Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, những
quan điểm văn hóa mácxít được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn văn hóa Việt Nam, đặt
sự nghiệp giải phóng văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc, văn hóa Việt Nam
mới mở ra một trang mới, một nền văn hóa độc lập trong một quốc gia độc lập. Với sự
phát triển mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay, nhất là văn hóa học,
nhiều quan niệm đã bị vượt qua, chỉ còn là giá trị lịch sử. Nhưng rõ ràng, nó đã ghi một
dấu mốc quan trọng trong buổi đầu chập chững đến với khoa học ở đầu thế kỷ XX của
giới trí thức dân tộc, đóng góp cho di sản lý luận văn hóa dân tộc và để lại những bài
học kinh nghiệm cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay.
93 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3059 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị mới dừng lại
ở việc giải phóng dân tộc ra khỏi ách đô hộ của ngoại xâm, lật đổ chế độ quân chủ
phong kiến, đem lại chính quyền về tay nhân dân lao động cho nên muốn hoàn thành
được cuộc cải tạo xã hội thì không chỉ dừng lại ở cách mạng chính trị mà phải hoàn
thành cách mạng văn hóa. Bởi lẽ, trong cuộc vận động xã hội to lớn này, không chỉ
dừng lại ở phá đổ cái cũ mà phải xây dựng cái mới như thế nào? Sau khi đánh đổ giai
cấp thống trị, lực lượng cách mạng phải có đủ tài lực củng cố địa vị của mình, tiếp tục
công việc xây dựng xã hội, gây dựng một nền văn hóa mới, vì vậy “Công cuộc vận động
về văn hóa cũng quan trọng như cuộc vận động về kinh tế, chính trị. Nên vấn đề văn hóa
ngày nay đã trở thành một mặt trận thứ ba trên chiến tuyến của vô sản giai cấp” [33, tr.537].
2.3.2. Quan niệm về nền văn hóa mới và chương trình hành động văn hóa
Danh từ tân văn hóa (văn hóa mới) xuất hiện trong các sách báo công khai ở đầu
những năm 40. Nhóm Hàn Thuyên xuất bản loại sách Tân văn hóa và tạp chí Văn mới
nghị luận cổ động cho phong trào Tân văn hóa rất rầm rộ nhưng họ không dám chống
lại chính sách văn hóa của Pháp và Nhật lúc đó, không chỉ ra được phương châm vận
động tân văn hóa ở Việt Nam phải như thế nào. Do đó, khẩu hiệu của họ đưa ra hoàn
toàn xa lạ với một nền văn hóa mới mà dân tộc đang đòi hỏi. Đối với những người
mácxít, để vạch ra đặc trưng của nền văn hóa mới của dân tộc phải có sự phân tích sâu
sắc tính chất của văn hóa cũ và chương trình hành động để xây dựng nền văn hóa đó.
Về tình trạng của văn hóa Việt Nam, Trường Chinh - nhà lý luận mác xít chỉ ra ba căn
bệnh lớn:
Thứ nhất là phản dân tộc, do điều kiện là một nước thuộc địa, dưới quyền thống
trị của thực dân Pháp, văn hóa Việt Nam “hóa thành nô dịch và bị chia rẽ, phát triển
không đồng đều, thiếu hẳn tinh thần độc lập tự do và dân tộc thống nhất” [33, tr.50].
Những tinh hoa của văn hóa dân tộc không được tìm tòi, vun bón, phát triển mà lại Âu
hóa, Nhật hóa hoặc nệ cổ theo lối Tống Nho. Với sự phát triển không đồng đều giữa các
vùng, lại bị Pháp chia thành các vùng miền có tổ chức chính trị, giáo dục khác nhau làm
cho đất nước chia rẽ, văn hóa Việt Nam thiếu hẳn tính cách dân tộc thống nhất.
Thứ hai là phản khoa học, nước ta là một nước nông nghiệp, chính sách thuộc địa
của Pháp là hạn chế khoa học phát triển làm cho “óc khoa học của đồng bào ta vì thế rất
mỏng manh, kém cỏi” [33, tr.51]. Điều đó đã ảnh hưởng không tốt đến các ngành văn
học, nghệ thuật. Mặt khác, để tiện cho việc cai trị, thực dân Pháp đã duy trì những sản
phẩm văn hóa thời phong kiến mà mang tính duy tâm, phản khoa học.
Thứ ba là phản đại chúng: đông đảo quần chúng mù chữ, gần như đứng ngoài
các hoạt động văn hóa, không được thưởng thức các sản phẩm văn hóa. Trong khi đại
chúng là người “mang sức sống vật chất của xã hội” thì các nhà văn hóa đáng lẽ phải
phục vụ đại chúng, quan hệ mật thiết với đại chúng nhưng đằng này lại “phản bội đại
chúng, xa đại chúng” làm cho văn hóa không “bắt rễ thẳng ở đại chúng. Kết quả văn
hóa cằn cỗi héo hon” [33, tr.52].
Nhiệm vụ của các nhà văn hóa lúc này là phải chống lại ba căn bệnh trên, thực
hiện cuộc vận động “tân văn hóa” để xây dựng nền văn hóa mới cho dân tộc.
Văn hóa mới là gì? Trong Đề cương văn hóa đã xác định rõ văn hóa mới Việt
Nam chưa phải là văn hóa xã hội chủ nghĩa mà là “một thứ văn hóa có tính chất dân tộc
về hình thức và tân dân chủ về nội dung” [33, tr.137]. Qua việc đưa ra ba nguyên tắc
trong cuộc vận động văn hóa mới: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa. Đảng ta
khẳng định văn hóa mới mà chúng ta hướng tới xây dựng là nền văn hóa của một dân
tộc độc lập, của nhân dân, phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân dân và chống lại
những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ. Là người mở đường cho việc xây
dựng nền văn hóa mới Việt Nam, khi còn ở trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí
Minh đã chỉ ra năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong
xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế [35, tr.431].
Như vậy, việc xây dựng nền văn hóa mới không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực văn
hóa mà nó liên quan đến tất cả các mặt của đời sống xã hội cả về vật chất và tinh thần.
Về tinh thần, phải biết khơi dậy sức mạnh của cả dân tộc với khát vọng độc lập tự
cường, đưa đất nước ra khỏi kiếp nô lệ. Về kinh tế, xây dựng kinh tế như một điều kiện
không thể thiếu được để gây dựng nền văn hóa mới. Trong đó, Hồ Chí Minh luôn nhấn
mạnh đến nhân tố con người, tới nhân dân lao động, xây dựng luân lý, xã hội, chính trị,
kinh tế cũng là vì làm lợi cho dân, đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc của nhân dân và
quyền sống của nhân dân. Sau khi cách mạng thành công, giữa lúc chính quyền non trẻ
còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, Hồ Chí Minh đã đề cập đến tính
chất của nền văn hóa mới chúng ta cần bắt tay xây dựng: “Cái văn hóa mới này cần phải
có tính chất khoa học, tính cách đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hóa của tư
tưởng hiện đại” [37, tr.13]. Đồng thời, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến tính dân tộc của
nền văn hóa mới, Hồ Chí Minh cho rằng nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng phải
mang tính dân tộc, Người nói: “Phải trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần
thuần túy Việt Nam, phải lột cho hết tinh thần dân tộc” [27, tr.181]. Nhưng cái “tinh
thần thuần túy Việt Nam” ấy lại phải hợp với “tinh thần dân chủ”, điều đó có nghĩa là
nền văn hóa mới phải kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc đồng thời
phải tiếp thu cái hay, cái đẹp của nhân loại, để cho nền văn hóa Việt Nam mang trong
mình những giá trị chung của thế giới. Tư tưởng này của Hồ Chí Minh có ý nghĩa to lớn
trong việc định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
ở nước ta hiện nay.
