Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ
thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả
phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà
nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống
dân sự, đồng thời đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên
VKSND nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần rất quan trọng vào việc đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, bảo vệ tính mạng, sức khỏe
nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả phân tích những vấn đề lý luận
của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Qua đó, phân tích thực trạng của pháp
luật Kiểm sát viên VKSND trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Từ đó
đi sâu đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, điều
kiện của tình hình thực hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, thông qua việc xác định, đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực
của các yếu tố có liên quan đến pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Qua đó, đưa
ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Kiểm
sát viên VKSND trong tương lai.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chưa giải quyết hết được những vấn đề
liên quan đến pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Quá trình thực hiện cũng có89
sai sót nhất định. Do đó, rất mong nhận được sự đóng góp của Quý thầy cô,
anh, chị và các bạn.
93 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân từ thực tiền tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động tư
pháp trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên nghiên cứu chưa đầy đủ, toàn diện
nên tham mưu, đề xuất lãnh đạo đơn vị truy tố chưa chính xác, chứng cứ, thủ
tục tố tụng chưa đầy đủ nên bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung; việc áp
dụng điểm, khoản của điều luật để đề nghị truy tố chưa đầy đủ; không ghi lời
khai của người bị hại trong trường hợp người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố...
66
- Trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử ở một số
vụ án hình sự, vẫn còn những hạn chế, tồn tại, chủ yếu diễn ra ở Kiểm sát
viên sơ cấp, như: chứng cứ vụ án được thu thập chưa đầy đủ, vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng nên Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung; việc áp dụng
pháp luật và xác định các tình tiết định khung; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự không đúng quy định; một số vụ án vẫn còn bị cấp phúc
thẩm xử hủy hoặc cải sửa nghiêm trọng có trách nhiệm của Kiểm sát viên.
- Đối với công tác kiểm sát thi hành án, kiểm sát giam giữ cải tạo vẫn
còn những tồn tại. Số lượng kháng nghị còn hạn chế về công tác thi hành án,
kiểm sát chưa chặt chẽ việc thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, hôn nhân
gia đình, lao động, kinh tế và hành chính, tình trạng bị can bỏ trốn chưa được
phát hiện và kiến nghị kịp thời, đầy đủ, số lần nhà tạm giam, tạm giữ, trại
giam, cơ sở chữa bệnh có kết luận ít, chưa phát hiện hết vi phạm hoặc kiến
nghị vi phạm thiếu cụ thể, thiếu thuyết phục, khi ban hành quyết định kiểm
sát trực tiếp, kết luận và ban hành kháng nghị, kiến nghị không đúng với quy
định của pháp luật và hướng dẫn của Ngành
- Trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính, dân
sự ở một số Viện kiểm sát cấp huyện còn thấp; một số Kiểm sát viên thiếu
tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chuyên môn nên
không phát hiện được hết những vi phạm của Tòa án để tham mưu cho lãnh
đạo Viện có biện pháp tác động kịp thời; một số đơn vị, mặc dù còn có án bị
cấp phúc thẩm hủy, sửa, nhưng Viện kiểm sát cùng cấp chưa phát hiện được
để ban hành kháng nghị hoặc có kháng nghị nhưng tỷ lệ còn thấp; chưa
thường xuyên tổng hợp vi phạm của Tòa án để kiến nghị hoặc có tổng hợp
nhưng không đầy đủ, thiếu chính xác; việc báo cáo, thống kê không đầy đủ,
thiếu kịp thời
Thứ hai, về tiêu chuẩn, chế độ bổ nhiệm, thuyên chuyển, điều động
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
67
Mặc dù số lượng và chất lượng Kiểm sát viên được nâng lên một bước
cơ bản so với những năm trước đây, nhưng so với yêu cầu của thực tế thì thực
trạng đội ngũ Kiểm sát viên hiện nay vẫn còn có những hạn chế nhất định về
số lượng và chất lượng.
Về số lượng kiểm sát viên, theo dự kiến của ngành kiểm sát tỉnh Đắk
Lắk, năm 2015 chỉ tiêu Kiểm sát viên VKSND hai cấp là 190, nhưng trên
thực tế số lượng Kiểm sát viên VKSND các cấp được bổ nhiệm không đủ,
còn thiếu 23 Kiểm sát viên sơ cấp chưa có nguồn để bổ nhiệm, không đáp ứng
nhu cầu cán bộ của ngành. Việc phân bổ Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát các
cấp (cấp tỉnh, cấp huyện) chưa có sự đồng đều, đặc biệt là ở cấp huyện, tình
trạng thiếu Kiểm sát viên vẫn đang xảy ra [51].
Về chất lượng Kiểm sát viên, đây cũng là vấn đề có nhiều điều phải
bàn. Bên cạnh những Kiểm sát viên có trình độ chuyên môn tốt, bản lĩnh
chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sạch, thì vẫn có những Kiểm sát
viên yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, có những biểu hiện tham nhũng, tiêu cực.
Đặc biệt, chất lượng Kiểm sát viên chưa đồng đều, nhiều người là Kiểm sát viên
lâu năm nhưng vẫn chưa qua đào tạo bài bản, số mới tuy đã được đào tạo bài
bản về luật nhưng lại chưa được đào tạo chuyên sâu nghề kiểm sát và thiếu
kinh nghiệm... dẫn đến hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng như mong muốn.
Chất lượng hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp và thực hành
quyền công tố nhà nước trong thời gian qua có nhiều kết quả đáng khích lệ,
nhưng vẫn còn có nhiều vụ việc mà dư luận và các phương tiện thông tin đại
chúng phản ánh còn chưa khách quan, làm ảnh hưởng tới lòng tin của nhân
dân vào đội ngũ kiểm sát viên....
Chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên khi được phân
công tại phiên toà hình sự và tham gia giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân
gia đình, lao động, kinh tế và hành chính có những hạn chế nhất định. Đó là
tình trạng kiểm sát viên yếu kém về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đại diện
68
Viện kiểm sát kiểm sát xét xử tại các phiên tòa, và việc hủy án sơ thẩm để xét
xử lại, gây án oan sai, làm oan người vô tội như một hậu quả tất yếu. Thực tế
hiện nay, tại các phiên tòa vẫn còn những kiểm sát viên ngồi ghế công tố với
những bản luận tội sơ sài, mô tả lại diễn biến vụ án đơn thuần, không có sự
phân tích, đánh giá hay chứng minh để bảo vệ quan điểm truy tố, vẫn còn
những kiểm sát viên đuối lý hoặc không tranh luận trước những phát biểu của
luật sư, tại không ít phiên tòa kiểm sát viên hầu như không tiến hành đối đáp.
