Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn.
Điều này trên thực tế, đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.
25 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Quan điểm toàn diện trong việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Lời nói đầu
Năm 1975, giải phóng miền Nam, đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, hai
miền Nam Bắc thống nhất, cách mạng nước ta chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ lớn nhất đặt ra trước mắt là phải khắc phục được hậu
quả nặng nề của chiến tranh để lại và cải tạo nền kinh tế miền Nam cho phù hợp với
mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao
cấp từ nhiều năm nay không được tạo động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế, kìm hãm sản xuất
làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông và
phát sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội.
Cơ chế đó quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu không phù
hợp với nguyên tắc dân chủ. Các cơ quan quản lý hành chính – kinh tế can thiệp sâu
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị cơ sở, nhưng lại không chịu trách
nhiệm gì về vật chất đối với các quyết định của mình, đẫn đến các đơn vị kinh tế cơ sở
vừa không có quyền tự chủ vừa không bị ràng buộc trách nhiệm với kết quả+ sản xuất,
kinh doanh.
Cơ chế đó chưa chú ý đến quan hệ hàng hoá - tiền tệ và hiệu quả kinh tế, dẫn tới
cách quản lý và kế hoạch hoá thông qua chế độ cấp phát và giao nộp theo quan hệ hiện
vật là chủ yếu, hạch toán kinh tế là hình thức, không ràng buộc trách nhiệm và lợi ích
vật chất với hiệu quả sử dụng vốn, tài sản, vật tư, lao động, tách rời việc trả công lao
động với số lượng và chất lượng lao động. Thêm vào đó là bộ máy quản lý Nhà nước
cồng kềnh với những cản bộ quản lý kém năng động, không thạo kinh doanh, với
phong cách quản lý quan liêu cửa quyền. Cơ chế cũ gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên
những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan duy ý
chí.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong
những nội dung cơ bản của quá trình đổi mới quản lý kinh tế ở nước ta và đã được các
Nghị quyết Đại hội VI, Đại hội VII, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 1991 – 2000
và nhiều Nghị quyết Trung Ương Đảng khẳng định, trong đó cơ chế thị trường và quản
lý Nhà nước là hai yếu tố cơ bản, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước quyết tâm thực hiện
quá trình đổi mới thông qua việc thiết lập một chương trình đổi mới về thể chế một
cách sâu rộng, triệt để và toàn diện nhằm thực hiện việc xây dựng nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiếp theo tại Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991) và Đại hội Đảng lần thứ VIII
(năm 1996), đảng chủ trương tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với mục tiêu xoá
bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ, toàn diện cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết
xác lập đồng bộ các yếu tố thị trường: thị trường hàng hoá, dịch vụ; thị trường sức lao
động; thị trường bất động sản; thị trường vốn... Hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ
thống các công cụ quản lý kinh tế trị trường xã hội chủ nghĩa xã hội với các công cụ
như: pháp luật về kinh tế; kế hoạch hoá; các chính sách tài chính tiền tệ; nâng cao hiệu
lực quản lý kinh tế.
Do vậy, việc nghiên cứu “Quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là hết sức quan trọng và cấp bách. Trong
thời gian qua, nhờ có đường lối mới đúng đắn và sáng tạo của Đảng và nỗ lực phấn đấu
của toàn dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn và rất quan trọng: đã
thoát khỏi khủng hoảng, đạt tốc độ phát triển nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện
đáng kế, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh quốc gia được giữ vững. Từ một
nền kinh tế hiện vật, kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, chúng ta đã từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên qui luật giá
trị và tín hiệu cung cầu của thị trường, có sự quản lý của Nhà nước thông qua sử dụng
các công cụ điều tiết vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước trong nền
kinh tế. Từ nền kinh tế đơn thành phần, chúng ta chuyển sang nền kinh tế đa thành
phần với sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế. Từ chỗ bị bao vây cấm
vận, chỉ quan hệ với một số nước, chúng ta đã tranh thủ thời cơ từng bước hội nhập với
nền kinh tế thế giới, bình thường hoá quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế, đa dạng
hoá, đa phương hoá, phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước. Và nhất là hiện
nay trong lúc toàn Đảng, toàn dân ta đang tích cực tham gia góp ý xây dựng Chiến lược
10 năm phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5
năm 2001 – 2005 thì việc nghiên cứu quan điểm toàn diện lại càng trở nên quan trọng
và cấp thiết .
Phần I
Những lý luận về quan điểm toàn diện
I. Cơ sở lý luận:
Quan điểm toàn diện được xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng đó là:
- Các sự vật, hiện tượng không tồn tại cô lập mà thống nhất với nhau trong đó
các sự vật hiện tượng tồn tại bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy
định và chuyển hoá lẫn nhau.
- Không chỉ trong tự nhiên mà cả trong lĩnh vực đời sống xã hội và tinh thần,
mọi sự vật - hiện tượng tồn tại bằng cách tác động qua lại lẫn nhau.
- Sự liên hệ đó chỉ là tính khách quan và là tính phổ biến của các sự vật, hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Trong thế giới khách quan có vô vàn mối liên hệ, chúng rất đa dạng và giữ vai
trò vị trí khác nhau trong sự tồn tại, vận động và phát triển sự vật hiện tượng:
- Có mối liên hệ bên trong (sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các mặt các yếu tố,
các bộ phận ở bên trong sự vật hiện tượng), lại có mối liên hệ bên ngoài; nói chung mối
liên hệ này không có ý nghĩa quyết định, hơn nữa nó thường thông qua mối liên hệ bên
trong mà phát huy tác dụng đối với các sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy
nhiên, nó cũng là mối liên hệ hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy,
không có một sự kiện nào tồn tại trong trạng thái cô lập tách rời những sự kiện khác.
Chẳng hạn, qua cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiệnđại vừa tạo ra thời
cơ, nhưng cũng vừa tạo ra những thách thức to lớn đối với tất cả các nước chậm phát
triển. Nước ta có tranh thủ được thời cơ do cuộc cách mạng đó tạo ra hay không, trước
hết và chủ yếu phụ thuộc vào năng lực của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân ta.
Xong chúng ta cũng khó xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nếu không hội nhập
quốc tế, không tận dụng được những thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ mà thế giới đạt được. Nói cách khác, mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan
trọng, đôi khi có thể giữ vai trò quyết định.
- Có mối liên hệ chung trong toàn bộ thế giới, cũng có mối liên hệ riêng trong
từng lĩnh vực cụ thể.
- Có mối liên hệ trực tiếp giữa hai hay nhiều sự vật hiện tượng, lại có những mối
liên hệ gián tiếp (sự vật, hiện tượng liên hệ tác động qua lại lẫn nhau thông qua một
hay nhiều khâu trung gian).
Từ nhận thức trên, trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có
các yếu tố thị trường, các công cụ quản lý nền kinh tế. Quan điểm toàn diện ở đây thể
hiện ở chỗ muốn xây dựng nền kinh tế thị trường phải xây dựng các yếu tố thị trường
mang tính đồng bộ, tính toàn diện, phải xây dựng các công cụ đồng thời cùng hoạt
động chứ không thể xây dựng riêng rẽ, như vậy sẽ rất khó có tác dụng trong việc xây
dựng nền kinh tế. Các thị trường hàng hoá, dịch vụ cụ thể (thị trường vốn, thị trường
lao động...) mà ngay bản thân nền kinh tế cũng vậy, nó không tồn tại trong trạng thái
cô lapạ, mà trong mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa các lĩnh vực kinh tế - chính trị -
ngoại giao; kinh tế, chính trị, đạo đức - pháp quyền; kinh tế - chính trị - khoa học -
nghệ thuật...
II. Yêu cầu của quan điểm toàn diện:
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật chúng ta phải
xem xét nó trên hai khía cạnh: thứ nhất là trong mối quan hệ giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, các thuộc tính khác của chính sự vật đó; thứ hai là trong mối quan hệ giữa các
sự vật đó với sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp).
V.I Lênin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó ”
(V.I Lênin toàn tập Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1979, t.42, tr364).
Quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần xem xét nó
trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi
thời đại và trong một hoàn cảnh nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được
một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ
là tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn.
Như vậy, quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về
nhiều mặt, nhiều mối liên hệ sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự
tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Quan điểm toàn diện không đồng
nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hiện
tượng; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản nhất, chủ yếu nhất và quan trọng nhất của
sự vật hay hiện tượng đó.
Ví dụ: Quan điểm của Đại hội VI là đổi mới toàn diện là yêu cầu sống còn cả nền kinh
tế nước ta. Trong đó đổi mới kinh tế phải toàn diện, từng bước đổi mới hệ thống chính
trị. Như vậy, đổi mới kinh tế là nhiệm vụ quan trọng nhất.
III. ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện:
Để cải tạo một sự vật, hiện tượng, để hoàn thành nhiệm vụ đặt ra trong hoạt động thực
tiễn, đòi hỏi một hệ thống các biện pháp nhất định. Nếu thiếu tính toàn diện trong các chủ
trương biện pháp thì sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Song toàn diện đồng bộ,
không phải cái gì cũng đặt ra một cách đều tràn lan, mà đòi hỏi trong mỗi một thời kỳ, mỗi
một giai đoạn phải có những chủ trương, những biện pháp mang tính trọng tâm, trọng điểm,
phải xác định được những khâu then chốt tập trung giải quyết để làm cơ sở cho những chủ
trương biện pháp khác một cách đồng bộ.
Góp phần khắc phục lối suy nghĩ giản đơn, một chiều, phiến diện. Trong thế
giới khách quan mọi sự vật mọi hiện tượng đều có rất nhiều mối liên hệ. Vì vậy cần
phải xem xét một mặt hoặc một vài mặt mà đã vội kết luận ngay vấn đề, như vậy sẽ
không chính xác. Các quan hệ lợi ích thường thấy lợi ích trước mắt mà không thấy
được cái lợi ích lâu dài.
Chống lại chủ nghĩa triết chung và thuật nguỵ biện (Chủ nghĩa triết chung nhân
danh toàn diện để kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành
một hình ảnh không đúng về sự vật; Thuật nguỵ biện thì lại lập luận chủ quan, lấy thứ
yếu thay cho chủ yếu, lấy cái không cơ bản thay cho cái cơ bản... nhằm xuyên tạc biện
chứng của sự vật).
Phần II
Vận dụng lý luận vào việc xây dựng
nền kinh tế thị trường
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta
phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” (V.I
Lênin).
I. Khái niệm nền kinh tế thị trường, ưu điểm và nhược điểm.
1. Khái niệm:
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của kinh tế hàng hoá, quan hệ hàng hoá,
tiền tệ trở nên phổ biến. Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra các hình thức kinh tế khác
nhau như: kinh tế tự nhiên, kinh tế tự cung tự cấp, kinh tế thị trường...
Kinh tế thị trường là hình thức kinh tế văn minh, đó là nền kinh tế vận động,
phát triển gắn liền với hệ thống đồng bộ các thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường
tiền tệ và thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường tài nguyên.
Kinh té thị trường đầy đủ gắn liền với một hệ thống luật lệ thể chế, hệ thống các
đạo luật, các quy phạm là xương sống của nền kinh tế. Về thực chất là những khuôn
khổ pháp lý đảm bảo cho nền kinh tế năng động có trật tự.
2. Mặt tích cực và hạn chế của nền kinh tế thị trường trong đời sống xã hội ở
nước ta:
Nền kinh tế thị trường khác hẳn với nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp trước
kia bởi sự cạnh tranh. Nghiên cứu dưới góc độ quan điểm toàn diện chúng ta thấy rằng
một mặt nền kinh tế thị trường làm cho cạnh tranh thúc đẩy khoa học phát triển, tiếp
thu được các công nghệ và bí quyết mới; nhưng mặt khác cạnh tranh cũng làm cho
hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp bị phá sản.
Về mặt tích cực:
Khi kinh tế thị trường tạo ra được những cong người năng động, quyết đoán, có
được kinh nghiệm sau những lần cạnh tranh thắng lợi hay thất bại của mình nhằm:
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội.
+ Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất.
+ Đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất.
+ Kích thích nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, hàng hoá dịch
vụ dồi dào và luôn luôn được cải tiến.
+ Tính năng động và tự điều chỉnh của nền kinh tế.
Về mặt tiêu cực:
+ Phân hoá giàu nghèo quá xa nhau dẫn đến không công bằng và mâu thuẫn xã
hội. Thị trường càng phát triển phân hoá càng lớn và đến lượt nó lại là nguyên nhân
tiềm tàng cản trở sự phát triển do tình trạng bất công và đẫn đến tình thế ổn định.
+ Sự phát triển mù quáng của các doanh nghiệp riêng lẻ tất yếu dẫn đến khủng
hoảng chu kỳ, triệt tiêu lẫn nhau và thất nghiệp.
+ Động cơ săn đuổi lợi nhuận tối đa luôn luôn gắn liền với những thủ đoạn
không lành mạnh: đầu cơ, buôn lậu và lối sống duy vật chất xem thường truyền thống
và các đạo đức của xã hội.
+ Độc quyền của những doanh nghiệp lớn và nước lớn trong việc khống chế
mức lưu thông và giá cả, đầu cơ nâng cao giá hoặc bán phá giá.
+ Giá cả hình thành tự do trên thị trường tự nó không phải bao giờ cũng phản
ánh đúng giá trị của nó.
Cùng với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thì cạnh tranh cũng xuất hiện.
Tuy thời gian xuất hiện và phát triển của nó chưa nhiều song những vấn đề mà cạnh
tranh đặt ra lại không nhỏ. Cạnh tranh có xu hướng thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng
mạnh mẽ, điều chỉnh các nguồn lực phát triển của đất nước. Mặt khác, cũng như mặt
trái của cơ chế thị trường, mặt trái của cạnh tranh là những thủ đoạn không lành mạnh.
3. Mục đích của nền kinh tế thị trường:
Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội; sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần
năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp
hoá, hiện đại hoá; lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Đặc điểm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
- Có nhiều thành phần kinh tế, có nhiều hình thức sở hữu nhưng sở hữu công
cộng là nền tảng.
- Có sự quản lý của Nhà nước, Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước thật sự của dân do dân và vì dân, quản lý kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị
trường và kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế
thị trường, bảo vệ lợi ích Nhà nước, của nhân dân lao động.
- Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng
thời phân phối theo mức đóng góp trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc
lợi xã hội; tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng ngay trong
từng bước phát triển.
II. Thực trạng và quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta:
1. Giai đoạn trước năm 1986:
Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất, cách mạng
Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng
nặng nề do chiến tranh lâu dài. Trong những năm qua nhân dân ta đã không ngừng
phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách. Chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc
hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục lại nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, từng bước
xác lapạ quan hệ sản xuất mới, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục, y tế, thiết lập củng cố chính quyền
nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn trong tình trạng kém phát triển,
sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng tính tự cấp tự túc. Trinh độ trang bị kỹ thuật trong sản
xuất cũng như kết cầu hạ tầng kinh tế, văn hóa - xã hội lạc hậu, năng suất lao động xã
hội thấp. Cơ cấu kinh tế vẫn mang đặc trưng của một nước có nền kinh tế nông nghiệp
lạc hậu, mất cân đối về nhiều mặt, công nghệ kỹ thuật chưa cao, chưa tạo được tích luỹ
trong nước và lệ thuộc vào nhiều các nước bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung bao cấp
để lại nhiều hậu quả tiêu cực, nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp.
Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng: sản xuất chậm và
không ổn định, lạm phát ngày càng gia tăng, tài nguyên thiết bị lao động và tài năng
mới được sử dụng thấp, đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần và
đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được đảm bảo, tham nhũng, chưa
tận dụng hết được nguồn nhân lực lao động trong nhân dân...
Trên thực tế nền kinh tế nước ta, từ nghị quyết Hội nghị lần thứ VI BCH Trung
Ương khoá IV (năm 1979), các quan hệ hàng hoá - tiền tệ đã được chấp nhận nhưng
mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do qua nhiều thập kỷ, qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ
nghĩa mang nặng thành kiến, kiêng kỵ quan hệ hạng hoá và cơ chế thị trường, coi nó là
biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều, chủ quan duy ý chí (các mặt bố trí
cơ cấu kinh tế thiên về phát triển công nghiệp nặng qui mô lớn, vội xoá bỏ các hình
thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể nặng về hình thức, phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị
trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh, kém hiệu lực). Những sai lầm đó đã kìm hãm lực
lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển, cuộc cải cách kinh tế bị đẩy lùi. Tư tưởng
Lênin trong chính sách kinh tế mới xem như bước lùi tạm thời.
2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990:
Trước tình hình đó, tháng 12 - 1986 Đại hội VI đã nhìn thẳng vào sự thật, thừa
nhận những sai lầm, thiếu sót chủ quan trong lãnh đạo và điều hành, chủ yếu là duy ý
chí, nóng vội chủ quan, đốt cháy giai đoạn, muốn tiến hành nhanh, tiến lên CNXH.
Không thể có công cuộc đổi mới nếu xa dời tư tưởng cách mạng, khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, Đảng quyết định thực hiện
đường lối đổi mới toà diện mang tính chiến lược, mở ra thời kỳ mới phát triển nền kinh
tế đất nước.
Đổi mới tư duy lý luận, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Phương hướng đổi
mới cơ chế quản lý được khẳng định là xoá bỏ tập trung quan liêu, bao cấp để xây
dựng một cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền
kinh tế. Đại hội đã được xác định những mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội như “xây
dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao
gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện, cả về chế độ sở
hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối, làm cho thành phần kinh tế này giữ vai trò chi
phối trong nền kinh tế quốc dân, thể hiện tính ưu việt về năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm, thu nhập của người lao động và tích luỹ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá”. Nền kinh tế nước ta đang từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế kinh tế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước thì những sự thay đổi trong quan điểm kinh tế, cơ
cấu kinh tế và cơ chế kinh tế kéo theo sự thay đổi trong quan niệm về vai trò, vị trí và
chức năng của các hiện tượng chính trị, ngoại giao, đạo đức, pháp quyền, khoa học và
nghệ thuật...
Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy rõ việc phải sử dụng đầy đủ và đúng đắn
quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu
khách quan; phải vận dụng tổng hợp hệ thống các qui luật đang tác động nền kinh tế ví
dụ như quy luật giá trị, quy luật cung cầu... Kế hoạch hoá phải luôn luôn gắn liền với
việc sử dụng đúng đắn các đòn bẩy kinh tế. Để xây dựng nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa phải sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo một cơ cấu hợp
lý. Trong đó các nghành, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất có
qui mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối, liên kết với nhau, phù
hợp với điều kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định.
Tuy nhiên, tư tưởng đổi mới của Đại hội VI chưa thể đi ngay vào cuộc sống,
còn có lực cản, nền kinh tế tiếp tục gặp khó khăn trong mấy năm đầu. Nhưng từ năm
1989, các biện pháp đổi mới (như áp dụng chính sách suất dương, xoá bỏ chế độ tem
phiếu, loại bỏ một số khoản chi bao cấp ngân sách Nhà nước, mở rộng quan hệ thị
trường...) đã thực sự đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nền kinh tế có
nhiều khởi sắc. Ví dụ như: trong giai đoạn 1986- 1990 đầu tư toàn xã hội trung bình là
12,5%GDP; tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%; kim nghạch xuất khẩu bình quân
đạt 1,3 tỷ USD/năm; kim nghạch nhập khẩu trung bình là 2,3 tