nói tóm lại, các
doanh nghiệp cần phải có các biện pháp để đƣa sản phẩm của mình tiếp cận với các
tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu mang lại lợi luận cho doanh
nghiệp.
100
KẾT LUẬN
Trong thời gian vừa qua, thị trƣờng vàng là một trong các thị trƣờng thu hút
đƣợc sự quan tâm lớn nhất của các nhà đầu tƣ với những biến động lớn, đặc biệt là từ
cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ, sau đó lan rộng ra toàn cầu, đẩy nền kinh tế thế giới
vào đình trạng suy thoái. Vàng là một kim loại quý đƣợc sử dụng khá phổ biến, vừa là
một hàng hóa đặc biệt, vừa là một loại tiền tệ do những đặc tính lý hóa nổi bật, và các
tính chất hiếm khác. Từ khi đƣợc con ngƣời phát hiện ra, vàng đã trải qua nhiều giai
đoạn phát triển với những vai trò khác nhau, đặc biệt là trong cái giai đoạn phát triển
của các chế độ tiền tệ, vàng luôn luôn đƣợc coi trọng và thể hiện đƣợc các đặc trƣng
giá trị. Thị trƣờng vàng hiện nay đƣợc coi là kênh đầu tƣ thay thế hấp dẫn trong thời kỳ
khủng hoảng, những cũng là thị trƣờng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việt Nam là một trong
những thị trƣờng tiêu thụ vàng lớn nhất trong khu vực và trên thế giới. Trong một vài
năm gần đây, những thay đổi trên thị trƣờng tài chính, tình hình chính trị trên thế giới
đã tạo hỗ trợ tốt cho thị trƣờng vàng phát triển mạnh. Mốc tăng đầu tiên của vàng thế
giới cũng nhƣ vàng Việt Nam là từ thời điểm năm 2006, và xu hƣớng này chững lại
vào khoảng giữa năm 2008 nhƣng lấy lại đà tăng từ thời điểm tháng 2/ 2009 đến tận
những tháng đầu năm 2010. Giá vàng tại thị trƣờng Việt Nam tuy chƣa liên thông hoàn
toàn với giá vàng thế giới nhƣng vẫn phụ thuộc khá nhiều vào biến động của giá vàng
thế giới, vì vậy giá vàng tại Việt Nam cũng chịu tác động từ các yếu tố chính nhƣ sự
biến động của đồng USD, giá dầu, sức khỏe của nền kinh tế thế giới nói chung và kinh
tế Mỹ nói riêng, tình hình lạm phát, và biến động của các thị trƣờng liên quan nhƣ thị
trƣờng chứng khoán và thị trƣờng bất động sản. Bên cạnh đó, giá vàng vật chất hiện
nay ở Việt Nam còn chịu ảnh hƣởng tƣơng đối lớn từ những chính sách của nhà nƣớc
về xuất nhập khẩu, khiến xu hƣớng giá vàng trong nƣớc đôi khi không đi theo xu
hƣớng chung của giá vàng thế giới. Điều này ảnh hƣởng lớn đến thị trƣờng vàng trong
nƣớc do khả năng khai thác vàng ở Việt Nam chỉ đáp ứng đƣợc một phần rất nhỏ nhu
101
cầu thị trƣờng, và nhƣ vậy thị trƣờng không thể vận hành bình thƣờng đƣợc. Trong các
yếu tố tác động đến giá vàng thì hiện nay, triển vọng của nền kinh tế thế giới và hƣớng
đi của đồng USD đƣợc coi là có vai trò quyết định trong xu hƣớng của giá vàng.
Nguồn cung vàng trên thế giới đang có xu hƣớng giảm trong khi cầu trên thị trƣờng
này vẫn còn rất lớn. Trong trung hạn, giá vàng đƣợc nhận định sẽ đi theo xu hƣơng
tăng do tình hình lạm phát có thể quay trở lại khi nền kinh tế phục hồi một chút và
đồng USD đứng trƣớc nguy cơ giảm giá. Tuy nhiên, để thị trƣờng vàng Việt Nam vận
hành tốt và tận dụng đƣợc những cơ hội mà giá vàng sắp tới có thể đem lại thì chính
phủ và Ngân hàng nhà nƣớc phải có những biện pháp cải thiện thị trƣờng cụ thể. Trong
đó, quan trọng nhất là hợp lý hóa phƣơng thức quản lý hoạt động xuất nhập khẩu vàng
để tạo liên thông với thị trƣờng vàng thế giới, bên cạnh việc phát triển hình thức kinh
doanh vàng trên tài khoản, đa dạng hóa danh mục đầu tƣ cho thị trƣờng tài chính nói
chung. Thị trƣờng vàng là một thị trƣờng tƣơng đối nhạy cảm và có nhiều biến động, vì
vậy các nhà đầu tƣ cũng cần phải đƣợc trang bị các kiến thức đầu tƣ cần thiết, cũng
nhƣ nguồn thông tin đầy đủ để đƣa ra quyết định đầu tƣ hiệu quả. Thị trƣờng vàng Việt
Nam chắc chắn sẽ đạt đƣợc nhiều thành công, mang lại lợi ích cho nhiều bên nếu đƣợc
vận hành tốt với một cơ chế điều hành thông thoáng, hiệu quả.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Giáo trình kinh tế chính trị, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Chính phủ (1999), Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 09/12/1999 về Quản lý
hoạt động kinh doanh vàng.
3. Chính phủ (2003), Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 sửa đổi bổ
sung Nghị định số 172/1999/NĐ–CP về việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
vàng, các luật thuế xuất nhập khẩu, luật thuế giá trị gia tăng mới.
4. Chủ biên PGS,TS. Trần Ngọc Thơ, PGS,TS. Nguyễn Ngọc Định và các tác giả
PGS,TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang, TS. Nguyễn Thị Liên Hoa, Thạc Sĩ Nguyễn
Khắc Quốc Bảo (2003), Tài Chính Quốc Tế, Nhà xuất bản Thống kê, TP.HCM.
5. Công ty cổ phần định giá và dịch vụ tài chính Việt Nam (2010), Đồng USD
được dự báo tăng giá mạnh trong nửa đầu năm 2010, Hà Nội.
6. Đặng Hƣơng (2010), “Năm 2010 giá vàng khoảng 1.100 USD/ounce”, Thời báo
kinh tế Việt Nam, (số 15), tr.23
7. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam (2006), Quyết định số 03/2006/QĐ-NHNN ngày
18/1/2006 về việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài.
8. Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam (2010), Thông tư số 01/2010/TT-NHNN về việc
chấm dứt mọi hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài kể từ
ngày 6/1/2010 và đóng các tài khoản kinh doanh vàng ở nước ngoài trước ngày
30/3/2010.
9. Nguyễn Chí Trung (2006), “Tác động của giá vàng và lãi suất đôla Mỹ tiếp tục
tăng cao”, Tạp chí Thương mại , (số 7), tr.8
10. Nguyễn Nga (2009), “Giá vàng liệu đã hết sốc”,Tạp chí Doanh nhân, (số
20/2009), tr.11.
103
11. Quý Đỗ (2006), “Tại sao giá vàng lên”, Tạp chí Tia sáng, (số 5), tr.6
12. Quỳnh Nga (2005), “Giá vàng sẽ còn tiếp tục tăng do nỗi lo về lạm phát”, Tạp
chí thương mại, (số 25), tr.14.
13. Trần Trọng Nghĩa (2008), Vàng trong đời sống kinh tế xã hội trên thế giới và ở
Việt Nam, Viện khoa học tài chính, Hà Nội.
14. T.S Lê Vinh Danh (2006), Chính sách tiền tệ và điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
trung ương, NXB Tài chính.
Tiếng Anh
15. Eugene F.Brigham (2008), Financial Management, Cengage Learning
Publishing house, New York.
16. GFMS Ltd 2006, 2007, 2008, 2009), Gold Survey, USA.
17. James Turk, (2009), US Dollar Collapse and how to get profits from it,
International Business Publication, New York
18. Jeri Freedman (2009), The U.S. Economic Crisis, Rosen Publishing Group,
USA.
19. London Bullion Market Association (2008), A guide to the London Precious
Mentals Markets, London.
20. Paul Krugman (2009), The return of crisis economics and the 2008 crisis, The
American academic press, Ohio.
21. Philip Klapwijk (2010), “LBMA forecast 2010”, New york times, (số 10/2010).
22. Philip Newman (2008), The outlook for gold prices and US gold jewelry
demand, Baker Press Publisher, New York.
23. Ronald H.L. Tan (1982), The gold market, Singapore University Press,
Singapore.
24. Song Hongbing (2008), Currency war, Feral House, Los Angeles, pp.470 - 494.
104
25. Toney Warwick Ching (2008), The International gold trade, Berkshire
Publishing group, USA.
26. Wachovia Economic Group (2007, 2008, 2009), Personal finance and business
financial services reports, USA.
27. William A.Flecken Skein (2009), Greenspan financial bubble – stupid period of
FED, USA.
28. World Gold Council (2006, 2007, 2008), Gold Demand Trend, USA.
29. World Gold Council (2006, 2007, 2008), Gold Investment Digest, USA.
30. World Gold Council (2007), Moneytary history of gold, USA.
31. World Gold Council (2008), Why central bank hold golds, USA.
32. World Gold Council (12/2009), World official gold holdings, United Kingdom.
Websites
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.
105
46.
47.
48.
49.
50.
51.
52.
53.
a
PHỤ LỤC 01
LƢỢNG VÀNG DỰ TRỮ CỦA CÁC QUỐC GIA (tính đến tháng 6/2009)
b
c
PHỤ LỤC 02
CẦU VỀ VÀNG ( TỪ 2007 ĐẾN QUÝ 3 NĂM 2009)
d
PHỤ LỤC 03
XU HƢỚNG CẦU TIÊU DÙNG VÀNG TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3317_7944.pdf