Đề cương văn hóa cũng không chỉ dừng lại những quan niệm về văn hóa, tính
chất nền văn hóa mà trong điều kiện chuẩn bị giành chính quyền, nó mang tính chất của
một cương lĩnh văn hóa, đưa ra chương trình hành động và nhiệm vụ cụ thể của những
nhà văn hóa mác xít Việt Nam. Trước hết Đề cương nêu lên mục đích trước mắt là
chống lại văn hóa phát xít, phong kiến, văn hóa ngu dân và lừa phỉnh nhân dân, sau đó
là công việc phải làm: đấu tranh với các học thuyết tư tưởng, ít nhiều ảnh hưởng tai hại
ở nước ta như triết học Khổng Mạnh, Đềcáctơ, Bécxông, Canto...; khẳng định tính đúng
đắn của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đấu tranh chống các
trường phái văn nghệ như chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên,
chủ nghĩa tượng trưng…để đưa xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa giữa vai trò chủ đạo.
Đề cương cũng đề cập đến việc thống nhất và làm giàu thêm tiếng nói, chữ viết và cải
cách chữ quốc ngữ. Sau cùng Đề cương nêu lên cách vận động như tuyên truyền xuất
bản, tổ chức các nhà văn, chống nạn mù chữ…để thống nhất mọi hoạt động văn hóa tiến
bộ dưới quyền lãnh đạo của Đảng. Thực tiễn cho thấy, chương trình và những nhiệm vụ
cụ thể mà Đề cương nêu ra đã đáp ứng được yêu cầu của văn hóa dân tộc lúc đó, chính
vì thế sau khi Đề cương ra đời, các văn nghệ sĩ đã tập hợp lại trong Hội Văn hóa cứu
quốc tạo thành lực lượng quan trọng đóng góp cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tóm lại, nội dung cơ bản trong nhận thức lý luận văn hóa ở nước ta giai đoạn
nửa đầu thế kỷ là những quan niệm về văn hóa, văn hóa dân tộc và quan niệm của
những người mácxít Việt Nam, trong đó chiếm vị trí nổi bật là quan niệm về văn hóa
dân tộc. Hàng loạt vấn đề được đặt ra trong các cuộc tranh luận xung quanh chủ đề này:
bản sắc dân tộc là gì? Nước ta có bản sắc hay không? Làm cách nào để gây dựng cho
dân tộc một nền văn hóa riêng? Nhiều ý kiến đã được các học giả đưa ra rất phong phú
với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, trong điều kiện đất nước đang trong vòng
nô lệ, con đường phát triển văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới chỉ thành công khi đặt
trong quỹ đạo của cách mạng giải phóng dân tộc. Chính vì thế, những quan niệm văn
hóa theo khuynh hướng mácxít đã khẳng định được vai trò của mình và trở thành ngọn
cờ chủ đạo trong sự nghiệp xây dựng văn hóa của dân tộc.
Chương 3
Những đặc điểm của quá trình nhận thức lý luận
văn hóa giai đoạn nửa đầu thế kỷ xx và bàI học
kinh nghiệm rút ra đối với việc phát triển lý luận văn hóa ở nước ta hiện nay
3.1. Nhận định chung
3.1.1. Những đặc điểm
Trong cuốn sách “Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam” GS, TS Trần Ngọc Thêm
có đánh giá những công trình nghiên cứu nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam: tuyệt đại bộ
phận các công trình được viết ra mang tính chất miêu tả, có giá trị tư liệu hết sức quý
báu nhưng bên cạnh đó còn tồn tại ba nhược điểm chủ yếu là:
- Tản mạn, thiếu tính hệ thống, tính quy luật.
- Chứa đựng nhiều mâu thuẫn nội tại.
- Thường bị chi phối một cách vô thức bởi căn bệnh lấy “Trung Hoa làm trung
tâm” [62, tr.12]
Đây là những nhận định tương đối thuyết phục đối với các công trình nghiên cứu
văn hóa nói chung hơn một thế kỷ qua. Trong khuôn khổ của luận văn, bước đầu chúng
tôi chỉ đưa ra một số nhận xét về quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX.
Thứ nhất về phương diện nội dung, những nhận thức lý luận về văn hóa của giai
đoạn này là kết quả của quá trình tiếp thu lý luận văn hóa thế giới và phản ánh thực tiễn
văn hóa Việt Nam.
Những nội dung cơ bản trong nhận thức lý luận văn hóa đầu thế kỷ XX cho đến
năm 1945 được trình bày trên đây bao gồm: quan niệm về văn hóa; về văn hóa dân tộc;
quan niệm của những người mác xít. Những nội dung này đã khái quát quá trình nhận
thức lý luận về văn hóa ở nước ta: từ việc tiếp thu thành tựu lý luận của thế giới đi đến
nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong đó, quan điểm về văn hóa của những người mác xít
Việt Nam là sự tiếp thu và vận dụng thành công chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây
dựng một nền văn hóa mới của dân tộc gắn liền với công cuộc giải phóng đất nước ra
khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân.