Việc thực hiện quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp còn có những
vướng mắc. Đó là vẫn còn tồn tại những vụ án phải điều tra lại, điều tra bổ
sung, tồn tại những trường hợp án chưa được thi hành....
Một thực tế không thể phủ nhận nữa là sự sa ngã, suy thoái về phẩm
chất đạo đức của một số kiểm sát viên do tác động mặt trái của nền kinh tế thị
trường. Đã không ít kiểm sát viên phải hầu tòa, bị kỷ luật, những đức tính
công minh, chính trực, khách quan, thận trọng bị đánh đổi bởi sức mạnh của
đồng tiền.... đánh mất lòng tin của nhân dân vào cán cân công lý. Có thể kể ra
đồng chí Đào Anh Thái, Kiểm sát viên, huyện ủy viên, Viện trưởng VKSND
Huyện Krông Ana đã có hành vi nhận hối lộ để chạy án đã bị Ban Thường vụ
Tỉnh ủy Đẳk Lắk quyết định kỷ luật bàng hình thức cách chức các chức vụ
trong Đảng và Viện trưởng VKSND tối cao quyết định cách chức chức vụ
Viện trưởng VKSND huyện Krông Ana (tháng 4/2014) vì trách nhiệm của
người đứng đầu đơn vị để xảy ra tham nhũng và vi phạm nghiêm trọng kỹ luật
nghiệp vụ của ngành.
Thực tế đang tồn tại những điểm cần khắc phục xung quanh vấn đề văn
hóa ứng xử của kiểm sát viên. Nhiều kiểm sát viên xuất hiện tại phiên tòa
cùng với hội đồng xét xử, khi đọc cáo trạng thì rời rạc, to nhỏ không đều, mất
bình tĩnh khi tranh luận với luật sư hoặc người bào chữa, thậm chí nhiều kiểm
sát viên con dùng những từ ngữ thiếu tôn trọng bị cáo như "y", " thị"...Vấn đề
này cần được nhìn nhận một cách đúng đắn.
69
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập
Những tồn tại trong công tác thực hành quyền công tố của Viện kiểm
sát do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Tổng quát lại có thể
thấy do những nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, về thể chế về Kiểm sát viên.
Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, đồng bộ, cụ thể, dẫn đến còn có
nhận thức khác nhau trong các cơ quan tiến hành tố tụng ở một số vụ án; chưa
có nhiều cơ chế để bảo đảm cho hoạt động của Viện kiểm sát, cụ thể như:
Về phạm vi thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, theo khoản
1 Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát thực
hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm
tội ra trước Tòa”[34].
Tuy nhiên, khoản 3 Điều 23 lại quy định phạm vi thực hiện quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp rộng hơn sang cả lĩnh vực thi hành án. Điều
này thể hiện sự chưa rõ ràng giữa việc thực hành quyền công tố trong tố tụng
hình sự và quyền kiểm sát các hoạt động tư pháp khác (như thi hành án).
Khắc phục hạn chế này, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định rõ ràng
phạm vi nội hàm hai loại quyền công tố và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp,
theo đó, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố được giới hạn như khoản 1, 2
Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự và quyền kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ bao
hàm cả lĩnh vực tố tụng hình sự và các hoạt động tư pháp khác.
Theo quy định của luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014, tại phiên
toà xét xử hình sự, Kiểm sát viên thực hiện song song hai quyền thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử, có nghĩa là kiểm sát viên vừa là chủ thể
buộc tội, một bên của tố tụng, vừa đứng ra kiểm sát việc xét xử. Thực tiễn tại
các phiên tòa, bên cạnh việc Kiểm sát viên lo chuẩn bị cho những vấn đề
thuộc hoạt động công tố còn phải kiểm sát việc xét xử của Hội đồng xét xử,
của những người tham gia tố tụng. Đây là một trong những nguyên nhân của
70
những thiếu sót hạn chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại
phiên tòa.
Pháp luật quy định mỗi cấp Viện kiểm sát có nhiều ngạch Kiểm sát
viên, nhưng lại chưa quy định về cơ cấu, tỷ lệ mỗi loại Kiểm sát viên ở mỗi
cấp; chưa phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các loại Kiểm sát viên.
Trong hoạt động của Kiểm sát viên có một vấn đề không thể không
nhắc tới, đó là văn hoá xét xử của kiểm sát viên, đặc biệt tại các phiên toà.
Pháp luật hiện hành chưa có văn bản quy định về văn hóa ứng xử của Kiểm
sát viên. Trong suốt quá trình xây dựng và phát triển ngành kiểm sát nhân
dân, không ít các tác giả, các công trình nghiên cứu về các lĩnh vực họat động
thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các họat động tư pháp dưới nhiều
góc độ và trên nhiều phương diện khác nhau, nhưng luận bàn về văn hóa ứng
xử của Kiểm sát viên như là một yếu tố quan trọng trong nâng cao chất lượng
và hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành ở VKSND các cấp
chưa được quan tâm đúng mức.
Đây là nguyên nhân khách quan nhưng rất cơ bản, đòi hỏi phải được
khắc phục kịp thời, nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ quan tiến
hành tố tụng hoạt động hiệu quả trong cuộcđấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ hai, về công tác tổ chức, điều kiện hoạt động công tác của Kiểm
sát viên
Biên chế của ngành KSND tỉnh tuy đã được bổ sung, nhưng chưa đáp
ứng được với nhu cầu công việc. Thực hiện công tác sắp xếp, điều động công
chức, lãnh đạo quản lý chưa hợp lý để phục vụ cho công tác chuẩn bị nhân sự để
giới thiệu Ủy ban kiểm sát là căn cứ xem xét tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát
viên trong thời gian tới để đảm bảo được chính sách cán bộ, Kiểm sát viên.
Công tác kiện toàn, bổ nhiệm chức vụ, các chức danh kiểm sát viên
được thực hiện đúng quy trình, thủ tục, hồ sơ đầy đủ tài liệu cân thiết theo
71
quy định nhưng một số Kiểm sát viên vẫn chưa thực sự đảm bảo đủ các tiêu
chuẩn, điều kiện được đề nghị bổ nhiệm.
Một số nơi, hoạt động của VKSND còn bị chi phối bởi sự tác động của
các cấp chính quyền, chưa tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc độc lập, không phụ
thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.
Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành của Lãnh đạo VKSND các cấp còn bất
cập; việc kiểm tra, giám sát của Lãnh đạo đối với cán bộ, Kiểm sát viên chưa
tốt nên nhiều vi phạm, thiếu sót của Kiểm sát viên không được phát hiện,
chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.
Điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật của VKSND các cấp nhìn chung còn
yếu và thiếu, không đáp ứng được yêu cầu nhanh, nhạy, chính xác, kịp thời
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chính sách, chế độ tiền lương và
chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên chậm được điều chỉnh, bổ sung
tương xứng với quyền hạn, trách nhiệm được giao.
Thứ ba, về tiêu chuẩn, trình độ, năng lực Kiểm sát viên
Nguyên nhân của các vi phạm trên, một mặt do bản thân Kiểm sát viên
thiếu ý thức rèn luyện đạo đức, nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp và năng lực
chuyên môn. Nhiều Kiểm sát viên chưa nhận thức được đầy đủ, đúng đắn vị
trí, vai trò, thẩm quyền của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự nói
chung và hoạt động thực hành quyền công tố nói riêng nên tinh thần trách
nhiệm chưa cao, thiếu chủ động trong hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát tư pháp.
Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của Kiểm sát viên còn hạn
chế; nhiều Kiểm sát viên chưa nắm vững các quy định của pháp luật hình sự
và tố tụng hình sự dẫn đến lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, thậm chí
áp dụng sai, gây ra hậu quả xấu.
72
Một số Kiểm sát viên có lập trường tư tưởng không vững vàng, thiếu
bản lĩnh, bị kẻ xấu lợi dụng, mua chuộc làm tha hoá, biến chất, tiếp tay cho tội
phạm, che dấu tội phạm hoặc tham ô, nhận hối lộ.
Tiểu kết chương 2
Trong Chương 2 tác giả đã nghiên cứu, hệ thống và làm rõ quá trình
hình thành và phát triển của VKSND và quy định pháp luật về Kiểm sát viên,
phân tích các vấn đề về thực trạng thi hành hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp; trình độ, năng lực và việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức, luân chuẩn, điều động Kiểm sát viên VKSND; phân tích
làm rõ những ưu điểm, tồn tại, hạn chế thực hiện pháp luật Kiểm sát viên. Từ
lý luận về pháp luật Kiểm sát viên VKSND kết hợp với các phương pháp
phân tích thực trạng, chương 2 đã cho thấy được tình hình của thực hiện pháp
luật Kiểm sát viên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian từ năm 2012 đến
2016 thông qua các thông số từ nguồn số liệu của thống kê có giá trị cao của
VKSND và các tài liệu khác mà tác giả thu thập được.
Từ nghiên cứu chương 2 là cơ sở để đi sâu đề xuất các biện pháp thiết
thực, phương hướng hoàn thiện cụ thể về các mặt như lý luận, tổ chức hoạt
động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, giáo dục, bồi dưỡng . để pháp luật
Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk được thực hiện một cách
thống nhất và có hiệu quả.
73
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIÊN
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HIỆN NAY
3.1. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm
sát nhân dân
Quá trình đổi mới đất nước theo hướng xây dựng NNPQ XHCN của
dân, do dân, vì dân đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi hoàn thiện hệ
thống pháp luật nói chung và pháp luật về Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân nói riêng. Trên cơ sở các quán triệt các quan điểm và qua kết quả nghiên
cứu về sự hình thành, phát triển của pháp luật Kiểm sát viên VKSND; xuất
phát từ những yêu cầu cầu xây dựng NNPQ và tiêu chí hoàn thiện pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND, chúng tôi cho rằng phương hướng bao trùm là
hướng tới xây dựng, hoàn thiện Luật tổ chức VKSND trên cơ sở nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn pháp luật về cán bộ, công chức và Kiểm sát viên hiện nay
hiện nay và những yêu cầu đặt ra trong thời gian tới để có cái nhìn tổng thể,
toàn diện về chế độ công vụ, công chức Việt Nam..
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
phù hợp với thực tiễn nước ta nhằm xây dựng đội ngũ kiểm sát viên
VKSND ngày một chính quy hiện đại
Hoạt động của Nhà nước do cán bộ, công chức nhà nước thực hiện,
chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác nhau như chính trị, kinh tế- xã hội, thể
chế của nền công vụ, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, các trang thiết bị
kỹ thuật phục vụ cho hoạt động công vụ. Đội ngũ Kiểm sát viên VKSND là
74
một bộ phận hữu cơ của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nhằm thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo pháp luật quy định và sự phân cấp quản
lý của Nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
phải trên cơ sở phù hợp với thực tiễn nước ta nhằm xây dựng đội ngũ Kiểm
sát viên VKSND ngày một chính quy hiện đại theo các nội dung sau:
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đặt trong tổng thể
công tác xây dựng đội ngũ công chức nhà nước. Nguyên tắc này xuất phát từ
nhận thức về vị trí của đội ngũ Kiểm sát viên VKSND trong quan hệ với đội
ngũ công chức nói chung. Do đó, không thể hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND tách rời việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Công tác này phải được xem là một bộ phận trong cả hệ thống và phải được
đặt trong tổng thể chiến lược về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải dựa trên cơ sở
phân loại và tiêu chuẩn hóa từng loại công chức VKSND. Cán bộ, công chức
Viện kiểm sát nhân dân hiện nay bao gồm Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,
Chuyên viên, Công chức, viên chức và người lao động khác ....
