Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân
biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát
triển. Tham nhũng là hệ quả của quyền lực bị lạm dụng, bị tha hóa. Tham
nhũng nảy sinh, tồn tại và hoành hành do sự hư hỏng, biến chất không chỉ của
những người có chức quyền mà còn của cả những người được giao thực hiện
những công vụ bình thường đã làm biến dạng quyền hạn và công vụ được
giao phó. Nói cách khác, quyền hạn hay công vụ trao cho họ đáng lý ra phải
được thực hiện vì lợi ích chung của cả xã hội thì lại bị lạm dụng vào mục đích
trục lợi cho riêng cá nhân.
Tham nhũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, văn
hóa – xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, là một
nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Chính vì thế, PCTN là nhiệm
vụ của mọi quốc gia, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân.
Trong những năm gần đây, tình trạng tham nhũng ngày càng có nhiều
biểu hiện phức tạp. Lòng tin của nhân dân vào sự liêm khiết của cán bộ, công
chức nhà nước giảm sút. Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, công tác chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Gia
Lai đã đạt được một số kết quả tích cực, một số vụ việc đã được đưa ra truy tố
và xét xử. Nhân dân đã có ý thức tham gia cung cấp thông tin chống tham
nhũng, các cơ quan PCTN chuyên trách đã được thành lập, các hoạt động
CTN ngày càng được coi trọng.
Tuy nhiên, so với mục tiêu “ngăn chặn” và “từng bước đẩy lùi tham
nhũng”thì Gia Lai còn phải tiếp tục quyết tâm và quyết liệt hơn nữa trong
đấu tranh PCTN. Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCTN ở Gia
Lai trong những năm tới cần tăng cường các hoạt động PCTN theo hướng:111
đẩy mạnh cải cách hành chính nhất là TTHC theo hướng công khai, minh
bạch, dễ tiếp cận để giảm thiểu cơ hội tham nhũng; nâng cao vai trò lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức đảng trong thực hiện công tác PCTN; tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân và các tổ chức xã hội tham gia PCTN; chú trọng nội
dung phòng, chống tham nhũng trong công tác quản lý công chức nhà nước;
củng cố, kiện toàn các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng; nâng
cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng; ban
hành và thực hiện tốt cơ chế, chính sách quản lý nhà nước trên các lĩnh vực có
nhiều cơ hội tham nhũng; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư pháp,
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân
cử trong PCTN.
124 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về phòng, chống tham nhũng – Từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp lý
89
theo hướng: yêu cầu Tòa án cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định về quyền
sở hữu hợp pháp đối với tài sản, thu nhập để có cơ sở xử lý theo quy định của
pháp luật.
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với tỉnh Gia Lai
3.2.2.1. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
phòng, chống tham nhũng
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về PCTN của cơ quan nhà
nước ở Trung ương, HĐND và UBND tỉnh Gia Lai tiếp tục ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để tạo ra hành lang pháp lý cho các
cơ quan, tổ chức, đơn vị, CBCCVC và công dân tổ chức thực hiện và phù hợp
với thực tiễn địa phương.
HĐND tỉnh cần thiết phải ban hành Nghị quyết chuyên đề về công tác
PCTN phù hợp với đặc điểm tình hình của tỉnh Gia Lai. Nội dung Nghị quyết
cần xác định mục tiêu, đưa ra các nhiệm vụ, giải pháp phù hợp, có tính khả
thi, đủ mạnh để phòng ngừa, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng.
Xây dựng và thực hiện Chương trình giám sát công tác PCTN hàng năm.
Triển khai thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh về PCTN, UBND tỉnh
xây dựng Kế hoạch PCTN giai đoạn 2017-2020 tầm nhìn đến 2025. Tiếp tục
hoàn thiện các quy định về phòng ngừa tham nhũng, phát hiện và xử lý tham
nhũng.
Thứ nhất, chú trọng xây dựng, ban hành các quy định phòng ngừa tham
nhũng. Các cơ quan chuyên môn tỉnh phải thường xuyên nghiên cứu, rà soát,
tham mưu UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung, ban hành mới hoặc kiến nghị HĐND
tỉnh ban hành các văn bản quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong
quản lý, sử dụng kinh phí nhà nước, tài sản công theo quy định hiện hành.
Đặc biệt chú trọng một số lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng như quản lý đất đai;
đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng tài sản công
90
Ngoài ra, UBND tỉnh cần phải ban hành các quy định về trách nhiệm kê
khai và giải trình về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức; xây
dựng quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công vụ; công khai trên
các lĩnh vực quản lý của nhà nước; cụ thể hóa các quy định của pháp luật về
tặng quà, nhận quà, nộp lại quà tặng
Thứ hai,hoàn thiện các quy định về công tác kiểm tra hành chính, thanh
tra hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các biện pháp để thực hiện các
chế tài xử lý các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
3.2.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về
phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, củng cố tổ chức bộ máy phòng, chống tham nhũng.
Tiếp tục duy trì hệ thống các cơ quan PCTN theo mô hình đa cơ quan.
Tuy nhiên, cần quy định rõ cơ quan chuyên trách, chủ trì hoặc đầu mối trong
việc thực hiện các biện pháp phòng, chống tham nhũng và xử lý các vụ việc
tham nhũng đã được phát hiện; quy định một số nguyên tắc trong tổ chức,
hoạt động nhằm đảm bảo tính chủ động trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ
theo thẩm quyền.
Quy định chức năng làm đầu mối quốc gia trong hợp tác quốc tế về thu
hồi tài sản tham nhũng cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao theo yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về Chống tham
nhũng.
Một là, nâng cao vị trí, vai trò của các cơ quan PCTN ở tỉnh.
Tiếp tục củng cố kiện toàn bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
tham mưu cho các cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị chức năng PCTN.
Hiện nay, ở Trung ương có Ban Chỉ đạo PCTN do đồng chí Tổng Bí thư làm
Trưởng ban; ở địa phương có Ban Nội chính Tỉnh ủy, Thành ủy là cơ quan tham
mưu cho Ban Thường trực về công tác PCTN. Trong chỉ đạo, điều hành còn có
91
những bất cập, hiệu quả chưa cao nên cần nghiên cứu thành lập Ban Chỉ đạo cấp
tỉnh về PCTN do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm Trưởng ban; Ban Nội chính Tỉnh
ủy, Thành ủy là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo. Điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy theo hướng cụ thể hơn về thẩm
quyền, trách nhiệm trong công tác PCTN, nhất là trong phát hiện, xử lý vụ việc,
vụ án tham nhũng. Xây dựng mô hình cơ quan, đơn vị chuyên trách chống tham
nhũng theo hướng tăng thẩm quyền, trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ.