Như đã trình bày, cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta chưa có chuyên ngành lý luận
văn hóa, nghiên cứu lý luận văn hóa hầu như chưa có gì. Trước đó, các nhà tư tưởng của
dân tộc cũng đã từng đề cập đến văn hóa nhưng chưa thể gọi đó là lý luận với tư cách là
hệ thống tri thức cơ bản trên lĩnh vực văn hóa. Lý luận nói chung, lý luận văn hóa nói
riêng ra đời dựa trên những tiền đề, cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong một
nước nông nghiệp phương Đông khép kín với thế giới bên ngoài, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của học thuyết Nho giáo cùng với những điều kiện riêng về lịch sử, Việt Nam không
có tiền đề để cho lý luận văn hóa có khả năng xuất hiện. Mặc dù nước ta vẫn có những
sách sử ký, địa dư, lịch sử, văn chương nhưng không có những cuộc tranh luận về
phương pháp viết sách học thuật, không có một môn học chuyên biệt về những phương
pháp tìm chân lý, phát triển tư duy khoa học. Nói cách khác, chúng ta không có một “lý
luận học được quan niệm là một môn riêng biệt, được vun bón cẩn thận, chăm chút kỹ
lưỡng” [33; tr.663]. Cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây từ cuối thế kỷ XIX, mở cửa
với thế giới bên ngoài sau một thời gian dài bế quan tỏa cảng đã tạo cơ hội cho trí thức
dân tộc tiếp xúc với những thành tựu của văn minh nhân loại. Qua phong trào Tân thư,
qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, những thành tựu này tác động mạnh mẽ vào
Việt Nam, được nhiều trí thức dân tộc đón nhận một cách hào hứng. Những cuộc tranh
luận mang tính học thuật, những cuốn sách khảo cứu về triết học, sử học, văn hóa, kinh
tế đã bắt đầu xuất hiện. Cuốn sách đầu tiên có liên quan đến lý luận văn hóa mang dấu
ấn của sự tiếp thu lý luận của thế giới là Văn minh tân học sách. Tác phẩm này được các
sĩ phu yêu nước sáng lập Đông Kinh nghĩa thục biên soạn năm 1904, là cương lĩnh văn
hóa, ngọn cờ tư tưởng cho phong trào Duy Tân đầu thế kỷ XX. Các tác giả của cuốn
sách đã trình bày những nét khái quát về khái niệm văn minh, phân biệt sự khác nhau
giữa văn minh Việt Nam (văn minh tĩnh) với văn minh phương Tây (văn minh động),
chỉ ra nguyên nhân tụt hậu và cách thức để đưa đất nước phát triển theo con đường văn
minh. Rõ ràng, những nội dung này dựa trên sự kế thừa tác phẩm “Văn minh luận chi
khái lược” của Phúc Trạch Dụ Cát, một học giả Nhật Bản, người đã có công trong việc
dịch chuyển văn hóa phương Tây vào Nhật Bản. Trong buổi đầu, như mọi sự tiếp xúc
một cái gì mới lạ sự tiếp thu còn mang tính “bắt chước”, dịch những sách của nước
ngoài về lý luận văn hóa. Văn minh luận do Phạm Quỳnh biên dịch là một ví dụ, tác giả
đã giải nghĩa khái niệm văn minh bằng cách đưa ra các quan niệm của các học giả
phương Tây bàn về văn minh như Littre, Guizot, Gibbon… với bốn đặc điểm: có tiến bộ
về khoa học; về dân chủ, về kinh tế và về quan hệ quốc tế, từ đó, tác giả đi đến chứng
minh nước Pháp có đầy đủ các yếu tố đó, là một nước văn minh. Trong cuộc tranh luận
về Quốc học mà Lê Dư là người khởi xướng, ông đã đưa ra định nghĩa Quốc học theo
tinh thần của người Nhật Bản, nghiên cứu nền Quốc học của Nhật Bản để từ đó chứng
minh nước ta cũng có một nền Quốc học cũng không kém gì Nhật Bản cả. Quan niệm
của Lê Dư đã gây ra cuộc tranh luận thu hút nhiều học giả đương thời tham gia, sự
không thống nhất giữa các ý kiến này khởi nguồn từ định nghĩa của Lê Dư và chính sau
này ông đã phải đưa ra một định nghĩa mới phù hợp với Việt Nam hơn. Để viết được
Việt Nam văn hóa sử cương, trước hết Đào Duy Anh đã dựa vào khái niệm văn hóa của
các học giả Pháp và Trung Quốc lúc đó là F. Sartiaux và Dương Đông, cả hai người này
khi đưa ra khái niệm văn hóa đều chú trọng những yếu tố xã hội và tinh thần hơn là yếu
tố kinh tế. Đào Duy Anh cho những quan niệm đó là phù hợp với yêu cầu của cuốn
sách, ông đã tiếp thu cách tiếp cận đó để đi vào nghiên cứu văn hóa Việt Nam, ông còn
tham khảo cách sắp xếp của F. Sartiaux chia cuốn Việt Nam văn hóa sử cương ra làm ba
phần lớn: sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và chính trị, sinh hoạt về kinh tế và đặt
thêm một phần tự luận nêu lên điều kiện địa lý của Việt Nam. Dần dần, sự tiếp thu của
các học giả Việt Nam đi vào chiều sâu hơn, thoát khỏi “sự bắt chước vụng về”, có sự
chọn lọc trong việc tiếp nhận, thẩm thấu được những tư tưởng mới đó để tự mình có
những kiến giải riêng. Điều đó thể hiện ở những nghiên cứu về văn hóa dân tộc chiếm
một phần lớn, quan trọng trong những nhận thức lý luận về văn hóa mà giai đoạn này có
được. Từ sự tiếp thu lý luận văn hóa của thế giới, các học giả tập trung vào nghiên cứu
văn hóa Việt Nam, những vấn đề liên quan đến văn hóa dân tộc như bản sắc văn hóa,
dân tộc Việt Nam có bản sắc hay không, con đường để xây dựng văn hóa dân tộc…
được đem ra tranh luận hết sức quyết liệt. Những nhận thức lý luận về văn hóa dân tộc
xuất hiện ngày càng nhiều, với các cách tiếp cận đa dạng từ các cuộc tranh luận. Thực
tiễn sự vận động của văn hóa Việt Nam trong cuộc giao lưu tiếp xúc với văn hóa
phương Tây đã được phản ánh rất rõ thông qua các quan niệm về bản sắc dân tộc. Ngay
như Đề cương văn hóa Việt Nam, một tác phẩm chịu ảnh hưởng của lý luận văn hóa của
Liên Xô lúc đó, đặc biệt là chịu ảnh hưởng của “Bài nói chuyện tại Hội nghị văn nghệ
Diên An” của Trung Quốc năm 1942 nhưng đã thể hiện sức sống mới, sự sáng tạo khi
giải quyết những vấn đề thực tiễn của văn hóa Việt Nam, để cuối cùng đóng góp vị trí
quan trọng trong sự nghiệp giải phóng và xây dựng văn hóa của dân tộc.
Thứ hai, về phương diện mục tiêu nghiên cứu: nghiên cứu lý luận về văn hóa
trong giai đoạn này để giải quyết những vấn đề của văn hóa dân tộc, không hướng tới
xây dựng lý thuyết văn hóa
Khảo cứu các tác phẩm của các học giả Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ XX
có bàn đến lý luận về văn hóa cho thấy những quan niệm về văn hóa mang tính lý luận
tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa dân tộc, tìm ra con đường, cách thức để
giữ gìn bản sắc văn hóa, tiếp thu tinh hoa của nhân loại để cho văn hóa dân tộc mạnh
cũng chỉ được đề cập rải rác chứ không tập trung thành một công trình nghiên cứu có hệ
thống. Điều kiện của một lý thuyết khoa học nói chung, một lý thuyết văn hóa nói riêng
là phải đưa ra được một hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật. Thử đối sánh
điều kiện này với những nghiên cứu về văn hóa trong giai đoạn này: Phạm Quỳnh có
đưa ra một định nghĩa coi văn hóa như đời sống tinh thần, Ngô Đức Kế coi văn hóa
đồng nhất với ngôn ngữ, văn tự nhưng cũng chỉ dừng lại ở đó, các ông không có những
kiến giải về định nghĩa mà mình đưa ra, chưa nói đến việc xây dựng một hệ thống các
khái niệm, phạm trù, quy luật. Mặt khác, cách định nghĩa của các học giả này như là
những phát biểu mang tính chất cảm nhận, xét về mặt lôgic các khái niệm đưa ra chưa
thể coi là một thuật ngữ khoa học bởi không thể xác định chính xác nội hàm và ngoại
diên của các khái niệm đó. Điểm nổi bật trong các quan niệm về văn hóa ở đây vẫn là
những gì liên quan đến văn hóa dân tộc, giải quyết những vấn đề đang đặt ra với văn
hóa dân tộc. Đào Duy Anh đã đi những bước xa hơn trên con đường nghiên cứu lý luận
văn hóa so với các nhà nghiên cứu khác với hai cuốn sách Việt nam văn hóa sử cương
và Văn hóa là gì, song hầu hết các nội dung của lý luận văn hóa được ông đề cập đến
vẫn chỉ là sự kế thừa, là những cái mà ông “thừa nhận” từ những thành tựu lý luận văn
hóa của thế giới lúc đó. Hai công trình cũng chỉ được ra đời trong những tình huống cụ
thể, trước những đòi hỏi của thực tiễn. Việt Nam văn hóa sử cương được viết năm 1938
với tư cách là cuốn sách tham khảo để giảng dạy môn văn hóa Việt Nam ở chương trình
giáo dục của cấp Cao đẳng tiểu học, ngay lời tựa tác giả đã nói rằng “sách này chỉ là
một mớ tài liệu tham khảo” và sau này khi nhắc lại, Đào Duy Anh coi đó chỉ là “những
điều cũ lặt ở các sách đã đọc được mà chưa hề có nhãn quan mới để nhìn và lựa chọn”
[1, tr.79]. Cuốn “Văn hóa là gì” là tập hợp các bài viết của Đào Duy Anh nhằm mục
đích đưa ra một cách hiểu thống nhất về văn hóa khi mà trong ủy ban Văn hóa cứu quốc
lúc đó đang tồn tại nhiều quan niệm rất khác nhau về khái niệm này. Như vậy, ngay cả
Đào Duy Anh, một học giả có đóng góp quan trọng trong nghiên cứu văn hóa thì những
quan niệm của ông đưa ra, mặc dù rất phong phú và toàn diện cũng chưa thể tạo nên
một lý thuyết văn hóa mới. Do đó, các kết quả nghiên cứu về văn hóa của các học giả
mới chỉ dừng lại ở những nhận thức lý luận về văn hóa mà thôi. Đề cương văn hóa Việt
Nam, ra đời năm 1943, trong điều kiện đất nước, văn hóa dân tộc còn chìm trong vòng
nô lệ nhằm mục đích tập hợp giới trí thức lập nên mặt trận văn hóa của những người
yêu nước chống Pháp, Nhật. Đây là công trình nêu lên những tư tưởng lý luận văn hóa
đầu tiên ở nước ta theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trước đòi hỏi của thực
tiễn phải chỉ ra những nhiệm vụ hết sức cụ thể cho văn hóa dân tộc. Đề cương mang
tính chất của một cương lĩnh văn hóa có giá trị chỉ đạo thực tiễn trong một không gian,
thời gian nhất định.
Thứ ba, về lực lượng nghiên cứu lý luận văn hóa: quá trình nhận thức lý luận về
văn hóa là hành trình đi từ tinh thần yêu nước, yêu văn hóa dân tộc đến khoa học. Điều
đầu tiên có thể thấy ở lực lượng này là họ không phải là những người nghiên cứu lý luận
văn hóa chuyên nghiệp cho nên thành phần khá đa dạng. Có người là những sĩ phu được
đào tạo theo chương trình Nho học như Ngô Đức Kế, có người là sản phẩm trong buổi
giao thời của Hán học và Tây học như Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng
Kim, Phạm Quỳnh… có người được đào tạo hoàn toàn Tây học như nhóm Tự Lực Văn
Đoàn, có người là nhà văn, nhà báo, có người là nhà hoạt động chính trị … Về tư tưởng,
quan điểm chính trị của họ cũng rất khác nhau: người thì bảo thủ, người cấp tiến; người
cách mạng, người chủ trương cải lương… Nhưng cho dù không thuần nhất và có cả sự
khác biệt thì giữa họ vẫn có điểm chung là sự thiết tha với văn hóa dân tộc. Họ đều xúc
động, băn khoăn, trăn trở trước hiện trạng văn hóa dân tộc đang bị rung động trong cuộc
giao lưu với văn hóa phương Tây, đang nằm trong vòng nô lệ của nước ngoài. Đứng
trước những vấn đề của thực tiễn văn hóa dân tộc, họ đều có chung một niềm khát vọng
cháy bỏng muốn gây dựng được một nền văn hóa riêng cho dân tộc Việt Nam - một nền
văn hóa có bản sắc, có khả năng thâu thái tinh hoa của các dân tộc khác và nhất là phải
độc lập trong quá trình tiếp xúc với thế giới. Đó là khởi nguồn cho các cuộc tranh luận
mang tính học thuật xuất hiện càng nhiều và thu hút đông đảo các học giả lúc bấy giờ
tham gia, điều mà trước đó chưa hề có. Trong các cuộc tranh luận, những người tham
gia đã đặt ra vấn đề khái niệm, giới thuyết về khái niệm như thế nào, sau đó mới đi vào
những nội dung cụ thể. Các cuộc tranh luận đó đều thể hiện tinh thần đối thoại, dân chủ
mà không hề có sự áp đặt, độc thoại của một xu hướng nào cả. Chân lý khoa học dần
dần trở thành trọng tài cho các cuộc tranh luận. Không vì tình cảm yêu mến văn hóa dân
tộc mà các tác giả không thẳng thắn vạch ra những mặt còn bất cập của dân tộc Điều đó
đã cắt nghĩa tại sao trong điều kiện khó khăn về thông tin khoa học, chịu sự kiểm duyệt
của chính quyền thực dân và quan trọng là trước đó chưa có nhiều vốn liếng về lý luận,
các học giả trong giai đoạn này đã để lại nhiều quan niệm về văn hóa có ý nghĩa với
việc xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc và đặt nền móng cho công tác nghiên cứu lý
luận văn hóa ở nước ta.
3.1.2. ý nghĩa của những thành tựu nghiên cứu lý luận văn hóa giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX
Trước hết, qua quá trình nhận thức lý luận về văn hóa, văn hóa Việt Nam lần đầu
tiên được nhận diện tương đối toàn diện. Do nhu cầu muốn hiểu biết về dân tộc mình,
các học giả đã kiểm kê lại hành trang của văn hóa dân tộc cho việc hội nhập với thế giới
bằng cách đánh giá những di sản do cha ông để lại. Bản sắc của dân tộc trở thành mối
quan tâm chung của các học giả, với nhiều cách tiếp cận khác nhau như cho bản sắc dân
tộc là Quốc học, là đặc tính dân tộc, là tính cách của con người Việt Nam..., bức tranh
văn hóa Việt Nam đã được phác họa một cách chân thực, khách quan cả trong quá khứ
và hiện tại, cả những yếu tố tích cực và yếu tố hạn chế. Điều này có ý nghĩa quan trọng
trong bối cảnh diễn ra sự xung đột giá trị văn hóa cổ truyền với văn hóa phương Tây ở
đầu thế kỷ XX, sự xung đột đó là một vấn đề “quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân
tộc ta vậy” [2, tr.7] mà giải quyết xung đột này trước hết phải biết văn hóa của dân tộc mình
là thế nào, biết được chân giá trị của nền văn hóa mới. Từ đó mới có thể tìm ra con đường
để hiện đại hóa văn hóa dân tộc, xây dựng một nền văn hóa riêng phù hợp với xu thế vận
động của thời đại.
Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực tiễn văn hóa, quá trình nhận thức lý
luận về văn hóa trong giai đoạn này còn có ý nghĩa quan trọng trên con đường giải
phóng văn hóa dân tộc, mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển. Văn minh tân học
sách đã phê phán khá triệt để những tư tưởng cũ, phân tích thực trạng xã hội Việt Nam
trong cảnh lạc hậu, nô lệ, từ đó khởi xướng những tư tưởng đổi mới. Văn minh Tân học
sách là ngọn cờ duy tân, tự cường, tự phát triển, trở thành tuyên ngôn, cương lĩnh của
phong trào Duy tân nổ ra ở đầu thế kỷ XX. Đây không chỉ là sự thay đổi trong khuôn
khổ của nền văn minh á Đông cũ mà là sự thay đổi căn bản theo hướng mở rộng giao
lưu với văn minh âu Tây - đối tác kích thích các quốc gia phương Đông trong thời đại
mới. Các phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Đông du đã đi vào lịch sử dân tộc như một
cuộc vận động chính trị của cách mạng dân tộc dân chủ, kết hợp công cuộc giải phóng
dân tộc với sự hiện đại hóa đất nước thành một quá trình thống nhất. Năm 1943, Đề
cương văn hóa Việt Nam ra đời, với tư cách là một cương lĩnh văn hóa, những tư tưởng
mà Đề cương nêu ra đã tập hợp giới trí thức lập nên mặt trận văn hóa của những người
yêu nước chống văn hóa nô dịch Pháp - Nhật, đặt những đường nét cơ bản thiết kế về
một nền văn hóa mới Việt Nam. Đề cương đã có tác dụng “thức tỉnh và thu hút nhiều
người làm công tác văn hóa, văn nghệ vào con đường cách mạng” [11, tr.364], góp phần
cho thắng lợi chung của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa nửa đầu thế kỷ XX đánh dấu sự ra đời,
hình thành và phát triển của chuyên ngành lý luận văn hóa ở nước ta. Với sự phát triển
mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay, nhất là văn hóa học, nhiều quan
niệm các học giả đưa ra đã bị vượt qua. Nhưng rõ ràng, nó đã ghi một dấu mốc quan
trọng trong buổi đầu chập chững đến với khoa học ở đầu thế kỷ XX của giới trí thức dân
tộc, đóng góp cho di sản văn hóa dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX,
trong điều kiện một đất nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến
chịu ảnh hưởng của Nho giáo, không tiếp xúc rộng rãi với thế giới bên ngoài, trình độ tư
duy lý luận kém phát triển, thân phận một nước thuộc địa mới thấy được ý nghĩa lớn lao
của những thành tựu này. Đó là sự phát triển từ không đến có và đặt nền tảng ban đầu
cho quá trình nghiên cứu tiếp theo. Trong đó, những tác phẩm của học giả Đào Duy
Anh như Việt Nam văn hóa sử cương, Văn hóa là gì xứng đáng là những cột mốc đầu
tiên, chỉ đường cho những người đi sau, đặt nền móng cho công tác nghiên cứu lý luận
văn hóa sau này. Với tư cách là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của những người mácxít
Việt Nam, Đề cương văn hóa Việt Nam cũng đã mở ra sự phát triển mới của lý luận văn
hóa mácxít ở nước ta. Trên cơ sở những tư tưởng mà Đề cương đưa ra, Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận văn hóa và đường lối văn hóa trong
các giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng. Năm 1948, Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt
Nam ra đời như một bước hoàn chỉnh lý luận văn hóa của Đảng trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, đường lối xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn có dấu ấn của những tư tưởng
quan trọng của Đề cương văn hóa Việt Nam.
3.2. Những bài học kinh nghiệm
Từ quá trình nhận thức lý luận về văn hóa trong giai đoạn từ đầu thế kỷ đến năm
1945 và những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc, có thể rút ra một số bài học đối với công tác nghiên cứu lý luận
văn hóa giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận văn hóa phải gắn liền với thực tiễn dân tộc. Đây
tưởng như một điều rất hiển nhiên vì bất kỳ một lý luận nào chẳng phải dựa vào thực
tiễn, khái quát thực tiễn, vạch quy luật vận động, phát triển của thực tiễn để bổ sung cho
lý luận, mở đường cho thực tiễn phát triển. Nhưng ở đây nhấn mạnh đến thực tiễn của
dân tộc Việt Nam chứ không phải thực tiễn nói chung. Với trình độ lý luận văn hóa ở
đầu thế kỷ XX và ngay trong cả giai đoạn hiện nay chúng ta còn khoảng cách khá xa so
với thế giới thì việc đóng góp cho khoa học văn hóa về lý thuyết khó có khả năng thực
hiện được. Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa của giai đoạn này là quá trình tiếp
thu lý luận văn hóa thế giới để nghiên cứu và làm sáng tỏ thực tiễn văn hóa Việt Nam.
Trong đó những vấn đề mang tính lý luận về văn hóa như : bản sắc văn hóa, bản sắc văn
hóa Việt Nam, con đường để giải phóng văn hóa, xây dựng một nền văn hóa mới... là
kết quả của sự tiếp thu lý luận văn hóa thế giới để vận dụng vào nghiên cứu văn hóa dân
tộc. Xét trên phương diện lý thuyết thì những nhận thức lý luận về văn hóa giai đoạn
này không phải là mới với thế giới lúc đó. Đây là những thành quả của khoa học văn
hóa mà các học giả Việt Nam tiếp thu được. Nhưng chính nhờ sự vận dụng lý thuyết
này để xử lý những vấn đề cụ thể của văn hóa dân tộc mà các học giả đưa ra được nhiều
quan niệm về văn hóa, về văn hóa dân tộc mà trước đó chưa được đề cập đến. Như vậy,
sự sáng tạo đã được nảy sinh trong việc vận dụng những tư tưởng khoa học này để giải
quyết vấn đề của Việt Nam. Sự đóng góp của quá trình nhận thức lý luận về văn hóa
cũng thể hiện tập trung nhất trên phương diện này. ở một phương diện khác, chúng ta có
thể thấy những nhận thức lý luận về văn hóa trong giai đoạn này đều xuất phát từ những
băn khoăn, trăn trở của giới trí thức dân tộc trước thực tiễn văn hóa dân tộc đang trong
cơn khủng hoảng khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Họ cố gắng tìm tòi về mặt lý
luận để tìm ra một con đường thích hợp đưa văn hóa dân tộc thoát ra khỏi khủng hoảng,
gây dựng cho dân tộc một nền văn hóa độc lập. Nhưng không phải mọi cố gắng đó đều
đến được mục tiêu mở đường, giải phóng cho văn hóa dân tộc ra khỏi thân phận nô lệ.
Tuy đều có tư tưởng dân tộc nhưng có khuynh hướng thiên về bảo thủ, có khuynh
hướng cải lương tư sản, có khuynh hướng xa quần chúng cho nên trên thực tế chưa phản
ánh đúng bản chất của văn hóa dân tộc là dân tộc có được tự do thì văn hóa dân tộc mới
phát triển được. Do đó, những lý luận này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của
văn hóa dân tộc. Một nền “văn hóa ngu dân”, “văn hóa nô dịch” đang rên xiết, kìm kẹp
dưới ách thống trị của chủ nghĩa phát xít, thực dân chỉ có thể được giải phóng, phát triển
khi nó hướng tới dân tộc, hướng tới nhân dân, chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa
trái với khoa học, phản tiến bộ và phải được đặt trong quỹ đạo của cuộc cách mạng giải
phóng dân tộc. Chính vì thế, khi những người mácxít Việt Nam đưa ra quan điểm về
xây dựng một nền văn hóa mới mang tính dân tộc - khoa học - đại chúng và xác định
cuộc vận động văn hóa ở Việt Nam phải là một quá trình biến đổi sâu sắc và toàn diện
đời sống theo định hướng: dân tộc hóa, khoa học hóa, đại chúng hóa đã tập hợp được
một đội ngũ đông đảo những nhà văn hóa tài năng, giàu nhiệt huyết tham gia vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Sự nghiệp đó đã thành công mở ra một giai đoạn mới cho văn
hóa dân tộc, xây dựng nền văn hóa mới độc lập, mang đậm bản sắc dân tộc. Với tất cả
những điều đó cho thấy, nghiên cứu lý luận văn hóa phải xuất phát từ thực tiễn dân tộc,
hướng tới mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển theo hướng tiến bộ. Trong điều kiện
hiện nay, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là hướng tới nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến. Tuy
nhiên, do những giới hạn của lịch sử, Mác, ăngghen, Lênin chưa thể có những câu trả lời về
mặt lý luận đối với nhiều hiện tượng văn hóa của hôm nay. Từ thực tiễn xây dựng nền văn
hóa mới ở nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện thực hiện kinh tế
thị trường và tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa dặt ra cho lý luận văn hóa nhiều
vấn đề cần giải đáp. Với những điều kiện có tính đặc thù đặc thù như thế, bài học nghiên
cứu lý luận văn hóa phải gắn liền với thực tiễn dân tộc có thể giúp các nhà nghiên cứu
không chỉ có những sáng tạo trong việc vận dụng lý thuyết văn hóa để xử lý những vấn đề
cụ thể của văn hóa Việt Nam mà có thể có những bổ sung lý luận mà ở đây là tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho nó trở thành một học thuyết hoàn chỉnh, có giá trị phổ
quát.
Thứ hai, tiếp thu có hệ thống thành tựu lý luận văn hóa thế giới. Nếu như ở đầu thế
kỷ XX, các học giả Việt Nam đã tiếp nhận lý luận văn hóa bên ngoài để vận dụng vào thực
tiễn của dân tộc thì ngày nay việc tiếp thu đó càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Mặc dù là
một ngành khoa học mới ra đời nhưng trong hơn một thế kỷ qua khoa học về văn hóa đã có
bước phát triển nhanh chóng với nhiều lý thuyết văn hóa ra đời. Đó là thành tựu chung của
thế giới và có những giá trị phổ quát đối với văn hóa các dân tộc. Hơn nữa, trong quá trình
toàn cầu hóa hiện nay, muốn hội nhập mạnh mẽ với thế giới, văn hóa Việt Nam phải tăng
cường đối thoại với các nền văn hóa khác, lý luận văn hóa của Việt Nam phải vươn lên đạt
trình độ phổ quát của thế giới và đóng góp tiếng nói của mình cho những thành tựu chung
đó. Như vậy, việc tiếp thu lý luận văn hóa của thế giới trong giai đoạn hiện nay nhằm mục
đích hiện đại hóa lý luận văn hóa Việt Nam là đòi hỏi khách quan trên con đường hội nhập
thế giới, vấn đề đặt ra ở đây là trong điều kiện mới chúng ta phải tiếp thu cái gì và tiếp thu
như thế nào?
Nghiên cứu lý luận về văn hóa trong giai đoạn này để giải quyết những vấn đề
của văn hóa dân tộc mà không hướng tới xây dựng lý thuyết văn hóa cho nên như đã
trình bày ở trên, những kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng ở việc nhận thức lý luận về
văn hóa mà chưa tạo ra được hệ thống những khái niệm, phạm trù, quy luật của một lý
thuyết. Những kết quả này không thể đạt đến sự sáng tạo thực sự, đi xa hơn nữa trên cơ
sở những thành tựu đã tiếp nhận được, vấn đề ở đây là chúng ta đã không tiếp thu có hệ
thống các lý thuyết văn hóa của thế giới. Có nhiều lý thuyết văn hóa đã không đến được
Việt Nam. Việc tiếp thu lý thuyết Tiến hóa luận, Truyền bá luận văn hóa ở Việt Nam thì
không phải là toàn bộ mà chỉ những khía cạnh, chưa nói đến việc nghiên cứu cơ sở triết
học của các lý thuyết này hầu như chưa được đề cập đến. ở đây có nguyên nhân các trí
thức dân tộc không được tiếp xúc giao lưu nhiều với thế giói, thiếu thông tin, sự tiếp thu
chủ yếu qua con đường Nhật Bản và Trung Quốc với những sách Tân thư. Nhưng
nguyên nhân sâu xa hạn chế trong tư duy lý luận của người Việt Nam, nó bắt nguồn từ
cơ chế tiếp nhận của văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa mở thâu nhận các yếu tố của
nhiều nền văn hóa khác nhau. Đó là sự tiếp nhận không theo hệ thống mà chỉ lựa chọn
những giá trị phù hợp “chỉ nhận vào mình những gì mình muốn và những gì phù hợp
với mình theo nguyên tắc thêm bớt lấy bỏ” và cách tiếp nhận không hệ thống này
“mang tính thực dụng, nông nổi nên thường quy giản và làm biến đổi bản nguyên” [66,
tr.18] Cách tiếp nhận này khác với người Nhật Bản, thông qua hai cuộc cải cách lớn:
Đại Hóa cải tân và Minh Trị Duy Tân, họ đã tiếp thu hệ thống để đạt đến trình độ “bằng
người” để trên cơ sở đó phát triển, sáng tạo hơn người, hoặc ít nhất là khác người.
Chúng ta biết rằng, một lý thuyết thường bao gồm hai bộ phận: bộ phận riêng có và bộ
phận kế thừa từ các lý thuyết khác, trong đó, bộ phận thứ hai như điều kiện cần, không
thể thiếu được với bất kỳ lý thuyết nào. Những thành tựu lý luận văn hóa là kết quả của
sự khái quát thực tiễn trên cơ sở các học thuyết triết học, mặt khác đó còn là kết quả
một quá trình phát triển có sự kế thừa nhau. Do đó, muốn hiểu các lý thuyết một cách
sâu sắc, bản chất để từ đó tiếp thu và có sáng tạo thực sự thì phải nghiên cứu có hệ
thống, lần ngược trở lại gốc vấn đề, từ lý thuyết văn hóa tới các học thuyết triết học.
Con đường này có thể giúp công tác nghiên cứu lý luận văn hóa ở nước ta đi xa hơn,
đóng góp cho kho tàng chung của thế giới.
3.3. Một số kiến nghị đối với công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay
Với những gì trình bày ở trên cho thấy lý luận văn hóa đã đóng góp phần quan
trọng trong sự phát triển của văn hóa dân tộc, nhất là từ khi Đề cương văn hóa Việt Nam
ra đời đã tham gia trực tiếp vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng văn hóa để xây
dựng một nền văn hóa mới. Lý luận văn hóa đã trở thành một bộ phận và ngày càng có
tác động lớn trong nền văn hóa mới đó. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang
đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mục tiêu định hướng phát triển văn
hóa được xác định là: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Xây dựng văn hóa Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ tác
động đến tất cả các quốc gia dân tộc, hội nhập sâu rộng hơn với thế giới đang là nhu cầu
bức thiết trên con đường phát triển của đất nước. Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa
dân tộc hồi đầu thế kỷ XX dường như lặp lại: hiện đại hóa văn hóa dân tộc, giữ gìn bản
sắc văn hóa nhưng thách thức thì lớn hơn nhiều. Mặt khác, khi chúng ta bước vào thực
hiện công nghiệp hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, văn hóa Việt Nam đã bộc lộ
nhiều hạn chế, bất cập và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh. Nghiên cứu lý luận văn
hóa đang đứng trước những yêu cầu hết sức nặng nề là phải tổng kết thực tiễn xây dựng
văn hóa, giải đáp những vấn đề văn hóa đang nảy sinh để mở đường cho văn hóa dân
tộc phát triển, góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Với những gì đã đạt được của nghiên cứu lý luận văn hóa thời gian qua so với yêu
cầu của thực tiễn xây dựng văn hóa dân tộc, với sự phát triển mạnh mẽ của lý luận văn
hóa trên thế giới thì công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay có rất nhiều việc phải
làm, phải hiện đại hóa lý luận văn hóa để vượt lên, rút ngắn khoảng cách so với trình độ
của thế giới. Trong khuôn khổ của luận văn xin đưa ra một số kiến nghị:
Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí của nghiên cứu lý luận văn hóa như một bộ phận của
nền văn hóa Việt Nam để từ đó có chính sách đầu tư nguồn lực con người, tài chính tạo môi
trường thuận lợi cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa.
