Luận văn Pháp luật về bảo hiểm xã hội - Từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên

Qua nghiên cứu về “Pháp luật về bảo hiểm xã hội- từ thực tiễn Thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên” cho thấy việc triển khai thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Song bên cạnh đó vẫn c n tồn tại những hạn chế, bất cập, đ i hỏi các cấp, các ngành cùng có sự phối hợp để giải quyết trong thời gian tới. Từ thực tiễn pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công cho thấy: Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt động, tổ chức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc đã giải quyết được những vấn đề cơ bản, có tác dụng nhiều m t trong việc đảm bảo an toàn xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Luật BHXH đã phù hợp với thực tiễn, được cuộc sống chấp nhận và ngày càng khẳng định vai tr quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật BHXH cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế đ t ra nhu cầu khách quan về việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật BHXH một cách căn cơ nhằm thiết lập khung chính sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường, đáp ứng được nguyện vọng của NLĐ, đảm bảo ASXH và hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới. Pháp luật về bảo hiểm xã hội không phải xây dựng mới hoàn toàn mà là sự kế thừa chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì vậy mà pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành không tránh khỏi những bất cập như: mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, những bất cập về lương hưu, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được mở rộng. Để khắc phục những bất cập và hạn chế của chính sách bảo hiểm xã hội,89 xây dựng hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội phù hợp với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế nhiều thành phần, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay.

pdf100 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về bảo hiểm xã hội - Từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hóa tuy có quy mô lớn nhưng kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến nợ đọng BHXH kéo dài, ho c một số doanh nghiệp đã đăng ký thành lập nhưng ko có trụ sở giao dịch, ho c thành lập xong không hoạt động ho c có đơn vị đăng ký kinh doanh nhưng không có lao động nên không có cơ sở để cơ quan BHXH thực hiện thu BHXH. Đối với mức lương mà người SDLĐ đóng cho NLĐ rất thấp, chỉ bằng mức lương tối 65 thiểu vùng, có một số ít lao động được đóng BHXH ở mức cao hơn nhưng cũng không cao hơn nhiều so với mức tối thiểu vùng. Ngoài ra, một số doanh nghiệp đã đối chiếu đóng BHXH với cơ quan BHXH vẫn c n nợ tiền nhưng nay đã giải thể, phá sản, dừng hoạt động, không c n chủ sở hữu mà chưa có biện pháp giải quyết số nợ này. Đ c biệt, tình trạng trốn đóng BHXH, nợ đọng tiền BHXH ở các doanh nghiệp vẫn c n nhiều. 2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, trình độ quản lý và năng lực thực hiện nghiệp vụ của cán bộ, viên chức ngành BHXH còn hạn chế Số lượng biên chế so với nhu cầu công việc hiện tại c n thấp. Phần lớn viên chức chưa được đào tạo cơ bản về chuyên ngành BHXH; công việc hàng năm phát sinh nhiều, công chức luôn làm việc trong điều kiện quá tải, phải làm thêm giờ mới hoàn thành nhiệm vụ, đôi lúc công việc đạt được chưa như mong đợi. Do phải làm việc kiêm nhiệm, nên một số lĩnh vực c n bỏ trống, nguồn thu BHXH chưa được khai thác triệt để. Thứ hai, công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về BHXH còn nhiều hạn chế Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật BHXH triển khai chưa thực sự chuyên sâu, hình thức, biện pháp tuyên truyền chưa đa dạng và chưa được tổ chức thường xuyên, c n một bộ phận NSDLĐ chưa hiểu đúng và thực hiện đúng pháp luật về BHXH, BHTN. inh phí tuyên truyền được BHXH tỉnh Thái Nguyên cấp hàng năm c n hạn hẹp. Sự chỉ đạo và phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành của thị xã c n chưa thực sự ch t chẽ, đồng bộ. ột số cấp ủy, chính quyền, một số ngành c n coi công tác tuyên truyền pháp luật BHXH là của cơ quan BHXH nên chưa có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội. ột bộ phận NLĐ do áp lực việc làm, thu nhập trước mắt nên không quan tâm đến nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH, không đấu tranh, giám sát việc đóng BHXH của chủ SDLĐ. 66 Tiểu kết chƣơng 2 Tại Chương 2, Luận văn đã phân tích, đánh giá các thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công và đánh giá kết quả đạt được, nêu các hạn chế về tổ chức, hoạt động của Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công để tạo tiền đề, đề xuất giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực hiệu quả của pháp luật về bảo hiểm xã hội. Luận văn nêu ra cơ cấu và tổ chức của bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công, chỉ ra vị trí, vai tr của bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công trong tổ chức bộ máy của Bảo hiểm xã hội tỉnh Thái Nguyên để có được những phân tích, đánh giá, chỉ ra một số tồn tại, bất cập cụ thể trong các quy định về cơ cấu và tổ chức của bảo hiểm xã hội thị xã. Tiếp theo, luận văn xem xét việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công. Trong đó, trước hết khái quát về thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã; sau đó đưa ra những kết quả đạt được, những bất cập hạn chế trong các nội dung của bảo hiểm xã hội và phân tích các nguyên nhân của những kết quả đạt được, của những hạn chế từ thực tiễn pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công. 67 Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN 3.1 Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về ảo hiểm ã h i Luật BHXH đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, cụ thể hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách BHXH phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng nguyện vọng, đảm bảo ASXH và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, qua nhiều năm đi vào cuộc sống, thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy Luật BHXH đang bộc lộ một số bất cập, hạn chế thể hiện trong bản thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức thực thi các quy định này trong các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hưu trí và tử tuất của BHXH bắt buộc. Nhiều doanh nghiệp cho rằng là việc tăng mức thu đối với người lao động theo lộ trình mà dự luật đưa ra cũng