Trước mắt, đổi mới phương thức hoạt động, củng cố, bổ sung, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, tăng cường phương tiện làm việc của các cơ quan,
đơn vị chuyên trách chống tham nhũng.
Có chế độ đãi ngộ phù hợp với cán bộ, công chức trong các đơn vị chuyên
trách chống tham nhũng. Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Ủy ban
Kiểm tra với Thanh tra nhà nước tỉnh trong PCTN.
Củng cố và kiện toàn Ban Chỉ đạo PCTN để cơ quan này là tâm điểm
trong triển khai thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng và là địa điểm tin
cậy nhận, xử lý thông tin, bảo vệ người cung cấp thông tin về hành vi tham
nhũng. Cần trao quyền đủ lớn cho Ban Chỉ đạo đồng thời hỗ trợ Ban chỉ đạo
bằng cách nâng cao trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong xử lý các vụ
việc, hành vi tham nhũng.
Hai là, xây dựng các quy chế phối hợp các cơ quan, tổ chức trong
PCTN.
- Xây dựng và triển khai thực hiện tốt quy chế phối hợp các cơ quan, tổ
chức trong PCTN. Quy chế phải quy định rõ: đối tượng và phạm vi phối hợp,
nguyên tắc phối hợp, nội dung phối hợp, trách nhiệm phối hợp, phương pháp
phối hợp, trách nhiệm thi hành, giải quyết các vấn đề phát sinh do cấp có
thẩm quyền giao, tổ chức thực hiện và hiệu lực thi hành.
92
Việc phối hợp cũng sẽ tập trung vào việc: tổ chức việc theo dõi, nắm
tình hình và tham mưu xử lý các tình huống chính trị trên địa bàn tỉnh. Phối
hợp tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện pháp luật về phòng chống
tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; yêu cầu các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng,
lãng phí; xác minh việc tham nhũng, lãng phí. Phối hợp tiếp công dân và xử
lý đơn thư tố cáo, khiếu nại của công dân theo thẩm quyền; phối hợp giám sát
và đôn đốc việc thực hiện kết luật của các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện pháp luật về phòng
ngừa tham nhũng.
Một là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền pháp luật, nâng cao nhận
thức cho cán bộ và nhân dân về PCTN; xây dựng văn hóa phi tham nhũng
trong xã hội.
Các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền các cấp trong toàn tỉnh tổ chức
tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân về việc tham
gia phát hiện và tố giác tham nhũng gắn liền với việc biểu dương, vinh danh
và khen thưởng thích đáng, kịp thời những người tố giác, phát hiện; xây dựng
tiêu chí về xây dựng văn hóa về PCTN trong cán bộ, đảng viên.
Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh tổ chức thực hiện có
hiệu quả Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật
về PCTN, Công ước của Liên hợp quốc về PCTN trong cán bộ, công chức,
viên chức và nhân dân gắn với việc học tập và làm theo tư ưởng, đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh.
Các cơ quan thông tin đại chúng (Báo Gia Lai, Đài phát thanh và
Truyền hình Gia Lai) nâng cao chất lượng và thời lượng các chuyên trang,
chuyên mục về PCTN, thường xuyên đăng tải, giới thiệu các bài viết, chuyên
đề, chính sách pháp luật về PCTN; đưa tin, phản ánh các vụ việc tham nhũng
93
và hoạt động PCTN. Việc đăng các tin, bài phải định hướng đúng đắn dư luận
xã hội để thấy rõ những kết quả tích cực của công tác đấu tranh PCTN, cũng
như những hạn chế yếu kém, những khó khăn, phức tạp; khẳng định rõ quyết
tâm của cấp ủy đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị trong việc ngăn
chặn, đẩy lùi tham nhũng. Tuyệt đối không được thông tin một chiều, thông
tin không chính xác, mang tính kích động, gây hoang mang hoặc suy diễn,
quy kết tội danh, mức án trước khi xét xử. Bảo vệ, khen thưởng, động viên
những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; xử lý
nghiêm khắc việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt, gây hậu quả xấu.
Hai là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, phẩm chất
đạo đức tốt.
Thực tế cho thấy, nhiều nước coi việc giáo dục đạo đức cho công chức
và xây dựng đội ngũ công chức trong sạch, liêm khiết là biện pháp quan trọng
đầu tiên để hạn chế tham nhũng, làm cho công chức tự nhận thức rằng "không
nên tham nhũng". Một số nước ban hành luật về đạo đức của công chức
(Thụy Điển, Đức, Hàn Quốc, Ma-lai-xi-a,...). Trung Quốc đã ban hành các
văn bản quy định về giáo dục đạo đức và xây dựng tác phong liêm chính
trong cán bộ của Đảng và Nhà nước. Chính phủ Singapor giáo dục đạo đức
"tự răn mình" cho công chức.
Cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay nói chung và ở Gia Lai nói riêng
còn thiếu tính chuyên nghiệp, có biểu hiện“suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống” là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến hiện tượng “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ làm cho tình trạng tham nhũng gia tăng, khó
kiểm soát. Do vậy, để phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả cần phải triển khai
thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Tiếp tục triển khai thực hiện tốt Quyết định số 137/2009/Q Đ-TTg
ngày 02/12/2009 và Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 12/6/2013 của Thủ tưởng
94
Chính phủ về việc đưa nội dung PCTN và chương trình đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức; tăng cường giáo chính trị tư tưởng, đạo đức lối
sống, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức trong phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng.
- Cần xây dựng hệ thống chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, đạo đức
công vụ bởi vì sự tha hóa về đạo đức của cán bộ, công chức là một trong những
nguyên nhân lớn gây ra nạn tham nhũng. Vì thế nâng cao đạo đức, xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức phẩm chất tốt là giải pháp phòng ngừa tham nhũng hiệu
quả. Trước hết cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai việc xây dựng Quy tắc ứng xử,
văn hóa công sở của CBCCVC làm việc trong các cơ quan, tổ chức đơn vị ở
Gia Lai trên một số mặt như: Quy định rõ ràng và cụ thể những điều cán bộ,
công chức không được làm nhằm đảm bảo đạo đức công chức và uy tín của
cơ quan nhà nước; quy định rõ các mối quan hệ của cán bộ, công chức với các
tổ chức, cá nhân là đối tượng quản lý; quy định về bảo mật thông tin nhà
nước, về việc làm của cán bộ, công chức và người có chức vụ hay nắm được
thông tin liên quan đến công việc làm sau khi ra khỏi cơ quan nhà nước
Ba là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, công
khai, minh bạchtrong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; trên các lĩnh
vực quản lý nhà nước, nhất là trong các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng.Sự
khó tiếp cận các dịch vụ công là một trong những nguyên nhân gây ra tham
nhũng. Chính vì thế, biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất nạn tham nhũng là
cải cách TTHC, làm sao cho người dân và các tổ chức có thể tiếp cận các dịch
vụ công một cách dễ dàng, công khai và minh bạch.
- Thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các TTHC theo
hướng đơn giản, dễ thực hiện, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước chặt chẽ trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hướng tới đảm bảo cung cấp dịch vụ
công mức độ 3 và mức độ 4.
95
- Công khai các yêu cầu về hồ sơ, thủ tục, quy trình tại các điểm tiếp
xúc và làm việc với dân để người đến giao dịch có thể hiểu rõ quyền và nghĩa
vụ của mỗi bên trong quan hệ thực hiện TTHC.
- Áp dụng tiêu chuẩn ISO vào quản lý công việc của cán bộ, công chức
để tạo dựng môi trường làm việc khoa học và tạo sức ép buộc cán bộ, công
chức phải hoàn thành đúng thời gian công việc của mình, tránh hiện tượng
kéo dài thời gian hoàn thành thủ tục để gây khó dễ cho người dân nhằm tạo cơ
hội đòi hối lộ.
Bốn là, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Phải có quyết tâm chính trị, sự gương mẫu và quyết liệt của người đứng
đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị. Quyết tâm chính trị là yếu tố hàng đầu quyết
định sự thành công đối với công tác PCTN. Thực tiễn cho thấy ở đâu người
đứng đầu kiên quyết, đấu tranh không khoan nhượng với tham nhũng, lãng
phí thì ở đó tình trạng tham nhũng, lãng phí rất ít xảy ra và khi có biểu hiện
tiêu cực, tham nhũng sẽ sớm được phát hiện, xử lý kịp thời. Ngược lại, ở nơi
nào người đứng đầu có biểu hiện buông lỏng, bao che hành vi tham nhũng,
tiêu cực thì ở đó tham nhũng, lãng phí sẽ diễn ra nghiêm trọng, phức tạp.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự thành công của công tác PCTN của mỗi
quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào quyết tâm chính trị, trước hết của của người
đứng đầu đất nước.
Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương phải xem
công tác PCTN là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên; phải thật sự gương mẫu
về đạo đức, lối sống; không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng.
Năm là, thực hiện tốt nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.
96
Thực tế cho thấy những nơi nào tính công khai, minh bạch kém thì dễ
phát sinh tham nhũng. Nói cách khác, sự thiếu công khai, minh bạch là một
trong những nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Vì vậy, công khai, minh bạch
là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất, là kinh nghiệm hết sức quý
báu trong phòng ngừa và ngăn chặn tham nhũng.
Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước vừa là một
đòi hỏi khách quan của quá trình thực thi quyền lực nhà nước, vừa là cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động của nhà nước là hoạt động mang
tính quyền lực. Nội dung, phạm vi, giới hạn của hoạt động đó được pháp luật
quy định. Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước chính là
bảo đảm cho các hoạt động của nhà nước nằm trong khuôn khổ pháp luật.
Đây là đòi hỏi tất yếu của bất kỳ cơ quan nhà nước nào, tuy nhiên trên thực tế
không đồng nghĩa với công khai hoá tất cả các hoạt động của các cơ quan nhà
nước, mặc dù công khai, minh bạch là biểu hiện rõ nét nhất của qúa trình dân
chủ. Bởi vậy, cần tính toán những nội dung cần công khai, minh bạch. Những
lĩnh vực, nội dung cần công khai tới người dân đó là: Công khai chi tiết thu
chi ngân sách; công khai trong mua sắm tài sản công; công khai trong lĩnh
vực xây dựng; công khai việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức;
công khai quá trình tiếp nhận, bổ nhiệm cán bộ cũng như việc cấp các bằng
cấp bởi đây là những lĩnh vực có khả năng dễ nảy sinh tiêu cực và tham
nhũng.
Sáu là, thực hiện nghiêm quy định về kê khai, minh bạch tài sản, thu
nhập của cán bộ, công chức, viên chức hàng năm.
Việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức trong
những năm qua đã dần đi vào nền nếp, trở thành hoạt động thường xuyên của
các cơ quan, đơn vị, nhất là từ khi có Nghị định 78/2013/NĐ-CP về minh
bạch tài sản, thu nhập. Toàn tỉnh Gia Lai có 10.345 người phải kê khai tài sản
97
thu nhập, đã kê khai 10.320 người, chỉ có 25 người không kê khai do nghỉ
việc, nghỉ sinh, ốm đau lâu dài. Đến nay chưa có trường hợp nào phải xác
minh tài sản. Số liệu đó dường như cho thấy chúng ta đang thực hiện một biện
pháp rất hình thức. Do vậy, trong thời gian tới, các cơ quan chức năng cần
tăng cường tổ chức thực hiện việc xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập.
Thông tin về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức phải
được công khai trong cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi mình đang công tác. Tuy
nhiên, hầu hết các cơ quan, tổ chức, đơn vị đều chọn hình thức công khai tài
sản tại cuộc họp, chứ chưa công khai rộng rãi toàn thể cơ quan, nên việc công
khai cũng mang tính hình thức, ít người quan tâm tìm hiểu.
Để việc kê khai, minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức
không còn mang tính hình thức, cần chú trọng thực hiện các biệp pháp sau:
- Các bản kê khai tài sản phải được niêm yết công khai tại cơ quan, tổ
chức, đơn vị và tại nơi cư trú của người có trách nhiệm kê khai. Biện pháp
này nhằm tạo ra áp lực cho cán bộ, công chức kê khai tài sản trung thực,
chính xác, vì sẽ có nhiều "con mắt" hơn xác minh tính minh bạch của bản kê
khai.
- Cần xây dựng Đề án cơ sở dữ liệu minh bạch, tài sản thu nhập của cán
bộ công chức trong toàn tỉnh. Đề án sẽ hướng tới tổ chức quản lý, tập trung
thông tin kê khai tài sản, thu nhập một cách đồng bộ, hiệu quả và sẽ kê khai
hàng năm. Việc lưu trữ, xử lý, khai thác thông tin về tài sản, thu nhập với sự
hỗ trợ của công nghệ thông tin, kết nối với các cơ sở dữ liệu về kiểm soát tài
sản, thu nhập khác như đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch, thuế thu nhập,
thông tin từ nơi cư trú... nhằm tăng cường tính trung thực, minh bạch của việc
kê khai tài sản, thu nhập.
Đề án này hoàn thành và đi vào triển khai sẽ giúp việc kê khai tài sản,
thu nhập chính xác hơn, việc xác minh chủ động hơn và tạo điều kiện tốt cho
98
việc công khai tài sản thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức được thuận
lợi hơn.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện pháp luật về phát hiện
tham nhũng.
Có phát hiện kịp thời hành vi vi phạm pháp luật về tham nhũng thì mới
có thể xử lý, ngăn chặn, hạn chế được hậu quả của nó. Tuy nhiên, tỉ lệ các vụ
việc tham nhũng và số người bị phát hiện có hành vi tham nhũng chiếm tỉ lệ
rất nhỏ so với thực tế, chỉ là “phần nổi của tảng băng”.
Để nâng cao hiệu quả phát hiện tham nhũng cần tiến hành đồng bộ các
giải pháp sau:
Một là,tăng cường kiểm tra, giám sát và thanh tra nhằm phát hiện và xử
lý tham nhũng.
- Tăng cường công tác kiểm tra hành chính
Để chống tham nhũng có hiệu quả, trước hết các cơ quan, tổ chức, đơn
vị phải thường xuyên tiến hành kiểm tra hành chính ngay trong chính cơ
quan, tổ chức, đơn vị của mình. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác tự kiểm tra
hành chính ở Gia Lai thời gian qua hiệu quả rất thấp, chưa phát hiện vụ việc
tham nhũngnào qua công tác kiểm tra hành chính nên tác dụng chống tham
nhũng chưa cao.
Để tăng cường hiệu quả tác động của kiểm tra hành chính trong PCTN,
Gia Lai cần thực hiện các giải pháp như: Lựa chọn người có kỹ năng, bản lĩnh
và điều kiện thực hiện chức năng kiểm tra hành chính nhà nước. Đi đôi với
các chính sách đó cũng quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của người làm
nhiệm vụ kiểm tra, nghiêm khắc xử lý cán bộ vi phạm nguyên tắc trung thực,
khách quan, kịp thời trong kiểm tra.Trao quyền đủ lớn cho cán bộ kiểm tra để
họ có thể đình chỉ thi hành văn bản của bên bị kiểm tra cho đến khi cơ quan
có thẩm quyền kết luận về tính hợp pháp của văn bản đó; áp dụng những biện
99
pháp cưỡng chế nhất định theo quy định của pháp luật; yêu cầu lãnh đạo cơ
quan bị kiểm tra cung cấp thông tin, văn bản và giải trình về nội dung kiểm
tra.Xây dựng quy trình kiểm tra khi có dấu hiệu và thông tin về các hành vi
mang tính vụ lợi cá nhân; khi phát hiện việc chi tiêu và sử dụng tài sản công
có dấu hiệu lãng phí và bất hợp lý; hoặc khi thấy cán bộ, công chức sử dụng
tài sản không rõ nguồn gốc. Tích cực và khẩn trương xử lý các kiến nghị của
người kiểm tra để kích thích tinh thần tự giác tuân thủ của công chức, đồng
thời tăng uy quyền thực tế cho hoạt động kiểm tra.
Mặt khác, do phần lớn cán bộ, công chức là đảng viên nên việc kiểm tra
để phát hiện các hành vi tham nhũng không thể thiếu cơ quan kiểm tra đảng
vào cuộc. Đối với những thông tin phản ánh các hành vi tham nhũng qua con
đường tố cáo thì Ủy ban Kiểm tra đảng cần kết hợp với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để tiến hành kiểm tra và tìm ra sự thật để có biện pháp xử lý kịp
thời, nhằm chặn đứng hành vi tham nhũng của công chức, chuyển qua giai
đoạn thanh tra và điều tra để xử lý hành chính hoặc truy tố trước pháp luật.
- Nâng cao chất lượng giám sát hành chính
Để nâng cao chất lượng giám sát nhằm PCTN cần củng cố sức mạnh
của cơ quan chỉ đạo PCTN và các cơ quan giám sát trong hệ thống cơ quan
nhà nước. Đồng thời nâng cao vai trò giám sát của các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân, trong đó các Ban chỉ đạo PCTN thuộc các cơ quan, đơn vị,
tổ chức khác nhau làm nhiệm vụ hạt nhân phối hợp. HĐND tỉnh nâng cao
trách nhiệm giám sát công tác PCTN tại địa phương. Đoàn đại biểu Quốc hội,
đại biểu HĐND các cấp giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về
PCTN theo lĩnh vực mình phụ trách.
- Tăng cường công tác thanh tra hành chính
Hiện nay, công tác thanh tra chỉ dừng lại ở khâu phát hiện ra hành vi
tham nhũng của đối tượng thanh tra và chuyển vụ việc qua cơ quan điều tra
100
của cơ quan Công an để truy tố trước pháp luật. Mặc dù có quyền lực hạn chế
như vậy, nhưng nếu làm tốt nhiệm vụ thanh tra thì nạn tham nhũng sẽ hạn chế
rất nhiều. Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra cần thực hiện một số giải
pháp như: Tiến hành thanh tra một cách trung thực, phản ánh khách quan kết
quả thanh tra; nâng cao tính độc lập trong hoạt động thanh tra nhằm thực hiện
tốt các quy định của pháp luật về PCTN; tổ chức thanh tra khẩn trương, trung
thực các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng thuộc thẩm quyền; tiếp nhận và thu
thập thông tin về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; xây dựng cơ sở dữ liệu
thông tin về phòng chống tham nhũng; củng cố kiện toàn về chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị chuyên trách về PCTN trong Thanh tra nhà nước tỉnh và
có chính sách đãi ngộ riêng cho số cán bộ làm việc này.
Hai là, phát huy vai trò của công luận, nhất là của báo chí trong phát
hiện tham nhũng.
Ban hành và tổ chức thực hiện các quy định tôn trọng quyền tự do của các
chủ thể (cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức) trong việc cung cấp thông tin phục vụ
việc chống tham nhũng, nhất là tôn trọng quyền tự do báo chí của các cơ quan
báo chí và phóng viên. Bảo vệ và khuyến khích cơ quan báo chí công khai và
thẳng thắn chỉ trích sai phạm của cán bộ, công chức; qua đó gạn lọc, tìm các
dấu hiệu, bằng chứng tham nhũng để chống tham nhũng một cách hiệu quả.
Cần có cơ chế bảo vệ phóng viên phê bình công khai, thẳng thắn và dân chủ;
đồng thời tích cực hỗ trợ cho các cơ quan chức năng xử lý nghiêm minh, giữ
vững kỷ cương, phép nước.
Để báo chí tích cực tham gia vào hoạt động chống tham nhũng cần thực
hiện một số giải pháp như: Đăng tải kịp thời, thường xuyên và có hệ thống
các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí giúp các cấp, các ngành và quần chúng
nhân dân nắm vững chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách
101
pháp luật của Nhà nước để triển khai, thực hiện có kết quả trong thực tế;
khuyến khích công dân cung cấp thông tin chống tham nhũng cho phóng viên
sử dụng viết báo. Ủng hộbáo chí đấu tranh "trực diện" với tham nhũng, đưa ra
công luận những sự việc chứa đựng hành vi tham nhũng. Hướng dẫn báo chí
phản ánh, phát hiện các dấu hiệu ban đầu để các cơ quan chức năng tiến hành
kiểm tra, thanh tra, điều tra và xử lý vụ việc tham nhũng; Khuyến khích báo
chí đăng tải các bài nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đấu tranh chống tiêu
cực, tham nhũng của địa phương, trong nước và nước ngoài nhằm cung cấp
tư liệu cho cán bộ và nhân dân vận dụng trong đấu tranh chống tham nhũng ở
Gia Lai.
Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu dương, khen thưởng
những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo, phát hiện hành vi tham
nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh CTN.
Ba là, tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân nhằm phát hiện tham nhũng để có biện pháp xử lý kịp thời.
Khiếu nại, tố cáo là những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận
trong Hiến pháp. Thực hiện khiếu nại, tố cáo chính là phương thức quan trọng
để công dân, cơ quan, tổ chức bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể và các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua giải quyết khiếu nại, tố cáo phát
hiện kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, hành vi tham nhũng từ phía cơ
quan nhà nước, người có thẩm quyền để kịp thời xử lý theo quy định của pháp
luật.
Thời gian qua, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân trên
địa bàn tỉnh Gia Lai đã đạt được những kết quả, góp phần vào việc phát hiện
hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, số vụ việc và số người tham nhũng bị phát
hiện qua công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa nhiều (18 vụ, với 29
102
người). Để nâng cao hiệu quả tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện
nay, cần triển khai thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Đề cao trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, trước hết là nhờ vai trò lãnh đạo
của các cấp ủy, quản lý điều hành của chính quyền. Các cấp ủy có nghị quyết
lãnh đạo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cấp chính quyền có kế
hoạch thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo, phân công trách nhiệm
một cách rõ ràng, cụ thể để giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu
nại, tố cáo. Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước thường xuyên kiểm tra, đôn
đốc, chỉ đạo việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền. Đối với các đơn tố cáo “nặc danh” về nguyên tắc không thụ lý, giải
quyết. Tuy nhiên, cũng cần phải xác minh, làm rõ các thông tin tố cáo để phát
hiện kịp thời hành vi tham nhũng.
Các cơ quan thanh tra Nhà nước tăng cường thanh tra trách nhiệm giải
quyết khiếu nại, tố cáo đối với thủ trưởng và cán bộ, công chức có trách
nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới, tập trung vào những
nơi có nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài, vượt cấp, đông người, phức
tạp để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiến nghị chấn chỉnh những
tồn tại, yếu kém, xử lý công khai, nghiêm minh những cán bộ, công chức
thiếu trách nhiệm, vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm
thiết lập trật tự, kỷ cương, tăng cường hiệu quả trong công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
của công dân; tăng cường vận động, thuyết phục công dân chấp hành pháp
luật, nắm được quy định của pháp luật về quyền và trách nhiệm của họ trong
việc khiếu nại, tố cáo.
103
Thường xuyên rà soát và tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ
việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Tăng cường công tác thanh tra trách
nhiệm thủ trưởng các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định của
pháp luật về công tác tiếp dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu
nại, tố cáo khiếu nại, tố cáo.
Thứ tƣ, nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện pháp luật về xử lý
các vụ việc tham nhũng.
Các nước trên thế giới đều coi tham nhũng là tội phạm hình sự và quy
định chế tài nghiêm khắc để xử lý loại tội phạm này nhằm làm cho công chức
"không dám tham nhũng". Trong bộ luật hình sự của hầu hết các nước đều có
một chương riêng quy định về tội tham nhũng, về những hành vi tham nhũng
và mức hình phạt tương xứng với những hành vi ấy.
Ở nước ta hiện nay, Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự năm
2015 đã dành một chương riêng quy định "các tội phạm về chức vụ", trong đó
có 07 tội danh tham nhũng, bao gồm: tội tham ô tài sản; tội nhận hối lộ; tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lạm dụng chức vụ, quyền
hạn trong khi thi hành công vụ; tội làm quyền trong khi thi hành công vụ; tội
lạm dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi;
tội giả mạo trong công tác. Ngoài ra, còn quy định 07 tội danh khác về chức
vụ. Khung hình phạt cao nhất đối với tội phạm tham nhũng là tử hình.
Tuy nhiên, trong nhiều năm qua công tác điều tra, truy tố, xét xử về
tham nhũng ở Gia Lai vẫn còn nhiều hạn chế, việc đấu tranh thu thập chứng
cứ còn gặp nhiều khó khăn làm cho công tác điều tra kéo dài, nhiều vụ án còn
tồn đọng. Để nâng cao hiệu quả đấu tranh, truy tố người có hành vi tham
nhũng cần phải làm tốt công tác tiếp cận thông tin, xác minh, điều tra làm rõ,
xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật những vụ việc, vụ án tham nhũng được
phát hiện với nguyên tắc: tích cực, khẩn trương; làm rõ đến đâu xử lý đến đó,
104
không phân biệt người có hành vi tham nhũng là ai, đã có dấu hiệu phạm tội
thì phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử. Chú
trọng áp dụng các biện pháp điều tra truy tố đặc biệt theo quy định của pháp
luật để kịp thời phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng. Xử lý nghiêm đối với
người chủ mưu, cầm đầu, lợi dụng chức vụ quyền hạn để phạm tội gây hậu
quả nghiêm trọng; khoan hồng đối với người thành khẩn khai báo, tự nguyện
khắc phục hoặc bồi thường thiệt hại gây ra. Khắc phục tình trạng: hành vi
tham nhũng có dấu hiệu tội phạm nhưng chỉ xử lý kỷ luật hành chính, kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý
tham nhũng đối với các cơ quan, đơn vị chức năng, nhất là trong các cơ quan
bảo vệ pháp luật thì một vấn đề hết sức quan trọng là phải bảo đảm sự liêm
chính trong đội ngũ cán bộ các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều
tra, truy tố, xét xử. Xử lý kiên quyết, kịp thời các hành vi tham nhũng trong
chính các cơ quan, đơn vị PCTN và cả những người bao che, tiếp tay, dung
túng cho tham nhũng, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng.
Trong xử lý tham nhũng, các cơ quan, đơn vị chức năng phải xác định
rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các
biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng trong quá trình thanh tra, kiểm
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án như: dừng chuyển nhượng
bất động sản, phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, niêm phong tài sản
Mặt khác, cần có cơ chế khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi
thường, khắc phục hậu quả trong các vụ án tham nhũng. Đây là tình tiết giảm
nhẹ khi xem xét áp dụng các chế tài xử lý hành vi tham nhũng.
