Thi hành án dân sự là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
việc bảo vệ pháp chế XHCN, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội, là hoạt
động qua trọng của Nhà nước để những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án và của các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định
được thi hành trên thực tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và Nhà nước. Với tầm quan trọng và vai trò to lớn như vậy nên hoạt
động thi hành án nói chung, Thi hành án dân sự nói riêng đang ngày được
quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng ngành Thi
hành án ngày càng lớn mạnh, phát huy được vị trí, vai trò và nhiệm vụ được
giao và nâng tầm vị thế của ngành THADS ngang bằng các cơ quan tiến hành
tố tụng.
Pháp luật về THADS là một công cụ quan trọng để điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh và điều chỉnh các hoạt động của cá nhân, tổ chức có liên
quan đến lĩnh vực THADS, hiện thực hóa các quyền, nghĩa vụ trong bản án trên
thực tế, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và pháp chế XHCN và
đảm bảo sự ổn định trật tự, an toàn xã hội. Tuy hình thành, ra đời cùng ngành
Tư pháp hay Tòa án nhân dân nhưng THADS có sự gián đoạn do yếu tố
khách quan và phát triển muộn hơn. Nhưng được sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước, pháp luật về THADS đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn,
đáng ghi nhận. Từ Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989 đã hình thành và phát
triển cơ bản kiện toàn, sửa đổi, bổ sung đến Pháp lệnh 1993, pháp lệnh 2004
và trở thành Luật thi hành án dân sự năm 2008, hoàn thiện hơn ở Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đã có nhiều Nghị định,
Thông tư được sửa đổi, bổ sung kịp thời theo sự phát triển chung của xã hội.
Bên cạnh kết quả đạt được, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự vẫn còn
nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục.111
Trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc hoàn
thiện pháp luật về thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc là sự đòi hỏi
mang tính tất yếu, khách quan.
Với những nội dung đã được đề cập trong luận văn, hy vọng sẽ cung
cấp những thông tin đầy đủ, toàn diện, chính xác, góp một phần nhỏ trong
việc xây dựng chiến lược, kế hoạch tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước và
hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại các địa phương trên cả nước nói
chung, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện về lĩnh vực
THADS nhằm nâng cao hiệu quả của công tác THADS, góp phần xây dựng
nền hành chính - tư pháp dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại trong điều kiện
hiện nay của nước ta.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 124 trang
124 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1244 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
úp pháp lý, chú trọng đến những vùng, khu vực có 
đồng bào thiểu số để họ kịp thời nắm bắt thông tin pháp luật về thi hành án 
dân sự mà chấp hành pháp luật nghiêm minh hơn. Tăng cường công tác thanh 
tra, kiểm tra kịp thời khắc phục những thiếu sót và sai phạm trong công tác thi 
hành án dân sự, chấn chỉnh và xử lý nghiêm các sai phạm về nghiệp vụ, về 
công tác quản lý, các tiêu cực làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành. Kết hợp 
kiểm tra thi hành án với kiểm tra về công tác tổ chức cán bộ. Sở Tư pháp 
nhanh chóng tiến hành thống kê đánh giá thực trạng cán bộ tư pháp xã, 
phường, thị trấn làm cơ sở tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh nhanh chóng 
trình ra Hội đồng nhân dân tỉnh có giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ tư 
pháp cơ sở, cho phép hợp đồng thêm 1 cán bộ tư pháp để giải quyết các công 
việc ngày càng nặng nề của tư pháp cơ sở do phân cấp trong đó có sự phối 
hợp, hỗ trợ công tác thi hành án dân sự. Chỉ đạo phòng tư pháp cấp huyện tăng 
cường tập huấn kết hợp với phổ biến nghiệp vụ cho cán bộ tư pháp cơ sở. Tạo 
cho cán bộ tư pháp cơ sở sự chủ động trong việc cung cấp các nguồn tin về điều 
kiện thi hành án của đương sự để công chức thi hành án nắm bắt kịp thời hơn. 
Để có được sự chủ động đó, về lâu dai cần tham mưu cho tỉnh có chế độ động 
viên khuyến khích và khen thưởng kịp thời đối với cán bộ tư pháp cơ sở. Kịp 
thời tham mưu cho Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh xây 
dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, mở rộng sự giám sát của quần chúng để hạn chế 
đến mức thấp nhất những tiêu cực, sai phạm trong hoạt động thi hành án dân sự. 
91 
Cục thi hành án tỉnh cần phải chủ động đề nghị Chủ tịch UBND cùng 
cấp nhanh chóng chỉ đạo Chi cục trưởng Thi hành án dân sự cấp huyện rà soát 
các trường hợp có đủ tiêu chuẩn, điều kiện để bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành 
viên cao cấp, chấp hành viên trung cấp, thẩm tra viên, thẩm tra viên chính 
thuộc Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện. Có ý kiến bằng văn bản đối 
với các trường hợp được đề nghị bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên cao 
cấp, trung cấp, thẩm tra viên, thẩm tra viên chính thuộc Thi hành án dân sự 
cấp tỉnh và cấp huyện báo cáo UBND cùng cấp cho ý kiến bằng văn bản về 
việc đề nghị Bộ Tư pháp bổ nhiệm thẩm tra viên, thẩm tra viên chính thuộc 
Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện theo Đề án của Bộ Tư pháp và quy 
định của Luật thi hành án dân sự hiện hành. Lãnh đạo Cục thi hành án dân sự 
tỉnh cũng cần phải xây dựng Đề án quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm cán bộ, công 
chức nữ giữ vai trò lãnh đạo, quản lý trong ngành thi hành án dân sự tỉnh Phú 
Yên theo tỉ lệ tương ứng về nữ giới theo quy định của Đảng và Nhà nước. 
Cục Thi hành án tỉnh phân công lãnh đạo phụ trách từng lĩnh vực về nghiệp 
vụ thi hành án, chấp hành viên trung cấp trực tiếp tổ chức thi hành án và theo 
dõi, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ đối với các cơ quan thi hành án cấp huyện. 