sẽ ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động. Tỷ lệ các doanh nghiệp đóng BHXH như hiện nay là quá thấp và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nguy cơ mất cân đối trong việc điều hành chi trả của quỹ bảo hiểm. Xác định mức lương tối thiểu để làm căn cứ đóng BHXH: các quy định hiện nay về thang bang lương chỉ được áp dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh. Trong khi đó lại không có các quy định cụ thể cho khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vì thế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể “lách” các quy định bằng cách áp dụng mức lương tối thiểu nhưng lại không xây dựng hệ số cho các công việc khác nhau, gây thiệt th i cho người lao động. 68 Hay tại các khu công nghiệp người lao động phản đối ý kiến của dự thảo luật đối với chế độ thanh toán BHXH một lần khi họ đủ điều kiện về tuổi nghỉ hưu và chưa đủ 20 năm đóng BHXH, bởi NLĐ thường làm hợp đồng ngắn hạn, khi NLĐ nghỉ việc và muốn thanh toán chế độ luôn thì không được mà họ phải chờ đợi thời gian quá lâu. Vì lý do đó, Quốc hội khóa XIII thông qua Luật BHXH năm 2014, sau đó Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật phù hợp, đáp ứng được yêu cầu của thực tế sẽ đảm bảo việc thực hiện pháp luật về BHXH. Đối với BHXH bắt buộc, công tác quản lý lao động thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH trong các thành phần kinh tế cần kịp thời, chính xác hơn nữa; cần có cơ chế mạnh hơn nữa trong việc phối hợp, trao đổi thông tin về quản lý lao động một cách hiệu quả giữa các cơ quan chức năng. Việc xác định và giao BHXH thực hiện chỉ tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH hằng năm c n thiếu cơ sở khoa học và chưa rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc chỉ đạo, quản lý nên trong nhiều năm qua, tỷ lệ lao động tham gia BHXH, đ c biệt là BHXH tự nguyện c n ở mức thấp, không phù hợp với lộ trình thực hiện đạt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH mà Nghị quyết số 15-NQ/TW đã đề ra. Nguy cơ về mất cân đối quỹ hưu trí và tử tuất là do cơ chế đóng - hưởng BHXH c n mất cân đối, mức đóng chưa tương ứng với mức hưởng: tỷ lệ đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất c n thấp so với mức hưởng lương hưu; từ năm 2014 trở đi, tỷ lệ đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất là 22%, trong khi tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa là 75% mức bình quân tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH trong khi mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH c n khoảng cách lớn với mức tiền lương, tiền công thực tế của người lao động (chỉ bằng 72% tiền lương, tiền công thực tế); tỷ lệ hưởng lương hưu 69 cao và công thức tính tỷ lệ hưởng lương hưu c n chưa hợp lý (75% cho 25 năm đóng BHXH đối với nữ và 30 năm đối với nam). Tỷ lệ tính hưởng lương hưu bình quân của nam là 2,5% cho một năm đóng, của nữ là 3% cho một năm đóng là quá cao (bình quân các nước trên thế giới là 1,7%). Tỷ lệ giảm lương hưu do nghỉ hưu trước tuổi chỉ 1% là thấp. Tiền lương bình quân làm căn cứ tính lương hưu của người lao động trong khu vực nhà nước chỉ tính bình quân trên một số năm cuối (là giai đoạn người lao động có mức lương cao nhất). Số người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm. Theo Luật BHXH từ ngày 1.1.2018, mức lương hưu hằng tháng của NLĐ đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của luật này được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH quy định tại Điều 62 của luật này và tương ứng với số năm đóng BHXH như sau: Lao động nam nghỉ hưu vào năm 2018 là 16 năm, năm 2019 là 17 năm, năm 2020 là 18 năm, năm 2021 là 19 năm, từ năm 2022 trở đi là 20 năm; Lao động nữ nghỉ hưu từ năm 2018 trở đi là 15 năm. Sau đó cứ thêm mỗi năm, NLĐ quy định tại điểm a và điểm b khoản này được tính thêm 2%; mức tối đa bằng 75%. Nói cách khác, với lao động nữ khi đủ 55 tuổi và nghỉ hưu từ 31.12.2017 trở về trước chỉ cần 25 năm đóng BHXH thì sẽ được hưởng đủ 75% lương hưu. Những năm đã đóng dư (8 năm), sẽ được hưởng trợ cấp một lần mỗi năm 1/2 mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. C n với trường hợp nữ đủ 55 tuổi và nghỉ hưu từ 1.1.2018 trở đi, sẽ phải có 30 năm đóng BHXH mới được hưởng 75% lương hưu. Nếu đã có 33 năm đóng BHXH, sẽ được hưởng trợ cấp một lần cho 3 năm đóng dư, mỗi năm 1/2 mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Hai người nữ đã có 33 năm đóng BHXH và cùng nghỉ hưu lúc 55 tuổi, thì đều được hưởng 75% lương hưu, dù nghỉ trước hay sau 1.1.2018, chỉ khác nhau người nghỉ hưu năm 2017 được 70 hưởng 4 tháng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, c n người nghỉ năm 2018 chỉ được 1,5 tháng. Quyết định phê duyệt Chiến lược hội nhập quốc tế của ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH) đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, mục tiêu của hội nhập quốc tế là phát huy tối đa nguồn lực và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế góp phần xây dựng hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam bền vững, hiệu quả, hiện đại; xây dựng chính sách, tổ chức thực hiện chính sách về BHXH, BHYT phù hợp với các chuẩn mực, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể, mục tiêu đến năm 2020 là: Góp phần thực hiện thành công Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; nhằm thực hiện thành công Chiến lược phát triển BHXH Việt Nam, phấn đấu đến năm 2020 có 35% lực lượng lao động tham gia BH thất nghiệp, 50% tham gia BHXH và trên 80% tham gia BHYT; tiến tới BHXH cho mọi người lao động và BHYT toàn dân; xây dựng ngành BHXH hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; hoàn thiện chính sách và đảm bảo thực thi chính sách BHXH, BHYT cho người lao động trong các hiệp định song phương và đa phương theo lộ trình; huy động thêm nguồn lực, kinh nghiệp quốc tế nhằm thực hiện tốt chính sách BHXH, BHYT; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ BHXH, BHYT cho người dân; góp phần thu hẹp khoảng cách với các nước khu vực trong lĩnh vực BHXH, BHYT; tham gia ký kết các hiệp định quốc tế trong lĩnh vực BHXH, BHYT và tham gia vào quá trình hoàn thiện thể chế, xây dựng mô hình quản lý, quy trình nghiệp vụ, thủ tục hồ sơ hiện đại, thuận lợi, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người lao động và người sử dụng lao động. 71 Người lao động c n g p nhiều khó khăn, cản trở trong việc tiếp cận các dịch vụ BHXH; tiếp cận, theo dõi các thông tin về BHXH liên quan đến việc đóng - hưởng của người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước; việc cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý BHXH c n chậm; chưa hình thành quản lý BHXH bằng thẻ BHXH điện tử để mọi người lao động đều có thể truy cập tìm hiểu, kiểm tra tất cả những thông tin liên quan tới tài khoản BHXH của mình, do vậy, nhiều trường hợp người lao động bị doanh nghiệp không đóng ho c nợ BHXH đã rất lâu nhưng không biết. 3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về ảo hiểm ã h i từ thực tiễn thị ã Sông Công 3.2.1 Nhóm giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội 3.2.1.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phạm vi áp dụng Hiện nay, trong bối cảnh Luật Việc làm năm 2013 với quan điểm BHTN là một trong các chính sách của thị trường lao động và gắn với quan hệ lao động thì việc chuyển BHTN sang Luật Việc làm là phù hợp. Nhưng theo quy định thì nhóm đối tượng là cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; lực lượng vũ trang; những người lao động làm việc theo mùa vụ sẽ không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Và rõ ràng, đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp hẹp hơn rất nhiều so với đối tượng áp dụng bảo hiểm xã hội bắt buộc và cần được mở rộng nhóm đối tượng này. 3.2.1.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đối tượng áp dụng Ngày 20/11/2014, Luật BHXH đã được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2016 đã luật hóa một số nhóm đối tượng đã được thực hiện ổn định theo các văn bản hướng dẫn Luật BHXH như: người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương; Học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí và bổ sung người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. 72 Việc mở rộng đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc đối với học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học hưởng sinh hoạt phí từ Ngân sách Nhà nước và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Quy định mới này sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng diện bao phủ của BHXH bắt buộc, bởi các nhóm đối tượng này khá ổn định và chiếm một tỷ lệ tương đối. Hiện nay, Việt Nam đang có một lực lượng khá đông đảo đội ngũ cán bộ không chuyên trách cấp xã đang được hưởng phụ cấp khác với 10 năm về trước phần lớn cán bộ không chuyên trách cấp xã là do nhiều cán bộ về hưu đảm nhận, nên chưa có chính sách BHXH. Để khuyến khích và tạo điều kiện cho cán bộ chuyên trách cấp xã gắn bó tâm huyết với công việc đang đảm nhận thì việc quy định này là rất cần thiết. Bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ ho c theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng được giao kết bằng văn bản, kể cả HĐLĐ được ký kết giữa NSDLĐ với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật lao động. Luật BHXH năm 2014 mở rộng BHXH bắt buộc cho nhóm đối tượng này là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc của BHXH bắt buộc. Tuy nhiên, tôi thấy quy định này để triển khai được trên thực tế sẽ g p rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Bởi, nhóm này rất khó quản lý, do tính chất đ c thù của loại lao động này thay đổi thường xuyên, công việc không ổn định, nơi cư trú cũng thay đổi theo trong khi cơ chế quản lý về lao động, tiền lương và thủ tục tham gia đóng BHXH, dừng đóng BHXH c n nhiều hạn chế. Nhằm mở rộng diện bao phủ của BHXH đến đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động, đảm bảo ASXH, để thuận tiện cho NLĐ và NSDLĐ thực hiện được quy định mới này, tôi cho rằng, cần có lộ trình, phương án cụ thể, đ c biệt là sự chuẩn bị về nhân lực, phương tiện công nghệ thông tin cho ngành BHXH và sự phối hợp giữa cơ quan quản lý về lao động tại địa phương và cơ quan BHXH. 73 Bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đối với người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng. Về bổ sung nhóm đối tượng này, bên cạnh m t tích cực là đem lại quyền lợi chính đáng cho NLĐ trong những trường hợp NSDLĐ sử dụng hình thức ký HĐLĐ này để trốn tránh việc đóng BHXH cho NLĐ. Do vậy, với việc bổ sung nhóm đối tượng này sẽ khắc phục được hiện tượng “lách luật” của đơn vị trong việc thực hiện nghĩa vụ tham gia đóng BHXH đầy đủ cho NLĐ. Nhưng trong nhiều trường hợp, lao động hợp đồng có thời hạn 3 tháng thường là hợp đồng thử việc, sau thử việc có thể được kí hợp đồng tiếp ho c không. Việc bổ sung đối tượng là NLĐ làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ ho c theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, trường hợp NLĐ làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng cũng có những đ c thù tương tự. Từ những vấn đề nêu trên, hình thức HĐLĐ đối với những công việc tạm thời có thời hạn dưới 3 tháng nên chăng chuyển sang đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện. Tuy nhiên, cần phải quy định rõ NSDLĐ phải kê khai và chi trả đầy đủ các khoản BHXH cho NLĐ có công việc tạm thời dưới 3 tháng để NLĐ có công việc tạm thời dưới 3 tháng có quyền và được tự nguyện nộp BHXH tại địa phương nơi cư trú ho c làm việc thường xuyên của NLĐ. Bổ sung đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp (khoản 2 Điều 2). Việc bổ sung nhóm đối tượng này, sẽ không chỉ mang ý nghĩa mở rộng đối tượng, mà c n tiến tới sự phù hợp với quá trình phát triển thị trường lao động. 3.3.1.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ ốm đau Về m t kết cấu, chế độ ốm đau trong Luật BHXH năm 2014 gồm 06 điều được kết cấu tương tự như Luật BHXH hiện hành và đã bao quát đầy đủ các quy định về chế độ ốm đau của người tham gia BHXH. Theo đó, đối 74 tượng áp dụng được quy định cụ thể hơn theo hướng mở rộng diện thụ hưởng, rõ ràng hơn, thuận lợi cho việc thực hiện và quản lý. Việc bổ sung đối tượng là người lao động làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng tham gia vào BHXH bắt buộc là một sự cần thiết, nhưng trên thực tế triển khai sẽ g p rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Nên chăng, chỉ để cho nhóm đối tượng này tham gia vào hai loại chế độ là hưu trí và tử tuất thì sẽ hợp lý, thuận lợi hơn trong việc thụ hưởng chế độ. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau đã được quy định hợp lý, tạo thuận lợi hơn so với quy định hiện hành khi thực hiện trong trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia BHXH khi con bị ốm đau. Việc đưa người cha vào đối tượng thụ hưởng chế độ khi con ốm đau là một bổ sung tích cực của Luật BHXH năm 2014. Chăm sóc con cái không chỉ là nghĩa vụ riêng của người mẹ, trong nhiều trường hợp, rất cần sự hỗ trợ của người cha. Đ c biệt khi chỉ có người cha tham gia BHXH thì quyền lợi về chăm sóc con ốm đau, quyền được hưởng chế độ khi tham gia đóng góp vào quỹ BHXH sẽ được đảm bảo, giúp cho NLĐ yên tâm và tin tưởng vào quy định pháp luật BHXH. Thời gian hưởng chế độ ốm đau về cơ bản vẫn giữ nguyên như cũ. Đối với quy định tại khoản 2, Điều 26 của Luật BHXH năm 2014 về thời gian hưởng chế độ ốm đau do mắc bệnh cần chữa trị dài ngày, đây là quy định đang bị lạm dụng nhiều, cần sửa đổi theo hướng quy định điều kiện về thời gian đóng BHXH vào quỹ ốm đau, thai sản. Từ đó, quy định về các mức hưởng khác nhau tương đương với thời gian đóng góp nhằm hướng tới sự cân bằng giữa đóng và hưởng. Về điều kiện về thời gian được hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Theo đó, “người lao động sau thời gian hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại Điều 26 của Luật này mà trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc sau thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau sức khỏe c n yếu thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ năm ngày đến mười ngày trong một 75 năm”. Như đã nêu ở phần thực trạng, việc bổ sung thêm điều kiện về thời gian này chỉ hạn chế phần nào tình trạng trục lợi quỹ BHXH chứ không xóa bỏ được hoàn toàn. t khác, Luật BHXH năm 2014 cũng không nói rõ căn cứ để xác định tình trạng “sức khỏe yếu”. Trên thực tế, cũng chưa có hướng dẫn để làm rõ khái nhiệm này và căn cứ để cho rằng NLĐ đi nghỉ dưỡng tập trung hay tại gia đình. 3.2.1.4 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ thai sản Luật BHXH năm 2014 đã mở rộng điều kiện hưởng chế độ thai sản cho phù hợp hơn với thực tế. Cụ thể: Luật đã bổ sung thêm đối tượng, Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ” và “Lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con” được hưởng chế độ thai sản; bổ sung thêm đối tượng lao động nữ đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên và đã đóng BHXH từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh (khoản 3, Điều 31); Quy định cụ thể hơn các đối tượng được hưởng chế độ thai sản khi chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc ho c thôi việc trước thời điểm sinh con ho c nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi (khoản 4, Điều 31). Quy định linh hoạt hơn về điều kiện hưởng chế độ thai sản. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con được điều chỉnh tăng phù hợp với quy định tại Điều 157 Bộ luật Lao động 2012 và mở rộng thêm đối tượng thụ hưởng theo hướng đáp ứng yêu cầu bình đẳng giới. Cụ thể: Tăng thời gian nghỉ sinh con lên 6 tháng; thời gian nghỉ phụ thuộc vào phương thức sinh của người vợ; linh hoạt hơn về mức hưởng đối với người được thụ hưởng khi người mẹ chết sau khi sinh. ức hưởng chế độ thai sản cũng được quy định cụ thể hơn với từng trường hợp tạo thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Cụ thể, bổ sung thêm quy định về cách tính mức hưởng chế độ thai sản trong trường hợp NLĐ khi đi khám thai, sảy thai, nạo hút thai, thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai mà đóng BHXH chưa đủ 06 tháng. Theo đó, trường hợp NLĐ đóng 76 BHXH chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản khi đi khám thai, khi sẩy thai, nạo, hút ho c thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai là mức bình quân tiền lương tháng của các tháng đã đóng BHXH. Những thay đổi tích cực của Luật BHXH ngày 20/11/2014 về sửa đổi Luật BHXH đã giải quyết những bất cập, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện Luật BHXH trong thời gian qua. Tuy nhiên, để Luật thực sự đi vào cuộc sống của NLĐ, các nhà làm Luật cần có các quy định rõ hơn về chế độ trợ cấp một lần khi sinh cho trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH. Vì với điều kiện về quản lý nhân khẩu và lao động hiện hành thì trong thực tế không thể xác định được người mẹ có tham gia BHXH hay không mà chỉ căn cứ vào đơn và xác nhận nên chắc chắn sẽ bị lạm dụng và không kiểm soát được khi cả cha, mẹ đóng BHXH tại các đơn vị khác nhau, thậm chí tại các địa phương khác nhau cũng đề nghị hưởng trợ cấp một lần khi sinh con. 3.2.1.5 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ TNLĐ- BNN Phần sửa đổi của Luật BHXH năm 2014 một số quy định về chế độ TNLĐ, BNN là hợp lý. Điều kiện hưởng chế độ TNLĐ được quy định chi tiết và rõ ràng hơn so với quy định hiện hành tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thực hiện. Luật đã cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 43 trường hợp bị tai nạn trong các trường hợp nêu tại điểm a,b,c (khoản 1 Điều 43); bổ sung quy định các trường hợp cần loại trừ (khoản 2 Điều 43); các quy định nêu trên được thể hiện rõ và thuận lợi trong tổ chức thực hiện. Thời điểm hưởng trợ cấp cũng được quy định ch t chẽ và đầy đủ hơn. Cụ thể là bổ sung quy định về thời điểm hưởng trợ cấp trong các trường hợp không điều trị nội trú (khoản 1, Điều 48); bổ sung quy định về thời điểm hưởng trợ cấp TNLĐ- BNN trong trường hợp không xác định được thời điểm điều trị ổn định xong, ra viện; bổ sung Điều 49 về điều chỉnh trợ cấp TNLĐ- BNN. Đây là một nội dung mới so với quy định của Luật hiện hành m c dù trong tổ chức thực hiện đã được điều chỉnh cùng với lương hưu trong thời 77 gian qua. Tuy nhiên, việc luật hóa nội dung này là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đ t ra. Quy định về phương thức cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình đã hợp lý hơn như nêu cụ thể phương thức cấp các phương tiện này cho đối tượng thụ hưởng. Luật quy định cấp bằng tiền để người bị TNLĐ - BNN trực tiếp mua, định mức số tiền được chi trả sẽ do Bộ LĐ - TB & XH quy định. Đây là một trong những sửa đổi phù hợp với thực tế, tạo chủ động cho NLĐ. 3.2.1.6 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ hưu trí Tuổi nghỉ hưu và điều kiện nghỉ hưu vẫn giữ nguyên như cũ. hoản 1 Điều 54 Luật BHXH quy định về điều kiện hưởng lương hưu như sau: “1. Người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d, g, h và i khoản 1 Điều 2 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, khi nghỉ việc có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên thì được hưởng lương hưu nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; b) Nam từ đủ 55 tuổi đến đủ 60 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 15 năm làm nghề ho c công việc n ng nhọc, độc hại, nguy hiểm ho c đ c biệt n ng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành ho c có đủ 15 năm làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên; c) Người lao động từ đủ 50 tuổi đến đủ 55 tuổi và có đủ 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên mà trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò; d) Người bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp” Dự kiến trong năm 2017, Chính phủ sẽ nghiên cứu trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, trong đó có đề xuất sửa đổi tăng tuổi nghỉ hưu, nhằm ứng phó với tình trạng già hóa dân số và nguy cơ mất cân đối quỹ bảo 78 hiểm xã hội. Việc tăng tuổi nghỉ hưu đối với nữ lên 58 tuổi, nam 62 tuổi đang được đưa ra, tuy nhiên để cân đối hài h a, nên làm từ từ, tùy theo loại hình lao động cho phù hợp với điều kiện lao động và sức khỏe. Về mức hưởng hưu hàng tháng tại Điều 56, Luật BHXH năm 2014 quy định mức lương hưu hằng tháng: Từ ngày Luật BHXH có hiệu lực thi hành cho đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 54 của Luật BHXH được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật BHXH tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội, sau đó cứ thêm mỗi năm thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. ức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện quy định tại Điều 55 của Luật này được tính như quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 2%. Trường hợp tuổi nghỉ hưu có thời gian lẻ đến đủ 06 tháng thì mức giảm là 1%, từ trên 06 tháng thì không giảm tỷ lệ phần trăm do nghỉ hưu trước tuổi. ức lương hưu hằng tháng của lao động nữ đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại khoản 3 Điều 54 được tính theo số năm đóng bảo hiểm xã hội và mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội như sau: đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội quy định tại Điều 62 của Luật BHXH. Từ đủ 16 năm đến dưới 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, cứ mỗi năm đóng tính thêm 2%. ức lương hưu hằng tháng thấp nhất của người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 và Điều 55 của Luật BHXH bằng mức lương cơ sở, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 2 và khoản 3 Điều 54 của Luật này. Như vậy, tác động đến tỷ lệ hưởng lương hưu chủ yếu là lao động nữ, bởi 15 năm đóng BHXH được tính bằng 45%, sau đó cứ thêm mỗi năm được 79 tính thêm 2% thay vì 3%, cho nên phải có đủ 30 năm đóng BHXH mới được hưởng tối đa là 75%, không phải 25 năm như hiện tại. C n đối với lao động nam, tỷ lệ tính thêm vẫn như cũ, chỉ khác là mức khởi điểm 45% tăng dần hàng năm (năm 2018 là 16 năm cho đến năm 2022 trở đi là 20 năm), do đó lao động nam sẽ giảm mức trợ cấp một lần khi nghỉ hưu theo Điều 58 (cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội cho thời gian cao hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng lương hưu 75%. Tính theo khoản 2, Điều 56 thì đối với lao động nữ nếu vì lý do sức khỏe, có đủ 25 năm đóng BHXH và tuổi đời nằm trong phạm vi đủ 52, 53, 54 tuổi thì nên cân nhắc có thể nghỉ hưu trong năm 2017 để có tỷ lệ hưởng lương hưu cao hơn năm sau (tất nhiên phải suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên theo Điều 55). Về việc thực hiện điều chỉnh như trên trong thực tiễn sẽ ảnh hưởng nhất định đến quyền lợi của người nghỉ hưu trong khi tuổi nghỉ hưu không được điều chỉnh tăng lên. Do vậỵ, tỷ lệ hưởng lương hưu của người nghỉ hưu sau khi điều chỉnh sẽ giảm hơn so với hiện hành. Điều này sẽ dẫn tới việc mức lương hưu hàng tháng không đủ để đảm bảo chi trả trong sinh hoạt hàng hàng ngày của một bộ phận lớn người lao động. ức lương hưu sẽ vẫn giữ nguyên đến hết năm 2017 và chỉ điều chỉnh từ năm 2018 trở đi. Đ c biệt, đối tượng được điều chỉnh chỉ là lao động nam, trong khi mức hưởng đối với lao động nữ giữ nguyên như cũ. Điều này thực sự hướng tới mục tiêu bình đẳng giới trong pháp luật BHXH. Về bảo hiểm xã hội một lần, cần cân nhắc việc bổ sung quy định “Người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, sơ gan cổ chướng, phong hủi, lao n ng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khắc theo quy định của Bộ Y tế mà có yêu cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần”. Trước đây, thực hiện theo Điều lệ 80 BHXH trường hợp NLĐ nghỉ việc nhưng chưa đủ tuổi đời để hưởng chế độ hưu trí thì được hưởng trợ cấp một lần. Qua thực tế triển khai, quy định này đã bộc lộ nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng đến quyền được hưởng lương hưu hàng tháng của NLĐ, do vậy, Luật BHXH đã bãi bỏ quy định này. Đến nay, Luật BHXH năm 2014 lại đưa chế độ này vào, tuy có giới hạn về điều kiện hưởng nhưng cần tính đến những bất cập, rủi ro khi điều luật này được Quốc hội thông qua. Việc sửa đổi Luật BHXH nhằm mục đích bảo toàn, cân đối quỹ BHXH, hướng tới đảm bảo ASXH trên diện rộng cho NLĐ. Với quy định này, tình trạng lách luật, hợp lý hoá hồ sơ để hưởng chế độ BHXH một lần sẽ tái diễn. ức hưởng chế độ trợ cấp một lần: ức hưởng tối thiểu vẫn giữ nguyên như cũ cho những năm đóng trước năm 2014, từ năm 2014 trở đi, mức hưởng BHXH một lần được tính bằng 2,0 tháng mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH. Việc điều chỉnh mức hưởng là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với việc điều chỉnh tăng mức đóng BHXH hiện nay. Theo tinh thần của Luật BHXH ngày 20/11/2014 thì NLĐ thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định tham gia BHXH trước ngày 01/07/2015 thì việc điều chỉnh tiền lương đã đóng BHXH vẫn được điều chỉnh theo mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí như quy định hiện hành. Đối với NLĐ bắt đầu tham gia BHXH từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 trở đi thì tiền lương tháng đã đóng BHXH để làm căn cứ tính mức bình quân được điều chỉnh trên cơ sở chỉ số giá sinh hoạt của từng thời kỳ như đối với NLĐ đóng BHXH theo chế độ tiền lương do NSDLĐ quyết định. Quy định mới này của Luật đã giải quyết bất hợp lý trong thực hiện chính sách BHXH đối với NLĐ giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, tạo sân chơi bình đẳng giữa những người tham gia BHXH, tạo sự đồng bộ với cách tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương 81 hưu, trợ cấp một lần, đồng thời đảm bảo được nguyên tắc đóng hưởng và góp phần cân đối quỹ BHXH. 3.2.1.7 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế độ tử tuất Bất cập lớn nhất trong quá trình thực hiện Luật BHXH hiện hành về chế độ tử tuất, đó chính là sự chênh lệch giữa mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng và trợ cấp tuất 1 lần. hắc phục điều này, Luật BHXH đã sửa đổi quy định về chế độ tử tuất theo hướng cho phép thân nhân NLĐ được lựa chọn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng ho c trợ cấp tuất một lần, trừ trường hợp có thân nhân là con dưới 06 tuổi, con ho c vợ ho c chồng mà bị suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên (khoản 3, Điều 70); tăng mức trợ cấp tuất một lần đối với người bị chết khi chưa hưởng lương hưu lên 02 tháng cho mỗi năm đóng BHXH từ năm 2014 trở đi, tương đồng với mức BHXH 1 lần. Luật BHXH ngày 20/11/2014 cũng đã bổ sung đối tượng là NLĐ tham gia BHXH mà bị T a án tuyên bố là đã chết. Với quy định cụ thể này, Luật BHXH năm 2014 đã giúp ngành BHXH tháo gỡ một vướng mắc trong quá trình giải quyết chế độ cho NLĐ, đảm bảo quyền được thụ hưởng BHXH trong những trường hợp đ c biệt. Về cơ bản, chế độ tử tuất trong Luật BHXH đã có sự thay đổi đáng kể, tuy nhiên, qua thực tế, Luật BHXH năm 2014 vẫn chưa giải quyết thoả đáng những khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện thời gian qua. Luật BHXH nên quy định rõ thu nhập hàng tháng được xác định tại thời điểm nào và gồm những khoản gì vì đây là nội dung rất vướng trong tổ chức thực hiện. ức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng cũng cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng lên để tương xứng với việc điều chỉnh tăng mức hưởng trợ cấp tuất một lần. Việc điều chỉnh này sẽ thu hẹp dần sự chênh lệch tương đối lớn giữa hai loại trợ cấp. Từ đó, thân nhân NLĐ sẽ không tìm cách để lạm dụng quỹ BHXH và cơ quan BHXH cũng thuận lợi hơn trong việc giải quyết chế độ. 82 Tóm lại, để chế độ tử tuất thực sự có ý nghĩa đối với NLĐ và thân nhân của họ, đồng thời góp phần ổn định xã hội, trước hết phải xây dựng, hoạch định chính sách một cách khoa học và khả thi, làm tiền đề cho khâu tổ chức thực hiện. 3.2.2 Nhóm giải pháp khác 3.2.2.1 Giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội Để triển khai thực hiện nghiêm chính sách, pháp luật về BHXH trong thời gian tới BHXH tỉnh chủ động xây dựng các chương trình, quy chế phối hợp chủ yếu với các ngành, cụ thể như sau: - Xây dựng chương trình phối hợp với Sở LĐTB&XH, Cục thuế, Sở ế hoạch và Đầu tư rà soát, thống kê các đơn vị SDLĐ đang hoạt động trên địa bàn tỉnh, nắm ch t chẽ đối tượng thuộc diện phải đóng BHXH bắt buộc để quản lý và thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT. - Xây dựng Quy chế phối hợp với Liên đoàn Lao động tỉnh về việc thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT. Quy chế phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật BHXH, BHYT. Quy chế phối hợp với Sở LĐ-TB&XH về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về BHXH; đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân vi phạm theo Nghị định số 86/2010/NĐ- CP ngày 13/8/2010 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Quy chế phối hợp với Công an tỉnh trong phòng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực BHXH, BHYT. Quy chế phối hợp liên ngành với T a án nhân dân tỉnh, Thi hành án tỉnh để thực hiện công tác khởi kiện và thi hành án đối với các đơn vị SDLĐ vi phạm pháp luật về BHXH, BHYT. Ngoài ra, BHXH tỉnh và BHXH các huyện, thị chủ động phối hợp với Cấp ủy, UBND, các ngành, đoàn thể, các cơ quan Báo, Đài thường xuyên tổ 83 chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Để kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng hoạt động của ph ng nghiệp vụ, BHXH các huyện, thị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ triển khai thực hiện pháp luật về BHXH trong thời gian tới, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của BHXH thị xã Sông Công cần tập trung thực hiện tốt một số điểm sau đây: Một là: đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của các ph ng nghiệp vụ và BHXH thị xã. Hai là: tiếp tục rà soát, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm từng đơn vị. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác chỉ đạo, hướng dẫn thực thi nhiệm vụ. iên quyết khắc phục tình trạng đùn đẩy công việc giữa các ph ng nghiệp vụ, tính thiếu đồng bộ trong chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ, NSDLĐ, nhân dân tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH. Ba là: phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng cho từng công chức, viên chức; khắc phục tình trạng thụ động, phong cách làm việc hành chính, quan liêu trong chỉ đạo, điều hành thực thi nhiệm vụ, chuyển đổi nhanh sang phong cách phục vụ; gắn với việc đánh giá, phân loại công chức, viên chức hàng quý, hàng năm với kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao; tăng cường tính gương mẫu và trách nhiệm của công chức, viên chức lãnh đạo trong chỉ đạo, điều hành đơn vị. 3.2.2.2 Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công Một là, nâng cao năng lực đội ngũ công chức, viên chức thực thi pháp luật BHXH (đ c biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo) là một trong những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm thực hiện pháp luật về BHXH. Trong đó, chú trọng việc xây dựng đội ngũ công chức, viên chức theo tiêu chuẩn vị trí chức danh, 84 mạnh dạn thay thế những viên chức năng lực hạn chế, phẩm chất đạo đức sa sút không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; tuyển chọn viên chức có chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của ngành. Hai là, bảo hiểm xã hội là một ngành hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên môn sâu. Nhưng đội ngũ công chức, viên chức hiện tại của BHXH thị xã chủ yếu được đào tạo về kinh tế, tài chính, xã hội, hầu hết chưa được đào tạo cơ bản nghiệp vụ về BHXH. Do đó, phải xây dựng kế hoạch dài hạn để đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, viên chức, nhất là những người trong quy hoạch. Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng hoạt động của các đại lý thu, đại lý chi BHXH ở xã, phường, thị trấn. Ba là, tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí inh để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức BHXH tỉnh có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong thực thi nhiệm vụ thực hiện pháp luật về BHXH. Xây dựng và thực hiện nghiêm chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử, quy tắc phát ngôn; công chức, viên chức ngành BHXH phải tận tâm, tận lực hết l ng, hết sức phục vụ đối tượng tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH. Bốn là, thực hiện tốt công tác nâng lương thường xuyên, nâng lương trước thời hạn và các chế độ chính sách khác đối với viên chức BHXH thị xã; đẩy mạnh các ph ng trào thi đua, biểu dương khen thưởng kịp thời đối với những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong đơn vị. Năm là, nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả một cửa, cử viên chức nắm vững chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt làm nhiệm vụ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả một cửa, niêm yết công khai quy trình, thời gian, thủ tục giải quyết công việc tại bộ phận một cửa ở BHXH các huyện. Xây dựng và triển khai thực hiện cải cách hành chính theo 85 cơ chế một của liên thông tại BHXH tỉnh và BHXH các huyện, thị xã. Tiếp tục ứng dụng có hiệu quả các chương trình công nghệ thông tin trong quản lý và thực hiện nghiệp vụ thu, quản lý đối tượng tham gia; chương trình quản lý cấp sổ BHXH; quản lý đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, 01 lần; chương trình thẩm định hồ sơ hưởng BHXH; chương trình tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả một cửa; ứng dụng tốt đường truyền dữ liệu thông suốt từ BHXH tỉnh đến BHXH các huyện và ngược lại; quản lý, lưu trữ, bảo mật dữ liệu phục vụ tốt hoạt động của ngành. Sáu là, bảo đảm trang bị mỗi BHXH huyện, thị xã của tỉnh Thái Nguyên đều có máy chủ, mỗi công chức, viên chức đều có máy tính đủ tiêu chuẩn để thực thi nhiệm vụ; nâng cấp đường truyền dữ liệu nội bộ và thuê riêng đường truyền dữ liệu ngành BHXH đảm bảo thông suốt, phục vụ tốt hoạt động thực hiện pháp luật về BHXH. 3.2.2.3 Giải pháp tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật BHXH là một trong những khâu quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện pháp luật về BHXH. Công tác thanh tra, kiểm tra thời gian qua c n nhiều hạn chế; BHXH tỉnh Thái Nguyên chủ yếu kiểm tra, nắm tình hình, chạy theo chỉ tiêu số lượng, chưa thanh tra, kiểm tra để khai thác mới, thu hồi nợ BHXH. Vì vậy, công tác thanh tra, kiểm tra thực thi pháp luật về BHXH ở thị xã Sông Công cần phải đổi mới với một số nội dung chủ yếu như sau: - Công tác thanh tra, kiểm tra phải được phối hợp ch t chẽ giữa Thanh tra chuyên ngành của Ph ng LĐ-TB&XH, của Liên đoàn Lao động, Công an, Sở ế hoạch- Đầu tư, Thuế, BHXH và các cơ quan liên quan trong kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện các quy định của pháp luật về BHXH đây là một giải pháp quan trọng cần thực hiện thường xuyên và thông suốt từ tỉnh đến cấp huyện. 86 - Hàng năm BHXH các cấp tham mưu cho UBND thành lập Tổ kiểm tra liên ngành của tỉnh Thái Nguyên và của các huyện, thị để kiểm tra chuyên đề thực hiện pháp luật về BHXH; đồng thời xây dựng kế hoạch kiểm tra cụ thể để thực hiện kiểm tra, xử lý các đơn vị SDLĐ vi phạm pháp luật BHXH, nhất là vi phạm về không đăng ký đóng BHXH, đóng không đầy đủ, nợ đọng tiền Quỹ BHXH. - Tăng cường củng cố, kiện toàn Ph ng kiểm tra của BHXH tỉnh, viên chức phụ trách công tác kiểm tra của BHXH các huyện, thị xã; lựa chọn xây dựng viên chức làm công tác kiểm tra có phẩm chất, năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ sâu đáp ứng yêu cầu kiểm tra, thực hiện pháp luật về BHXH. - BHXH tỉnh Thái Nguyên và BHXH các huyện, thị xã xây dựng kế hoạch thực hiện công tác kiểm tra đối với các đơn vị sử dụng lao động đăng ký với Thanh tra Nhà nước và tổ chức thực hiện; kế hoạch kiểm tra cần tập trung kiểm tra để khai thác phát triển đối tượng tham gia BHXH, ngăn ngừa tình trạng nợ BHXH, kiểm tra các đơn vị có dấu hiệu vi phạm pháp luật BHXH. - Việc thanh tra, kiểm tra phải bảo đảm nghiêm minh, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật; tạo mọi điều kiện cho các chủ thể tham gia quan hệ BHXH hoạt động bình thường, không làm ảnh hưởng và cản trở hoạt động sản xuất - kinh doanh của đơn vị; đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ BHXH, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, nghiêm cấm việc lợi dụng thanh tra, kiểm tra để xâm hại lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ BHXH; thông qua thanh tra, kiểm tra nếu phát hiện những vi phạm pháp luật về BHXH cần xử lý nghiêm minh, kịp thời theo đúng quy định của pháp luật. 87 Tiểu kết Chƣơng 3 Xuất phát từ vị trí, vai tr và ý nghĩa của bảo hiểm xã hội trong pháp luật của nhà nước cùng với thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công, có thể thấy rằng, việc nâng cao nhận thức về tầm quan trọng pháp luật về bảo hiểm xã hội là một vấn đề tất yếu. Căn cứ vào đ c điểm, tình hình cụ thể của thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội, Chương 3 đã của luận văn đã đưa ra những yêu cầu, định hướng và giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Trong thời gian tới, bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công, chính quyền các cấp, sở, ban, ngành cần đẩy mạnh, nâng cao nhận thức cho các chủ thể và đối tượng trong thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội; tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội; tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy và sự tham gia, phối hợp của các đoàn thể, ban, ngành tham gia bảo hiểm xã hội; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công. Để thực hiện tốt, đồng bộ các yêu cầu, phương hướng, giải pháp trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra hành chính, yêu cầu các cơ quan chức năng có liên quan, các cơ quan chuyên ngành phải phối hợp xây dựng các văn bản pháp lý nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác bảo hiểm xã hội hiện nay. Đồng thời Đảng và Nhà nước cũng cần đưa ra những chính sách tuyên truyền, phổ biến pháp luật tích cực hơn nữa, nhằm xây dựng m t bằng tri thức pháp luật chung cho toàn xã hội. 88 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu về “Pháp luật về bảo hiểm xã hội- từ thực tiễn Thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên” cho thấy việc triển khai thực thi pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Song bên cạnh đó vẫn c n tồn tại những hạn chế, bất cập, đ i hỏi các cấp, các ngành cùng có sự phối hợp để giải quyết trong thời gian tới. Từ thực tiễn pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công cho thấy: Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam được thành lập, đi vào hoạt động, tổ chức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội trên phạm vi toàn quốc đã giải quyết được những vấn đề cơ bản, có tác dụng nhiều m t trong việc đảm bảo an toàn xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Luật