Xây dựng và triển khai thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức, đơn vị chức năng trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc,
vụ án tham nhũng: phối hợp giữa Thanh tra nhà nướcvới các cơ quan cơ quan
điều tra, phối hợp giữa viện kiểm sát nhân dân và tòa án nhân dân. Cụ thể như sau:
105
- Thanh tra nhà nước tiến hành các hoạt động thanh tra theo thẩm
quyền. Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tham nhũng phải
nhanh chóng chuyển hồ sơ vụ việc sang cơ quan điều tra để tiến hành điều tra,
truy tố theo quy định của pháp luật; tuyệt đối không được xử lý hành chính.
- Cơ quan điều tra phải giám sát các hành vi của đối tượng điều tra;
không để đối tượng chuyển tiền, tài sản và bỏ trốn; theo dõi cả những người
có liên quan đến đối tượng để thu thập thông tin và chứng cứ phục vụ công
tác xét xử; yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước tạm ngưng việc giao dịch
chuyển nhượng bất động sản và các tài sản có giá trị; niêm phong tài liệu, tài
sản sau khi khởi tố và tiến hành các bước nghiệp vụ khác.
- Viện kiểm sát sau khi nhận được hồ sơ phải nhanh chóng nhận định,
đánh giá hồ sơ vụ án do cơ quan điều tra chuyển sang để có thể kịp thời nêu
yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục thu thập thêm các chứng cứ, hoặc, nếu thấy
đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì ra cáo trạng truy tố trước tòa.
- Tòa án xét xử vụ án tham nhũng theo hồ sơ đã được hoàn tất do Viện
kiểm sát chuyển sang, đồng thời trong quá trình xét xử, phải thực hiện đầy đủ
các bước tranh tụng tại tòa theo đúng quy định của pháp luật, nghị án một
cách khách quan, độc lập mới có tác dụng chống tham nhũng.
Thứ năm, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính
trị xã hội và nhân dân trong giám sát, phản biện xã hội đối với các hoạt
động của cơ quan công quyền.
Để huy động sự tham gia của người dân và các tổ chức xã hội trong
việc giám sát hoạt động của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước cần tập
trung giải quyết một số vấn đề sau:
Một là, cần tăng cường sự hợp tác giữa cơ quan nhà nước và xã hội
trong PCTN. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh cần xúc tiến việc xây dựng cơ
chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên với các cơ
106
quan nhà nước có thẩm quyền trong công tác PCTN, đồng thời cần chủ
động lập đoàn giám sát khi phát hiện các vụ việc tham nhũng.
Hai là, đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Quy định rõ các loại thông tin mà cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp. Tạo điều kiện cho công dân thực hiện
quyền khiếu nại khi không được cơ quan nhà nước cung cấp thông tin được
phép yêu cầu. Đồng thời, cũng cần quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu
cầu cung cấp thông tin và cơ quan, tổ chức được yêu cầu cung cấp thông tin
nếu có hành vi vi phạm thì phải bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự theo quy định của pháp luật;
Ba là, xây dựng cơ chế để nhân dân dễ dàng giám sát và phát hiện
tham nhũng, phát huy tinh thần trách nhiệm của công dân. Khuyến khích
dân chúng thực hiện quyền "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" bằng
những cách dân chúng có thể làm chủ được. Khuyến khích các cơ quan
ngôn luận tạo môi trường gây sức ép chống tham nhũng trong dư luận và ý
thức của dân cư.
Bốn là, các tổ chức xã hội, chính trị cần phát huy vai trò tạo cơ sở và
tổ chức cho công dân chống tham nhũng. Cần nâng cao khả năng phản biện
của cơ quan Mặt trận Tổ quốc. Đó phải là nơi để dân tin tưởng cung cấp
thông tin về hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức. Hơn nữa, bản thân
cơ quan này cũng phải là hạt nhân tích cực trong phong trào chống tham
nhũng với tư cách vừa là người trong cuộc, vừa thể hiện tiếng nói của nhân
dân.
Năm là,các doanh nghiệp cũng cần chủ động cung cấp thông tin, chủ
động phát hiện và thông báo kịp thời với cơ quan có thẩm quyền về những
hành vi nhũng nhiễu, tham nhũng của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà
nước. Việc các doanh nghiệp mạnh dạn, chủ động tố cáo hành vi tham nhũng
107
sẽ góp phần quan trọng cùng các cơ quan chuyên trách đóng góp vào công
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Cần phải có chế tài đủ mạnh để răn đe, xử lý hành vi đưa hối lộ, đặc
biệt cần nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp coi hối lộ như một “giải
pháp” trong kinh doanh, một cách thức để tạo lợi thế, hình thành “nhóm lợi
ích”.
Sáu là, phát huy vai trò người đại diện nhân dân của Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh trong việc giám sát hoạt động của chính quyền, yêu cầu các cán bộ,
công chức có dấu hiệu tham nhũng bị điều tra phải điều trần trước Hội đồng
nhân dân, đấu tranh để bãi miễn những công chức tham nhũng, không đủ tư
cách làm việc trong bộ máy quản lý của chính quyền các cấp
Bảy là, tạo kênh thông tin phản hồi về các chính sách đã, đang và sắp
được thi hành trên địa bàn tỉnh cũng như thông tin đánh giá về các chính sách
đó để nhân dân có cơ sở đối chứng mà giám sát.
Thứ sáu, tích cực xây dựng văn hóa phòng, chống tham nhũng
trong xã hội.
Một trong những yêu cầu quan trọng và cấp thiết là cần thể chế hóa và
thực hiện nghiêm các quy định về trả lời ý kiến, kiến nghị, phản án liên quan
đến tham nhũng của người dân; thông báo kết quả giải quyết tố cáo kịp thời
đến người tố cáo và những người có liên quan. Có làm được như vậy, người
dân sẽ tin tưởng gửi ý kiến của mình đến đúng địa chỉ, tránh tình trạng vượt
cấp, vòng vo và trùng lặp. Đồng thời, người dân được củng cố niềm tin đối
với công tác xử lý đơn thư, kiến nghị, tố cáo hành vi tham nhũng.
Bên cạnh đó, cũng cần quy định trách nhiệm của người đứng đầu các
cơ quan nhà nước về việc thực hiện trách nhiệm giải trình đối với quyền hạn
được trao trong tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo tham nhũng.
108
Mặt khác, cần thiết phải xây dựng và thực hiện trong cộng đồng doanh
nghiệp ở tỉnh văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng; xây dựng,
ban hành và thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, nhân viên, người lao động
trong từng doanh nghiệp; kết hợp với xây dựng và thực hiện tốt cơ chế giám
sát, kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp.
