Hộ tịch và quản lý hộ tịch đã xuất hiện từ lâu. Tuy nhiên, trong mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia hoặc tùy từng quốc gia
khác nhau có những quan niệm khác nhau về hộ tịch, có những hình thức,
phương pháp quản lý hộ khác nhau. Nhưng tất cả đều có điểm chung là đều
thừa nhận vai trò quan trọng của quản lý hộ tịch. Quản lý nhà nước về hộ tịch
không những đảm bảo quyền lực của Nhà nước được thực thi trong xã hội mà
còn là biện pháp đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân có hiệu quả nhất.
Quản lý nhà nước về hộ tịch thời gian qua, trong cả nước nói chung và
tỉnh Đắk Nông nói riêng đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên
việc thực hiện pháp luât về hộ tịch vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, kết quả đạt
được chưa mang tính bền vững. Khắc phục những tồn tại, bất cập, đồng thời
cần tạo ra bước đột phá nhằm hướng đến một mô hình, phương thức quản lý
hộ tịch khoa học, hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân
dân đối với nền hành chính nói chung và hoạt động quản lý nhà nước về hộ
tịch nói riêng; thích ứng với xu thế phát triển hiện nay là một tất yếu, cần phải
có những giải pháp, lộ trình và bước đi thích hợp, có tính đến yếu tố đặc thù
của từng miền, địa bàn cụ thể. Thực tiễn thực hiện pháp luật hộ tịch ở tỉnh
Đắk Nông cho thấy, ngoài những yếu tố có tính chất hỗ trợ, phải cần đến 3
yếu tố cốt lõi đó là: tổ chức bộ máy, con người làm việc trong tổ chức đó và
thủ tục điều hành. Mặt khác, hiệu quả thực hiện pháp luât hộ tịch sẽ được
nâng cao khi đặt trong mối quan hệ chặt chẽ các lĩnh vực khác như quản lý hộ
khẩu, quản lý hồ sơ cán bộ, bảo hiểm và trong mối quan hệ với hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Toàn bộ những vấn đề nêu trên cần được
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cả về tổ chức lẫn thể chế./.
113 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 920 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về hộ tịch – Từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế nào thì trong Luật cũng như các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật lại không có điều khoản nào quy định.
- Theo quy định tại Khoản 6 Điều 22 Nghị định 123/2015/NĐ-CP thì:
Trường hợp cá nhân yêu cầu cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân để sử
dụng vào mục đích khác hoặc do Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã hết
thời hạn sử dụng theo quy định tại Điều 23 của Nghị định này, thì phải nộp lại
Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đã được cấp trước đó. Tuy nhiên, trong
78
thực tiễn phát sinh rất nhiều trường hợp, người đi xin Giấy xác nhận tình
trạng hôn nhân mới không thể cung cấp lại Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
đã được cấp trước đây. Điều này, làm cho cơ quan đăng ký hộ tịch lúng túng
trong quá trình giải quyết và gây khó khăn cho người có yêu cầu.
- Theo Điều 11 Thông tư số 15/2015/TT-BTP thì chứng cứ chứng minh
quan hệ cha, mẹ, con gồm:
1. Văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan khác có
thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan
hệ mẹ con.
2. Trường hợp không có văn bản quy định tại khoản 1 Điều này thì
phải có thư từ, phim ảnh, băng, đĩa, đồ dùng, vật dụng khác chứng minh mối
quan hệ cha con, quan hệ mẹ con và văn bản cam đoan của cha, mẹ về việc
trẻ em là con chung của hai người, có ít nhất hai người thân thích của cha,
mẹ làm chứng ....
Tuy nhiên, thực tế hiện nay có nhiều trường hợp xin nhận cha, mẹ, con
của một số xã vùng sâu, vùng xa do trình độ dân trí thấp, là dân tộc thiểu số
nên nhiều trường hợp tảo hôn sau khi sinh con một thời gian mới đủ tuổi đăng
ký kết hôn và tiến hành đăng ký khai sinh cho con đồng thời làm thủ tục nhận
con nhưng lại không có điều kiện để đáp ứng theo đúng yêu cầu của Điều 11
Thông tư số 15/2015/TT-BTP. Nếu cơ quan có thẩm quyền từ chối không
đăng ký hộ tịch vì lý do không đủ các giấy tờ cần thiết theo quy định thì công
dân sẽ không tiếp tục có yêu cầu nhận cha, mẹ, con như vậy sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của trẻ em, nếu cơ quan có thẩm quyền tiến hành đăng ký nhận cha,
mẹ, con cho công dân khi chưa đủ các giấy tờ cần thiết sẽ trái quy định.
79
- Tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định: “Nếu
việc đăng ký lại khai sinh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không
phải là nơi đã đăng ký khai sinh trước đây thì công chức tư pháp - hộ tịch báo
cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị Ủy ban nhân dân nơi đăng
ký khai sinh trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa
phương”.Tuy nhiên, trường hợp UBND xã nơi đã đăng ký khai sinh trước đây
đã chia tách hoặc sáp nhập địa danh hành chính mới không xác định được nơi
lưu trữ hồ sơ Sổ hộ tịch thì việc xác minh sẽ gặp khó khăn.
- Tại Khoản 2 Điều 25 Nghị định 123/2015/NĐ-CP quy định về thẩm
quyền đăng ký lại khai tử như sau: “Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đã đăng ký
khai tử trước đây thực hiện đăng ký lại khai tử”. Quy định này gây khó khăn
trong việc xác định thẩm quyền đăng ký khai tử với các trường hợp trước đây
đăng ký khai tử tại UBND cấp huyện (theo quy định hiện hành thì UBND cấp
huyện không có thẩm quyền đăng ký lại khai tử).
- Theo quy định tại Thông tư số 15/2015/TT-BTP, một số biểu mẫu
không đủ các nội dung (như tờ khai đề nghị cấp bản sao trích lục khai sinh
bản sao không có ngày sinh), dẫn đến việc cấp bản sao cho người khai sinh
trước ngày 01/01/2016 gặp khó khăn; nội dung mẫu Tờ khai cấp Giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân mâu thuẫn với chú thích nội dung gây khó khăn cho
việc hướng dẫn công dân.
- Hiện nay tờ khai đăng ký khai sinh, Giấy khai sinh và sổ hộ tịch
không thống nhất thông tin về phần thông tin về người cha và thông tin về
người mẹ, theo tờ khai thì thông tin về người cha trước rồi đến thông tin về
người mẹ, tuy nhiên, tại sổ hộ tịch và giấy khai sinh thì thông tin của mẹ
80
trước rồi mới đến thông tin về cha dẫn đến việc công chức Tư pháp -Hộ tịch
thường xuyên bị nhầm lẫn khi viết giấy khai sinh và sổ hộ tịch.