Hằng năm thông qua thực tiễn công tác thi hành án dân sự phải tổng kết đánh 
giá các chuyên đề về từng lĩnh vực mà khi tiến hành tổ chức thi hành án gặp 
phải khó khăn, đề xuất với tỉnh, Cục, Bộ và Chính phủ sửa đổi, bổ sung các 
văn bản của pháp luật để trong thực tiễn thi hành đạt hiệu quả cao, giải quyết 
những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật vào thi hành. Tập trung 
cải cách thủ tục hành chính trong thi hành án theo hướng rút ngắn thời gian 
thi hành án đối với loại án đơn giản, các vụ việc phức tạp kịp thời tham mưu 
cho Ban chỉ đạo thi hành án tìm phương hướng giải quyết nhanh. Cục Thi 
hành án tỉnh cần chỉ đạo các cơ quan thi hành án bố trí lịch tiếp dân hàng tuần 
(trong đó tăng cường đối thoại trực tiếp) để tiếp nhận những thông tin do 
92 
đương sự phản ánh, ngoài ra cần đặt các hòm thư góp ý và công khai số điện 
thoại của lãnh đạo cơ quan thi hành án và các đường dây nóng cho công dân 
tiện liên lạc. Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo, nếu có tiêu cực trong ngành cần 
xử lý nghiêm để làm gương. Chỉ đạo chấp hành viên và các cơ quan thi hành 
án dân sự cấp huyện thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo thống kê thi hành 
án dân sự, nộp đủ, đúng hạn báo cáo thống kê kết quả thi hành án theo quy 
định nhằm từng bước đưa công tác thi hành án dân sự đi vào nề nếp và hoạt 
động có chất lượng, hiệu quả cao. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm tra 
chéo, giao ban nghiệp vụ tại các đơn vị, tổ chức các cuộc họp chuyên đề để 
đánh giá cụ thể kết quả thi hành án tại cơ sở, kịp thời biểu dương khen thưởng 
những đơn vị, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ từ đó phát triển nhân 
rộng nhân tố tích cực điển hình; phê bình chấn chỉnh, xử lý thiếu xót, sai 
phạm trong hoạt động thi hành án. Động viên tình thần yêu ngành, đề cao 
trách nhiệm của mỗi cán bộ công chức đối với nhiệm vụ được giao, phát huy 
tốt quy chế dân chủ ở đơn vị. Bố trí những chấp hành viên có năng lực vào 
những huyện khi thi hành án thường gặp khó khăn, phức tạp. Đề bạt cán bộ 
quản lý phải có năng lực về nghiệp vụ và công tác quản lý, làm tốt công tác 
tham mưu cho Ban chỉ đạo thi hành án dân sự cùng cấp và cấp uỷ, chính 
quyền địa phương để tổ chức thực hiện công tác chuyên môn có hiệu quả. 
Thủ trưởng Cơ quan thi hành án tỉnh cần tăng cường hơn nữa công tác 
quản lý, chỉ đạo điều hành về thi hành án dân sự để những thiếu sót vi phạm 
pháp luật trong thi hành án không còn tái diễn trở lại. Trước mắt, cần tập 
trung chỉ đạo điều hành và tăng cường kiểm tra đôn đốc các Chấp hành viên 
thực hiện đúng qui định của pháp luật trong việc phân loại xác minh điều kiện 
thi hành án. Phát hiện và kiểm điểm nghiêm túc đối với các chấp hành viên, 
cán bộ thi hành án có hành vi, biểu hiện gây phiền hà, sách nhiễu dân, thiếu 
trách nhiệm trong việc tổ chức xác minh điều kiện thi hành án để những vụ 
93 
việc kéo dài chưa xác minh dẫn đến có vụ việc khiếu kiện nhiều năm chưa thi 
hành dứt điểm để tạo niềm tin của nhân dân đối với cơ quan thi hành án. Đổi 
mới mạnh mẽ về phương thức công tác thi hành án dân sự, nhằm giải quyết 
dứt điểm số vụ việc tồn đọng có điều kiện về tài sản nhưng tổ chức, cá nhân 
không tự giác chấp hành nghĩa vụ bản án. Định kỳ tiến hành xác minh để vụ 
việc nào có điều kiện thì khẩn trương đưa ra thi hành. Tập chung lực lượng 
thực hiện ngay đợt tổng rà soát, xác minh và phân loại án, tổ chức các đợt cao 
điểm giải quyết việc thi hành án tồn đọng; tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo cơ 
quan thi hành án cấp huyện kịp thời tháo gỡ vướng mắc về thi hành án. 
Những việc cơ quan thi hành án xét thấy có khó khăn trong việc xác minh, 
phải xây dựng kế hoạch phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát cùng cấp để tiến 
hành điều tra, xác minh nguồn gốc tài sản, phải xây dựng và lập kế hoạnh xác 
minh chi tiết những vấn đề cần phải chứng minh, những khó khăn cần làm rõ. 
Khi tiến hành kê biên tài sản đương sự đi vắng, hoặc trốn tránh chấp hành 
viên kịp thời phối hợp cùng bàn bạc với kiểm sát viên, các thành viên của 
chính quyền địa phương, các đoàn thể để áp dụng các biện pháp theo pháp 
luật, đảm bảo việc kê biên tài sản được khẩn trương, đầy đủ, chính xác. Khi 
tiến hành định giá tài sản nhất là đối với loại tài sản là đất đai, nhà ở của 
người phải thi hành án cơ quan thi hành án phải xác minh kỹ càng tại các cơ 
quan đăng ký, quản lý đất đai, khảo giá thực tế trước khi cưỡng chế, kê biên, 
xử lý tài sản đúng quy định của pháp luật tránh việc sai sót xảy ra. Việc thẩm 
định giá, bán đấu giá phải tuân theo quy định pháp luật và thủ tục chặt chẽ để 
tránh việc khiếu nại tố cáo phát sinh. Việc giao tài sản là nhà, đất... cho người 
mua phải phối hợp với chính quyền địa phương lực lượng cảnh sát để hoàn 
thiện thủ tục pháp lý đầy đủ trước khi bàn giao tài sản, nhà đất cho người mua 
được. Lực lượng cảnh sát bảo vệ cho người mua được tài sản không bị chiếm 
lại hoặc bị phá hoại tài sản... 
94 
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án cấp huyện cần phân công chấp hành viên 
phụ trách địa bàn, bám sát và liên tục xác minh điều kiện thi hành án của đối 
tượng. Có điều kiện là làm ngay. Phối hợp với chính quyền cấp xã trước khi cho 
chuyển quyền sử dụng đất hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản thì phải rà soát lại 
danh sách đã được thi hành án gửi từ trước để trách việc tẩu tán hoặc chuyển 
dịch tài sản. 
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, thanh tra công tác thi hành án dân sự nhằm 
bảo đảm kỷ cư ơng và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án 
dân sự 
Để hoạt động THADS đạt hiệu quả thì công tác kiểm tra, thanh tra và 
đôn đốc thi hành án là một trong những việc quan trọng để nâng cao hiệu quả 
của nó. Nếu không có kiểm tra, thanh tra hoặc mang tính hình thức thì dẫn 
đến việc sai sót, vi phạm xảy ra nhiều. Trên số liệu thống kê đã phân tích nêu 
trên, trong năm 2016, ngành thi hành án dân sự trong toàn quốc đã có 96 
trường hợp kỷ lý kỷ luật không phải là ít mà vấn đề cần phải được quan tâm 
chỉ đạo, quản lý và kiểm tra, thanh tra kịp thời để chấn chỉnh lại ngay những 
trường hợp vi phạm xảy ra ngày càng gia tăng. Việc kiểm tra, thanh tra phải 
có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, thiếu hiệu quả, gây khó khăn, làm 
ảnh hưởng đến hoạt động đơn vị bị kiểm tra. Để làm tốt công tác này cần phải 
thực hiện đồng bộ nội dung sau: 
+ Đối với công tác lập kế hoạch kiểm tra: Đây được xem là những yếu 
tố đầu tiên cho thành công của công tác kiểm tra. Kế hoạch kiểm tra phải xác 
định được đơn vị nào kiểm tra trước, đơn vị nào kiểm tra sau, thời gian kiểm 
tra, nội dung cần kiểm tra... 
+ Nội dung kiểm tra và thành phần kiểm tra: Đây được xem là yếu tố 
quan trọng nhất quyết định sự thành công của công tác kiểm tra. Tránh nội 
dung kiểm tra mang tính hình thức như việc sai sót trong đánh dấu bút lục, 
95 
chậm ra quyết định thi hành án, chậm xác minh đối với đối tượng được 
hoãn... Mà cần tập trung vào kiểm tra từng vụ việc cụ thể về đường lối giải 
quyết, việc áp dụng pháp luật, về thủ tục cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản có 
đúng theo quy trình pháp luật hay không, có ảnh hưởng đến quyền và lợi ích 
hợp pháp của đương sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan nhằm giảm bớt 
việc khiếu nại, tố cáo... để từ đó tìm ra những quy định nào của pháp, luật còn 
chưa phù họp, những quy định nào còn chồng chéo trong các văn bản quy 
định pháp luật tổng hợp, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét điều chỉnh 
cho phù hợp thực tế. 
+ Kết luận sau kiểm tra: Sau mỗi đợt kiểm tra, các đoàn kiểm tra phải có 
kết luận kiểm tra. Kết luận kiểm tra phải thể hiện rõ kết quả làm được, chưa làm 
được, nguyên nhân, hạn chế. Trong trường hợp kiểm tra, nếu phát hiện có sai sót 
trong công tác THADS thì phải tham mưu cho cấp có thẩm quyền tạm đình chỉ 
ngay việc thực hiện sai sót đó để khắc phục sửa chữa. Trong kết luận phải ấn 
định thời gian cụ thể để thực hiện kết luận kiểm tra. Cần phải theo dõi và kiểm 
tra việc thực hiện kết luận kiểm tra, vì thực tế cho thấy các cơ quan, người có 
thẩm quyền sau khi kiểm tra xong và có kết luận cụ thể nêu lên được những sai 
sót, vi phạm và kiến nghị những không thực hiện việc theo dõi khắc phục hoặc 
báo cáo lại kết quả thực hiện của Kết luận kiến nghị đó thì làm giảm đi hiệu quả 
của công tác kiểm tra. 
3.2.4. Tăng cường các biện pháp giải quyết các vụ việc thi hành án dân sự 
tồn đọng 
Từ những nguyên nhân dẫn đến án tồn đọng hồ sơ trong THADS 
ngày càng nhiều mà chưa có biện pháp giải quyết triệt để, không chỉ gây 
bức xúc cho công dân, xã hội mà chính cho cơ quan THADS và những 
người trực tiếp làm công tác THADS. Các việc THADS tồn đọng có nhiều 
nguyên nhân khác nhau, có những nguyên nhân xuất phát từ bản chất của 
96 
hoạt động THADS, có nguyên nhân xuất phát từ pháp luật thực định, có 
nguyên nhân xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và có ảnh 
hưởng đến sự phát triển của kinh tế thị trường Do đó, các giải pháp giải 
quyết việc THADS tồn đọng phải bảo đảm khắc phục được cơ bản các 
nguyên nhân để hạn chế đến mức thấp nhất việc THADS tồn đọng và đảm 
bảo hiệu lực thi hành của bản án, quyết định của Tòa án, bảo vệ quyền, lợi 
ích hợp pháp của đương sự, những người có quyền lợi liên quan khác. Vì 
vậy, trước mắt cần phải tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và ban hành các văn 
bản hướng dẫn thi hành Luật THADS và các văn bản có liên quan để tạo cơ 
sở pháp lý cho việc quản lý và tổ chức THADS; tăng cường công tác quản 
lý, chỉ đạo, điều hành công tác THADS theo hướng sâu sát, cụ thể, quyết 
liệt, rõ người, rõ việc, rõ thời gian hoàn thành; đề cao trách nhiệm của 
người đứng đầu cơ quan quản lý THADS[32]. Những trường hợp tồn đọng 
mà không có biện pháp xử lý thì cần phải có cơ chế quy định pháp luật để 
giải quyết sự bế tắc đó, không thể để tồn đọng mãi theo thời gian như 
những trường hợp người phải thi hành án đã được xác định cụ thể trong các 
bản án, quyết định của Tòa án là địa chỉ không rõ ràng, đối tượng sống lang 
thang mà không tài sản, thu nhập để thi hành án. Thường rơi vào những vụ 
việc thi hành phần dân sự trong án hình sự đối tượng phải thi hành án phạm 
tội về trộm cắp, cướp giật, ma túy thì không có khả năng, điều kiện thi 
hành các khoản án phí, tiền phạt sung công hoặc các hình thức phạt tiền 
sung công quỹ nhà nước Những vụ việc này, sau khi nhận bản án của 
Tòa án là cơ quan thi hành án đã xác định, phân loại được ngay trường hợp 
không có điều kiện thi hành và sẽ tồn đọng mà không có biện pháp giải 
quyết dứt điểm. Do đó, cần phải tăng cường biện pháp để giải quyết dứt 
điểm án tồn đọng góp phần nâng cao hiệu quả cho hoạt động thi hành án 
dân sự hơn. 
97 
3.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa 
phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong công tác phối hợp 
thi hành án dân sự 
Công tác thi hành án dân sự là hoạt động mang tính thực tiễn, xã hội 
rộng rãi, có thể nói hầu hết các hoạt động thi hành án dân sự đều được triển 
khai trong thực tiễn và gắn bó chặt chẽ với cơ sở. Đồng thời, do thi hành án 
dân sự liên quan trực tiếp đến tài sản của đương sự, có ảnh hưởng không nhỏ 
đến đời sống người phải thi hành án và gia đình, nên thi hành án dân sự có 
liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước khác nhau như Tòa án, Viện kiểm sát, 
Công an, Thuế, Tài chính, Tài nguyên Môi trường, Xây dựng, Ngân hàng, Kho 
bạc, Bảo hiểm... và có tác động lớn đến tình hình an ninh chính trị của từng địa 
phương do đó cần có sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan thi hành 
án với các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự. 
Để tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu quan 
trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự có các giải pháp sau: 
- Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của cấp uỷ, chính quyền các cấp 
đối với công tác thi hành án dân sự. 
Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính đặc thù, khó khăn, phức tạp, 
va chạm trực tiếp đến vật chất, quyền và lợi ích của các bên đương sự, người có 
nghĩa vụ liên quan và có mối quan hệ đa chiều theo ngành dọc và chiều ngang, 
liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành nên có nhiều việc bản tự bản thân các cơ 
quan thi hánh án sẽ không thực hiện được do đó cần có sự quan tâm lãnh đạo, 
chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương trong việc tăng cường sự phối hợp 
nhịp nhàng, đồng bộ và chặt chẽ giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan hữu 
quan. Trước hết, trong phạm vi toàn tỉnh, Thường trực Tỉnh uỷ, Ban Chỉ đạo cải 
cách tư pháp tỉnh và các huyện, thị, thành uỷ cần duy trì tốt việc giao ban thường 
xuyên và định kỳ với các ngành nội chính theo Quyết định số 42/QĐ/QĐTW 
ngày 03/10/2016 về nhiệm vụ và quan hệ công tác của thường trực tỉnh uỷ, thành 
98 
uỷ và Quy chế của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp tỉnh để kịp thời lãnh đạo công 
tác nội chính nói chung trong đó có công tác thi hành án dân sự. Kịp thời tháo gỡ 
những khó khăn vướng mắc trong công tác phối hợp thi hành án. Sự quan tâm 
lãnh đạo thường xuyên hơn nữa của cấp uỷ Đảng nhằm mục đích cuối cùng là 
phát huy sức mạnh tổng hợp giữa cấp uỷ, các cơ quan Nhà nước với các tổ chức 
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể trong việc thực hiện công tác thi 
hành án dân sự ở địa phương. 
- Ban chỉ đạo thi hành án dân sự cần khẳng định hơn nữa vai trò của 
mình trong công tác thi hành án dân sự. Tập trung chỉ đạo những vụ việc 
mang tính chất phức tạp, tồn đọng kéo dài và các vụ án mang tính chất cưỡng 
chế có ảnh hưởng đến an ninh trật tự,an toàn xã hội địa phương nhằm nâng 
cao hiệu quả của Ban chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự. Đoàn đại 
biểu Quốc hội tỉnh, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp cần tăng 
cường hơn nữa giám sát chính quyền, cơ quan thi hành án các cấp về công tác 
thi hành án. Định kỳ nghe ngành Tư pháp và cơ quan thi hành án báo cáo công 
tác thi hành án dân sự, kịp thời có giải pháp chỉ đạo giải quyết những việc thi 
hành án khó khăn phức tạp trong công tác thi hành án, tập hợp và báo cáo với 
Trung ương những kiến nghị đề xuất đảm bảo tăng cường công tác thi hành án 
có hiệu quả. 
- Uỷ ban nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố 
trong tỉnh cần chỉ đạo các cơ quan hữu quan thực hiện hiệu quả việc hỗ trợ tài 
chính từ nguồn ngân sách nhà nước để hổ trợ cho các cơ quan Thi hành án trong 
những trường hợp chi phí cưỡng chế thi hành án đối với đối tượng có hoàn cảnh 
khó khăn không có khả năng để nộp tiền chi phí. Hoặc tạo nguồn quỹ đất cho 
những đối tượng sau khi cơ quan thi hành án thực hiện biện pháp cưỡng chế giao 
nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất theo án tuyên mà họ không nhà ở, tài sản 
nào khác, để tạo điều kiện cho công dân đó có nơi nương tựa và ổn định cuộc 
sống gia đình. Đó là biện pháp tháo dỡ những khó khăn nhất hiện nay cho cơ 
99 
quan thi hành án, chấp hành viên khi thực hiện các biện pháp cương chế theo 
quy định tại Khoản 5, Điều 115 Luật Thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, Uỷ ban 
nhân dân tỉnh và Uỷ ban nhân dân cấp huyện cần tăng cường chỉ đạo sự phối 
hợp giữa các cơ quan hữu quan, đoàn thể ở địa phương với cơ quan thi hành án 
trong việc thi hành án, thực hiện kịp thời việc chuyển dịch, đăng ký quyền sở 
hữu, sử dụng tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật; bố trí đất đai, hỗ trợ 
đền bù, đảm bảo giải phóng nhanh mặt bằng cho các cơ quan thi hành án để xây 
dựng trụ sở, kho vật chứng. 
- Trong quá trình thi hành án dân sự, việc thực hiện các biện pháp bảo 
đảm thi hành án theo quy định tại Điều 66 đến Điều 69 Luật Thi hành án dân 
sự như các biện pháp bảo đảm về phong toả, khấu trừ tài khoản, tài sản của 
những đối tượng phải thi hành án tại các Ngân hàng, tổ chức Tín dụng, Kho 
bạc, cơ quan Bảo hiểm kết quả không cao, sự phối hợp và thực hiện theo 
yêu cầu của cơ quan thi hành án, chấp hành viên chưa được nghiêm túc và ít 
hiệu quả, vẫn còn xảy ra tình trạng đương sự tẩu tán tài sản trước khi áp dụng 
biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm mà không có cơ sở pháp lý để xử lý 
trách nhiệm của các cơ quan có liên quan, còn có nhiều ý kiến khác trong việc 
thực hiện thì Uỷ ban nhân dân tỉnh và Ban chỉ đạo thi hành án dân sự tỉnh cần 
kịp thời lãnh đạo các cơ quan này thực hiện nghiêm túc, nếu có khó khăn 
vướng mắc về cơ chế và pháp luật thì kịp thời kiến nghị Trung ương tháo gỡ 
thì hiệu quả THADS mới nâng cao hơn. 
- Toà án nhân dân cần làm tốt công tác điều tra, xác minh thực tế về 
hiện trạng đối với những vụ việc tranh chấp về đất đai, nhà ở, ranh giới liền 
kề để tuyên những bản án rõ ràng, chính xác và có tính khả thi cao ở thực tiễn 
thi hành án dân sự. Trong công tác xét xử cần phổ biến triệt để các nội dung 
liên quan đến hiệu lực bản án và yêu cầu về thi hành án cho các bên liên quan. 
Việc phổ biến không chỉ bằng miệng mà ghi rõ vào bản án để người dân biết 
100 
và thực hiện. Khi bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, không 
phù hợp với hiện trạng thực tế mà cơ quan thi hành án có văn bản kiến nghị 
hoặc yêu cầu giải thích thì Tòa án nên trả lời theo đúng thời gian quy định 
mới góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thi hành án. 
- Viện kiểm sát nhân dân cần tăng cường hoạt động kiểm sát để hỗ trợ 
tích cực về nghiệp vụ cho công tác thi hành án dân sự; đổi mới mạnh mẽ về 
phương thức tổ chức công tác kiểm sát thi hành án dân sự. Để đáp ứng yêu 
cầu trên đòi hỏi cán bộ, kiểm sát viên ngành Kiểm sát nhân dân khi thực hiện 
nhiệm vụ kiểm sát thi hành án phải hiểu rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền 
hạn đồng thời phải nắm chắc kỹ năng kiểm sát thi hành án dân sự đối với từng 
loại việc, ở các thời điểm, thời gian khác nhau từ khi bản án, quyết định dân 
sự của Toà án có hiệu lực pháp luật, được thi hành đến khi thi hành xong theo 
quy định của pháp luật trên cơ sở đó ban hành kháng nghị, kiến nghị yêu cầu 
các cơ quan, tổ chức, đơn vị khắc phục vi phạm trong công tác thi hành án 
dân sự. Đổi mới mạnh mẽ trong việc vận dụng linh hoạt các phương thức 
công tác kiểm sát, thường xuyên bám sát các hồ sơ thi hành án để nghiên cứu 
phát hiện kháng nghị kịp thời những vi phạm của Toà án nhân dân, cơ quan 
thi hành án, chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và các cá nhân có liên 
quan trong việc thi hành bản án quyết định đã có hiệu lực pháp Luật và những 
bản án được thi hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo các bản 
án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. Bố trí lựa 
chọn đủ số lượng Kiểm sát viên có trình độ năng lực nghiệp vụ và bản lĩnh 
chính trị vững vàng để làm công tác kểm sát thi hành án dân sự ở hai cấp theo 
hướng tăng số lượng Kiểm sát viên làm công tác thi hành án dân sự ở cấp 
huyện đối với những huyện đã được tăng thẩm quyền xét xử để đáp ứng với 
yêu cầu nghiệp vụ hiện nay. Bên cạnh đó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân 
và Thủ trưởng cơ quan thi hành án 2 cấp cần tăng cường việc phối hợp và chỉ 
101 
đạo các vụ việc phải cưỡng chế về thi hành án để công tác thi hành án và 
kiểm sát thi hành án đạt hiệu quả và chất lượng cao, phối hợp trong việc giải 
quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án. 