Cần tiếp tục đẩy mạnh và đa dạng hình thức truyền thông với nội dung
sáng tạo, linh hoạt về chính sách, pháp luật và thực tiễn công tác PCTN cho
người dân, giúp nâng cao ý thức tự vệ và chủ động trong PCTN. Đặc biệt, cần
chú trọng công tác giáo dục liêm chính và PCTN đối với thế hệ trẻ để đảm
bảo hiệu quả và bền vững trong công tác PCTN.
109
Tiểu kết chƣơng 3
Đấu tranh PCTN là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp cần phải có sự quyết
tâm của cả hệ thống chính trị, phải có sự tham gia của toàn xã hội trong việc
phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, trong đó các cơ quan, tổ chức,
đơn vị chuyên trách PCTN đóng vai trò chủ đạo, phối hợp để thực hiện trọng
trách trên.
Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về PCTN từ thực tiễn tỉnh Gia
Lai, tác giả đã dự báo về tình hình tham nhũng trong thời gian tới diễn biến
phức tạp do “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận
còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn”[6; tr.22]. Từ đó đã đưa ra phương hướng
và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về PCTN nói chung và các giải
pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN ở tỉnh
Gia Lai nói riêng. Tác giả đã nêu ra các giải pháp để góp phần sửa đổi, hoàn
thiện pháp luật về PCTN; củng cố, kiện toàn, nâng cao vị thế, vai trò của các
cơ quan PCTN; công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của các cơ
quan, tổ chức, đơn vị; công khai minh bạch tài sản, thu nhập của CBCCVC;
thu hút đông đảo nhân dân tham gia PCTN...
110
KẾT LUẬN
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của nhà nước. Nó hiện hữu ở tất cả các quốc gia, không phân
biệt chế độ chính trị, giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển hoặc kém phát
triển. Tham nhũng là hệ quả của quyền lực bị lạm dụng, bị tha hóa. Tham
nhũng nảy sinh, tồn tại và hoành hành do sự hư hỏng, biến chất không chỉ của
những người có chức quyền mà còn của cả những người được giao thực hiện
những công vụ bình thường đã làm biến dạng quyền hạn và công vụ được
giao phó. Nói cách khác, quyền hạn hay công vụ trao cho họ đáng lý ra phải
được thực hiện vì lợi ích chung của cả xã hội thì lại bị lạm dụng vào mục đích
trục lợi cho riêng cá nhân.
Tham nhũng gây ra nhiều tác hại nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, văn
hóa – xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, là một
nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Chính vì thế, PCTN là nhiệm
vụ của mọi quốc gia, mọi cấp, mọi ngành, mọi người dân.
Trong những năm gần đây, tình trạng tham nhũng ngày càng có nhiều
biểu hiện phức tạp. Lòng tin của nhân dân vào sự liêm khiết của cán bộ, công
chức nhà nước giảm sút. Qua hơn 10 năm triển khai thực hiện pháp luật về
phòng, chống tham nhũng, công tác chống tham nhũng trên địa bàn tỉnh Gia
Lai đã đạt được một số kết quả tích cực, một số vụ việc đã được đưa ra truy tố
và xét xử. Nhân dân đã có ý thức tham gia cung cấp thông tin chống tham
nhũng, các cơ quan PCTN chuyên trách đã được thành lập, các hoạt động
CTN ngày càng được coi trọng.
Tuy nhiên, so với mục tiêu “ngăn chặn” và “từng bước đẩy lùi tham
nhũng”thì Gia Lai còn phải tiếp tục quyết tâm và quyết liệt hơn nữa trong
đấu tranh PCTN. Để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về PCTN ở Gia
Lai trong những năm tới cần tăng cường các hoạt động PCTN theo hướng:
111
đẩy mạnh cải cách hành chính nhất là TTHC theo hướng công khai, minh
bạch, dễ tiếp cận để giảm thiểu cơ hội tham nhũng; nâng cao vai trò lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức đảng trong thực hiện công tác PCTN; tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân và các tổ chức xã hội tham gia PCTN; chú trọng nội
dung phòng, chống tham nhũng trong công tác quản lý công chức nhà nước;
củng cố, kiện toàn các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng; nâng
cao chất lượng, hiệu quả điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng; ban
hành và thực hiện tốt cơ chế, chính sách quản lý nhà nước trên các lĩnh vực có
nhiều cơ hội tham nhũng; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư pháp,
kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân
cử trong PCTN.
Từ những định hướng trên, Gia Lai phải thực hiện đồng bộ cả những
giải pháp phòng ngừa hữu hiệu nạn tham nhũng lẫn tích cực đấu tranh chống
tham nhũng. Trong đó cần đặc biệt chú trọng thực hiện các giải pháp như:
hoàn thiện các quy định pháp luật về PCTN; củng cố, kiện toàn cơ quan
PCTN; cải cách thủ tục hành chính, xây dựng nền hành hiện đại, công khai
minh bạch; xây dựng đội ngũ CBCCVC chuyên nghiệp và có phẩm chất đạo
đức tốt, kiểm soát chặt chẽ thu nhập của CBCCVC đi đôi với phát hiện và xử
lý nghiêm minh người có hành vi tham nhũng; huy động sự tham gia của toàn
xã hội trong PCTN. Chú trọng cả các giải pháp PCTN ngay trong cơ quan, tổ
chức, đơn vị chống tham nhũng. Mọi giải pháp trên đây sẽ chỉ là hình thức
nếu thiếu sự quyết tâm chính trị Tỉnh ủy, chính quyền địa phương; sự gương
mẫu và quyết liệt chỉ đạo của người đứng đầu các cấp, các ngành đối với công
tác PCTN. Do vậy, muốn đạt được mục tiêu “ngăn chặn, từng bước đẩy lùi
tham nhũng” phải thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên.
112
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia Lai (2010), Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XV (nhiệm kỳ 2015 - 2020).
2. Ban Chấp hành Trung ương khóa VII (1992): Văn kiện Hội nghị
lần thứ ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (1997): Văn kiện Hội
nghị lần thứ 3, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương khóa IX (2004), Văn kiện Hội nghị
lần thứ chín, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương khóa X (2006), Văn kiện Hội nghị
lần thứ ba, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (2016), Văn kiện Hội nghị
lần thứ 4, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
7. Ban Nội chính Trung ương (2005), Một số văn bản của Đảng về
phòng, chống tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Trần Đức Châm (2015), Chống tham nhũng ở Trung quốc, bài học
kinh nghiệm về chế độ cán bộ”, Tạp chí Cộng sản số ra ngày15/06/2015.
9. Chính phủ (2006), Nghị định số 68/2006/NĐ-CP ngày 18/7qui
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí, Hà Nội.
10. Chính phủ (2006), Nghị định số 84/2006/NĐ-CP ngày 18/8 quy
định về bồi thường thiệt hại, xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Hà Nội.