- Trong trường hợp còn bản chính giấy tờ hộ tịch, nhưng sổ hộ tịch
không có thông tin hoặc sổ hộ tịch đã mất, khi áp dụng Luật hộ tịch và các
văn bản hướng dẫn thi hành thì không thể tiến hành thay đổi, cải chính vì
không có sổ hộ tịch để ghi chú phần thay đổi theo quy định. Mặt khác, theo
khoản 1 Điều 24 của Nghị định số 123/2015/NĐ-CP thì việc khai sinh, kết
hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền Việt Nam trước ngày
01/01/2016, nhưng sổ hộ tịch và bản chính của giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì
được đăng ký lại, đối chiếu với quy định của Luật thì quy định trên của Nghị
định số 123/2015/NĐ-CP cũng không đủ điều kiện để đăng ký lại.
Bên cạnh đó, theo Luật Hộ tịch, từ ngày 01/01/2016, việc đăng ký kết
hôn, khai sinh, khai tử, nhận cha mẹ cho con, ghi chú kết hôn, ghi chú ly
hôn có yếu tố nước ngoài sẽ do Uỷ ban nhân dân cấp huyện thực hiện thay
vì Sở Tư pháp như trước đây. Hay việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân
cũng được xem là cải tiến lớn khi giao thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân cấp
xã nhằm sử dụng trong nước cũng như ở nước ngoài vào mục đích kết hôn
cũng như không kết hôn. Đó là những quy định theo hướng giảm thiểu thời
gian đi lại và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, nhưng cũng tạo ra áp
lực cho các cơ quan, cán bộ làm công tác hộ tịch. Bởi trong thực tế: Mặc dù
được trang bị máy vi tính, cài đặt phần mềm hộ tịch nhưng nhiều cán bộ vẫn
còn lúng túng khi sử dụng, làm ảnh hưởng lớn đến yêu cầu ứng dụng mạnh
mẽ công nghệ thông tin, cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý
hộ tịch theo yêu cầu của Luật.
81
Việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài cho
UBND cấp huyện là nhiệm vụ mới, phức tạp đòi hỏi công chức tư pháp hộ
tịch phải có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ. Trong khi đó, đội ngũ này từ
trước tới nay hầu như rất ít khi sử dụng đến ngoại ngữ và còn phải kiêm
nhiệm nhiều công việc khác nên dễ dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc.
Do biên chế của phòng tư pháp ít mà ngoài công việc được giao hiện nay
cộng với việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài
từ cấp tỉnh cho cấp huyện, để đảm đương được khối lượng công việc trên là
một khó khăn, thách thức và nhiều áp lực.
Không chỉ gặp khó khăn về nguồn nhân lực, qua thực tiễn triển khai
Luật Hộ tịch, đã xuất hiện những vướng mắc trong các thông tư, nghị định
quy định chi tiết thi hành Luật. Luật Hộ tịch không quy định về việc cấp giấy
chứng nhận tình trạng hôn nhân cho người đã chết. Tuy nhiên, trên thực tế, rất
nhiều giao dịch dân sự hiện nay cần đến giấy tờ này. Hay những vướng mắc
trong cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người đã qua nhiều nơi cư
trú khác nhau; về thay đổi hộ tịch...
Việc cấp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho công dân Việt Nam
cư trú ở trong nước để kết hôn với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm
quyền ở nước ngoài cũng đang gặp phải vướng mắc do thời gian thực hiện
quá lâu. Bởi theo văn bản ngày 12/5/2016 của Cục Hộ tịch quốc tịch và chứng
thực hướng dẫn về việc cấp lại giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đối với
những trường hợp này thì phải tập hợp hồ sơ từ Ủy ban nhân dân cấp xã. Trên
cơ sở đó, Sở Tư pháp sẽ gửi Cục Hộ tịch quốc tịch và chứng thực để trao đổi
với cơ quan đại diện của nước ngoài tại Việt Nam. Như vậy sẽ kéo dài thời
gian chờ đợi cho công dân.
82
Một khó khăn nữa khi triển khai Luật Hộ tịch trong thực tế là kinh phí,
cơ sở vật chất, trang thiết bị ở một số đơn vị cấp huyện, cấp xã còn thiếu thốn
cũng ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch vẫn còn hạn chế; phần mềm đăng
ký hộ tịch thống nhất chưa được trang bị nên mục tiêu cải cách thủ tục hành
chính trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch còn gặp khó khăn. Việc cấp
số định danh cá nhân; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ
công tác quản lý cũng như giải quyết các thủ tục hành chính cho người dân
chưa thể thực hiện, đây là công việc phức tạp cần có thời gian và sự hướng
dẫn thống nhất giữa các bộ, ngành Trung ương.
Một số quy định của Luật Hộ tịch và Luật Hôn nhân và gia đình cũng
có nhiều điểm không phù hợp với nhau. Có thể lấy ví dụ như: trong việc đăng
ký khai sinh cho trẻ em sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng người chồng
không phải bố đẻ thì việc khai sinh cho trẻ, ghi tên bố vào trong giấy khai
sinh như thế nào, mặc dù đã có hướng dẫn nhưng nhiều địa phương vẫn thấy
vướng. Theo Luật Hôn nhân và gia đình, phải ghi tên người chồng trong hôn
nhân của mẹ, nhưng người mẹ không đồng ý vì thực tế không phải con của
người chồng ấy, nếu ghi tên của người khác thì lại vướng Luật hôn nhân và
gia đình.
Luật Hôn nhân và gia đình quy định thẩm quyền xác định một người
không phải là con mình hoặc là xác định một đứa con trong thời kỳ hôn nhân
lâu nay tưởng là con mình do tòa án giải quyết. Nhưng thực tế không có tranh
chấp thì toà án không giải quyết.
Có thể thấy, Luật Hộ tịch được triển khai thi hành đã đáp ứng được
phần lớn nhu cầu đăng ký hộ tịch của người dân, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
83
nước về hộ tịch trong giai đoạn chuyển tiếp, góp phần cải cách thủ tục hành
chính, tạo thuận lợi cho người dân. Tuy nhiên, do mới triển khai thực hiện
nên không tránh khỏi những vướng mắc phát sinh. Để khắc phục tình trạng
này, các cơ quan chức năng cần rà soát để tháo gỡ vướng mắc, ứng dụng đồng
bộ công nghệ thông tin vào công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, đồng thời
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp - hộ tịch, đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ trong giai đoạn hiện nay và để Luật Hộ tịch thực sự phát huy được vai trò
thiết thực trong đời sống xã hội.
Kết luận chương 2
Tại Chương 2, Luận văn đã phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật về hộ tich, trong đó tập trung nêu những khó khăn, bất cập trong việc
triển khai thực hiện Luật Hộ tịch và các văn bản liên quan; đánh giá thực tiễn
thực hiện pháp luật về hộ tịch trên địa bàn tỉnh Đắk Nông, để làm cơ sở cho
việc đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch.