3.2.6. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và chấp hành viên 
trong công tác tổ chức thi hành án dân sự 
Để nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ Chấp hành viên, Cục Thi 
hành án tỉnh phải thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ 
thi hành án, đặc biệt là đội ngũ chấp hành viên. Thường xuyên chăm lo công 
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức thi hành án cả về chuyên môn nghiệp 
vụ và lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án, bảo đảm 
các chấp hành viên trước khi bổ nhiệm phải được qua đào tạo nghề tại Học 
viện đào tạo các chức danh tư pháp. Kết hợp đào tạo nghề với việc đẩy mạnh 
tiêu chuẩn hóa đối với đội ngũ chấp hành viên, trong đó xác định rõ tiêu 
chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức lối sống. Trong quy hoạch, đào tạo 
chấp hành viên cần tính đến cán bộ trẻ, chú trọng quy hoạch cán bộ nữ, cán 
bộ có bằng đại học các chuyên ngành khác nhất là tài chính kế toán, hoặc đưa 
đi học bằng 2 về các ngành liên quan như tài chính, đất đai, xây dựng, ngoại 
ngữ, tin học nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác thi hành án và 
hội nhập kinh tế quốc tế. Ở các huyện miền núi cần ưu tiên đào tạo nguồn tại 
chỗ, cán bộ là người dân tộc thiểu số miền núi, đây chính là những người am 
hiểu phong tục tập quán địa phương sẽ rất thuận lợi cho công tác thi hành án 
là nhằm thực hiện đúng theo tinh thần Chi thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 
của Thủ tướng Chính Phủ về việc tăng cường công tác THADS bằng các giải 
pháp sau: 
- Cần phải thường xuyên rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ thi 
hành án dân sự trên địa bàn; tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng về 
chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức cho cán 
102 
bộ, công chức, nhất là đội ngũ Chấp hành viên và cán bộ dự nguồn quy 
hoạch, trong đó ưu tiên đối với nguồn cán bộ tại chỗ, cán bộ là người địa 
phương, là người dân tộc thiểu số[7]. 
- Hoàn tất việc bổ nhiệm đủ các chức danh Chấp hành viên sơ cấp, 
trung cấp, cao cấp, các ngạch Thẩm tra viên, thư ký thi hành án dân sự, kiện 
toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện còn thiếu tại tất cả các đơn vị. Thực hiện 
việc điều động, luân chuyển có thời hạn đối với cán bộ, công chức trong 
ngành, tạo điều kiện tốt nhất để đội ngũ cán bộ phát huy được năng lực, sở 
trường trong công tác. 
Mặt khác, cần phải có chế độ chính sách phù hợp để thu hút được những 
cán bộ thực sự có chất lượng cho ngành, đẩy mạnh công tác quy hoạch, dự 
nguồn cán bộ; đồng thời đẩy mạnh việc chấn chỉnh kỷ cương, tăng cường kỷ 
luật, kịp thời phát hiện, uốn nắn và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. 
Ngoài ra, cần kiện toàn các tổ chức Đảng, đoàn thể của các cơ quan thi hành 
án dân sự theo quy định; phối hợp tốt với cấp ủy, chính quyền địa phương 
thực hiện có chất lượng công tác cán bộ. 
- Thường xuyên kiểm tra hoạt động của các đơn vị, hoạt động của cán 
bộ, công chức để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm nhằm tăng 
cường kỷ luật của ngành. Thực hiện tốt công tác tuyển dụng, tiếp nhận cán bộ, 
chú trọng nguồn cán bộ được đào tạo chính quy, có chất lượng. Đối với các 
đơn vị miền núi, cần ưu tiên tuyển dụng, đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ, cán bộ 
là người dân tộc thiểu số, đồng thời có biện pháp tích cực để tuyển dụng, tiếp 
nhận những người đã trải qua thực tế công tác. 
- Tăng cường việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ quản lý và 
đội ngũ dự nguồn cán bộ quản lý trên các phương diện như trình độ chuyên 
môn, lý luận chính trị, trình độ quản lý, tin học, ngoại ngữ và phẩm chất đạo 
đức, nhưng phải được thử thách, đánh giá qua thực tiễn công việc. 
103 
- Vấn đề điều động, luân chuyển, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ cần phải tuân 
theo quy định của pháp luật, theo chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm tình hình 
thực tế, phải được tiến hành theo kế hoạch, đề án, đảm bảo tính khách quan, 
công bằng. 
3.2.7. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, thông tin pháp 
luật về thi hành án dân sự cho các cá nhân, tổ chức, cơ quan có liên quan 
đến thi hành án dân sự 
Để thực hiện pháp luật THADS có hiệu quả thì cần thiết phải đẩy mạnh 
công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự nhất 
là từ cơ sở, một mặt nâng cao nhận thức về pháp luật thi hành án cho nhân 
dân và những đối tượng trực tiếp liên quan đến việc thi hành án dân sự, giúp 
người được thi hành án, người phải thi hành án và những người có quyền, 
nghĩa vụ liên quan đến thi hành án dân sự nâng cao khả năng tự bảo vệ mình, 
mặt khác tuyên truyền giáo dục phổ biến pháp luật về thi hành án dân sự giúp 
nhân dân và những người có liên quan trực tiếp đến việc thi hành án nắm rõ 
được các quyền, nghĩa vụ của mình cũng như pháp luật về thi hành án dân sự 
từ đó hình thành tri thức pháp luật, tình cảm niềm tin đối với pháp luật, có 
thói quen và hành vi xử sự hợp pháp tích cực từ đó nhận thức rõ: bản án, 
quyết định dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm 
chỉnh thi hành. Các biện pháp cụ thể: 
- Các cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh cần quan tâm hơn nữa 
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan 
như Hội đồng nhân dân, cơ quan Tư pháp, Công an, Tòa án, Kiểm sát, Mặt 
trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện công 
tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự, coi đây là 
hoạt động thường xuyên, liên tục của cấp ủy, chính quyền địa phương. 
104 
- Về hình thức tuyên truyền: Thường được thể hiện dưới nhiều dạng 
như: sân khấu hoá, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, phát tờ rơi... nhưng hiệu quả 
vẫn chưa cao. Trên thực tế, một vụ việc xảy ra trên địa phương luôn tạo được 
sự quan tâm của dư luận. Như vậy việc thông báo thi hành án nhằm công khai 
kết quả giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng đồng thời sẽ tạo nên một 
luồng dư luận rộng rãi trong nhân dân từ đó giúp họ hiểu rõ hơn về các quy 
định của pháp luật và tránh vi phạm khi gặp trường hợp tương tự, do đó cần 
thực hiện giải pháp tuyên truyền pháp luật thi hành án thông qua hình thức 
thông báo về thi hành án qua hệ thống truyền thanh cơ sở. Bởi hiện nay dân 
cư trên địa bàn các huyện trong tỉnh sống tập trung hình thành các làng bản, 
thôn xóm, khu phố; cấu thành nên nó là sự gắn kết các tổ chức đoàn thể xã 
hội, các dòng họ, gia đình. Trong các cụm dân cư này hầu hết đã có hệ thống 
loa truyền thanh công cộng. Đây được coi là phương tiện chủ yếu để đưa chủ 
trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân 
dân. Ngoài ra, hầu hết các đối tượng phải thi hành án không có điều kiện thi 
hành bản án đều đang sống chung trong một gia đình gồm nhiều thế hệ. Mối 
quan hệ gia đình có sự gắn kết chặt chẽ như: quan hệ vợ chồng, con cái, bố mẹ, 
ông bà, anh chị em ruột. Hành vi của mỗi cá nhân, gia đình thường bị chi phối 
bởi các quan điểm, quan niệm của dòng họ; hương ước, quy ước của làng xóm. 
