Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia
đình và thực tiễn pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên
Quang, luận văn rút ra một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, bạo lực gia đình là vấn đề được cả xã hội quan tâm, đó là
hành vi cố ý của cá nhân, gây ra những hậu quả khổng nhỏ cho cả cá nhân,
gia đình và xã hội. Các hành vi bạo lực gia đình có nguồn gốc sâu xa từ sự
bất bình đẳng giới đã tồn tại lâu dài trong xã hội, dẫn tới suy giảm vị thế của
người phụ nữ, và hành vi bạo lực gia đình bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác
nhau. Nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các vấn đề trên đây sẽ là cơ sở quan trọng
để xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng,
chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
có liên quan tới vấn đề bạo lực gia đình, nhằm đảm bảo các điều kiện cần
thiết để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp phần ổn định
trật tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con người, quyền công dân đã
được Nhà nước ghi nhận. Hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình ở nước ta hiện nay được thể chế hóa từ những chủ trương, đường lối chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực gia đình nhằm
xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, tiến bộ, ấm no và hạnh phúc.
Thứ ba, từ thực trạng tình hình bạo lực gia đình và thực trang pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang, có thể thấy chính
quyền và nhân dân địa phương đã đạt được những thành tích đáng khích lệ,
triển khai có hiệu quả Luật phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản
pháp luật có liên quan vào thực tiễn địa phương, nạn bạo lực gia đình về cơ95
bản đã được đẩy lùi. Tuy nhiên, vẫn còn nổi lên nhiều bất cập trong pháp luật
về phòng, chống bạo lực gia đình như: nhiều quy định pháp luật điều chỉnh
hành vi bạo lực gia đình còn thiếu, tính khả thi chưa cao, một số trường hợp
chế tài xử lý còn thiếu tính răn đe, nhận thức của cộng đồng về vấn đề bạo lực
gia đình còn yếu, thiếu thốn về nguồn lực, kinh phí thực hiện. Những vấn đề
này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cả chính quyền trung ương và địa phương
phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, để hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung, cần phải
bám sát những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác phòng,
chống bạo lực gia đình gắn với những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội của
địa phương, đồng thời, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên các lĩnh
vực từ việc hoàn thiện quy định pháp luật đến bảo đảm thực hiện pháp luật về
phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả, tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo
của các cấp ủy Đảng và Chính quyền, nâng cao chất lượng cán bộ cho tới việc
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, thực hiện xã hội hóa công tác
phòng, chống bạo lực gia đình để góp phần đẩy lùi bạo lực gia đình, xây
dựng gia đình hạnh phúc- tế bào lành mạnh của xã hội. Để thực hiện tốt
những giải pháp trên, không chỉ cần có sự nỗ lực từ phía các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội mà còn cần có sự vào cuộc của mọi công dân và cả cộng
đồng để cùng chung tay xóa bỏ bạo lực gia đình, xây dựng một xã hội bình
đẳng và bác ái./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 104 trang
104 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình - Từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa công tác phối hợp chưa cao, đôi khi còn 
nặng về hình thức. Chương trình, nội dung phối hợp chưa có tính chiến lược, 
thiếu sự kết nối hiệu quả, chủ yếu còn theo những công việc, hoạt động nhỏ 
lẻ, sự vụ, từ đó dẫn tới hiệu quả của công tác tuyên truyền, vận động chưa 
cao. Bên cạnh đó, công tác phát hiện, thống kê báo cáo về bạo lực gia đình 
còn gặp rất nhiều khó khăn do việc thiếu thông tin từ cơ sở cũng như sự giấu 
diếm của chính đương sự nên việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phòng 
chống bạo lực gia đình chưa kịp thời, thiếu tính thời sự đối với các đối tượng 
vi phạm. 
72 
 Thứ tư, nhiều quy định của pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình 
chưa được thực thi nghiêm túc. Nguyên do một phần là do nạn nhân của bạo 
hành cam chịu, không muốn tố cáo, mặt khác, chế tài xử lý các hành vi liên 
quan đến bạo lực gia đình hiện nay còn quá nhẹ, không tương xứng với hậu 
quả gây ra và chưa đủ sức răn đe, cùng với đó là sự thiếu hiểu biết pháp luật 
và các quy chuẩn xã hội của cả vợ, chồng và các thành viên khác trong gia 
đình cùng với mặt bằng dân trí chung là chưa cao đã gây ra những hạn chế 
nhất định đối với các nạn nhân của hành vi bạo lực gia đình, họ không biết 
cách tự bảo vệ mình trước bạo hành, thụ động trông chờ hoặc cam chịu. 
Chính điều này đã gây ra những hậu quả nặng nề, kéo dài tình trạng bạo lực. 
 Thứ năm, đối với việc xử lý những hành vi vi phạm pháp luật phòng, 
chống bạo lực gia đình thì sự vào cuộc của cơ quan chức năng còn rất hạn 
chế. Theo số liệu tại “Báo cáo Sơ kết 8 năm thực hiện Kế hoạch hành động 
phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008- 2015”, trong tổng số 1.539 vụ 
bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, thì chỉ có 61 vụ (chiếm 3.9%) 
được xử lý, trong đó xử lý hình sự là 50 vụ và xử lý hành chính 11 vụ. Có thể 
nói, số vụ bạo lực gia đình được xử lý còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn, chưa thể 
hiện được sự vào cuộc kiên quyết của các cơ quan chức năng. Trên thực tế, 
trong khi rất cần áp dụng các quy định của pháp luật vào xử lý các trường hợp 
bạo hành thì cán bộ tư pháp thường chỉ tham gia khi người phụ nữ quyết định 
ly hôn. Việc tham gia của các đơn vị mang tính vụ việc, chưa có cơ chế để 
giao ban báo cáo và theo dõi diễn biến các trường hợp đã xử lý để có kế 
hoạch trợ giúp tiếp. Mặt khác, các can thiệp hỗ trợ nạn nhân của bạo lực 
thường chưa kịp thời và chưa đáp ứng được nhu cầu của họ ở thời điểm mà có 
nguy cơ xảy ra bạo lực có thể đe dọa đến cả tính mạng nạn nhân. Vì nhiều yếu 
tố khách quan và chủ quan, việc can thiệp của chính quyền địa phương 
thường được thực hiện sau khi đã xảy ra bạo lực. Trong nhiều trường hợp, khi 
73 
người phụ nữ bị bạo lực mong muốn chính quyền xử lý chồng họ theo pháp 
luật, nhưng các can thiệp tại địa phương còn dựa nhiều vào kinh nghiệm, các 
mối quan hệ tình cảm họ hàng, làng xóm mà chưa áp dụng đầy đủ những quy 
định của pháp luật do sự e ngại của cán bộ địa phương vào các mối quan hệ 
làng xã, cùng với đó là sự thiếu thống nhất về quy trình can thiệp, biện pháp 
can thiệp của chính các cán bộ địa phương dẫn tới việc xử lý hành vi bạo lực 
gia đình chưa nghiêm. Điều này đã dẫn tới hậu quả là sự xem thường pháp 
luật và xu hướng tiếp tục sử dụng bạo lực trong những lần tiếp theo. 
 Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế 
Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là một công cụ hết sức quan 
trọng không chỉ trong việc xử lý những hành vi bạo lực gia đình mà còn góp 
phần quan trọng trong việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của mỗi người 
dân, điều chỉnh hành vi của các cá nhân phù hợp quan hệ pháp luật về phòng, 
chống bạo lực gia đình. Có thể nói pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
đã tạo ra một hành lang pháp lý cơ bản, quyết định tới hiệu quả của công tác 
đấu tranh phòng, chống bạo lực gia đình nói chung trên phạm vi cả nước. 
Tuy nhiên, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình chỉ là khung pháp 
lý cơ bản, mặc dù đã liên tục được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nhưng khi áp 
dụng vào một địa phương cụ thể là tỉnh Tuyên Quang đã không thể tránh khỏi 
những hạn chế nhất định. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình chỉ có 
thể dự liệu và luật hóa để điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản nhất liên 
quan tới vấn đề bạo lực gia đình, nhưng các mối quan hệ xã hội thì luôn luôn 
có sự biến đổi muôn hình vạn trạng đòi hỏi quá trình thực hiện pháp luật phải 
có những sự cập nhật kịp thời, không chỉ bám sát những quy định chung của 
luật và các văn bản hướng dẫn luật mà đồng thời cần phải có sự vận dụng linh 
hoạt cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội nhất định 
74 
của từng địa phương. Sự bất tương đồng giữa những quy định chung của pháp 
luật với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng địa phuong trong từng 
giai đoạn nhất định là một nguyên nhân cơ bản dẫn tới những tồn tại, hạn chế 
nêu trên trong quá trình thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. 
Bên cạnh đó, nhân tố con người cũng luôn là một trong những nguyên 
nhân quan trọng của những hạn chế này. Trong quá trình thực hiện pháp luật 
về phòng, chống bạo lực gia đình, không thể tránh khỏi ý chí chủ quan của 
các chủ thể từ cách xem xét, nhận định, đánh giá tới việc áp dụng pháp luật 
giải quyết vấn đề liên quan tới bạo lực gia đình. Pháp luật là những quy định 
chung nhất, để vận dụng vào những quan hệ cụ thể cần phải thông qua các 
chủ thể là con người nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình 
thực hiện. Chính vì vậy, kết quả thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực 
gia đình trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang bên cạnh những thành tích đáng kể đã 
đạt được thì vẫn tồn tại những hạn chế nhất định có nguyên nhân từ yếu tố 
con người. 
2.2. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ 
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC 
GIA ĐÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
 2.2.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện pháp 
luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
 2.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình phải 
dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền 
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà Đảng, Nhà nước và nhân 
dân ta đang xây dựng là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 
Về bản chất, đó chính là Nhà nước luôn tôn trọng quyền con người, quyền 
75 
công dân trong đó có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh 
dự và nhân phẩm. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, xây dựng Nhà nước 
pháp quyền XHCN là sự bảo đảm có tính chất nền tảng cho việc thực hiện 
quyền bất khả xâm phạm đó bằng các cơ chế, các biện pháp kiểm soát, ngăn 
ngừa và trừng trị những hành vi gây tổn hại tới những quyền con người, 
quyền công dân đã được Nhà nước ghi nhận mà bạo lực gia đình chính là 
hành vi cần có sự điều chỉnh chặt chẽ. 
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 xác định tất cả mọi 
người sinh ra đều bình đẳng về nhân phẩm và quyền (Điều 23). Quyền con 
người có những giá trị cốt lõi là quyền được sống, được tham gia, được có 
công ăn việc làm, được bình đẳng, được đối xử công bằng và được bảo vệ 
trước những nguy cơ đe dọa đến cuộc sống bình thường của họ. Những tư 
tưởng cốt lõi này là cơ sở lý luận nhằm thay đổi nhận thức của các quốc gia 
trên thế giới. Phòng, chống bạo lực gia đình là vấn đề về quyền con người, vì 
vậy nó phải được tôn trọng và bảo vệ một cách tuyết đối theo các nguyên tắc: 
tôn trọng phẩm giá vốn có của con người; quyền sống còn; quyền bảo vệ; 
quyền phát triển, quyền tham gia, quyền tự chủ cá nhân; không phân biệt đối 
xử... Như vậy, mọi vấn đề về phòng, chống bạo lực gia đình cần được nhìn 
nhận dưới lăng kính của quyền con người. Không chỉ tiếp cận vấn đề phòng, 
chống bạo lực gia đình chỉ từ bên ngoài, chúng ta cần thiết có sự tiếp cận từ 
bên trong, từ chính các đối tượng bị bạo hành với những nhu cầu, mong 
muốn, nguyện vọng phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước ở từng 
thời điểm. Nhà nước và cộng đồng phải có trách nhiệm bảo đảm phòng, 
chống bạo lực gia đình và hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia 
đình ở Việt Nam hiện nay. 
 2.2.1.2. Thể chế hóa chủ trương đường lối chính sách của Đảng và 
Nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình phù hợp với tình hình cụ thể 
76 
của địa phương để xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, bình đẳng, tiến bộ 
và hạnh phúc 
 Đường lối của Đảng về xây dựng gia đình Việt Nam trong giai đoạn 
hiện nay được thể hiện cụ thể qua Chỉ thị số 49/CT- TW ngày 21/2/2005 của 
Ban Bí thư Trung ương về xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, trong đó nêu rõ:“gia đình là tế bào của xã hội, là nơi duy trì nòi 
giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân 
cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại 
các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiêp xây dựng và bảo vệ 
Tổ quốc” [1]. 
 Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt được những thành tựu quan trọng 
trong phát triển kinh tế, xã hội, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh 
thần cho mọi gia đình. Công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm đã 
giúp cho hàng triệu gia đình thoát nghèo và nâng cao mức sống, những giá trị 
nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em, vai trò của phụ nữ 
trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Tuy nhiên công tác gia đình 
hiện nay còn nhiều yếu kém và đang đối mặt với nhiều thách thức. Những giá 
trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của gia đình như hiếu nghĩa, thủy chung, kính 
trên nhường dưới đang có biểu hiện xuống cấp, nạn bạo hành trong gia đình 
có biểu hiện gia tăng đã để lại nhiều hậu quả xấu cho gia đình và xã hội. 
 Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình phải là những quy phạm 
chung nhất, định hướng cho hành động của các cấp chính quyền địa phương 
trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình theo đúng những đường lối 
chung mà Đảng và Nhà nước đề ra, đảm bảo sự thống nhất trong hành động 
từ Trung ương tới địa phương đồng thời phát huy những mặt tích cực của địa 
phương trong phòng, chống bạo lực gia đình, vì mục tiêu chung là xây dựng 
77 
gia đinh- tế bào của xã hội- ấm no, hạnh phúc, tạo tiền đề chắc chắn cho các 
cá nhân, các thành viên gia đình có cơ hội phát triển và cống hiến công sức 
của mình vì sự phát triển thịnh vượng của đất nước. 
 2.2.1.3. Phòng, chống bạo lực gia đình gắn với việc xây dựng gia 
đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 
 Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với hội nhập 
quốc tế và nền kinh tế thị trường đã tạo ra những cơ hội lớn cho phát triển 
kinh tế nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ cho đất nước ta nói 
chung và đối với tỉnh Tuyên Quang nói riêng. Mặt trái của cơ chế thị trường 
đã tạo ra những hệ lụy không nhỏ, tác động tới cuộc sống từng gia đình, là 
một trong những nguyên nhân làm gia tăng tình trạng bạo lực gia đình. Vì 
vậy, công tác triển khai phòng chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh cần 
phải được thực hiện một cách toàn diện trên các lĩnh vực với những giải pháp 
đồng bộ gắn với những mục tiêu xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa tại địa phương để đảm bảo đẩy lùi nạn bạo hành trong gia đình 
nhưng cũng tạo điều kiện tốt nhất để xây dựng và phát triển gia đình, để các 
cá nhân trong gia đình được đóng góp công sức vào quá trình phát triển chung 
của xã hội và cộng đồng, đồng thời ngăn chặn có hiệu quả bạo lực gia đình tái 
diễn trong tương lai. 
 2.2.1.4. Phát huy vai trò của cá nhân, tổ chức và cả cộng đồng trong 
phòng, chống bạo lực gia đình; chú trọng những biện pháp phòng ngừa 
bạo lực gia đình tại cộng đồng; phát hiện và có những giải pháp hỗ trợ kịp 
thời đối với nạn nhân bạo lực gia đình 
 Tính chất và mức độ của hành vi bạo lực gia đình đã ảnh hưởng nghiêm 
trọng tới thể chất, tinh thần của nạn nhân, vì vậy, việc phòng chống bạo lực 
gia đình phải được sự quan tâm và chung tay giải quyết không chỉ của các cấp 
78 
chính quyền mà còn của cả cộng đồng. Để những quan điểm chỉ đạo của 
Đảng về phòng, chống bạo lực gia đình đi vào cuộc sống, cần phải cụ thể hóa 
những quan điểm này thành quy định pháp luật, coi bạo lực gia đình là một 
vấn đề xã hội cấp bách cần giải quyết sớm, phải làm rõ công tác phòng chống 
bạo lực gia đình là trách nhiệm của toàn dân, toàn xã hội, phải nâng cao nhận 
thức cũng như tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân trong đấu tranh đẩy lùi 
nạn bạo hành trong gia đình. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến công tác tuyên 
truyền giáo dục về gia đình, làm tốt công tác tư vấn, hòa giải, đẩy mạnh xã 
hội hóa công tác phòng chống bạo lực gia đình, kết hợp đồng bộ các giải 
pháp, lấy phòng ngừa là chính, tránh để xảy ra bạo lực gia đình, trường hợp 
đã xảy ra bạo lực thì ưu tiên các biện pháp hỗ trợ kịp thời để bảo vệ an toàn 
về sức khỏe, tính mạng cho nạn nhân. 
 Phải bảo đảm quyền lợi ích hợp pháp của nạn nhân đồng thời tôn trọng 
quyền công dân của người vi phạm trong quá trình xử lý những hành vi vi 
phạm liên quan đến vấn đề bạo lực gia đình. Quyền con người, quyền công 
dân là những yếu tố trung tâm được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Việc giải 
quyết những vấn đề có liên quan đến bạo lực gia đình phải dựa trên những 
quy định của pháp luật trên nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm quyền, lợi ích hợp 
pháp của công dân trong đó có cả nạn nhân cũng như người thực hiện hành vi 
vi phạm. Nạn nhân luôn là người cần được bảo vệ và người vi phạm phải 
được xử lý nghiêm, tuy nhiên việc áp dụng pháp luật phải rõ ràng, đúng 
người, đúng tội nhưng cũng phải hài hòa vì mục đích của việc xử lý không chỉ 
là giáo dục răn đe người vi phạm mà còn thể hiện được tính khoan hồng của 
pháp luật, tạo điều kiện để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Do vậy, trong việc 
giải quyết các vụ việc có liên quan đến bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh 
Tuyên Quang luôn được các cơ quan pháp luật giải quyết hợp tình, hợp lý, tôn 
79 
trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, đồng thời tạo điều kiện để 
đương sự có thể hàn gắn, xây dựng lại gia đình bình đẳng, hạnh phúc 
 2.2.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực 
gia đình 
 Vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình đã được luật hóa với những 
quy định hết sức đầy đủ, chặt chẽ. Tuy nhiên, các quan hệ xã hội nói chung 
và quan hệ xã hội trong lĩnh vực gia đình luôn luôn có những sự vận động, 
phát triển đa dạng, phong phú. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải có 
những sự sửa đổi, bổ sung cũng như thay thế các quy phạm pháp luật phù 
hợp để kịp thời điều chỉnh những vấn đề có liên quan trong lĩnh vực phòng, 
chống bạo lực gia đình. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả đề xuất một số 
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, 
cụ thể như sau: 
2.2.2.1. Xác định rõ hành vi bạo lực gia đình 
Để công tác phòng, chống bạo lực gia đình đạt hiệu quả như mong đợi, 
trước hết cần xác định rõ khái niệm “bạo lực gia đình” đang được nói tới. Ở 
Việt Nam, quan niệm về bạo lực gia đình của người dân còn khá mơ hồ, và 
dường như chỉ có bạo lực về thể chất là được lưu ý tới. Khi trong tiềm thức 
của mỗi công dân đều cho rằng một cái tát, một câu chửi mắng nhau lúc nóng 
giận là bình thường, con hư thì bố mẹ phải đánh để giáo dục, hay việc đáp 
ứng nhu cầu tình dục của chồng là nghĩa vụ của người vợ thì những chuyện 
ấy đương nhiên sẽ không bị coi là bạo lực gia đình, là vi phạm pháp luật. Vì 
vậy, muốn định hướng hành vi thì trước tiên cần phải định hướng về nhận 
thức, phải quy định một cách rõ ràng và cụ thể những hành vi mà pháp luật 
quy định là bạo lực gia đình và cần phải phòng chống. 
80 
 Hiện nay, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Việt Nam chỉ đưa ra 
định nghĩa “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn 
hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành 
viên khác trong gia đình” (Khoản 2, Điều 1) và liệt kê các hành vi được coi là 
bạo lực gia đình tại Khoản 1, Điều 2. Quy định như vậy cũng có nghĩa là thừa 
nhận 3 nhóm hành vi bạo lực là: bạo lực về thể chất, bạo lực về tinh thần, bạo 
lực về kinh tế nhưng lại không đưa ra sự phân loại hành vi của từng nhóm. 
Ngoài ra, những hành vi được nêu cũng khá chung chung, trong khi trình độ 
nhận thức của đại đa số người dân còn hạn chế nên cần có sự hướng dẫn cụ 
thể và phải phân loại chi tiết và đầy đủ về hành vi bạo lực gia đình như: 
- Bạo lực thân thể: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, 
làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ. 
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép 
trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép 
sinh con. 
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương 
tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình. 
- Bạo lực về mặt xã hội: gồm việc cắt đứt các mối quan hệ giữa người 
phụ nữ với người thân trong gia đình và bạn bè. 
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh 
tế của thành viên gia đình (quyền tự do lao động, tự do kinh doanh, quyền sở 
hữu tài sản). 
Từ những quy định chi tiết, cụ thể như trên có thể dễ dàng tuyên truyền, 
giáo dục cho từng nhóm đối tượng cụ thể, tăng cường nhận thức về những 
hành vi bạo lực gia đình, nhận diện chính xác hành vi vi phạm để từ đó có 
những biện pháp phòng ngừa hiệu quả. 
81 
2.2.2.2. Xác định rõ đối tượng của bạo lực gia đình 
Bên cạnh việc chỉ ra các hành vi thì việc xác định rõ các đối tượng của 
bạo lực gia đình cũng rất quan trọng, từ đó mới có thể xây dựng các biện pháp 
phòng chống bạo lực gia đình thích hợp. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 
quy định: “Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn 
hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành 
viên khác trong gia đình” (Khoản 2, Điều 1) và bổ sung “Hành vi bạo lực quy 
định tại khoản 1 Điều này cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của 
vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với 
nhau như vợ chồng” (Khoản 2, Điều 2). Tuy nhiên, Luật lại không giải thích 
khái niệm "thành viên gia đình", nên gây khó hiểu trong quá trình áp dụng 
pháp luật. Hiện nay, đa số các trường hợp vẫn dựa vào khái niệm gia đình 
theo giải thích tại Điều 3, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Gia đình là 
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc 
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau 
theo quy định của Luật này” từ đó cho rằng: thành viên gia đình là những 
người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ 
nuôi dưỡng. Sự suy luận này tưởng như rất logic nhưng lại không hề có căn 
cứ, bởi Luật Hôn nhân và gia đình và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình là 
hai luật độc lập, có vị trí ngang bằng nhau trong hệ thống pháp luật, nên 
không thể tùy tiện áp dụng khái niệm của luật này để giải thích quy định của 
luật khác. Như vậy, hiện nay đối tượng điều chỉnh của Luật Phòng, chống bạo 
lực gia đình chưa được quy định một cách rõ ràng, có thể gây ra nhiều cách 
hiểu khác nhau, và do đó việc áp dụng các quy định này để bạo vệ nạn nhân 
trở nên khó khăn hơn. Xuất phát từ thực tiễn là nhận thức của người dân về 
bạo lực gia đình là chưa cao, để đảm bảo những quy định của pháp luật thực 
82 
sự đơn giản, dễ hiểu và dễ áp dụng, các cơ quan có thẩm quyền cần quy định 
cụ thể, rõ ràng về đối tượng điều chỉnh của Luật này. 
2.2.2.3. Quy định rõ hình thức phạt tiền đối với xử phạt vi phạm 
hành chính trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình 
Nghị định số 167/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt 
hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn 
xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình đã đưa ra 
những chế tài cần thiết đối với người thực hiện hành vi bạo lực gia đình, các 
mức phạt đối với các hành vi vi phạm đã được điều chỉnh hợp lý hơn, khắc 
phục những tồn tại của các quy định cũ. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định 
về hình thức phạt tiền của Nghị định này chưa thực sự hợp lý và không có 
tính khả thi, như: mức phạt tiền quá thấp trong một số trường hợp không đủ 
sức răn đe người vi phạm, hay phạt tiền là đánh thẳng vào kinh tế gia đình 
trong đó có cả nạn nhân cũng là người phải gánh chịu, hoặc với gia đình có 
điều kiện kinh tế họ sẵn sàng đóng phạt sau khi thực hiện hành vi bạo hành để 
sau đó tiếp tục tái diễn. 
Xuất phát từ những bất cập nêu trên, có thể bỏ chế tài phạt tiền người 
chồng hoặc vợ khi có hành vi bạo hành mà dùng hình thức chế tài khác như 
lao động công ích tại địa phương... Nếu phạt chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề 
tài chính mà chính nạn nhân lại là người gánh chịu, như vậy sẽ không đạt 
được mục đích của biện pháp chế tài hành chính này. Việc xử phạt lao động 
công ích tại địa phương cũng chạm được đến lòng tự trọng của họ, tạo nên 
tiếng nói dư luận, do đó họ sẽ cố gắng tránh bằng cách không thực hiện hành 
vi vi phạm, vì thế hiệu quả phòng, chống bạo lực gia đình sẽ cao hơn. Mặt 
khác, cũng cần phải thấy rằng biện pháp này còn khá mới ở Việt Nam, nên 
có thể quy định một cách mềm dẻo: chỉ áp dụng bắt buộc với người có 
83 
hành vi tái phạm; tính thời gian lao động công ích tương đương với số 
tiền phạt; tiến hành lao động công ích trong các cơ sở kinh tế nhất định. 
Tuy nhiên, nếu đã bị áp dụng hình thức xử phạt này thì không được cho 
phép thay thế bằng phạt tiền để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. 
2.2.2.4. Quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền 
khi dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của pháp 
luật đối với hành vi bạo lực gia đình 
Việc quy định trách nhiệm và biện pháp xử lý đối với các cơ quan có 
trách nhiệm trong phòng, chống bạo lực gia đình có ý nghĩa quan trọng, tăng 
cường năng lực thực thi pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Do đó, 
cần phải quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có thẩm 
quyền trong phòng, chống bạo lực gia đình, phải có quy định cụ thể về xử lý 
với những hành vi vi phạm từ phía cơ quan, tổ chức để tăng cường tính răn đe 
và tinh thần trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng, chống bạo lực gia 
đình. 
2.2.2.5. Tăng khung hình phạt xử lý hình sự đối với hành vi bạo lực 
gia đình 
Theo quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành, khung hình phạt hiện 
nay đối với một số tội liên quan đến những hành vi bạo lực trong gia đình 
như: đối với tội bức tử (Điều 100) cao nhất là bảy năm tù, còn các tội khác 
mức hình phạt cao nhất cũng chỉ tới ba năm tù là chưa nghiêm, chưa đủ để 
mang tính răn đe. Cần quy định mức hình phạt đối với các hành vi bạo lực gia 
đình cao hơn mới có tác dụng ngăn chặn tình trạng bạo lực gia đình hiện nay 
ở Việt Nam. Đối với các tội giết người (Điều 93), tội cố ý gây thương 
tích (Điều 104) thì không có sự khác biệt giữa người thực hiện hành vi là 
thành viên gia đình hay không phải thành viên gia đình. Do đó pháp luật hình 
84 
sự cần bổ sung thêm các tình tiết định khung như: "phạm tội đối với vợ, 
chồng, con cái" và "gây tổn hại sức khỏe cho các thành viên trong gia 
đình" vào các tội danh trên. Hành vi hành hạ, ngược đãi gây thương tích, tước 
đoạt tính mạng của người khác đều là những hành vi mang tính chất đặc biệt 
nguy hiểm vì nó vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng - 
một trong những quyền cơ bản của con người, ảnh hưởng xấu cho gia đình và 
xã hội, làm băng hoại các giá trị đạo đức. Những hành vi này nếu đặt trong 
quan hệ gia đình thì nó càng mang tính chất nguy hiểm nhiều hơn và cần phải 
có sự trừng trị nghiêm khắc hơn, bởi những thành viên trong gia đình là 
những người đã luôn yêu thương, chăm sóc nhau và gắn bó với nhau suốt 
cuộc đời. 
 2.2.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về phòng, chống 
bạo lực gia đình 
 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chính thức có hiệu lực từ ngày 
1/7/2008, đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên 
trong gia đình, nhất là người già, phụ nữ và trẻ em - đối tượng có khả năng bị 
bạo lực trong gia đình, đồng thời Nhà nước cũng ban hành nhiều văn bản 
pháp luật với chế tài xử lý nghiêm minh những hành vi bạo lực gia đình. Tuy 
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tình trạng bạo lực gia đình ở nước ta 
hiện nay vẫn là vấn đề nhức nhối, để Luật phòng, chống bạo lực gia đình thực 
sự có hiệu quả và đi vào cuộc sống, dựa trên đặc điểm tình hình địa phương 
và thực trạng việc thực hiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong 
thời gian qua, tác giả xin được đề ra các giải pháp nhằm góp phần bảo đảm 
việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay, 
đó là: 
85 
 2.2.3.1. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền 
địa phương và phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong công tác 
phòng, chống bạo lực gia đình 
 Qua thực tiễn thi hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở 
Tuyên Quang cho thấy, nơi nào các tổ chức Đảng và chính quyền có nhận 
thức đầy đủ và quan tâm lồng ghép vấn đề phòng chống bạo lực gia đình vào 
các chương trình kinh tế- xã hội của địa phương thì nơi đó vấn đề bạo lực gia 
đình sẽ được cải thiện đáng kể. Ngược lại, nếu cấp ủy Đảng và chính quyền 
buông lỏng sự quản lý, lãnh đạo trong vấn đề phòng chống bạo lực gia đình 
thì nơi đó bạo lực gia đình ngày càng nặng nề, vị thế, vai trò của người phụ 
nữ cũng bị giảm sút. Do đó, cùng với vai trò lãnh đạo trung tâm của các cấp 
ủy Đảng, các cấp chính quyền cần làm tốt chức năng và nhiệm vụ của mình 
trong việc quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình. Bên cạnh 
đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phát huy vai trò tích cực, chủ động 
của mình trong việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp 
luật phòng, chống bạo lực gia đình kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp 
pháp của nạn nhân bạo lực gia đình. Các cấp ủy Đảng và chính quyền địa 
phương cần chỉ đạo kịp thời, nhất quán, tăng cường hiệu quả phối kết hợp 
giữa các ban ngành, cơ quan, tổ chức trên địa bàn trong công tác phòng 
chống bạo lực gia đình, huy động những nguồn lực tại chỗ cũng như nguồn 
vốn xã hội hóa duy trì và nhân rộng hoạt động của các mô hình phòng 
chống bạo lực gia đình có hiệu quả, phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của 
cả hệ thống chính trị tại địa phương đối với công tác phòng, chống bạo 
lực gia đình, cụ thể: 
 Đối với các cấp ủy Đảng: thường xuyên kiểm tra, giám sát việc 
thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng ủy cơ sở về 
công tác phòng chống bạo lực gia đình. Hàng năm, các cấp ủy Đảng cần 
86 
thực hiện tốt việc nắm tình hình các vụ bạo lực gia đình, không để xảy ra 
những vụ việc nghiêm trọng, có sự chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt 
động của công tác hòa giải cơ sở, nhằm góp phần ngăn chặn, giải quyết 
tốt các mâu thuẫn, xung đột từ gia đình. 
Đối với Uỷ ban nhân dân các cấp: cần quan tâm tạo điều kiện và phối 
hợp để xây dựng các địa chỉ tin cậy hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình ở các địa 
bàn tổ dân phố (trạm y tế phường, nhà của cán bộ cơ sở có uy tín, nhà 
chùa); thông báo rộng rãi qua các cuộc họp tổ dân phố và các buổi sinh 
hoạt của các đoàn thể về địa chỉ tin cậy và công khai số điện thoại của Chủ 
tịch xã, công an phường, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ, Trưởng thôn, Tổ 
trưởng dân phố, Trưởng ban công tác mặt trận để mọi người biết và tố cáo 
hành vi bạo lực gia đình kịp thời. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân các cấp và các 
ngành chức năng cần kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn, răn đe khi có 
thông tin về bạo lực gia đình (nhất là Công an xã, phường, thị trấn). 
Đối với Mặt trận Tổ quốc: tổ chức tuyên truyền sâu rộng chính 
sách, pháp luật của đảng và nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình, 
hôn nhân và gia đình, về bình đẳng giới...; kiến nghị những biện pháp 
cần thiết với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tham gia giám sát việc 
thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia 
đình, bình đẳng giới 
Đối với Hội phụ nữ: cần đề cao vị trí, vai trò của các cấp Hội trong 
việc tuyên truyền pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình; tuyên 
truyền về tác hại, ảnh hưởng của bạo lực gia đình cho cán bộ phụ nữ tại 
các cấp Hội, nhất là chị em phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa... Hội phụ nữ 
phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức các khoá tập huấn nâng cao cho 
chị em phụ nữ các cấp về kỹ năng tư vấn, hoà giải và kỹ năng tự bảo vệ 
87 
mình và gia đình mình trong các tình huống xảy ra bạo lực gia đình đồng 
thời tổ chức các chương trình nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời 
sống cho các gia đình ở mỗi địa phương; xoá bỏ tệ nạn xã hội trong cộng 
đồng dân cư. 
Đối với Đoàn thanh niên: cùng phối hợp với cơ quan quản lý, cơ 
quan chức năng tổ chức tuyên truyền về chính sách, pháp luật về phòng, 
chống bạo lực gia đình trong thế hệ trẻ về kỹ năng tư vấn, xử lý và 
phòng ngừa bạo lực gia đình, tránh để xảy ra bạo lực gia đình nhất là bạo 
lực gia đình đối với phụ nữ trẻ khi mới xây dựng gia đình. 
2.2.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 
chuyên trách trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình 
Cần có những chiến lược dài hạn trong công tác đào tạo, bồi dưỡng 
những cán bộ thực thi pháp luật chuyên trách tại địa phương như: cán bộ 
tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ hòa giải cơ sở của Hội 
phụ nữ, Đoàn thanh niên kịp thời cập nhật nội dung những văn bản 
pháp luật mới nhất về công tác phòng chống bạo lực gia đình. Thường 
xuyên tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ lãnh đạo các cấp, tập huấn nâng 
cao năng lực quản lý cho cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở; tập 
huấn nâng cao kỹ năng tuyên truyền, vận động, kỹ năng tư vấn, kỹ năng 
thương thuyết, hoà giải, kỹ năng công tác xã hội với gia đình cho Ban chỉ đạo 
cấp xã, trưởng thôn, ấp, cán bộ tổ hoà giải cấp cơ sở, tổ trưởng, tổ phó Tổ 
nhân dân tự quản, cán bộ tác nghiệp tại Trung tâm tư vấn- dịch vụ Dân số kế 
hoạch hóa gia đình. 
Đối với những đồng bào dân tộc, ở vùng sâu vùng xa, do do những 
đặc thù về văn hóa, lối sống, điều kiện tự nhiên, địa lý... cần thiết phải 
có đội ngũ cán bộ chuyên trách là người địa phương, am hiểu truyền 
88 
thống văn hóa, ngôn ngữ của đồng bào để có thể thực hiện tốt công tác 
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng chống bạo lực gia 
đình đạt hiệu quả cao nhất. Để làm tốt những vấn đề này, các cấp chính 
quyền địa phương cần có những sự quan tâm, đầu tư thích đáng cả về 
nhân lực và vật lực, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, 
không chỉ hiểu biết pháp luật, am hiểu văn hóa địa phương mà còn có kỹ 
năng, kinh nghiệm trong xử lý những vụ việc có liên quan đến vấn đề 
bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, cần có chiến lược dài hạn đào tạo đội ngũ 
cán bộ kế cận, bổ sung kịp thời cho những địa bàn còn thiếu, từng bước 
thực hiện công tác chuẩn hóa cán bộ theo những tiêu chí chung gắn với 
hiệu quả công việc. 
2.2.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông 
tin về bình đẳng giới và bạo lực gia đình cho cộng đồng 
Để tổ chức thực hiện tốt pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình thì 
một trong những biện pháp có ý nghĩa quyết định là giáo dục và nâng cao ý 
thức pháp luật, năng lực thực hiện pháp luật về bình đẳng giới và phòng, 
chống bạo lực gia đình trong cộng đồng. Giáo dục pháp luật về bình đẳng giới 
và phòng, chống bạo lực gia đình sẽ giúp cho các chủ thể trong xã hội có kiến 
thức về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, có lòng tin vào sự nghiêm 
minh của pháp luật từ đó hình thành thói quen xử sự theo pháp luật, có ý thức 
pháp luật cao từ đó thực hiện những hành vi hợp pháp, phù hợp với những 
quy định mà pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đặt ra. Thực tiễn cho 
thấy, ở nước ta hiện nay, tình trạng vi phạm pháp luật trong đó có vi phạm 
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn khá phổ biến trong một bộ phận 
cán bộ, công chức cũng như trong các tầng lớp nhân dân. Một trong những 
nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do sự thiếu hiểu biết pháp luật hoặc hiểu 
không sâu sắc, không thấu đáo về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. 
89 
Có chủ thể hiểu biết pháp luật nhưng thiếu tình cảm, lòng tin vào pháp luật, 
không tôn trọng pháp luật, thiếu trách nhiệm đối với nhà nước và xã hội đồng 
thời các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xử lý các trường hợp vi phạm pháp 
luật không nghiêm, dẫn đến tâm lý coi thường và vi phạm pháp luật phòng 
chống bạo lực gia đình. Vì vậy, việc giáo dục pháp luật có vai trò và tác dụng 
rất lớn trong việc ngăn chặn việc hình thành vi phạm pháp luật phòng, chống 
bạo lực gia đình,để thực hiện tốt công này, cần tập trung vào một số nội dung 
cơ bản sau: 
- Đưa các nội dung tuyên truyền phòng chống bạo lực gia đình vào 
chương trình giảng dạy, học tập ở các cấp học, đồng thời cần nghiên cứu sớm 
để hình thành một số chuyên đề về phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, 
chống bạo lực gia đình để đưa vào giảng dạy cho các lớp bồi dưỡng, đào tạo tại 
các trường chính trị tỉnh, thành phố và các lớp bồi dưỡng chính trị tổ chức tại 
huyện, thị xã để đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở có kiến thức đầy 
đủ về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó làm tốt chức năng, nhiệm 
vụ, quyền hạn của mình trong việc phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, 
chống bạo lực gia đình nhất là bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Nội dung giáo 
dục pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình phải nhất quán, có hệ thống. 
- Tổ chức các buổi sinh hoạt tập thể trong cộng đồng với nhiều hình 
thức khác nhau có nội dung tuyên truyền về pháp luật phòng, chống bạo lực 
gia đình, đặc biệt có sự tham gia của nam giới nhằm tạo ra một phong trào, 
một môi trường mới làm thay đổi quan niệm của người dân địa phương về 
bạo lực gia đình, đảm bảo thực hiện 100% các gia đình được học tập nội dung 
cơ bản của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. 
- Tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích pháp luật phòng, 
chống bạo lực gia đình trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cần đảm bảo 
90 
về số lượng, chất lượng các chuyên mục được đăng tải để đáp ứng được yêu 
cầu của thực tiễn hiện nay. Xây dựng một chương trình giáo dục truyền thông 
mạnh mẽ, rộng khắp thông qua nhiều phương thức khác nhau: xã hội, nhà 
trường, y tế, đoàn thể quần chúng, các phương tiện thông tin đại chúng (vô 
tuyến, đài truyền thanh, báo chí, các tài liệu truyền thông, các hình thức 
truyền thông khác như: tờ rơi, áp phích, sách bỏ túi, tổ chức câu lạc bộ, văn 
nghệ quần chúng, hội thi...) nhằm phổ biến kiến thức, nâng cao hiểu biết của 
cộng đồng về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, huy động sự tham gia 
của cộng đồng trong việc ngăn chặn vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực 
gia đình đối với phụ nữ. 
- Trong từng thời kỳ, cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời 
những thiếu sót, nhược điểm trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục 
pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó đề ra những phương hướng và 
biện pháp phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương, tăng cường hiệu 
quả hoạt động. 
2.2.3.4. Nâng cao khả năng tự bảo vệ của phụ nữ trước bạo lực gia 
đình 
Cùng với việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho cộng đồng, việc 
tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin về bình đẳng 
giới và quyền của phụ nữ cho cộng đồng thì việc nâng cao khả năng tự bảo vệ 
của phụ nữ trước bạo lực gia đình là việc làm rất cần thiết, cấp bách và quan 
trọng bởi vì làm như vậy, chính là đã tạo điều kiện cho họ có sức mạnh để tự 
bảo vệ mình, giảm thiểu những rủi ro trước bạo lực, sự tự vệ này có ý nghĩa 
thiết thực hơn bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài để giúp họ tránh được 
những hậu quả đáng tiếc của nạn bạo hành gia đình. 
91 
Ngoài trách nhiệm của các cơ quan, đoàn thể ở địa phương trong việc 
đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kỹ năng tự vệ của người phụ nữ trước 
vấn đề bạo hành trong gia đình, hơn ai hết, chính người phụ nữ phải tự trang 
bị cho mình những kiến thức về bình đẳng giới, về bạo lực gia đình, về pháp 
luật phòng, chống bạo lực gia đình và quyền của con người cũng như quyền 
công dân để họ để biết cách chủ động bảo vệ mình trước sự tấn công của bạo 
lực gia đình. 