84
Chương 3:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HỘ TỊCH TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về hộ tịch
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hộ tịch phải bảo đảm nguyên tắc tôn
trọng quyền con người, quyền công dân của nhà nước pháp quyền
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát từ
mục tiêu, bản chất của chế độ. Đó cũng là một trong những nội dung và đặc
trưng rất cơ bản và quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng; đồng thời, trước xu thế dân chủ hóa, giao lưu và hội
nhập quốc tế ngày càng gia tăng, đòi hỏi quyền con người và các quyền tự do
cơ bản của cá nhân công dân phải được tôn trọng và tăng cường hơn nữa.
Trước yêu cầu đó, trong điều kiện nước ta hiện nay, bảo đảm hiện thực hóa
quyền con người cần phải áp dụng một hệ thống đồng bộ các nhóm giải pháp.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về hộ
tịch tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con
người, quyền công dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong các Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc đều xác định: Nhà nước ta định ra các đạo luật quy định
quyền con người, quyền công dân, trong đó bên cạnh các luật về kinh tế, Nhà
nước cần ưu tiên xây dựng các luật về quyền công dân, nước ta, tồn tại một
nguyên tắc Hiến định: các quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân
được quy định trong Hiến pháp và Luật. Như thế, các quyền được quy định
85
trong Hiến pháp tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản có tính
nguyên tắc nền tảng. Các quyền được quy định trong luật, một mặt, là cụ thể
hóa các quyền trong Hiến pháp, mặt khác, phát triển và bổ sung thêm những
quyền mới. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm quyền
con người, quyền công dân đòi hỏi tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc
hội như là điều kiện tiên quyết để bảo đảm quyền con người.
Trước mắt, cần tập trung xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm các quyền con người về dân sự, chính trị Để làm được điều đó,
cần có sự nghiên cứu và tổng kết toàn diện và sâu sắc hệ thống pháp luật hiện
hành, có sự phân tích, so sánh đối chiếu với các quy định quốc tế về quyền
con người mà Việt Nam đã tham gia.
Trên cơ sở các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
bảo đảm quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đặt ra
trong thời gian tới, các quy phạm pháp luật về các quyền dân sự, chính trị cần
được chế định thêm, cụ thể và rõ ràng hơn.
Xây dựng chế độ trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và hoàn
thiện cơ chế kiểm tra, giám sát bảo đảm nhân dân tham gia thực sự công việc
nhà nước.
Trước mắt và trong thời gian tới đối với cán bộ, công chức nhà nước
trong mối quan hệ với nhân dân (quan hệ cá nhân và Nhà nước) đòi hỏi xây
dựng chế độ trách nhiệm bảo đảm mỗi cán bộ, công chức nhà nước có thể
phát huy hết năng lực cá nhân; đồng thời, xác định cụ thể trách nhiệm cá nhân
của mỗi cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình thực thi công vụ, giảm
thiểu nguy cơ có thể xâm phạm quyền của công dân. Theo đó, pháp luật phải
cụ thể hóa mối quan hệ giữa cá nhân, công dân với Nhà nước. Nhà nước là tổ
86
chức công quyền, nghĩa là người làm công, mang quyền lực được ủy quyền từ
nhân dân, do đó xác định cụ thể các quyền của công dân theo hướng công dân
có quyền được làm tất cả những gì luật pháp không cấm, còn cán bộ, công
chức nhà nước chỉ được phép làm những gì mà luật pháp quy định. Đồng
thời, trách nhiệm của Nhà nước là phải tôn trọng, bảo đảm thực hiện quyền
con người; và công dân cũng phải làm tròn những nghĩa vụ phát sinh từ việc
hưởng thụ các quyền do Hiến pháp và pháp luật quy định.
Quyền và nghĩa vụ qua lại giữa Nhà nước và công dân bảo đảm tính
ràng buộc hai chiều, trước hết nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
công chức là phục vụ nhân dân, chứ không phải “làm quan cách mạng”.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi chuyển mạnh từ “nền hành chính
cai trị sang nền hành chính phục vụ”.
Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực, chủ động vào công việc nhà
nước, công việc xã hội, trong đó có việc nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát
hoạt động của Nhà nước, hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước. Kiểm
tra và giám sát hoạt động của Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước –
những người phục vụ nhân dân, đòi hỏi Nhà nước phải báo cáo hoạt động
trước nhân dân, bảo đảm quyền của công dân được cung cấp thông tin một
cách chân thực và chính xác từ phía cơ quan công quyền. Những người trực
tiếp do nhân dân bầu ra, phải thường xuyên tiếp xúc với nhân dân. Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức nhà nước, tăng cường
hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, nhất là tổ, khu dân phố nơi cán bộ, vợ
con của cán bộ, công chức sinh sống và làm việc.
87
Trong điều kiện nước ta hiện nay, đòi hỏi xây dựng được một đội ngũ
cán bộ tư pháp tận tâm, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khả năng
hoàn thành nhiệm vụ; đồng thời hoàn thiện kể cả về tổ chức với một cơ chế
giám sát, chỉ đạo điều hành chặt chẽ từ phía Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn
thể, nhân dân là rất cần thiết.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về hộ tịch phải phù hợp yêu cầu cải cách
hành chính và hội nhập quốc tế
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách hành chính,
nhất là cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch theo hướng
đơn giản, minh bạch, tạo sự kết nối với các lĩnh vực khác liên quan đến công
dân, tiết kiệm chi phí cho người dân và Nhà nước.
Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020 đã
xác định rõ 10 nhóm nhiệm vụ cải cách thể chế và 07 nhóm nhiệm vụ cải cách
thủ tục hành chính, trong đó, cải cách thể chế đã tiếp tục được xác định là một
trong ba trọng tâm cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020.
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cải cách thủ tục hành chính
trong đó có cải cách hành chính liên quan đến pháp luật về hộ tịch thì từ cơ
quan Trung ương đến các địa phương cần nhận thức đúng đắn, tiếp tục chỉ
đạo sát sao, quyết liệt và tăng cường hơn nữa tính chủ động, tích cực và tinh
thần trách nhiệm của các Bộ, ngành và địa phương về công tác cải cách thủ
tục hành chính góp phần thực hiện được các mục tiêu mà Nghị quyết 30c/NQ-
CP và Quyết định số 225/QĐ-TTg đã đặt ra.
Tuân thủ nghiêm và bám sát các yêu cầu của Luật Hộ tịch và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Lựa chọn đúng lĩnh vực ưu tiên, đúng những khâu
88
đột phá và xây dựng chính sách, pháp luật theo đúng định hướng về cải cách
thể chế gắn với cải cách hành chính nói chung, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước. Tăng cường hơn nữa sự phối hợp trong việc
thực hiện công tác xây dựng pháp luật, nhất là đối với việc xây dựng thể chế
trong các lĩnh vực có liên quan đến chức năng, quyền hạn của nhiều cơ quan
khác nhau.
Tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị
khóa IX về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
Việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch triển khai thi
hành các văn bản pháp luật, đặc biệt là các bộ luật, các luật sau khi được ban
hành một cách khoa học, hiệu quả để đảm bảo đưa luật vào đời sống, đảm bảo
sự gắn kết liên tục giữa xây dựng và thi hành pháp luật. Các chương trình, kế
hoạch thi hành luật phải có lộ trình ban hành các văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành luật đảm bảo đúng thời hạn có hiệu lực của luật, phân
công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan, tổ chức trong việc bảo đảm các
điều kiện, các nguồn lực cho việc thi hành luật, có cơ chế cụ thể để kiểm tra,
giám sát việc thi hành ở từng bước, từng giai đoạn, đặc biệt là việc đánh giá
tác động hiệu quả kinh tế - xã hội thực tế của văn bản được thi hành.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật thông qua việc đơn giản hóa thủ
tục hành chính và cắt giảm gánh nặng hành chính; công khai minh bạch các
chính sách, thủ tục hành chính, tạo thuận lợi nhất cho người dân, tiếp cận,
thực hiện và giám sát việc thực hiện.
89
Đẩy mạnh phân cấp việc giải quyết thủ tục hành chính cho các cấp
chính quyền địa phương theo hướng các Bộ, ngành trung ương tập trung vào
xây dựng, hoạch định chính sách, thanh tra, kiểm tra; các cấp chính quyền địa
phương là cấp tổ chức thực hiện chính sách và cung cấp dịch vụ công. Tiếp
tục đổi mới mạnh mẽ việc giải quyết thủ tục hành chính tại các cấp chính
quyền, theo đó, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định về giải quyết thủ
tục hành chính cho cá nhân, tổ chức làm cơ sở để các bộ, ngành, địa phương
triển khai thực hiện thống nhất trong toàn quốc.
Các bộ, ngành, địa phương siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính; tăng
cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước và từng
cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; xử lý nghiêm các trường
hợp cán bộ, công chức, viên chức có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực trong phục
vụ nhân dân.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo cải
cách hành chính của Chính phủ theo hướng tăng cường sự gắn kết giữa cải
cách hành chính với xây dựng Chính phủ điện tử, sự gắn kết trong chỉ đạo với
tổ chức thực thi các nhiệm vụ cải cách; bảo đảm tính tập trung, thống nhất,
giảm cơ cấu tổ chức với việc không tổ chức Ban Chỉ đạo tại các Bộ, ngành, các
sở, ngành, đơn vị cấp huyện, cấp xã; tăng cường họp và làm việc chuyên đề của
Ban Chỉ đạo để bàn chuyên sâu từng vấn đề cần quan tâm cải cách trong từng
giai đoạn, có sự phản biện của các chuyên gia, hiệp hội và địa phương.
3.2. Các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ
tịch
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hộ tịch
90
3.2.1.1. Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Hộ tịch, Luật
Căn cước công dân, Luật Hôn nhân và gia đình cũng như Bộ luật Dân sự
năm 2015
Đất nước ta đang trong quá trình cải cách đổi mới và hội nhập quốc tế
sâu rộng. Về đối nội tiếp tục thực hiện cải cách bộ máy nhà nước và dân chủ
hóa trong toàn xã hội, trong đó hệ thống pháp luật nói chung và hộ tịch nói
riêng từng bước được xây dựng theo hướng mở rộng dân chủ về quyền nhân
thân của mọi công dân, bởi vì đăng ký hộ tịch phát sinh từ quyền cơ bản của
công dân được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
Có thể nói, việc ban hành Luật Hộ tịch năm 2014 cùng với hệ thống các
văn bản pháp luật quy định về đăng ký hộ tịch đã đáp ứng được các đòi hỏi
sau:
Thứ nhất, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và Nhà nước trong
tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và
vì dân. Đây chính là sự thể hiện một bước quan trọng tinh thần chỉ đạo đã
được nêu tại Nghị quyết số 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ
chính trị về cải cách pháp luật và cải cách tư pháp.
Thứ hai, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc thực
thi và bảo vệ quyền cơ bản của công dân (theo hướng các vấn đề liên quan
đến quyền công dân đều phải được luật hóa).
Thứ ba, tạo hành lang pháp lý quan trọng để cơ quan quản lý nhà nước
thực thi một cách có hiệu quả, nhất là trong lĩnh vực hộ tịch, tạo tiền đề tăng
cường và củng cố hệ thống các cơ quan thực hiện pháp luật về hộ tịch, đồng
thời cũng là tiền đề xây dựng chức danh hộ tịch viên, hướng tới coi việc thực
hiện đăng ký hộ tịch như là một nghề.
91
Thứ tư, tạo cơ sở pháp lý cao để từng bước ứng dụng công nghệ tin học
trong lĩnh vực hộ tịch, xây dựng phần mềm quản lý hộ tịch thống nhất trong
phạm vi cả nước và cùng với hệ cơ sở dữ liệu dân cư tạo nên sự kết nối, từ đó
đáp ứng các yêu cầu cao nhất các yêu cầu của việc thực hiện pháp luật về hộ
tịch, cung cấp kịp thời, đầy đủ chính xác các dữ liệu hộ tịch, góp phần tích
cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh
quốc phòng cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế.
Luật Hộ tịch là đạo luật trực tiếp liên quan đến phạm trù quyền con
người, quyền công dân, thể hiện tập trung và sinh động mối quan hệ giữa nhà
nước và công dân. Thông qua hoạt động thực hiện pháp luật về hộ tịch có thể
đánh giá được việc thực hiện chức năng và bản chất của nhà nước, đánh giá
được năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ. Quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa càng đặt ra yêu cầu quản lý xã hội
bằng pháp luật thể hiện ý chí chung và bảo đảm đầy đủ các quyền của công
dân. Luật Hộ tịch được triển khai thực hiện đã tạo bước tiến quan trọng góp
phần làm rõ bản chất dân chủ của nhà nước và pháp luật Việt Nam.