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải phù hợp với đặc
điểm, tính chất của các vùng, miền; phải dựa trên việc phân cấp quản lý. Điều
kiện, hoàn cảnh và đặc điểm của các đơn vị hành chính các cấp ở nước ta rất
khác nhau. Có tỉnh, huyện diện tích nhỏ, dân số ít, nhưng có huyện, tỉnh lại có
diện tích lớn, dân số đông. Do đó, việc quy định số lượng và bố trí Kiểm sát
viên VKSND cũng như chế độ, chính sách đối với đội ngũ Kiểm sát viên
VKSND này phải căn cứ vào việc phân loại đơn vị hành chính phù hợp với
đặc điểm, tính chất của từng vùng miền.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo tính hệ
thống, đồng bộ, thiết thực và cụ thể. Kiểm sát viên VKSND là những người
đảm đương các chức vụ, cương vị công tác khác nhau của bộ máy chính
quyền trong hệ thống chính trị cơ sở, nó vừa có các quan hệ ngang với các cơ
75
quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị cơ sở, lại vừa có mối quan hệ dọc của
mình từ trung ương đến cơ sở.
Hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải được tiến hành
một cách tích cực, khẩn trương nhưng phải từng bước vững chắc, phù hợp với
thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND, với trình độ phát triển kinh tế- xã
hội của mỗi vùng, miền, của mỗi loại hình đô thị, nông thôn. Việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần được tiến hành tích
cực, nhưng phải từng bước, vững chắc, có đầy đủ căn cứ lý luận khoa học và
thực tiễn, phù hợp với tình hình và đặc điểm, thực trạng đội ngũ Kiểm sát
viên VKSND, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, đặc điểm, tính
chất đặc thù của ngành kiểm sát.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên VKSND trên cơ sở
quán triệt đầy đủ các nguyên tắc của chế độ công vụ, công chức trong điều
kiện mới
Xuất phát từ bản chất của nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì
dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, việc hoàn
thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm được hài hòa lợi ích
của nhà nước, của xã hội, của công dân và lợi ích bản thân người Kiểm sát
viên VKSND. Bởi vậy, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND phải bảo đảm dân chủ hóa công tác quản lý nhân sự, tuyển chọn
được những người có đủ tài đức, xứng đáng được nhân dân ủy thác nắm
giữ quyền lực nhà nước. Đồng thời, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
phải tạo điều kiện nhân dân được tham gia giám sát hoạt động của Kiểm
sát, được quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen
thưởng những Kiểm sát viên có thành tích và đề nghị kỷ luật, miễn nhiệm
đối với Kiểm sát viên vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, tác phong.
76
Ngoài ra, trong quan hệ giữa nhà nước và Kiểm sát viên cũng phải được xác
lập theo tinh thần dân chủ.
Nguyên tắc công khai, bình đẳng: Công khai là tiền đề của minh bạch
trong đời sống công vụ ở cấp xã, nếu không công khai, minh bạch tất yếu sẽ
dẫn đến những lạm quyền, nạn ô dù, bè phái trong VKSND, dẫn đến quan
liêu, tham nhũng. Theo nguyên tắc này, tất cả các nội dung quy định của pháp
luật có liên quan đến nghĩa vụ, quyền và các hoạt động thực thi nhiệm vụ,
công vụ của Kiểm sát viên VKSND cần phải được công khai, chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhân dân.
Nguyên tắc thi tuyển, sát hạch: Đây là hình thức tuyển dụng vừa đảm
bảo các tiêu chuẩn của nền công vụ, vừa mang tính khách quan đảm bảo sự
công bằng trong tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND. Trong nền công vụ hiện
đại, việc tuyển chọn, bổ nhiệm vào ngạch, đề bạt đều phải thực hiện theo
nguyên tắc này.
Nguyên tắc dựa vào thành tích và công trạng: nguyên tắc này đòi hỏi
việc đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND giữ các chức vụ, vị
trí trọng trách trong từng công vụ của bộ máy nhà nước hoặc khen thưởng,
nâng lương đều phải thông qua tài năng thực sự, thành tích hoạt động thực tế
và lập được công trạng.
Nguyên tắc ổn định: Xuất phát từ yêu cầu xây dựng một nền hành chính
chuyên nghiệp, hiện đại, đòi hỏi pháp luật phải bảo đảm xác lập chế độ ổn
định về nghề nghiệp và các chế độ chính sách, tạo điều kiện cho đội ngũ
Kiểm sát viên VKSND yên tâm công tác, tích lũy được kinh nghiệm, nâng
cao kỹ năng hành chính và chuyên môn nghiệp vụ ngày một tốt hơn, xử lý
công việc nhanh, nhạy và có hiệu quả hơn..
Nguyên tắc đảm bảo vật chất và tinh thần: Kiểm sát viên VKSND có
nghĩa vụ tận tụy phục vụ nhà nước, phục vụ nhân dân. Vì thế Kiểm sát viên
phải được đảm bảo về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện để Kiểm sát viên
77
phát triển toàn diện. Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên phải được xác lập và
tôn trọng, được đảm bảo an toàn về pháp lý trong quá trình thi hành nhiệm vụ,
công vụ. Chế độ tiền lương và các quyền lợi về tinh thần khác của Kiểm sát
viên phải được bảo đảm theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc hợp pháp: Đội ngũ Kiểm sát viên VKSND là những người
thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước ở cấp xã, họ chỉ được làm
những gì mà pháp luật cho phép. Vì vậy, các nội dung về Kiểm sát viên và
hoạt động công vụ của họ phải được điều chỉnh bằng hệ thống các quy định
pháp lý có hiệu lực cao; nếu không sẽ dẫn tới tùy tiện, lạm quyền trong thi
hành nhiệm vụ, công vụ. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm thiết lập trật tự kỷ
cương trong đội ngũ Kiểm sát viên, góp phần xây dựng chính quyền nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên Viện Kiểm sát
nhân dân
Trên cơ sở các quan điểm và phương hướng cơ bản định hướng cho
việc hoàn thiện, đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về Kiểm
sát viên thống các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên,
đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân và vì dân.