113
11. Chính phủ (2006), Nghị định số 107/2006/ NĐ-CP ngày 22/09
quy định xử lý, tránh nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đơn vị do
mình quản lý, phụ trách, Hà Nội.
12. Chính phủ (2006), Nghị định 120/2006/NĐ-CP ngày 20/10 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Phòng, chống tham
nhũng về các hành vi tham nhũng, Hà Nội.
13. Chính phủ (2007), Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3 quy
định về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
chế độ thông tin, báo cáo; chế độ kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật
về phòng, chống tham nhũng; tố cáo và giải quyết tố cáo hành vi tham nhũng;
xây dựng và thực hiện các chế độ định mức, tiêu chuẩn; hợp tác quốc tế về
phòng, chống tham nhũng và một số quy định khác của Luật phòng, chống
tham nhũng, Hà Nội.
14. Chính phủ (2007), Nghị định số 47/2007/NĐ-CP ngày 27/3 qui
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Phòng, chống tham
nhũng về vai trò, trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, Hà
Nội.
15. Chính phủ (2007), Nghị định số 158/2007/NĐ-CP ngày 27/10
quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí
công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
16. Chính phủ (2008), Nghị định số 19/2008/NĐ-CP ngày
14/02/2008 về việc quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm trong hoạt động
phòng chống tham nhũng, Hà Nội.
17. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5 về ban
hành Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020, Hà Nội.
114
18. Chính phủ (2013), Nghị định số 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7 quy
định về minh bạch tài sản, thu nhập, Hà Nội.
19. Chính phủ (2013), Nghị định số 150/N Đ-CP ngày 14/02 sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định 158/2007/NĐ-CPngày 27/10/2007quy
định danh mục các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công
tác đối với cán bộ, công chức, viên chức, Hà Nội.
20. Chính phủ (2013), Nghị định số 211/2013/N Đ-CP ngày 19/12
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2006/ NĐ-CP ngày
22/09/2006 quy định xử lý, tránh nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức
đơn vị do mình quản lý, phụ trách, Hà Nội.
21. Chính phủ (2013), Nghị định số 90/2013/NĐ-CP ngày 08/8 quy
định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn được giao, Hà Nội.
22. Chính phủ (2013), Nghị định số 192/2013/NĐ-CP ngày 21/11
quy định việc xử phạt VPHC trong lĩnh vực, quản lý, sử dụng tài sản nhà
nước; THTK, CLP; dự trữ quốc gia; Kho bạc nhà nước, Hà Nội.
23. Chính phủ (2013), Nghị định số 59/2013/NĐ-CP ngày 17/6 quy
định chi tiết một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
24. Chính phủ (2014), Nghị định số 84/2014/NĐ-CP ngày 08/9 quy
định chi tiết một số điều của Luật THTK,CLP, Hà Nội.
25. Chính phủ (2015), Nghị định số 58/2015/NĐ-CP ngày 16/6 sử
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 192/2013/NĐ-CP, Hà Nội.
26. Chính phủ (2016), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện Luật
PCTN, Hà Nội.
115
27. Cục Thống kê tỉnh Gia Lai (2015), Niên giám thống kê năm 2015,
Gia Lai.
28. Ngô Kiều Dâng (2014), Tổ chức và hoạt động của cơ quan phòng,
chống tham nhũng ở Việt nam”, Luật văn Thạc sĩ Luật học – Đại học Quốc gia
Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
36. Đinh văn Minh (2005),Một số vấn đề về tệ nạn tham nhũng và
những nội dung cơ bản của Luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay, NXB CTQG 2006
37. Liên hợp quốc (2003), Công ước của Liên hợp quốc về chống
tham nhũng.
116
38. Lê Vương Long (2005), Minh bạch hóa hoạt động của nhà nước,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11 năm 2005.
39. Nguyễn Thị Kim Nhung (2013), Phòng chống tham nhũng từ
phương diện giáo dục pháp luật đối với cán bộ, công chức bộ máy hành chính
nhà nước, Luật văn Thạc sĩ Luật học – Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Phạm Văn Phong (2016), Mối quan hệ giữa cải cách hành chính
với công tác phòng, chống tham nhũng, Tạp chí Quản lý nhà nước số 2/2016.
41. Quốc hội (2013), Luật thực hành tiết kiệm chống lãng phí, Nxb
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
42. Quốc hội (2005, 2007, 2012), Luật Phòng, chống tham nhũng,
Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
43. Quốc hội (2012), Luật Phòng, chống rửa tiền, Nxb Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
44. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.
45. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
46. Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2008), Nhận diện tham nhũng và
các giải pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia –
Hà Nội.
47. Sách “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước
trên thế giới” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, xuất bản năm 2005.
48. Sách “Tham nhũng và biện pháp chống tham nhũng ở Trung
Quốc” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2009.
117
49. Tỉnh ủy Gia Lai (2011), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí”, Gia Lai.
50. Tỉnh ủy Gia Lai (2016), Báo cáo Tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí”, Gia Lai.
51. Trần Anh Tuấn (2011), Hoàn thiện pháp luật về PCTN ở Việt
Nam hiện nay, Luật văn Thạc sĩ Luật học – Đại học Quốc gia Hà Nội.
52. Trần Anh Tuấn (2007), Kinh nghiệm phòng chống tham nhũng của
Singapo", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.
53. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2006), Nghị quyết số 1039/2006/NQ-
UBTVQH11 ngày 28/08 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế của Ban
Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Hà Nội.
54. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2011), Báo cáo Tổng kết 5 năm
thực hiện Luật PCTN và sơ kết giai đoạn thứ nhất Chiến lược quốc gia về
PCTN đến năm 2020, Gia Lai.
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2016), Báo cáo Tổng kết 10 năm
thực hiện Luật PCTN, Gia Lai.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai (2016), Báo cáo Tổng kết 10 năm
thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về “tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”, Gia Lai.
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai, các Báo cáo công tác phòng,
chống tham nhũng hàng năm (từ 2006 đến năm 2016), Gia Lai.
118
58. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
Các website:
59.
tham-nhung-o-dan-mach/1048780.html
60.
kinh-nghiem-phong-chong-tham-nhung-cua-trung-quoc-292453/
61.
3/Trung_Quoc_voi_cong_tac_phong_chong_tham_nhung
62.
phong,-chong-tham-nhung-o-singapore.html
63.
7/10_ quoc_gia_it_tham_nhung_nhat_the_gioi_nam_2015
64.
nhieu-nhat-thegioi/c/18549898.epi
65. https://towardstransparency.vn/vi/trai-nghiem-cua-nguoi-
dan-ve-tham-nhung
66.
1579233.html
67.
chong-tham-nhung-1579920
68.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_ve_phong_chong_tham_nhung_tu_thuc_tien_ti.pdf