Luật Hộ tịch và Luật Căn cước công dân được Quốc hội thông qua năm
2015 và cùng có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2016. Theo đó, các nội
dung được quy định trong 02 Luật này có nhiều quy định mới mang tính đột
phá, tạo cơ chế để quản lý dân cư bằng công nghệ thông tin hiện đại, dữ liệu
thông tin về từng cá nhân sẽ dễ kiểm soát hơn. Thay vì quản lý thủ công, chủ
yếu viết vào sổ, bằng tay, cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, khai sinh vừa
khó quản lý, vừa khó đối chiếu tính xác thực như phản ánh ở trên, Luật Căn
cước công dân, Luật Hộ tịch quy định cấp số định danh cá nhân, lưu giữ
thông tin hộ tịch cơ bản của mỗi người tại dữ liệu hộ tịch điện tử, cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư. Theo đó, mọi biến động trong đời sống của mỗi cá
92
nhân, từ việc khai sinh, thay đổi quốc tịch, xác định lại giới tính, kết hôn, ly
hôn, nuôi con nuôi, khai tử sẽ được quản lý tập trung thống nhất. Các bộ,
ngành, địa phương được toàn quyền sử dụng thông tin để phục vụ công tác
xác minh, quản lý, làm thủ tục đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử trên cơ
sở thông tin đã cập nhật, giải quyết thủ tục hành chính cho người dân một
cách dễ dàng. Việc mã hóa thông tin sẽ tránh được tình trạng mỗi công dân
phải lưu giữ gần 20 loại giấy tờ, từ CMND đến giấy phép lái xe, giấy tờ sở
hữu xe, thẻ bảo hiểm y tế, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn...
như hiện nay.
3.2.1.2. Hoàn thành việc ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi
bỏ các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện phương án đơn giản hóa thủ
tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý
dân cư.
Ngày 11/12/2015, Bộ Tư pháp đã phê duyệt Đề án Cơ sở dữ liệu hộ tịch
điện tử toàn quốc (theo Quyết định số 2173/QĐ-BTP). Để triển khai thực hiện
Đề án, Cục công nghệ thông tin đã rất nỗ lực phối hợp cùng Cục hộ tịch, quốc
tịch, chứng thực triển khai thí điểm tại 12 tỉnh, chính thức sử dụng phần mềm
đầy đủ dùng chung của Bộ Tư pháp12 tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương
gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, An Giang, Đồng Tháp, Hà
Nam, Hà Tĩnh, Quảng Ninh, Nghệ An, Sóc Trăng và Vĩnh Long. Đây là lần
đầu tiên trong lịch sử Ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp triển khai ứng dụng công
nghệ thông tin tại cả 04 cấp chính quyền; là tiền đề cơ bản để triển khai cơ sở
dữ liệu hộ tịch điện tử và Hệ thống thông tin đăng ký, quản lý hộ tịch trên toàn
quốc, đảm bảo sự thành công của việc xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân
cư, hướng tới đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến giấy tờ công
93
dân, đáp ứng các mục tiêu của Đề án 896 mà Thủ tướng Chính phủ đã đề ra.
Đồng thời, việc triển khai Phần mềm này bảo đảm tính chính xác, kịp thời
trong việc đăng ký, khai thác dữ liệu, bảo đảm quyền con người, quyền, lợi ích
cơ bản của công dân và phục vụ công tác quản lý nhà nước.
Phần mềm hộ tịch dùng chung được tập trung quản lý tại Bộ Tư pháp.
Còn về mặt địa phương, tới đây, Bộ sẽ phân cấp cho Sở Tư pháp, Phòng Tư
pháp quản lý toàn bộ thông tin hộ tịch của tỉnh, của huyện mình. Theo Đề án
giai đoạn thí điểm sẽ thực hiện đến hết tháng 6/2017. Từ tháng 7/2017 trở đi
đến hết tháng 12/2019 sẽ là giai đoạn triển khai trên toàn quốc cũng như ra cơ
quan đại diện ở nước ngoài. Tuy nhiên, phần mềm hộ tịch dùng chung của Bộ
Tư pháp được triển khai chậm hơn so với các địa phương, vì đa phần hiện nay
các địa phương hầu hết đều có phần mềm hộ tịch riêng. Điều này là thách
thức rất lớn cho các địa phương cũng như Bộ Tư pháp trong việc tích hợp
thành công các dữ liệu trong phần mềm hộ tịch hiện có của các địa phương
với phần mềm hộ tịch dùng chung của Bộ Tư pháp. Điều quan trọng nhất và
đáng quan tâm nhất hiện nay là hạ tầng về công nghệ thông tin của Bộ Tư
pháp.
3.2.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch
3.2.2.1. Kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực cho
đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ
công chức Tư pháp - hộ tịch cấp xã nói riêng phải luôn nắm vững quan điểm,
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối, chính sách của Đảng, nhất là những quan điểm về xây dựng đội
ngũ cán bộ được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
94
hành Trung ương khoá VIII, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
khoá IX về “Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở
xã, phường, thị trấn”, theo đó cần:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức bộ máy quản
lý hộ tịch trong hệ thống quản lý nhà nước ở cơ sở, đồng thời xây dựng mối
quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ
dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong các tổ chức quản lý hộ tịch của
hệ thống hành chính ở địa phương, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát
huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát
huy quyền dân chủ đại diện;
Quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và cán
bộ công chức Tư pháp - hộ tịch ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm.
Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo
pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức Tư pháp - hộ tịch ở cấp xã
có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy
sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân;
Trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý
và đồng bộ chính sách đối với cán bộ hộ tịch cấp xã.
Trong công tác quy hoạch cán bộ, do chưa có một quy hoạch cán bộ
hoàn chỉnh do đó nhiều khi còn lúng túng, bị động, nhất là vào mỗi thời kỳ
95
bầu cử. Nguồn cán bộ bổ sung cho đội ngũ cán bộ quản lý hộ tịch chính
quyền cấp xã thiếu và không ổn định, đặc biệt là thiếu cán bộ trẻ có trình độ,
uy tín trong nhân dân.
Công tác tổ chức cán bộ tư pháp còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu, việc xây dựng quy hoạch, đào tạo cán bộ thiếu đồng bộ, chưa tạo được
nguồn cán bộ trẻ, cán bộ quản lý giỏi, cán bộ nữ. Trình độ của đội ngũ cán bộ
hộ tịch còn nhiều bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Qua thực trạng đội ngũ cán bộ công chức Tư pháp - hộ tịch cấp huyện,
cấp xã trên địa bàn tỉnh hiện nay cho thấy: Nhìn chung trình độ năng lực còn
nhiều hạn chế, bất cập so với đòi hỏi của nhiệm vụ. Cần đổi mới quan điểm
đánh giá cán bộ, tránh hình thức, chỉ căn cứ vào quá trình công tác, tuổi tác,
bằng cấp; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch gia đình và thành phần xuất thân
của cán bộ; phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương; lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của từng chức danh
làm căn cứ nhận xét, đánh giá và lấy tiêu chuẩn cán bộ làm chuẩn mực.
Có như vậy, mới khắc phục được tình trạng cảm tính “thích” hay
“không thích” của một số cá nhân có thẩm quyền đánh giá, nhận xét cán bộ,
mới hạn chế được tình trạng “yêu nên tốt, ghét nên xấu” vẫn thường xảy ra
trước đây.
Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về hộ tịch trên
địa bàn tỉnh thì cần tiếp tục củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức tư
pháp, hộ tịch các cấp, đủ về số lượng, đảm bảo về tiêu chuẩn nghiệp vụ; chú
trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực, chuẩn hóa đội ngũ
cán bộ, tư pháp hộ tịch, bảo ổn định theo hướng chuyên nghiệp; tăng cường
giáo dục, rèn luyện chính trị, tư tưởng, thái độ phục vụ nhân dân, tuân thủ đạo
96
đức nghề nghiệp. Đối với những vùng điều kiện đi lại khó khăn hoặc vì lý do
khách quan khác, công chức Tư pháp hộ tịch phải chủ động, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân khi thực hiện quyền của mình nói chung và trong lĩnh
vực đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng.
3.2.2.2. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và ứng dụng công nghệ
thông tin trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của
mục tiêu cải cách hành chính của các nước nói chung, đặc biệt ở nước ta cải
cách thủ tục hành chính được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng. Tại các
văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định hướng đến năm 2020 đều
chú trọng đến cải cách hành chính, Chính phủ đã xây dựng một Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 trong đó cải
cách về thủ tục hành chính là một nội dung then chốt.
Cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh
bạch và công bằng trong khi giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ
những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó
khăn cho dân. Mẫu hoá thống nhất các loại giấy tờ mà công dân cần phải làm
khi có yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và đời sống
Từ những mục tiêu quan trọng của Chương trình Tổng thể cải cách hành
chính, việc cải cách thủ tục hành chính về hộ tịch được Quốc hội và các cơ
quan quản lý Nhà nước về hộ tịch đặc biệt quan tâm, việc ban hành Luật Hộ
tịch theo hướng cải cách về thủ tục hành chính là cần thiết.
Kế thừa những điểm cơ bản của các Nghị định quản lý hộ tịch trước đây,
các Thông tư hướng dẫn thi hành đã bổ sung các quy định cụ thể về trình tự,
97
thủ tục giải quyết các việc về hộ tịch, nhằm cải cách thủ tục, công khai, minh
bạch hoá các trình tự, thủ tục, quy định thời gian giải quyết hồ sơ ở từng giai
đoạn trong quy trình, tương ứng với trách nhiệm và tính chất công việc phải
giải quyết của từng cơ quan, rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết các việc về
hộ tịch, tạo điều kiện cho người dân có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các việc về hộ tịch.
Tuy nhiên để cải cách thủ tục hành chính trong vấn đề hộ tịch cần các
giải pháp sau:
Một là, tiếp tục triển khai Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016
của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2016-2020 một cách đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp
với tình hình thực hiện của địa phương.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Cơ chế một cửa, Cơ chế một
cửa liên thông. Đơn giản hóa và công khai thủ tục hành chính, nhất là các thủ
tục hành chính liên quan trực tiếp đến người dân. Gắn cải cách thủ tục hành
chính với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu xây dựng Chính quyền điện
tử theo Nghị quyết 36a/NQ-CP của Chính phủ. Đồng thời, niêm yết thủ tục
hành chính trên các lĩnh vực tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. Thực hiện
việc xin lỗi công dân đối với các trường hợp hồ sơ trễ hẹn do lỗi của cơ quan
hành chính nhà nước và giải thích cụ thể đối với các trường hợp trả lại hồ sơ.
Ba là, nâng mức độ cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3, mức độ
4; cung cấp đầy đủ thông tin trên Cổng thông tin điện tử theo quy định.
Bốn là, đẩy mạnh cải cách công vụ, công chức. Thực hiện tinh giảm
biên chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị định
98
108/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Nâng cao chất lượng tinh thần trách nhiệm,
kỹ năng tác nghiệp và thái độ ứng xử của cán bộ, công chức, hiệu quả, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ. Thực hiện nghiêm quy định
của Chính phủ về tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý, đánh giá công chức, viên
chức, bảo đảm khách quan, trung thực; tạo điều kiện bình đẳng cho mọi công
dân thi tuyển vào cơ quan nhà nước.
Năm là, khắc phục những nhược điểm, hạn chế trong thực hiện cải cách
hành chính, nhất là về cải cách thủ tục hành chính, về tinh thần trách nhiệm,
kỹ năng tác nghiệp và thái độ ứng xử của cán bộ, công chức tại các bộ phận
một cửa, một cửa liên thông; xử lý kịp thời vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, một trong những mục tiêu cơ bản của Đề án 896 là đẩy
mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và giải quyết thủ tục
hành chính. Trong bối cảnh các ngành, các cấp triển khai ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý nhà nước, thì việc tin học hóa công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch là cần thiết và cần được ưu tiên thực hiện, bởi các thông tin hộ
tịch cơ bản của cá nhân (thông tin về khai sinh) là dữ liệu đầu vào của Cơ sở
dữ liệu quốc gia về dân cư.
Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử là cơ sở dữ liệu ngành được lập trên cơ sở
tin học hóa công tác đăng ký hộ tịch, được kết nối để cung cấp thông tin hộ
tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, cũng như bảo
đảm cập nhật kịp thời những thay đổi về thông tin hộ tịch khác của công dân.
Ngoài việc cung cấp 9 trường thông tin cơ bản cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về
dân cư (Họ và tên; Số định danh cá nhân; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; nơi
đăng ký khai sinh; dân tộc; quốc tịch, tình trạng hôn nhân; ngày tháng năm
chết), Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử còn lưu giữ gần một trăm thông tin khác
99
liên quan đến tình trạng hộ tịch của cá nhân, cụ thể như sau:
- Về khai sinh: Họ và tên, dân tộc, quốc tịch, năm sinh, nơi thường trú
của cha, mẹ; nơi đăng ký khai sinh; ngày, tháng, năm đăng ký khai sinh; họ,
tên người đi khai sinh và quan hệ với người được khai sinh; họ tên công chức
Tư pháp – Hộ tịch thực hiện việc đăng ký khai sinh (20 trường).
- Về kết hôn: Họ và tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; Số
chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu của người chồng (vợ); nơi đăng ký kết
hôn; ngày, tháng năm đăng ký kết hôn; họ tên công chức Tư pháp – Hộ tịch
thực hiện việc đăng ký kết hôn (8 trường).
- Về thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới
tính: 4 nhóm việc (căn cứ + nơi thực hiện + họ tên công chức Tư pháp – Hộ
tịch thực hiện) = 12 trường.
- Về nhận cha, mẹ, con: họ và tên người nhận; họ và tên người được
nhận; nơi đăng ký nhận cha, mẹ, con; họ tên công chức Tư pháp – Hộ tịch
thực hiện việc đăng ký nhận cha, mẹ, con = 4 trường.