Thứ nhất, tổ chức công tác rà soát, hệ thống hóa và tổng kết kinh
nghiệm về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
Để tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt động của VKSND và đội ngũ
Kiểm sát viên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành với một số
lượng không nhỏ các văn bản quy phạm pháp luật. Qua phân tích cho thấy,
các văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND được xây dựng ở
các thời điểm khác nhau và trong những điều kiện, hoàn cảnh cũng khác
nhau, xuất phát từ nhu cầu và tình hình cụ thể của mỗi thời kỳ. Nhu cầu và
những điều kiện kinh tế- xã hội luôn biến đổi không ngừng, đòi hỏi pháp luật
78
về Kiểm sát viên VKSND cũng phải thay đổi tương ứng. Một văn bản pháp
luật, một quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND ở thời điểm này có
thể là phù hợp và có tác dụng tốt trong đời sống xã hội, nhưng sau một thời
gian nó có thể trở nên lỗi thời, lạc hậu, không những không còn tác dụng mà
còn gây ra thiếu sự đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn với các văn bản, quy phạm
pháp luật khác.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về kiểm sát viên
Viện Kiểm sát nhân dân
Nội dung các quy định của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND rất rộng và đa dạng, được quy định trong nhiều văn bản do
nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Do vậy, việc xây dựng các
văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND phải bảo đảm sự đồng
bộ, thống nhất với Luật Tổ chức VKSND và sự thống nhất giữa các quy định
trong các văn bản này với nhau. Nội dung các quy phạm pháp luật cần đáp
ứng yêu cầu thực tiễn quản lý, xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND hiện
nay và ổn định nhất định trong thời đẩy mạnh kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế. Việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung các văn
bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND rất cần tập trung vào các
vấn đề sau đây:
- Về tiêu chuẩn hóa và tạo nguồn Kiểm sát viên VKSND: Xây dựng
tiêu chuẩn cụ thể, hợp lý là căn cứ cơ bản, chỗ dựa chủ yếu để triển khai các
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng
NNPQ XHCN ở nước ta hiện nay. Việc quy định, xác định tiêu chuẩn cần
phải có những tiêu chí cụ thể về lượng và chất, không chỉ về trình độ, bằng
cấp mà còn có cả tiêu chí về kinh nghiệm công tác, về năng lực thực tiễn thực
thi các nhiệm vụ. Vì vậy, cần phải nâng cao tiêu chuẩn về trình độ của Kiểm
sát viên VKSND mới đáp ứng được yêu cầu của hoạt động công tố và kiểm
sát tư pháp của VKSND trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội
79
nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, cũng cần có những quy định mở về tiêu
chuẩn đối với Kiểm sát viên ở khu vực miền núi, vùng có điều điện kinh tế
khó khăn, trình độ dân trí thấp.
Về bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND cần đảm bảo hơn nữa quyền dân
chủ thực sự cũng như tính cạnh tranh của các cán bộ, công chức để lựa chọn
được những Kiểm sát viên xứng đáng là người đại diện cho nhà nước thực
hiện chức năng nhiệm vụ. Đổi mới cơ chế tuyển chọn để bảo đảm vừa đúng
cơ cấu, vừa có thể chọn được những đại biểu có đầy đủ phẩm chất đạo đức,
trình độ, năng lực và khả năng thực hiện nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cũng như pháp luật
về cán bộ, công chức nói chung lâu nay mới chỉ quan tâm tới "đầu vào" mà
chưa chú ý "đầu ra" của Kiểm sát viên VKSND nên không giảm bớt được
gánh nặng biên chế, không đảm bảo được chất lượng Kiểm sát viên.
Việc bổ nhiệm Kiểm sát viên có chính sách thích hợp và linh hoạt đối
với vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn để khắc phục tình trạng thiếu nguồn nhân lực ở các khu vực này.
Việc bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên có vai trò rất quan trọng
trong việc phát huy năng lực, sở trường, kinh nghiệm và tạo điều kiện thực tế
cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của mỗi Kiểm sát viên. Để bố
trí, sử dụng khoa học, hợp lý đội ngũ Kiểm sát viên, quá trình hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND cần chú ý những đặc điểm sau:
Bố trí, sắp xếp từng người vào từng vị trí chức danh, vị trí nghiệp vụ
phải phù hợp trình độ năng lực, sở trường của mỗi người. Trong việc sử dụng
Kiểm sát viên cần phân biệt rõ giữa Kiểm sát viên là những cán bộ lãnh
đạo, quản lý và Kiểm sát viên làm công tác nghiệp vụ. Vì vậy, phải có các
phương án luân chuyển hợp lý và bố trí kiêm nhiệm trong những điều kiện
cho phép. Việc sử dụng Kiểm sát viên ần phải tính đến các phương án bố
80
trí kiêm nhiệm nhưng phải phù hợp với khối lượng và tính chất công việc của
từng chức danh.
Để tạo hành lang pháp lý cần thiết cho việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát
viên VKSND, cần phải nhanh chóng hoàn thiện các văn bản pháp quy để cụ
thể hóa từng nội dung của việc xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND.
Hiện nay, việc triển khai còn chậm và thiếu đồng bộ, thậm chí còn có chỗ
chưa ăn khớp nhau giữa các văn bản, gây khó khăn cho việc tổ chức triển khai
thực hiện. Vì vậy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý Kiểm sát
viên VKSND một cách chặt chẽ, khoa học và đảm bảo cơ sở vật chất, phương
tiện quản lý hiện đại.
Hoàn thiện thể chế tổ chức và hoạt động, cùng với những quy định mở
rộng thẩm quyền và bảo đảm tính chủ động trong tuyển chọn, sử dụng Kiểm
sát viên. Ngoài các nội dung quản lý đã quy định, cần bổ sung thêm một số
nội dung về xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; thanh tra,
kiểm tra hoạt động; xử lý vi phạm; thống nhất việc quản lý hồ sơ Kiểm sát
viên VKSND ...
Về nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý công tác đào tạo, bồi
dưỡng, cần ban hành những văn bản hướng dẫn nhằm thực hiện triệt để việc
phân cấp đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND. Đồng thời, nghiên cứu
hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng đối
với Kiểm sát viên VKSND, tạo một cơ chế thoáng và đảm bảo tính chủ động
cho các địa phương tổ chức tốt hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Quy định cụ thể
việc đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND phải đảm bảo gắn với quy
hoạch sử dụng, đặc biệt đối với những Kiểm sát viên được đào tạo, bồi dưỡng
đúng người, đúng địa chỉ và theo đúng yêu cầu nhiệm vụ. Mặt khác, cần ban
hành quy định chuẩn về nội dung, chương trình, giáo trình đào tạo, bồi
dưỡng; bộ tiêu chí bảo đảm và đánh giá chất lượng, đồng thời tiến hành
thường xuyên việc đánh giá chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng.