Việc thông báo thi hành án không chỉ tác động đến người phải thi hành án mà 
còn tác động đến gia đình, dòng họ, làng xóm, các tổ chức đoàn thể nơi họ hoặc 
người thân của họ đang sinh hoạt. Từ đó có sự động viên, hỗ trợ, giúp đỡ người 
phải thi hành án nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ về thi hành án, đặc biệt 
đối với loại án có giá trị thấp. Điều này đồng nghĩa với việc giảm đáng kể lượng 
án và tiền tồn đọng trên địa bàn các đơn vị thi hành án dân sự cấp huyện và 
rất hiệu quả ở các huyện miền núi, đồng bào thiểu số. 
105 
Hình thức tuyên truyền thứ hai dành cho đối tượng phải thi hành án 
đang làm việc ở cấp xã, phường hoặc các cơ quan nhà nước bằng phương 
pháp, lập danh sách và trực tiếp làm việc với cấp ủy, chính quyền địa phương, 
thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, tổ chức mà người phải thi hành án đang làm 
việc nhưng không tự nguyện thi hành. Qua đó, sẽ tác động tích cực đến người 
phải thi hành án tự giác chấp hành nhanh hơn. Thực tế, vẫn có nhiều trường 
hợp người phải thi hành an đang là cán bộ, công chức những ý thức tự giác 
chấp hành pháp luật còn hạn chế và thủ trưởng đơn vị, cơ quan, tổ chức nơi 
người đó công tác cũng ngại va chạm, không tích cực để cùng phối hợp với 
cơ quan thi hành án, chấp hành viên thuyết phục, vận động tự nguyện thi 
hành. Cũng có trường hợp sau khi cơ quan thi hành án ra quyết định cưỡng 
chế trừ vào thu nhập lương của cán bộ, công chức là người phải thi hành án ở 
thực tế cũng khó khăn, gặp cản trở việc không thực hiện theo yêu cầu của cơ 
quan thi hành án, chấp hành viên... Hình thức tuyên truyền bằng phương pháp 
thông báo trực tiếp với cơ quan, đơn vị nơi người phải thi hành án đang công 
tác, làm việc là góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật hơn. 
Để làm được điều đó, các cơ quan thi hành án cần thông qua chương 
trình, kế hoạch với Ban Chỉ đạo thi hành án cùng cấp và thường trực Uỷ ban 
nhân dân; tham mưu cho chủ tịch Uỷ ban nhân dân ra chỉ thị cho Uỷ ban nhân 
dân các xã, phường, thị trấn thực hiện việc thông báo về thi hành án trên hệ 
thống loa truyền thanh cơ sở; Uỷ ban nhân dân cấp xã, Mặt trận tổ quốc xã chủ 
trì việc chỉ đạo phối hợp với cơ quan Thi hành án trong công tác thi hành án. Cơ 
quan Thi hành án cùng với Phòng tư pháp xây dựng chương trình kế hoạch hàng 
tuần, tháng để phổ biến tuyên truyền và thi hành pháp luật trên địa bàn cấp 
huyện; Cơ quan Thi hành án rà soát và lập danh sách các vụ việc cần thiết phải 
thông báo trên địa bàn lập thông báo đối với từng vụ việc cụ thể giao cho Uỷ ban 
nhân dân các xã, thị trấn thực hiện việc thông báo trên hệ thống loa truyền thanh. 
106 
Ngoài giải pháp tuyên truyền thông qua hình thức thông báo về thi 
hành án qua hệ thống truyền thanh cơ sở thì cũng cần quan tâm đến các hình 
thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật khác như: tuyên truyền trong 
trại cải tạo đối với các đối tượng đang thi hành án phạt tù, cần phổ biến cho 
họ nếu thi hành xong phần nghĩa vụ dân sự thì được xem xét để giảm án, hoặc 
đặc xá; tuyên truyền qua Đài Phát thanh, truyền thanh tỉnh, Đài phát thanh 
truyền hình huyện; tuyên truyền thông qua sinh hoạt của các tổ chức, đoàn 
thể; thông qua việc giáo dục, thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính quyền, 
đảng viên, cán bộ đoàn thể, hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố, già làng, 
trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng dân cư nhằm tạo sự 
đồng thuận trong cộng đồng dân cư; truyên truyền thông qua việc khai thác, 
sử dụng hiệu quả tủ sách pháp luật ở xã, phường và đưa việc thực hiện nghĩa 
vụ thi hành án dân sự vào xét tiêu chuẩn gia đình văn hoá, thôn, bản văn hoá; 
thông qua các câu lạc bộ pháp lý... nhằm mục đích cuối cùng là đưa pháp luật 
thi hành án dân sự đến với người dân để dân hiểu và thực hiện. 
3.2.8. Thực hiện xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự 
Xã hội hóa công tác THADS là một chủ trương lớn, một vấn đề cần 
được quan tâm trong tổng thể quá trình xã hội hóa. Nghị quyết Đại hội Đảng 
lần thứ IX chủ trương tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa trong nhiều lĩnh vực; 
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây 
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 
2020 đã đưa ra những chủ trương chung về xã hội hóa một số hoạt động tư 
pháp; Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến 
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Nghiên cứu chế định Thừa 
phát lại (thừa hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa 
phương, sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp 
theo”. Từ khi có Nghị quyết này đã đặt mốc thời gian quan trọng khẳng định 
việc áp dụng thí điểm chế định Thừa phát lại trong công tác THADS [30]. 
107 
Như vậy, chế định Thừa phát lại như là bước đầu công việc mới của 
giai đoạn xã hội hóa hoạt động THADS, như là một dịch vụ để cung ứng 
cho xã hội, công dân những nhu cầu cần thiết, đáp ứng nguyện vọng của 
người dân theo xu hướng đổi mới và hội nhập quốc tế ngày nay. Để nâng 
cao hơn và bước đầu thực hiện hoạt động đó thì nên bỏ thí điểm Thừa phát 
lại mà đưa hoạt động Thừa phát lại vào thực tiễn. 
Để hoạt động Thừa phát lại phát huy hiệu quả trong thực tiễn, cần 
tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự; nghiên cứu thực hiện và phát 
triển các loại hình dịch vụ từ phía Nhà nước để tạo điều kiện cho các 
đương sự chủ động thu thập chứng cứ, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của 
mình... từng bước thực hiện xã hội hóa và quy định hình thức thủ tục để 
giao cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công 
việc THADS, trong đó đã xác định rõ nhiệm vụ của công tác xã hội hóa 
trong lĩnh vực THADS. Đặc biệt, Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 
14/11/2008 của Quốc hội khóa XII về thi hành Luật THADS và Nghị định 
số 61/NĐ-CP ngày 24/07/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của 
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, 
thành phố trực thuộc trung ương. 