- Về giám hộ, chấm dứt giám hộ: 2 nhóm việc (căn cứ đăng ký + họ và
tên + ngày, tháng, năm sinh + dân tộc + quốc tịch + số CMND/hộ chiếu + nơi
thường trú của người giám hộ + họ và tên người đi đăng ký giám hộ + quan
hệ với người được giám hộ + nơi đăng ký giám hộ + họ tên công chức Tư
pháp – Hộ tịch thực hiện = 22 trường.
- Về khai tử: giờ chết + nơi chết + nguyên nhân chết + căn cứ khai tử
(giấy báo tử hoặc giấy tờ thay thế khác theo quy định) + cơ quan cấp + ngày,
tháng, năm cấp + nơi đăng ký khai tử + ngày tháng năm đăng ký + họ tên
công chức Tư pháp – Hộ tịch thực hiện = 9 trường.
100
- Ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi quốc tịch, nuôi con nuôi, chấm dứt
việc nuôi con nuôi, ly hôn, hủy kết hôn trái pháp luật; tuyên bố hoặc hủy
tuyên bố một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi
dân sự (10 trường)
Đây là những thông tin không được đưa vào/lưu giữ trong Cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư. Những thông tin này không những phục vụ cho công
tác thống kê, dự báo, xây dựng và hoạch định chính sách phát triển kinh tế,
dân số, giáo dục, y tế, quốc phòng mà còn đáp ứng yêu cầu tra cứu, đăng ký
hộ tịch, xác minh thông tin hộ tịch của cá nhân; cấp trích lục hộ tịch; bảo đảm
quyền và nghĩa vụ trong giao dịch dân sự của người dân cũng như xác định
trách nhiệm của công chức Tư pháp – hộ tịch. Bên cạnh đó, khi Cơ sở dữ liệu
hộ tịch điện tử đi vào vận hành cùng với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thì
có thể thay thế cho việc tổng điều tra dân số theo định kỳ, đỡ tốn kém chi phí.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch là giải pháp đột phá cần được áp dụng rộng rãi để nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác đăng ký và quản lý hộ tịch của các địa phương,
nhằm đảm bảo cho việc đăng ký và quản lý hộ tịch được thực hiện một cách
khoa học, chính xác, kịp thời, quản lý dữ liệu tập trung thống nhất, dễ khai
thác sử dụng; đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người dân
và cán bộ công chức trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
3.2.2.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch cho cán bộ và nhân dân
Trong điều kiện các nhiệm vụ tư pháp cấp xã ngày càng mở rộng và
tăng cường, việc bố trí kinh phí, cơ sở vật chất để đội ngũ cán bộ tư pháp cấp
101
xã có thể triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ được giao là rất cần thiết.
Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua cho thấy, việc bố trí kinh phí và cơ sở
vật chất cho việc thực hiện các nhiệm vụ tư pháp ở cấp xã còn rất hạn chế, đã
ảnh hưởng tới việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao, đặc biệt kinh
phí cho công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, hoạt động và quản
lý hoà giải ở cấp xã. Để khắc phục tình trạng này, các xã cần quan tâm, tăng
cường kinh phí và tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho tổ chức và
hoạt động tư pháp cấp xã như: bố trí kinh phí cho hoạt động phổ biến, giáo
dục pháp luật; trang bị máy tính phục vụ cho việc đăng ký, quản lý hộ tịch; bố
trí kinh phí tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ và cung cấp tài liệu cho hoạt động
hoà giải
Tiếp tục phát huy cao những thành quả đã đạt được trong thời gian qua
và những bài học kinh nghiệm đã được đúc kết, đồng thời tiếp tục triển khai
thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung ương
Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chính sách hỗ trợ các dịch
vụ cải tiến đời sống nhân dân và trợ giúp pháp lý cho người nghèo; Kế hoạch
của Bộ Tư pháp về ban hành kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
hòa giải cơ sở và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở hàng năm.
Đổi mới công tác phổ biến giáo dục pháp luật theo hướng mở rộng quy mô,
phối kết hợp với nhiều cấp, nhiều ngành, sử dụng nhiều hình thức phổ biến
sinh động, phong phú, thiết thực, liên tục và bền bỉ như thông qua hình thức
tuyên truyền miệng, các hội thi, cuộc thi, các buổi nói chuyện chuyên đề về
pháp luật, thông qua tủ sách pháp luật lưu động, thông qua xét xử án lưu
động, hoà giải cơ sở, giải quyết các vụ việc
102
Trong điều kiện xây dựng một xã hội, dân chủ công bằng và văn minh
thì một trong những điều kiện quan trọng là làm sao để người dân được tham
gia tích cực vào hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật. Phổ biến, giáo dục
pháp luật góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự lớn mạnh của tính tích
cực, đảm bảo hành trang kiến thức quản lý cần thiết cho sự tham gia vào hoạt
động xây dựng và thực thi pháp luật trong cả nước nói chung và tỉnh Đắk
Nông nói riêng.
Để Luật Hộ tịch và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan sau
khi có hiệu lực được đi vào thực tiễn cuộc sống, cả hệ thống chính trị nói
chung và với vai trò là cơ quan Thường trực Hội đồng Phối hợp phổ biến,
giáo dục pháp luật của tỉnh; các cơ quan Tư pháp từ cấp tỉnh đến cơ sở phải
chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp tập trung chỉ đạo kịp
thời công tác này trên địa bàn tỉnh, với nhiều hình thức tuyên truyền phong
phú, đa dạng, gắn kết với việc tuyên truyền các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đến nhân dân, góp phần nâng
cao nhận thức pháp luật, duy trì trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định
cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở những vấn đề lý luận chung pháp luật về hộ tịch, thực trạng
pháp luật về hộ tịch và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Đắk Nông; xuất
phát từ định hướng của Đảng và Nhà nước về công tác hộ tịch, Luận văn đã
đưa ra những giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện pháp luật về hộ tịch.
Trong đó, có đề cập đến yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hộ tịch và
từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông, đề xuất 02 nhóm giải pháp hoàn thiện và bảo đảm
thực hiện pháp luật về hộ tịch trong thời gian tới.
103
KẾT LUẬN
Đăng ký và quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của
chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch,
trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình,
đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc
phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Phương thức để nhà nước quản lý,
nắm giữ các sự kiện hộ tịch của cá nhân thông qua đăng ký hộ tịch. Bất kỳ
một sự kiện hộ tịch nào phát sinh cũng đều phải được đăng ký tại cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền. Cá nhân có quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch.