81
Trên cơ sở đó, việc xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng cho Kiểm sát viên VKSND được xác định như sau: Tiếp tục sắp xếp và
kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng là trường Đại học Kiểm sát,
Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ Kiểm sát. Cần ban hành đầy đủ và kịp
thời văn bản hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng, hình thành một mạng lưới đào tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên thống
nhất, ổn định. Sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới một số văn bản pháp quy
về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của một số cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cho phù hợp với tình hình mới.
Xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng đội ngũ đội ngũ giảng viên: Có
chính sách đầu tư kinh phí cho công tác tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
năng lực cho đội ngũ giảng viên cơ hữu về kiến thức chuyên môn và phương
pháp sư phạm hiện đại, đảm bảo nguyên tắc giảng viên trong các cơ sở đào
tạo, bồi dưỡng Kiểm sát viên VKSND phải được đào tạo cơ bản về chuyên
môn giảng dạy. Nghiên cứu xây dựng chính sách và tổ chức đào tạo nguồn
giảng viên và cơ chế cử giảng viên đi hoạt động thực tế tại cơ sở. Có thể lựa
chọn những Kiểm sát viên có năng lực, có khả năng để đào tạo, bồi dưỡng họ
trở thành giảng viên.
Bên cạnh đó, có chế độ khuyến khích và bắt buộc học tập đối với đội
ngũ Kiểm sát viên, đồng thời kiểm tra định kỳ về kiến thức, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ thông qua các hình thức thi về chuyên môn nghiệp vụ do
VKSND tối cao tổ chức hoặc VKSND địa phương tổ chức.
- Chế độ, chính sách đãi ngộ đối với Kiểm sát viên VKSND gồm có:
tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm, hưu trí, chế độ khen thưởng
Về chế độ tiền lương, do đặc điểm của đội ngũ Kiểm sát viên VKSND,
không nên chỉ quy định cứng một nguồn thu nhập là tiền lương mà cần phải
được bổ sung, điều chỉnh bằng việc trích các khoản tiết kiệm chi phí thường
xuyên theo cơ chế khoán thu, chi ngân sách và tự chủ tài chính. Những thu
82
nhập thêm ngoài tiền lương này vừa có tác dụng động viên, khuyến khích đội
ngũ Kiểm sát viên, vừa cho phép khắc phục những bất hợp lý của chế độ,
chính sách chung.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về kiểm sát viên VKSND
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND bảo đảm
chất lượng, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ là một quá trình phức tạp và lâu
dài. Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó quy
trình soạn thảo, thẩm định và trình ban hành có một vai trò rất quan trọng. Đại
hội IX của Đảng đã chỉ rõ: "Cần phải đổi mới và hoàn thiện quy trình xây
dựng, ban hành và thực thi pháp luật".
Việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
hiện nay chưa được quy định cụ thể theo quy trình soạn thảo thống nhất, dẫn
đến nội dung, hình thức, phạm vi điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp
luật này không đồng nhất và khó thực hiện. Nhiều văn bản quy phạm pháp
luật đã ban hành không bảo đảm về hình thức và nội dung, còn có tình trạng
cục bộ, trùng lặp, chồng chéo và mâu thuẫn nhất định.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên và bảo đảm nâng cao chất lượng
của văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phải tiếp tục đổi
mới quy trình lập quy theo hướng bảo đảm tính dân chủ, hợp lý, khai thác tối
đa trí tuệ và tâm huyết của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật. Trước
hết, Nhà nước phải xác định chương trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, cả chương trình ngắn hạn, nhất là chương trình xây dựng luật và
pháp lệnh của Quốc hội. Gắn chương trình này với yêu cầu hoàn thiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND, phân định chính xác nhu cầu và các thứ bậc
ưu tiên của luật, pháp lệnh cần ban hành, bảo đảm tính thống nhất, toàn diện,
ổn định và khả thi của hệ thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
83
Đồng thời, chương trình xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên phải là cơ
sở cho việc lập chương trình lập quy của Chính phủ, các Bộ, ngành và địa
phương. Chương trình lập quy phải bao gồm cả cơ chế, biện pháp bảo đảm
thực hiện, ngân sách dành cho hoạt động xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan soạn
thảo, cơ quan ban hành, dự tính toàn diện các điều kiện, bảo đảm nguyên tắc
không ban hành văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND khi
chưa có đủ điều kiện.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp luật để tạo chỗ dựa khoa
học cho hoạt động xây dựng pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, đồng thời
thường xuyên tổng kết thực tiễn về tổ chức và hoạt động của VKSND và
Kiểm sát viên nhằm: làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn về Kiểm sát viên
VKSND; vị trí, vai trò của pháp luật về Kiểm sát viên VKSND, phạm vi điều
chỉnh, đối tượng mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh, phương
pháp mà pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh.
Về hoạt động soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND cần chú ý những vấn đề sau:
Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ Viện kiểm sát nào thì giao cho Viện kiểm sát chủ trì việc soạn thảo.
Đơn vị chủ trì phải lập chương trình, kế hoạch soạn thảo và phối hợp chặt chẽ
với các đơn vị có liên quan để thực hiện đúng tiến độ và có chất lượng.
Đơn vị được giao chủ trì soạn thảo cần khảo sát, nghiên cứu thực tiễn
về nội dung vấn đề đang soạn thảo; thu thập, nghiên cứu các thông tin, tư liệu
có liên quan, tiến hành hệ thống hóa, tổng kết, đánh giá những văn bản hiện
hành về lĩnh vực, nội dung đang soạn thảo; xây dựng đề cương, xác định nội
dung, chương mục, tên gọi, bố cục dự thảo văn bản; trên cơ sở đó tiến hành
dự thảo nội dung văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND.
84
Công tác dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND phải đáp ứng yêu cầu "văn bản hóa" được những nội dung về: sự cần
thiết phải ban hành văn bản; sự phù hợp của hình thức văn bản đối với vấn đề
cần được giải quyết; đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản; bố cục của
văn bản; tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong toàn bộ
hệ thống; tính khả thi của văn bản; kỹ thuật soạn thảo văn bản.
Sau khi nhận được văn bản thẩm định dự thảo, đơn vị chủ trì có trách
nhiệm tiếp thu, chỉnh lý dự thảo; đồng thời giải trình bằng văn bản việc tiếp
thu ý kiến thẩm định và trình hồ sơ đã được thẩm định cho cơ quan nhà nước,
người có thẩm quyền để ban hành đúng trình tự, thủ tục.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân hiện nay
3.2.1. Tăng cường các điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
Về khen thưởng Kiểm sát viên cơ sở pháp lý chủ yếu vẫn là Luật thi
đua khen thưởng. Việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến
khích vật chất đối với tổ chức, cá nhân có thành tích đã được Luật quy định
tương đối đầy đủ. Bên cạnh những phần thưởng về tinh thần, những phần
thưởng về vật chất cũng có những ý nghĩa nhất định. Vấn đề này cần được
pháp luật về Kiểm sát viên VKSND điều chỉnh chính thức và quy định đầy đủ
hơn về các nguyên tắc, điều kiện, hình thức, trình tự xử lý các quan hệ phát
sinh từ khen thưởng đối với Kiểm sát viên VKSND. Các tiêu chuẩn khen
thưởng nên quy định theo hướng nhấn mạnh kết quả công việc và cần có sự
định lượng rõ ràng về "thành tích xuất sắc", "thành tích đặc biệt" để công
tác khen thưởng đối với Kiểm sát viên VKSND đạt hiệu quả thiết thực.
Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động điều tra của VKSND, theo lộ
trình cải cách tư pháp đến năm 2020 đòi hỏi công tác này không những đảm
bảo yêu cầu trước mắt mà còn phải đảp ứng yêu cầu nhiệm vụ lâu dài, với chủ
85
tương tăng biên chế, mở rộng quy mô... Trong điều kiện cơ sở vật chất, trang
thiết bị phương tiện làm việc vừa thiếu, vừa lạc hậu, các điều kiện đảm bảo
cho hoạt động của Kiểm sát viên VKSND còn chưa đáp ứng với yêu cầu đổi
mới và yêu cầu hội nhập quốc tế. Do đó, để điều kiện bảo đảm thực hiện pháp
luật về Kiểm sát viên VKSND cần:
Một là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo cho Kiểm sát viên
VKSND có đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ, có chế độ chính sách hợp
lý với cán bộ, Kiểm sát viên VKSND; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin, từng bước hiện đại hóa hoạt động của VKSND trong thời gian tới theo
tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị; xác
định kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ hoạt động điều tra của
VKSND và chế độ chính sách cho Kiểm sát viên VKSNDvà phải có những
đặc thù riêng.
Hai là, tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện phục
vụ hoạt động của Kiểm sát viên VKSND theo kế hoạch dài hạn và trong
từng năm cụ thể.
Ba là, xác định loại, số lượng cụ thể về cơ sở vật chất, phương tiện
phục vụ hoạt động của Kiểm sát viên VKSND như: Trụ sở làm việc,
phương tiện đi lại, trang thiết bị kỹ thuật v.v.
Bốn là, xây dựng các quy định về quản lý, sử dụng kinh phí, trang
thiết bị, phương tiện hiện đại cho hoạt động của Kiểm sát viên VKSND.
3.2.2. Tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về
kiểm sát viên VKSND
Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật của Kiểm sát
viên VKSND là một nội dung quan trọng của công tác quản lý cán bộ, công
chức. Cần tổ chức nghiên cứu rút kinh nghiệm về phương pháp thanh tra,
kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật để tiến tới hoàn thiện quy chế
thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật đối với Kiểm sát viên
86
VKSND cho phù hợp với tình hình mới. Quy định cụ thể các tiêu chí, phương
pháp thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm pháp luật Kiểm sát viên
VKSND, cần phải có tiêu chuẩn vừa mang tính định tính và tiêu chẩn mang
tính định lượng theo hướng gắn với kết quả, mức độ hoàn thành chức trách,
nhiệm vụ cũng như vi phạm của Kiểm sát viên VKSND. Tổng kết cuối năm,
yêu cầu mỗi Kiểm sát viên VKSND phải kê khai kết quả công tác của mình,
làm cơ sở để đánh giá và phân loại thanh tra, kiểm tra, giám sát, xử lý vi
phạm pháp luật của Kiểm sát viên VKSND.
Một trong những nguyên tắc của việc sử dụng Kiểm sát viên VKSND là
phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa thưởng và phạt. Về công tác xử lý vi phạm,
cơ sở pháp lý được áp dụng là Nghị định số 35/2005/NĐ-CP về xử lý kỷ luật
đối với cán bộ, công chức và Nghị định 114/2003/NĐ-CP, Thông tư số
03/2004/TT-BNV và quy định tại Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Tuy
nhiên, có thể thấy các quy định pháp luật về xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công
chức nói chung và Kiểm sát viên nói riêng hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Quá
trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND cần quy định rõ khách
thể của vi phạm pháp luật; thế nào là vi phạm pháp luật; vi phạm ở mức độ
nặng, nhẹ; trách nhiệm liên đới của công chức lãnh đạo khi người dưới quyền
vi phạm v.v.. làm cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với Kiểm sát viên
VKSND.
Mặt khác, hiện nay việc quy định thành phần và quy chế hoạt động của
Hội đồng kỷ luật chưa cụ thể. Điều này dễ dẫn đến tình trạng các VKSND
thực hiện việc kỷ luật đối với Kiểm sát viên theo những cách khác nhau.
Trong khi Kiểm sát viên VKSND là một bộ phận hữu cơ của đội ngũ cán bộ,
công chức nhà nước, vì vậy xử lý kỷ luật Kiểm sát viên VKSND, cũng như
các vấn đề khác về chế độ pháp lý đối với họ cần phải được quy định và áp
dụng thống nhất trên cả nước.
Tiểu kết chương 3
87
Để xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống văn bản pháp luật về
Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam
hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND trước hết phải
dựa trên cơ sở lý luận khoa học và tổng kết thực tiễn; phân tích, đánh giá đầy
đủ những kết quả đạt được, mặt còn hạn chế, bất cập của thực trạng pháp luật
về Kiểm sát viên VKSND và lý giải rõ những nguyên nhân chủ yếu của thực
trạng đó. Đồng thời, quá trình hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND
cần quán triệt một số quan điểm cơ bản, đó là hoàn thiện pháp luật về Kiểm
sát viên VKSND phải bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng về công tác
cán bộ; hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu cầu xây
dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân; hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát
viên VKSND đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính nhà nước.