2.2.3.5. Thực hiện việc xã hội hóa công tác phòng, chống bạo lực 
gia đình gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội 
Xã hội hoá công tác phòng, chống bạo lực gia đình là vấn đề cấp 
thiết hiện nay. Mỗi cá nhân, mỗi cơ quan, tổ chức trong xã hội, cần xác 
định được trách nhiệm của mình đối với vấn đề vi phạm pháp luật phòng, 
chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình không còn là vấn đề riêng của mỗi 
gia đình mà nó đã trở thành vấn nạn quốc gia, cần sự chung tay của cả xã 
hội. Có như vậy, việc phòng, chống bạo lực gia đình mới đạt được hiệu quả 
thiết thực. Cần phải nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực hoạt động 
của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức xã hội 
trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Mỗi cá nhân phải thực hiện 
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, 
tôn trọng luật hôn nhân và gia đình, thực hiện bình đẳng giới để ngăn chặn 
những hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ quan, tổ chức, người 
có thẩm quyền kịp thời giải quyết. Mỗi gia đình cần thường xuyên giáo 
dục, nhắc nhở các thành viên thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về 
phòng, chống bạo lực gia đìnhvà phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ 
chức và cộng đồng dân cư trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Từng 
cơ quan, tổ chức trong xã hội cần nâng cao nhận thức và thấy được trách 
nhiệm của mình đối với vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình để định hướng 
92 
hành động. Cách thức hoạt động của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã 
hội phải được đặt trong một chỉnh thể thống nhất, với mục đích chung là tạo 
điều kiện để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, đóng góp tích cực vào 
sự phát triển của xã hội. Chính quyền các cấp cần có sự hoàn thiện về cách 
thức tổ chức, hoạt động phù hợp, kịp thời định hướngchỉ đạo, làm cơ sở cho 
việc phòng, chống bạo lực gia đình đạt được kết quả thiết thực. Đó chính là 
nội dung cơ bản của giải pháp hoàn thiện cơ chế xã hội hóa việc phòng, chống 
bạo lực gia đình, góp phần giảm thiểu những vi phạm pháp luật về phòng, 
chống bạo lực gia đình. 
 Cùng với đó, cần tiếp tục mở rộng những chương trình, dự án phát 
triển kinh tế xã hội, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần cải 
thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Bạo lực gia đình có một 
phần nguyên nhân từ sự đói nghèo, do vậy, những chính sách vĩ mô giúp 
người dân có được hướng đi đúng, phát triển tốt kinh tế gia đình chính là một 
trong những giải pháp có hiệu quả góp phần kiềm chế bạo lực gia đình. 
2.2.3.6. Quy định chế độ khen thưởng, khuyến khích người trực tiếp 
tham gia phòng, chống bạo lực gia đình 
Đây là giải pháp tích cực nhằm thúc đẩy tinh thần chủ động của cộng 
đồng trong việc góp sức mình vào cuộc đấu tranh loại bỏ vi phạm pháp luật 
trong đó có vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Bên cạnh việc 
xử lý kiên quyết, nghiêm minh những hành vi vi phạm thì việc khen thưởng 
kịp thời, đúng mức sẽ tạo động lực hành động cho mỗi công dân, thúc đẩy 
phong trào phòng, chống bạo lực gia đình tại địa bàn phát triển mạnh mẽ và 
điều này sẽ làm hoàn thiện hơn cơ chế xã hội hóa trong công tác phòng, 
chống bạo lực gia đình. Việc khen thưởng cần xét theo những tiêu chí cụ thể 
và có những hình thức khen thưởng phù hợp, có thể khen thưởng bằng vật 
93 
chất, tinh thần hoặc thông qua việc tuyên dương những gương điển hình tiên 
tiến trong công tác phòng chống bạo lực gia đình, có thể khen thưởng theo 
định kỳ hoặc đột xuất. Khen thưởng cũng đảm bảo yếu tố khách quan, đúng 
người, đúng việc, thể hiện sự quan tâm kịp thời, đúng mức của chính quyền, 
đoàn thể tới những cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác đấu tranh 
phòng, chống bạo lực gia đình, từ đó tạo hiệu ứng xã hội tốt nâng cao hiệu 
quả thực hiện pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. 
Tiểu kết chương 2 
Chương 2 đã tập trung phân tích thực trạng bạo lực gia đình cũng như 
thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 
ở tỉnh Tuyên Quang, chỉ ra những mặt tích cực cũng như những tồn tại, hạn 
chế cùng những nguyên nhân của thực trạng này trong quá trình trình triển 
khai thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình tại tỉnh Tuyên 
Quang. Đây chính là cơ sở để tác giả luận văn đề xuất quan điểm cũng như 
giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực thi pháp luật về phòng, chống 
bạo lực gia đình trên cả nước. 
94 
KẾT LUẬN 
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về pháp luật phòng, chống bạo lực gia 
đình và thực tiễn pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên 
Quang, luận văn rút ra một số kết luận sau đây: 
Thứ nhất, bạo lực gia đình là vấn đề được cả xã hội quan tâm, đó là 
hành vi cố ý của cá nhân, gây ra những hậu quả khổng nhỏ cho cả cá nhân, 
gia đình và xã hội.. Các hành vi bạo lực gia đình có nguồn gốc sâu xa từ sự 
bất bình đẳng giới đã tồn tại lâu dài trong xã hội, dẫn tới suy giảm vị thế của 
người phụ nữ, và hành vi bạo lực gia đình bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác 
nhau. Nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các vấn đề trên đây sẽ là cơ sở quan trọng 
để xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, 
chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. 
Thứ hai, pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình là hệ thống các 
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội 
có liên quan tới vấn đề bạo lực gia đình, nhằm đảm bảo các điều kiện cần 
thiết để xây dựng gia đình bình đẳng, hạnh phúc, văn minh, góp phần ổn định 
trật tự xã hội, thực hiện các mục tiêu về quyền con người, quyền công dân đã 
được Nhà nước ghi nhận. Hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia 
đình ở nước ta hiện nay được thể chế hóa từ những chủ trương, đường lối chỉ 
đạo của Đảng và Nhà nước về công tác phòng, chống bạo lực gia đình nhằm 
xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, tiến bộ, ấm no và hạnh phúc. 
Thứ ba, từ thực trạng tình hình bạo lực gia đình và thực trang pháp luật 
về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Tuyên Quang, có thể thấy chính 
quyền và nhân dân địa phương đã đạt được những thành tích đáng khích lệ, 
triển khai có hiệu quả Luật phòng, chống bạo lực gia đình và các văn bản 
pháp luật có liên quan vào thực tiễn địa phương, nạn bạo lực gia đình về cơ 
95 
bản đã được đẩy lùi. Tuy nhiên, vẫn còn nổi lên nhiều bất cập trong pháp luật 
về phòng, chống bạo lực gia đình như: nhiều quy định pháp luật điều chỉnh 
hành vi bạo lực gia đình còn thiếu, tính khả thi chưa cao, một số trường hợp 
chế tài xử lý còn thiếu tính răn đe, nhận thức của cộng đồng về vấn đề bạo lực 
gia đình còn yếu, thiếu thốn về nguồn lực, kinh phí thực hiện... Những vấn đề 
này đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cả chính quyền trung ương và địa phương 
phải có những sửa đổi, bổ sung kịp thời để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của 
pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở nước ta hiện nay. 