Thứ hai, nhân tố quyết định nhất cho sự phát triển của lý luận văn hóa ở nước ta
vẫn là yếu tố con người. Nếu trong những giai đoạn trước đây, do những điều kiện
khách quan, lực lượng nghiên cứu lý luận văn hóa còn ít thì ngày nay muốn hiện đại hóa
lý luận văn hóa phải có một đội ngũ những nhà nghiên cứu lý luận có tính chuyên
nghiệp cao để chúng ta có được một chuyên ngành lý luận văn hóa đủ sức vươn ra trình
độ của thế giới. Hiện nay trên cả nước có 4 địa chỉ được coi là trung tâm nghiên cứu về
văn hóa: Viện Văn hóa Thông tin (Bộ Văn hóa Thông tin), Viện Nghiên cứu văn hóa
(Viện Khoa học xã hội Việt Nam), Viện Văn hóa (Đại học Văn hóa Hà Nội), Viện Văn
hóa và phát triển (Học viện CTQG Hồ Chí Minh nhưng trên thực tế, số người chuyên
nghiên cứu lý luận văn hóa không nhiều, chúng ta đang thiếu hụt đội ngũ chuyên gia lý
luận văn hóa, cho nên Nhà nước cần chú trọng đến việc xây dựng cho được một lực
lượng những người nghiên cứu lý luận văn hóa có trình độ cao. Ngoài quan tâm đến
việc đào tạo, bồi dưỡng kể cả cử những nhân tài đi học ở nước ngoài thì điều quan trọng
là tạo ra một môi trường thuận lợi để cho lực lượng này có thể sáng tạo và cống hiến
cho đất nước. Đó là một môi trường nghiên cứu khoa học thực sự dân chủ. Đồng thời
cần tăng cường dịch và xuất bản rộng rãi những tác phẩm kinh điển và những tài liệu
mới về lý luận văn hóa - những cuốn sách không phải là ăn khách nên cần có sự tài trợ
của Nhà nước. Thời gian gần đây, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, cơ quan ngôn luận của
Bộ Văn hóa Thông tin về nghiên cứu lý luận văn hóa, nghệ thuật, thông tin chủ trương
xây dựng Tủ sách Văn hóa học. Qua đó, bước đầu đã giới thiệu những công trình văn
hóa học ở các nước phương Tây, Liên Xô (cũ) và Liên Bang Nga hiện nay, Trung Quốc,
Mỹ như Văn hóa nguyên thủy của E.B. Taylor, Văn hóa học - Những bài giảng do A.A
Radughin chủ biên… Đây là một hướng đi đúng đắn, bằng việc cung cấp những tư liệu
của ngành văn hóa học thế giới sẽ giúp cho những nhà nghiên cứu chắt lọc tư liệu và
kinh nghiệm để xây dựng chuyên ngành lý luận văn hóa ở nước ta. Tuy nhiên, đây mới
chỉ là bước đầu và công việc này cần sự hỗ trợ rất nhiều từ phía Nhà nước.
Thứ ba, phải xây dựng bộ giáo trình lý luận văn hóa. Hiện nay, trong việc giảng dạy
và học tập bộ môn lý luận văn hóa nhu cầu có giáo trình riêng rất lớn. Trên thực tế, mới chỉ
có cuốn Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của A.I. ácnônđốp được dịch từ năm 1976 đến
nay đã có nhiều bất cập, Giáo trình lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng của
Khoa Văn hóa XHCN (Học viện CTQG Hồ Chí Minh), một số sách tham khảo như cuốn
Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn văn hoá ở nước ta của GS Hoàng Vinh, còn lại hầu hết
những tri thức lý luận văn hóa được đề cập rải rác trong các công trình nghiên cứu văn hóa,
chứ chưa có một giáo trình lý luận văn hóa. Đã đến lúc nên khuyến khích các nhà khoa học
biên soạn những bộ giáo trình riêng về lý luận văn hóa, cập nhật và tiếp cận với những
thành tựu của khoa học về văn hóa hiện đại của thế giới.
Kết luận
Văn hóa xuất hiện cùng với con ngưòi nhưng phải sau hàng nghìn năm đến cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trên thế giới, các khoa học về văn hóa mới “phát triển nở rộ”
và như vậy so với sự phát triển của văn hóa thì khoa học nghiên cứu về văn hóa phát
triển “quá chậm”. ở nước ta, mãi đến đầu thế kỷ XX, trong quá trình tiếp xúc với văn
hóa phương Tây, với những tác động của các luồng tư tưởng mới và nhu cầu bảo vệ,
phát triển nền văn hóa dân tộc, việc nghiên cứu lý luận văn hóa mới bắt đầu được tiến
hành. Lực lượng chủ đạo trên lĩnh vực mới mẻ này lúc đầu là những trí thức đào tạo
trong nhà trường phong kiến nặng lòng với văn hóa dân tộc, sau đó thu hút rộng rãi
thêm nhiều trí thức Tây học và những người mácxít Việt Nam. Quá trình nghiên cứu lý
luận văn hóa đi từ sự tiếp thu những thành tựu lý luận của thế giới, vận dụng vào nghiên
cứu văn hóa Việt Nam để nhằm mục tiêu xây dựng nền văn hóa mới cho dân tộc - một
nền văn hóa riêng, độc lập. Xuất phát từ mục tiêu đó, các học giả trong giai đoạn này
tiếp thu có lựa chọn lý luận của nước ngoài để giải quyết những vấn đề đang đặt ra đối
với văn hóa dân tộc. Cho nên, những kết quả nghiên cứu không hướng tới việc xây
dựng lý thuyết văn hóa mới, nó chỉ dừng lại ở những nhận thức lý luận về văn hóa. Nội
dung chủ yếu của những nhận thức này tập trung ở các vấn đề: khái niệm văn hóa, bản
sắc văn hóa dân tộc, con đường để xây dựng văn hóa dân tộc. Mặc dù lúc nào cũng băn
khoăn trăn trở với hiện trạng văn hóa dân tộc trong cuộc tiếp xúc với văn hóa phương
Tây, có nhiều khác biệt nhưng những con đường mà các học giả đưa ra đều chưa đi đến
được mục tiêu. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, những
quan điểm văn hóa mácxít được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn văn hóa Việt Nam, đặt
sự nghiệp giải phóng văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc, văn hóa Việt Nam
mới mở ra một trang mới, một nền văn hóa độc lập trong một quốc gia độc lập. Với sự
phát triển mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay, nhất là văn hóa học,
nhiều quan niệm đã bị vượt qua, chỉ còn là giá trị lịch sử. Nhưng rõ ràng, nó đã ghi một
dấu mốc quan trọng trong buổi đầu chập chững đến với khoa học ở đầu thế kỷ XX của
giới trí thức dân tộc, đóng góp cho di sản lý luận văn hóa dân tộc và để lại những bài
học kinh nghiệm cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay. Ra đời trong bối
cảnh đất nước bắt đầu tiếp xúc với thế giới bên ngoài sau thời gian dài bế quan tỏa cảng,
những nhận thức lý luận về văn hóa giai đoạn này là cơ sở cho chúng ta - những thế hệ
đi sau - suy ngẫm và tiếp tục có những đóng góp cho sự phát triển văn hóa dân tộc trong
quá trình hội nhập với thế giới hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đào Duy Anh (1989), Nhớ nghĩ chiều hôm, Nxb Trẻ, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
3. Đào Duy Anh (1946), Văn hóa là gì, Quan hải tùng thư, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (sưu tầm và biên soạn, 2003), Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo
1928, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Đà Nẵng.