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, việc xã hội hóa từng bước 
THADS là cần thiết vì nó mang lại những lợi ích như việc xã hội hóa giúp 
giảm tải khối lượng công việc của cơ quan THADS đang ngày càng tăng 
lên không ngừng, góp phần giải quyết tình trạng hồ sơ thi hành án tồn 
đọng, tạo điều kiện để các cơ quan THADS tinh lọc, kiện toàn, tinh giản 
biên chế, làm gọn nhẹ bộ máy, tiết kiệm một cách đáng kể cho ngân sách 
nhà nước. Mặt khác, thực hiện xã hội hóa sẽ giúp cho việc nâng cao chất 
lượng THADS nhờ có sự cạnh tranh giữa các cơ quan, tổ chức THADS; 
làm thay đổi phong cách, lề lối làm việc, thái độ phục vụ, khắc phục tệ 
quan liêu, cửa quyền, nhũng nhiễu nhân dân; tạo thêm khả năng lựa chọn 
108 
cho người dân phù hợp với điều kiện, khả năng cụ thể của mình. 
Tính đến nay, Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, chế định Thừa 
phát lại đã được thí điểm tại 13 địa phương với 53 Văn phòng Thừa phát lại 
được thành lập, có 134 Thừa phát lại, 295 Thư ký nghiệp vụ đang hành nghề tại 
các Văn phòng. Về hoạt động, tính đến ngày 30/9/2015, các Văn phòng Thừa 
phát lại đã tống đạt được gần 940 ngàn văn bản của Tòa án và cơ quan thi hành 
án dân sự, lập gần 43 ngàn vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án 885 việc, 
trực tiếp tổ chức thi hành án 378 vụ việc, đạt tổng doanh thu là gần 136 tỷ 
đồng[41], [44]. Thừa phát lại đã bắt đầu trở thành một nghề, từng bước khẳng 
định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong hoạt động bổ trợ tư 
pháp. Như vậy, có thể khẳng định, chủ trương của Đảng và Nhà nước đã từng 
bước đi vào cuộc sống, được người dân, xã hội đón nhận. Tuy công việc thừa 
phát lại chỉ ở các nhiệm vụ là tống đạt các văn bản của Tòa án, cơ quan thi 
hành án, cấp vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án và chưa thể thực hiện 
nhiệm vụ cưỡng chế thi hành án được do chế định Thừa phát lại chưa có Luật 
thừa phát lại điều chỉnh nên còn hạn chế nhiều. 
Để phát triển hoạt động thi hành án dân sự theo hướng xã hội hóa, tạo 
ra những dịch vụ cung ứng cho xã hội, phục vụ cho nhu cầu của người dân, 
đảm bảo các quyền của công dân, quyền con người thì vấn đề xã hội hóa một 
số hoạt động thi hành án dân sự là cần thiết. 
Tuy nhiên, cần phải khẳng định trong điều kiện hiện nay, các loại việc 
như: tống đạt các văn bản về thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án, hòa 
giải, lập biên bản vận động, thuyết phục giữa các bên đương sự tự nguyện thi 
hành nếu được xã hội hóa thì sẽ giảm tải các hoạt động tác nghiệp của cơ 
quan thi hành án, chấp hành viên và mang tính cạnh tranh để thúc đẩy hiệu 
quả thi hành án cao hơn, giảm án tồn đọng và đáp ứng nguyện vọng của nhân 
dân, xã hội hơn theo xu thế đổi mới, dân chủ, công khai và minh bạch. 
109 
Tiểu kết chương 3 
Để công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Phú Yên được thực 
hiện nghiêm chỉnh và đúng pháp luật, trên cơ sở nghiên cứu luật Hiến pháp- 
Luật Hành chính, các quan điểm của Đảng về thi hành án nói chung, thi hành 
án dân sự nói riêng và từ thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở 
Phú Yên, tác giả đã xây dựng một loạt các giải pháp như trên. Trong đó, các 
giải pháp cơ bản nhất là Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải dựa 
trên nguyên tắc tôn trọng quyền con người của nhà nước pháp quyền, Hoàn 
thiện pháp luật về thi hành án dân sự phải phù hợp với chủ trương, đường lối, 
chính sách của Đảng về thi hành án dân sự; Hoàn thiện pháp luật về thi hành 
án dân sự phải nhằm phát huy vai trò của cá nhân, tổ chức và nhà nước trong 
hoạt động thi hành án dân sự; Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động thi 
hành án dân sự đạt hiệu quả; Nghiên cứu, xây dựng và ban hành Bộ luật Thi 
hành án chung để thống nhất quản lý và nâng cao chất lượng các hoạt động 
thi hành án; Kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án và nâng cao năng 
lực hoạt động của đội ngũ chấp hành viên; Tăng cường kiểm tra, thanh tra 
công tác thi hành án dân sự nhằm bảo đảm kỷ cương và nâng cao chất lượng 
hiệu quả công thi hành án dân sự ; Tăng cường các biện pháp giải quyết các 
vụ việc thi hành án dân sự tồn đọng; Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp ủy 
Đảng, chính quyền địa phương và phát huy vai trò của hệ thống chính trị 
trong công tác phối hợp thi hành án dân sự; Thực hiện xã hội hóa hoạt động 
thi hành án dân sự... Hy vọng với các nhóm giải pháp trên sẽ khắc phục cơ 
bản thực trạng yếu kém trong công tác thi hành án dân sự không chỉ riêng địa 
bàn tỉnh Phú Yên mà các địa phương trong cả nước, từ đó đẩy mạnh hiệu quả, 
hiệu lực thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, đảm bảo các bản án, quyết 
định của Toà án nhân dân nhà nước phải được thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ 
kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước. 
110 
KẾT LUẬN 
Thi hành án dân sự là hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong 
việc bảo vệ pháp chế XHCN, duy trì ổn định, trật tự kỷ cương xã hội, là hoạt 
động qua trọng của Nhà nước để những bản án, quyết định đã có hiệu lực 
pháp luật của Tòa án và của các cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định 
được thi hành trên thực tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ 
chức và Nhà nước. Với tầm quan trọng và vai trò to lớn như vậy nên hoạt 
động thi hành án nói chung, Thi hành án dân sự nói riêng đang ngày được 
quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước, nhằm xây dựng ngành Thi 
hành án ngày càng lớn mạnh, phát huy được vị trí, vai trò và nhiệm vụ được 
giao và nâng tầm vị thế của ngành THADS ngang bằng các cơ quan tiến hành 
tố tụng. 
Pháp luật về THADS là một công cụ quan trọng để điều chỉnh các quan 
hệ xã hội phát sinh và điều chỉnh các hoạt động của cá nhân, tổ chức có liên 
quan đến lĩnh vực THADS, hiện thực hóa các quyền, nghĩa vụ trong bản án trên 
thực tế, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật và pháp chế XHCN và 
đảm bảo sự ổn định trật tự, an toàn xã hội. Tuy hình thành, ra đời cùng ngành 
Tư pháp hay Tòa án nhân dân nhưng THADS có sự gián đoạn do yếu tố 
khách quan và phát triển muộn hơn. Nhưng được sự quan tâm của Đảng và 
Nhà nước, pháp luật về THADS đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, 
đáng ghi nhận. Từ Pháp lệnh thi hành án dân sự 1989 đã hình thành và phát 
triển cơ bản kiện toàn, sửa đổi, bổ sung đến Pháp lệnh 1993, pháp lệnh 2004 
và trở thành Luật thi hành án dân sự năm 2008, hoàn thiện hơn ở Luật Thi 
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đã có nhiều Nghị định, 
Thông tư được sửa đổi, bổ sung kịp thời theo sự phát triển chung của xã hội... 
Bên cạnh kết quả đạt được, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự vẫn còn 
nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. 
111 
Trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp xây dựng Nhà 
nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc hoàn 
thiện pháp luật về thi hành án dân sự trên phạm vi toàn quốc là sự đòi hỏi 
mang tính tất yếu, khách quan. 
Với những nội dung đã được đề cập trong luận văn, hy vọng sẽ cung 
cấp những thông tin đầy đủ, toàn diện, chính xác, góp một phần nhỏ trong 
việc xây dựng chiến lược, kế hoạch tổ chức, hoạt động quản lý nhà nước và 
hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại các địa phương trên cả nước nói 
chung, góp phần xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện về lĩnh vực 
THADS nhằm nâng cao hiệu quả của công tác THADS, góp phần xây dựng 
nền hành chính - tư pháp dân chủ, chuyên nghiệp, hiện đại trong điều kiện 
hiện nay của nước ta. 
112 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số 
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến 
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về chiến 
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2012, 
định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 
4. Bộ chính trị (2005), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính 
trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 
5. Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Bộ Tài chính - Tòa án nhân dân tối cao - Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Thông tư liên tịch số 14/2011/TTLT-
BTP-BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 11/7/2011 
6. Bộ Tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Mô hình quản lý thống 
nhất công tác thi hành án", mã số 96-98-027/ĐT 
7. Bộ Tư pháp, Đề tài cấp Nhà nước "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ 
chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" 
8. Bộ Tư Pháp, Báo cáo chuyên đề về một số vấn đề về tổ chức thi hành Nghị 
quyết của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại (Hội nghị trực tuyến 
triển khai công tác tư pháp năm 2016 và định hướng nhiệm kỳ 2016-2020) 
9. Bộ Tư Pháp- Bộ Công an - Bộ Tài chính - Tòa án nhân dân tối cao - Viện 
kiểm sát nhân dân tối cao (2013), Quy chế phối hợp liên ngành số 
14/2013/QCLN-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 o về 
phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự 
10. Bộ Tư Pháp Bộ Tài chính - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân 
dân tối cao (2015), Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-
113 
TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 về hướng dẫn việc miễn, giảm 
nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách nhà nước. 
11. Bộ Tư pháp (2015), “Các bài viết trong số chuyên đề về công tác thi hành 
án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (tháng 7), ngày 24/7/2015. 
12. Bộ Tư Pháp (2016) Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm ngày truyền 
thống Thi hành án dân sự (19/7/1946 - 19/7/2016) 
13. Hoàng Kim Chiến (2010), Luận văn thạc sĩ luật học "Quản lý nhà nước 
trong lĩnh vực thi hành án dân sự", Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội 
14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên, Báo cáo tổng kết công tác 10 năm 
(1993-2003) 
15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2011), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2011, phương hướng, nhiệm vụ năm 2012 
16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2012), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2012, phương hướng, nhiệm vụ năm 2013 
17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2013), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2013, phương hướng, nhiệm vụ năm 2014 
18. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2014), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2014, phương hướng, nhiệm vụ năm 2015 
19. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2015), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2015, phương hướng, nhiệm vụ năm 2016 
20. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2016), Báo cáo tổng kết công tác 
năm 2016, phương hướng, nhiệm vụ năm 2017 
21. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2012), Quyết định số 960/QĐ-
CTHADS ngày 14/11/2012 về việc quy định về chuẩn mực đạo đức nghề 
nghiệp của cán bộ, công chức cơ quan Thi hành án dân sự 
22. Chính phủ (2009), Nghị định 74/NĐ-CP ngày 09/09/2009 quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ 
114 
quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công 
chức làm công tác thi hành án dân sự. 
23. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy 
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân 
sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và 
công chức làm công tác thi hành án dân sự. 
24. Chính phủ (2002), Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2001 của Thủ tướng 
Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới 
25. Chính Phủ (2009) Nghị định số 61/NĐ-CP ngày 24/07/2009 về tổ chức 
và hoạt động của Thừa phát lại 
26. Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật hành chính, Nhà xuất bản 
Công an nhân dân, Hà Nội 
27. Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình môn Luật Thi hành án dân sự 
Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội 
28. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình lý luận Nhà 
nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
29. Lê Kim Dung (2002), Thi hành án dân sự Việt Nam - Thực trạng và 
những gợi ý hướng tới một hệ thống hoàn thiện, Hà Nội. 
30. Lê Xuân Hồng (2002), Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận 
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội 
31. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự. 
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 
32. Nguyễn Đức Nghĩa (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn 
đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ 
Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 
33. Quốc hội (2009), Luật hình sự được sửa đổi, bổ sung năm 2009 
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013 
115 
35. Quốc hội (2008), Luật thi hành án dân sự 
36. Quốc hội (2008) Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của 
Quốc hội khóa XII về thi hành Luật THADS 
37. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 
38. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự 
39. Thủ Tướng Chính Phủ (2001), Chỉ thị số 20/2001/CT-TTG về tăng cường 
và nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự 
40. Thủ Tướng Chính Phủ (1993), Chỉ thị số 266/02/6/1993/CT-TTg về triển 
khai bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự trong tình hình 
trước mắt 
41. Tổng Cục Thi hành án dân sự - Bộ tư pháp (2014), quy chế phối hợp liên 
ngành trong THADS: Giải pháp thanh lý các vụ án khó - Cổng thông tin 
điện tử của Bộ Tư pháp, cập nhật ngày 21/01/2014. 
42. Tổng cục thi hành án- Bộ tư pháp, (2011), Sơ kết 2 năm thực hiện Luật 
Thi hành án dân sự: Nhiều vướng mắc từ quy định của pháp luật, trang 
điện tử Bộ Tư pháp, cập nhật ngày 21/12/2011 
43. Tổng cục thi hành án dân sự (2016), Tài liệu tập huấn triển khai các nội 
dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014; các văn bản hướng dẫn 
thi hành và kỹ năng rà soát, chỉ đạo, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố 
cáo về thi hành án dân sự 
44. Tổng cục thi hành án – Bộ Tư Pháp (2016), Báo cáo kết quả một số lĩnh 
vực công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2016 
45. Lê Anh Tuấn (2004), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận 
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. 
46. Nguyễn Thanh Thủy, Lê Anh Tuấn (2014), Những nội dung cơ bản của Luật 
Thi hành án dân sự, trang web luatminhkhue.vn, cập nhật 12/10/2014 
116 
47. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thị hành án 
dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị 
quốc gia Hồ Chí Minh 
48. Nguyễn Thanh Thủy (, Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật 
thi hành án dân sự" , Hà nội 
49. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội. 
50. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội 
51. UBND tỉnh Phú Yên (2015), Chỉ thị số 69/CT-UBND về việc tăng cường 
chỉ đạo, quản lý, phối hợp, hỗ trợ triển khai thực hiện chế định thừa phát 
lại trên địa bàn tỉnh Phú Yên 
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2010), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh 
tế - xã hội tỉnh Phú Yên đến năm 2020. 
53. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà N ng, Đà N ng 
54. Viện Kiểm sát nhân dân – Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Yên (2015), 
Quy chế phối hợp số 620/QCLN/VKSND - CTHADS ngày 25/7/2011 
nhằm phối hợp đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ việc thi hành án còn 
tồn đọng 
117 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_phap_luat_ve_thi_hanh_an_dan_su_tu_thuc_tien_tinh_p.pdf luan_van_phap_luat_ve_thi_hanh_an_dan_su_tu_thuc_tien_tinh_p.pdf