BHXH đã phù hợp với thực tiễn, được cuộc sống chấp nhận và ngày càng khẳng định vai tr quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật BHXH cũng bộc lộ những bất cập, hạn chế đ t ra nhu cầu khách quan về việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật BHXH một cách căn cơ nhằm thiết lập khung chính sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường, đáp ứng được nguyện vọng của NLĐ, đảm bảo ASXH và hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình mới. Pháp luật về bảo hiểm xã hội không phải xây dựng mới hoàn toàn mà là sự kế thừa chính sách bảo hiểm xã hội trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính vì vậy mà pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành không tránh khỏi những bất cập như: mối quan hệ giữa đóng góp và hưởng thụ, những bất cập về lương hưu, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đã được mở rộng. Để khắc phục những bất cập và hạn chế của chính sách bảo hiểm xã hội, 89 xây dựng hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội phù hợp với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế nhiều thành phần, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, củng cố và bổ sung văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Với mục đích nghiên cứu đã đ t ra, dựa trên cơ sở nghiên cứu pháp luật bảo hiểm xã hội từ thực tiễn thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn, luận văn đã đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tại Thị xã Sông Công tỉnh Thái Nguyên. Qua nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm xã hội tại thị xã Sông Công, tỉnh Thái Nguyên có thể thấy việc triển khai thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách thực sự có hiệu quả vẫn c n là một vấn đề phức tạp, khó khăn, luôn đ i hỏi sự tìm t i, nghiên cứu về lý luận, sáng tạo trong thực tiễn thực hiện tại mỗi địa phương. Tác giả hy vọng những giải pháp trên đây sẽ được áp dụng, kiểm chứng trên thực tế và qua đó góp phần bổ sung, góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội một cách có hiệu quả, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đảm bảo sự bình ổn cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội tại thị xã Sông Công và các địa phương trên cả nước. 90 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Vụ BHXH (2016), Báo cáo tình hình thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội trong 2 năm 2015 - 2016, Hà Nội 2. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2010), Báo cáo tổng kết năm 2010. 3. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2010), Báo cáo tổng tổng hợp chi BHXH, BHYT năm 2010. 4. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2011), Báo cáo tổng kết năm 2011. 5. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2011), Báo cáo tổng tổng hợp chi BHXH, BHYT năm 2011. 6. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2012), Báo cáo tổng kết năm 2012. 7. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2012), Báo cáo tổng tổng hợp chi BHXH, BHYT năm 2012. 8. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2013), Báo cáo tổng kết năm 2013. 9. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2013), Báo cáo tổng tổng hợp chi BHXH, BHYT năm 2013. 10. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2014), Báo cáo tổng hợp chi BHXH, BHYT năm 2014. 11. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2015), Báo cáo kết quả công tác năm 2014, phương hướng, nhiệm vụ năm 2015. 12. Bảo hiểm xã hội thị xã Sông Công (2014), Báo cáo tổng kết năm 2014. 13. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011), Quyết định số 1111/QĐ-BHXH, ban hành quy định quản lý thu và cấp sổ BHXH, thẻ BHYT. 14. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2015), Quyết định số 99/QĐ-BHXH, Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội địa phương. 91 15. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015, quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH bắt buộc. 16. Chính phủ (2015), Nghị định số 134/2015/NĐ-CP ngày 29/12/2015, quy định chi tiết một số điều của Luật BHXH về BHXH tự nguyện. 17. Chính phủ (2010), Nghị định số 86/2010/NĐ-CP ngày 13/8/2010, Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. 18. Chính phủ (2013), Nghị định 66/2013/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công, viên chức và lực lượng vũ trang. 19. Công văn 1477/BHXH-CSXH, hướng dẫn thực hiện chế độ thai sản theo quy định của Bộ luật lao động 10/2013/QH13. 20. Công văn 4409/BHXH - CSXH, hướng dẫn giải quyết hưởng một số chế độ BHXH kể từ ngày 01/07/2013. 21. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình lý luận chung Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 22. Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình Luật Lao động Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 23. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 24. Nguyễn Văn Định (2008) Giáo trình bảo hiểm, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. 25. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí inh - Viện Nhà nước và Pháp luật (2006), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, tập I, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội - 2016. 26. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13, ngày 18 tháng 6 năm 2012, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội - 2012. 27. Quốc hội (2006), Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11, ngày 29 tháng 6 năm 2006, Hà Nội. 92 28. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13, ngày 20 tháng 11 năm 2014, Hà Nội. 29. Đỗ Văn Sinh (2005), Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện CTQG Hồ Chí inh, Hà Nội. 30. Phạm Đỗ Nhật Tân, (2009), Giáo trình Bảo hiểm xã hội 1,2, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. 31. Lê Thị Hoài Thu (2009), “Luật BHXH từ quy định đến thực tiễn áp dụng” Tạp chí BHXH (199), tr.19-20. 32. Dương Xuân Triệu, (2009), Giáo trình Quản trị BHXH, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội. 33. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (1952), Công ước 102: Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. 34. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2010), Quyết định 777/QĐ-BHXH ngày 17/7/2010 về hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ Bảo hiểm xã hội. 35. Viện ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_ve_bao_hiem_xa_hoi_tu_thuc_tien_thi_xa_so.pdf
Luận văn liên quan