Thứ tư, để hoàn thiện pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trên địa 
bàn tỉnh Tuyên Quang nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung, cần phải 
bám sát những quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác phòng, 
chống bạo lực gia đình gắn với những điều kiện cụ thể về kinh tế, xã hội của 
địa phương, đồng thời, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trên các lĩnh 
vực từ việc hoàn thiện quy định pháp luật đến bảo đảm thực hiện pháp luật về 
phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả, tăng cường sự lãnh đạo chỉ đạo 
của các cấp ủy Đảng và Chính quyền, nâng cao chất lượng cán bộ cho tới việc 
đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật, thực hiện xã hội hóa công tác 
phòng, chống bạo lực gia đìnhđể góp phần đẩy lùi bạo lực gia đình, xây 
dựng gia đình hạnh phúc- tế bào lành mạnh của xã hội. Để thực hiện tốt 
những giải pháp trên, không chỉ cần có sự nỗ lực từ phía các cơ quan nhà 
nước, tổ chức xã hội mà còn cần có sự vào cuộc của mọi công dân và cả cộng 
đồng để cùng chung tay xóa bỏ bạo lực gia đình, xây dựng một xã hội bình 
đẳng và bác ái./. 
96 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban Bí thư Trung Ương (2005), Chỉ thị 49/CT- TW ngày 21/12/2005 
về việc xây dựng gia đình trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
2. Nguyễn Thị Ngọc Bích (2009), Trách nhiệm của các cơ quan nhà 
nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình, Tạp chí Luật học 10. 
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về 
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. 
4. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2008), Công văn số 3226A/B 
VHTTDL-GĐ ngày 12/9/2008 về việc thực hiện Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg 
của Thủ tướng Chính phủ. 
5. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định số 2879/QĐ- 
BVHTTDL ngày 27/6/2008 về triển khai mô hình can thiệp phòng chống bạo 
lực gia đình trên toàn quốc. 
6. Lê Lan Chi (2011), Bàn về ranh giới xử lý hình sự và xử lý hành 
chính các hành vi bạo lực gia đình, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật 11 
7. Chính Phủ (2009), Nghị định số 08/2009/NĐ-CP ngày 4/2/2009 quy 
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật phòng, chống bạo 
lực gia đình. 
8. Chính Phủ (2009), Nghị định số 110/2009/NĐ-CP ngày 10/12/2009 
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực 
gia đình. 
9. Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 
2020, tầm nhìn 2030 . 
97 
10. Chính Phủ (2013), Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định về xử 
phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống 
tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. 
11. Nguyễn Ngọc Điện (2006), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và 
gia đình, Nxb. Trẻ, Hồ Chí Minh. 
12. Trần Thị Hòe (2010), Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực 
gia đình đối với phụ nữ. Tạp chí Khoa học Chính trị (2). 
13. Ngô Thị Hường (2008), Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực 
trạng và nguyên nhân. ĐH Luật Hà Nội- Hội thảo khoa học chuyên đề 
"Phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ và trẻ em- pháp luật và thực 
tiễn". 
14. Phan Thi Lan Hương (2009), Tính hợp lý, khả thi của một số biện 
pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình. 
15. Ông Văn Năm (2013), Quyền lực tri thức trong tư tưởng chính trị 
của Alvin Toffler, Nxb. Chính trị Quốc gia (19), Hồ Chí Minh. 
16. Minh Nhất (2014), Phòng chống bạo lực gia đình- Một số vấn đề lý 
luận và thực tiễn, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp- Nghiên cứu trao đổi. 
17. Nguyễn Thị Kim Phụng (2009), Tổng quan về bạo lực và pháp luật 
phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em, Tạp chí Luật học (8). 
18. Quốc Hội (2000), Luật hôn nhân và gia đình. 
19. Quốc Hội (2001), Hiến pháp nước CHXNCN Việt Nam năm 1992 
sửa đổi bổ sung năm 2001 . 
20. Quốc Hội (2004), Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em. 
21. Quốc Hội (2006), Luật Bình đẳng giới. 
98 
22. Quốc Hội (2007), Luật phòng, chống bạo lực gia đình. 
23. Quốc Hội (2010), Nghị quyết của Quốc Hội khóa XI về chiến lược 
phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2010- 2015. 
24. Quôc Hội (2012), Luật xử lý vi phạm hành chính. 
25. Quốc Hội (2013), Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013. 
26. Quốc Hội (2014), Luật hôn nhân và gia đình. 
27. Quốc Hội (2009), Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung. 
28. Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (2014), Từ bạo lực gia đình đến bạo 
lực giới tại Việt Nam, Tài liệu thảo luận của Liên hợp quốc. 
29. Lê Thị Quý, Đặng Vũ Cảnh Linh (2007), Bạo lực gia đình - một sự 
sai lệch giá trị, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
30. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang (2014), Báo cáo 
tổng kết phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. 
31. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Tuyên Quang (2014), Cổng 
thông tin điện tử. 
32. Sở VH TT và DL Tuyên Quang (2016), Báo cáo sơ kết 8 năm thực 
hiện kế hoạch phòng chống bạo lực gia đình giai đoạn 2008- 2015, Tuyên 
Quang. 
33. Hợp Sơn (2014), 5 năm thực hiện Luật phòng, chống bạo lực gia 
đình: nhiều hoạt động thiết thực và hiệu quả, Báo Tuyên Quang. 
34. Nguyễn Đình Thơ (2011), Tìm hiểu và thực hiện luật phòng chống 
bạo lực gia đình, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 
99 
35. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 30 
tháng 5 năm 2008 về việc triển khai thi hành Luật phòng, chống bạo lực gia 
đình. 
36. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chỉ thị số 16/2008/CT-TTg ngày 
30/5/2008 về việc tổ chức triển khai thi hành Luật Phòng, chống bạo lực gia 
đình. 
37. Thủ Tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 215/QĐ-TTg ngày 
06/02/2014 phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về phòng, chống bạo 
lực gia đình đến năm 2020. 
38. Bùi Đức Tịnh (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, 
Hà Nội. 
39. Tòa án Nhân dân tỉnh Tuyên Quang (2015), Báo cáo số liệu xét xử. 
40. Trung tâm nghiên cứu và ứng dụng khoa học về giới (2014), Hội 
thảo "Tiếp cận công lý cho người bị bạo lực giới- khoảng trống trong chính 
sách và thực thi", Hà Nội. 
41. Tuyên Quang (2016), Cổng thông tin điện tử Tỉnh Tuyên Quang 
( 
42. UBND tỉnh Tuyên Quang (2008), Kế hoạch số 36/KH-UBND ngày 
18-12-2008 về việc triển khai thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. 
43. UBND tỉnh Tuyên Quang (2011), Kế hoạch số 45/KH-UBND về 
thực hiện đề án: Tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam 
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giai đoạn 2010-2015 tỉnh 
Tuyên Quang. 
100 
44. UBND tỉnh Tuyên Quang (2013), Kế hoạch số 45/KH-UBND về 
thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và xây dựng gia đình thời 
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020. 
45. Viện Nghiên cứu Quyền con người (2008), Phòng chống bạo lực 
gia đình đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ 
Chí Minh. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh_tu_thuc_t.pdf luan_van_phap_luat_ve_phong_chong_bao_luc_gia_dinh_tu_thuc_t.pdf