Người có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đăng ký hộ tịch phải tự giác đăng ký
các sự kiện hộ tịch theo quy định của pháp luật. Cơ quan đăng ký hộ tịch có
trách nhiệm tạo điều kiện thuận tiện để mọi cá nhân thực hiện quyền và nghĩa
vụ đăng ký hộ tịch. Việc thực hiện nghĩa vụ đảm bảo cho cá nhân thực hiện
các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực hộ tịch là một trong những hoạt động
khó khăn, phức tạp và rất nhạy cảm vì nó thường xuyên diễn ra, gắn với nhân
thân của mỗi người. Nó bị ràng buộc bởi lợi ích và nhu cầu đa dạng của người
dân và sự cần thiết phải đảm bảo tính ổn định của công tác đăng ký, quản lý
nhà nước về hộ tịch.
Hoạt động hộ tịch sinh động nhất, phổ biến nhất bởi nó phát sinh liên
tục, hàng ngày, hàng giờ, gắn với nhu cầu rất đa dạng của người dân ở bất cứ
lứa tuổi nào. Bất kỳ ai khi được sinh ra, tồn tại đều được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền đăng ký khai sinh để xác lập cho bản thân tên gọi riêng, xác định
ngày tháng năm sinh, dân tộc, quốc tịch, sinh ra ở đâu, ai là bố mẹ? Khi
trưởng thành, nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên nếu có đủ
điều kiện khác theo pháp luật quy định thì được đăng ký kết hôn. Đến lúc chết
104
ai cũng được gia đình, bạn bè người thân đi đăng ký tử.
Hộ tịch và quản lý hộ tịch đã xuất hiện từ lâu. Tuy nhiên, trong mỗi
thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia hoặc tùy từng quốc gia
khác nhau có những quan niệm khác nhau về hộ tịch, có những hình thức,
phương pháp quản lý hộ khác nhau. Nhưng tất cả đều có điểm chung là đều
thừa nhận vai trò quan trọng của quản lý hộ tịch. Quản lý nhà nước về hộ tịch
không những đảm bảo quyền lực của Nhà nước được thực thi trong xã hội mà
còn là biện pháp đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công dân có hiệu quả nhất.
Quản lý nhà nước về hộ tịch thời gian qua, trong cả nước nói chung và
tỉnh Đắk Nông nói riêng đã đạt được một số kết quả quan trọng. Tuy nhiên
việc thực hiện pháp luât về hộ tịch vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập, kết quả đạt
được chưa mang tính bền vững. Khắc phục những tồn tại, bất cập, đồng thời
cần tạo ra bước đột phá nhằm hướng đến một mô hình, phương thức quản lý
hộ tịch khoa học, hiện đại, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân
dân đối với nền hành chính nói chung và hoạt động quản lý nhà nước về hộ
tịch nói riêng; thích ứng với xu thế phát triển hiện nay là một tất yếu, cần phải
có những giải pháp, lộ trình và bước đi thích hợp, có tính đến yếu tố đặc thù
của từng miền, địa bàn cụ thể. Thực tiễn thực hiện pháp luật hộ tịch ở tỉnh
Đắk Nông cho thấy, ngoài những yếu tố có tính chất hỗ trợ, phải cần đến 3
yếu tố cốt lõi đó là: tổ chức bộ máy, con người làm việc trong tổ chức đó và
thủ tục điều hành. Mặt khác, hiệu quả thực hiện pháp luât hộ tịch sẽ được
nâng cao khi đặt trong mối quan hệ chặt chẽ các lĩnh vực khác như quản lý hộ
khẩu, quản lý hồ sơ cán bộ, bảo hiểm và trong mối quan hệ với hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Toàn bộ những vấn đề nêu trên cần được
tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện cả về tổ chức lẫn thể chế./.
105
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán – Việt từ điển, quyển thượng, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo Tổng kết công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và
việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hộ tịch, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp (2015), Đề cương giới thiệu Luật hộ tịch, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp (2006), Hướng dẫn nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch, Nxb.
Bộ Tư pháp, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp (2016), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Luật hộ tịch, Bình Thuận.
6. Phạm Trọng Cường (2003),Quản lý nhà nước về hộ tịch – lý luận, thực tiễn
và phương hướng đổi mới, Luận văn Thạc sĩ Lý luận nhà nước và pháp
quyền, Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình
lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà
Nội.
8. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Hiến – Chủ biên (2001), Các giải pháp thúc đẩy cải cách
hành chính ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Bửu Kế (1999), Từ điển Hán – Việt từ nguyên, Nxb. Thuận Hóa, Tp Hồ
Chí Minh.
11. Nguyễn Văn Khôn (1960), Hán – Việt từ điển, Nxb. Nhà sách Khai Trí,
Sài Gòn.
106
12. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Lao động, Hà Nội.
13. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội.
14. Quốc hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội.
15. Quốc hội (2014), Luật hộ tịch năm 2014, Nxb. Lao động, Hà Nội.
16. Quốc hội (2016), Luật trẻ em năm 2016, Nxb. Lao động, Hà Nội.
17. Trung tâm Thông tin khoa học – Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội (2013), Thông tin chuyên đề “Một số vấn đề lý
luận và so sánh pháp luật về hộ tịch”, Hà Nội.
18. Tỉnh ủy – Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2010),
Địa chí Đắk Nông, Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội.
19. Sở Tư pháp tỉnh Đắk Nông (2013, 2014, 2015 2016), Báo cáo thống kê
công tác tư pháp, Gia Nghĩa.
20. Sở Tư pháp (2016), Báo cáo thống kê tình hình công chức tư pháp hộ tịch
– hộ tịch cấp xã, Gia Nghĩa.
21. Sở Tư pháp (2016), Báo cáo nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng công chức tư
pháp hộ tịch – hộ tịch cấp xã, Gia Nghĩa.
22. Sở Tư pháp (2016), Báo cáo kết quả triển khai thực hiện Quyết định số
01/2010/QĐ-UBND ngày 14/01/2010, về việc ban hành Quy định ghi tên
họ dân tộc M’Nông (cho đối tượng chưa ghi ghi tên họ) ở tỉnh Đắk
Nông, Gia Nghĩa.
23. Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb. Tp Hồ Chí
Minh, Tp Hồ Chí Minh.
107
24. Website Dự thảo online (duthaoonline.quochoi.vn), vị trí vai trò của công
tác đăng ký quản lý hộ tịch và các giải pháp thực hiện, tác giả Phan
Thanh Tâm.
25. Website Tạp chí dân chủ và pháp luật (tcdcpl.moj.gov.vn), một số vấn đề
về triển khai Luật hộ tịch, tác giả Uyên Nhi.
26. Website Thư viện pháp luật (thuvienphapluat.vn), truy cập các Nghị
quyết, Nghị định, Thông tư, Quyết định liên quan./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_ve_ho_tich_tu_thuc_tien_tinh_dak_nong.pdf