Mục tiêu hoàn thiện pháp luật về Kiểm sát viên VKSND đáp ứng yêu
cầu xây dựng NNPQ XHCN của dân, do dân, vì dân chỉ có thể đạt được khi
tiến hành thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản sau: Tổ chức công tác rà
soát, hệ thống hóa, tổng kết kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Kiểm sát viên VKSND; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nội dung văn bản quy
phạm pháp luật về Kiểm sát viên VKSND; nâng cao chất lượng, đổi mới quy
trình xây dựng và hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về Kiểm sát viên
VKSND trên cơ sở phát huy dân chủ ở cơ sở.
88
KẾT LUẬN
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu sâu, toàn diện và có hệ
thống pháp luật về Kiểm sát viên VKSND - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk trên cả
phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Các kết quả nghiên cứu của luận
văn sẽ là những bổ sung quan trọng vào hệ thống lý luận về Luật Hiến pháp
và Luật Hành chính, góp phần làm sáng tỏ những quan điểm của Đảng, Nhà
nước về chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2020; về đổi mới công tác cán bộ và cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, các kết quả nghiên cứu này còn góp phần nâng cao nhận
thức về vai trò, giá trị của pháp luật Kiểm sát viên VKSND trong đời sống
dân sự, đồng thời đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật Kiểm sát viên
VKSND nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần rất quan trọng vào việc đấu tranh,
phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, bảo vệ tính mạng, sức khỏe
nhân dân, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tác giả phân tích những vấn đề lý luận
của pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Qua đó, phân tích thực trạng của pháp
luật Kiểm sát viên VKSND trong khoảng thời gian từ 2012 đến 2016. Từ đó
đi sâu đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, phân tích nguyên nhân, điều
kiện của tình hình thực hiện pháp luật Kiểm sát viên VKSND trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, thông qua việc xác định, đánh giá những ảnh hưởng tiêu cực
của các yếu tố có liên quan đến pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Qua đó, đưa
ra phương hướng và đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật Kiểm
sát viên VKSND trong tương lai.
Trong phạm vi luận văn, tác giả chưa giải quyết hết được những vấn đề
liên quan đến pháp luật Kiểm sát viên VKSND. Quá trình thực hiện cũng có
89
sai sót nhất định. Do đó, rất mong nhận được sự đóng góp của Quý thầy cô,
anh, chị và các bạn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Cán sự đảng Chính phủ (2005), Tờ trình số 40-Ttr/BCS về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định
Hướng đến năm 2020, Hà Nội.
2. Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp (2006), Kế hoạch số 05-KH/CCTP về thực
hiện năm 2020 (giai đoạn 2006-2010), Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính
trị Về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và
Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Chính phủ (2010), Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày 25 tháng 01 năm
2010 của Chính phủ quy định những người là công chức
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Chỉ thị số 29- CT/TW ngày 8/11 của
Ban Bí thư trung ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các
cơ quan bảo vệ pháp luật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1 của
Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của
Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
90
9. Đảng, Đoàn Quốc hội (2005), Kế hoạch số 290-KH/ĐĐQH về việc thực
hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Hà Nội.
10. Đỗ Văn Đương (2006), "Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách
tư pháp ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
11. Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến năm 1992 (2004), Nxb Lao động xã
hội, Hà Nội.
12. Hiến pháp Việt Nam từ năm 2013 (2014), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Lê Lan Chi (2007), Phân biệt khái niệm “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự” với các khái niệm liền kề, Tạp chí Nghề Luật số 5/2007.
14. Lê Thị Tuyết Hoa (2002), Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Hà Nội.
15. Lê Hữu Thể (2000), "Bàn về khái niệm quyền công tố", Tạp chí kiểm sát, (8).
16. Lê Hữu Thể (chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
17. Lê Tài Triển (1970), Nhiệm vụ của Công tố viên, Nxb Sài Gòn.
18. Lê Văn Quang - Văn Đức Thanh (2006), Nhà nước pháp quyền XHCN và
các định chế xã hội ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Ngô Thành Can (2014), Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực
trong khu vực công, Nxb. Lao Động.
20. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền
cấp xã ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Nxb.
Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
21. Nguyễn Minh Tuấn (2012), Tiếp tục đổi mới đồng bộ công tác cán bộ thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật.
22. Nguyễn Thị Thu Hà (2015), “Tranh tụng trong tố tụng dân sự - một số vấn
đề lý luận cơ bản”, đăng trên trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ.
23. Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Về quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS
nhân dân, Tạp chí Luật học tháng 11/2009.
91
24. Phạm Hồng Hải (2006), "Đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống các cơ quan thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật.
25. Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),
26. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1981), Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
27. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật tổ chức
Quốc hội, Hà Nội.
28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1998), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức
Quốc hội, Hà Nội.
30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật tổ chức
Chính phủ, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.
32. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Luật tổ chức
Quốc hội, Hà Nội.
33. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Pháp lệnh
Kiểm sát viên năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),Hà Nội.
34. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ luật tố
tụng hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Bộ luật tố
tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
36. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Bộ luật dân
sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
37. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán bộ
công chức, Hà Nội.
92
38. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
39. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật tố
tụng dân sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
40. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật dân
sự, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
41. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện
nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình lý luận chung về nhà nước
và pháp luật, Nxb Bộ Tư pháp, Hà Nội.
44. Từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Đà Nẵng- Trung tâm từ điển học.
45. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, năm 2002, tr. 523
46. Từ điển luật học (2006), Nxb Từ điển Bách khoa- Nxb Tư pháp.
47. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm
sát nhân dân, Hà Nội.
48. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2006), Kế hoạch số 23/KH-VKSTC về
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 trong ngành Kiểm sát nhân dân giai đoạn
2006-2010, Hà Nội.
49. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2004), Quyết định số 29/2004/QĐ-TCCB
ngày 15 tháng 01 năm 2004 về việc ban hành quy chế làm việc của hội
đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát
viên Viện Kiểm
50. Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh (2012 - 2016), Báo cáo hoạt động công tác
kiểm sát từ năm 2012 đến 2016.
93
51. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk (2012 - 2016), Báo cáo công tác tổ
chức cán bộ từ năm 2012 đến năm 2016.
52.
53.
54.
55.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_ve_kiem_sat_vien_vien_kiem_sat_nhan_dan_t.pdf