5. A.I. ácnônđốp (1981), Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin, Những người dịch
Hoàng Vinh - Nguyễn Văn Hy, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
6. Báo Cứu quốc ngày 8 tháng 10 năm 1945.
7. A.A Belik (2000), Văn hóa học Những lý thuyết nhân học văn hóa, Người dịch:
GS. TS Hoàng Vinh, TS Đỗ Lai Thúy, Huyền Giang, Tạp chí văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội.
8. Bộ Văn hóa (1987), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Hà Nội.
9. Nguyễn Chí Bền (2001), "Nghiên cứu văn hóa Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI,
mấy suy nghĩ", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (2), tr.8.
10. Vũ Minh Chi (2004), Nhân học văn hóa Con người với thiên nhiên, xã hội và thế
giới siêu nhiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Trường Chinh (1977), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt nam, tập 1,
Nxb Sự Thật, Hà Nội.
12. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
13. Dân tộc học là gì (1971), Nxb Sử học, Hà Nội.
14. Phan Hữu Dật (1973), Cơ sở Dân tộc học, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
15. Phan Hữu Dật (2004), Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
16. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn hoá học, Nxb Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
17. Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 BCH TW khóa VIII,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Kim Định, Nguồn gốc văn hóa Việt Nam.
20. Đông Tây văn hóa phê bình (1928), Người dịch Nghi Đạm, Nxb Tiếng Dân, Huế.
21. Phạm Duy Đức (1996), Giao lưu văn hóa đối với sự phát triển văn hóa nghệ thuật
ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Gunter Endrrweit và Gisela Trommsdorff (2001), Từ điển xã hội học, Người dịch
Ngụy Hữu Tâm, Nguyễn Hoài Bão, Nxb Thế giới.
23. Lê Sĩ Giáo (1998), Dân tộc học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Mai Văn Hai - Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
25. Đỗ Huy (1999), Nhận diện văn hoá Việt Nam và sự biến đổi của nó trong thế kỷ
XX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Huyên (2000), Văn minh Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội
27. Đặng Xuân Kỳ(chủ biên), 2005, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và
con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Khoa Văn hóa XHCN - Học viện CTQG Hồ Chí Minh (1998), Đề tài Tìm hiểu các
hệ thống lý luận cơ bản về văn hóa hiện nay trên thế giới, Hà Nội.
29. Khoa Văn hóa XHCN - Học viện CTQG Hồ Chí Minh ((2000), Giáo trình lý luận
văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Nguyễn Bách Khoa (1943), Nguồn gốc văn minh, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội.
31. Thanh Lãng (1995) Mười ba năm tranh luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Hồ Liên (2004) Về một hướng nghiên cứu văn hóa, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật,
(3) tr 14.
33. Luận về Quốc học (2002), Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Nxb Đà Nẵng, Đà
Nẵng.
34. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2 (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (1981) Văn hóa nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (1993) - Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Nguyễn An Ninh (1932) Cao vọng của bọn thanh niên An Nam, Sài Gòn.
39. Phạm Thị Ngoạn, Tìm hiểu tạp chí Nam Phong.
40. Phan Ngọc (2000), Một cách tiếp cận văn hoá, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
41. Phan Ngọc (2000), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
42. Những vấn đề văn hoá Việt Nam đương đại (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Phạm Quỳnh (2003), Luận giải văn học và triết học, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
44. Phạm Quỳnh (1927), Văn minh luận, Đông Kinh ấn quán, Hà Nội.
45. A.A. Radughin (2004), Văn hóa học Những bài giảng, Viện Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
46. A.A. Radughin (2002), Từ điển bách khoa văn hóa học, Người dịch Vũ Đình
Phòng, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
47. M. Rôđentan và P. Iuđin (1972), Từ điển triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
48. V.M. Rôđin (2000), Văn hóa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Emily A.
Schultz và Robert H. Lavenda (2001).
49. Nhân học Một quan điểm về tình trạng nhân sinh, Người dịch Phan Ngọc Chiến,
Hồ Liên Biện, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Đặng Đức Siêu (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
51. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và Cảo luận, Nxb Nam Ký, Hà Nội.
52. Philip. Smit (2001) Lý luận văn hóa.
53. Tạp chí Tao Đàn số 6 năm 1939.
54. Tạp chí Duy Nhất số 1 năm 1945.
55. Tạp chí Phụ nữ Tân văn, số 94 năm 1931.
56. Tạp chí Nam Phong, số 164 năm 1931.
57. E.B. Tylor (2000), Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
58. Chương Thâu (1982), Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào cải cách văn hóa đầu
thế kỷ XX, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
59. Bùi Quang Thắng (2003), Hành trình vào văn hóa học, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
60. Lương Đức Thiệp (1952), Xã hội Việt Nam, Nxb Liên hiệp Sài gòn, Sài Gòn.
61. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh,
TP Hồ Chí Minh.
62. Trần Ngọc Thêm (2003), Văn hóa và văn hóa học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà
Nội.
63. Nguyễn Đăng Thục (1953), Tinh thần khoa học đạo học, Việt Nam văn hóa hiệp
hội.
64. Đỗ Thị Minh Thúy (2003), 60 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
65. Đỗ Lai Thúy(2005) Để lý luận văn học Việt Nam cập nhật và cập thế giới, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, (3).
66. Đỗ Lai Thúy (2005), Văn hóa Việt Nam Nhìn từ mẫu người văn hóa, Nxb Văn
hóa Thông tin, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
67. Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX, tập 1 (2003), Nxb Lao Động, Hà Nội.
68. Văn hóa và cách mệnh (1946), Đoàn xuất bản Việt Nam, Hà Nội.
69. Viện văn hoá (1986), Khái niệm và quan niệm về văn hoá, Hà Nội.
70. Viện Thông tin Khoa học xã hội (2000), Văn hóa và văn hóa học, tập 1, Hà Nội.
71. Viện Văn hóa và phát triển - Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Thông tin Văn hóa và
phát triển số 5 năm 2005.
72. Hoàng Vinh (1998), Mấy vấn đề lí luận và thực tiễn văn hoá ở nước ta, Nxb Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
73. Việt Nam trong thế kỷ XX, tập 1 (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Trần Quốc Vượng (2003), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
75. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 2.pdf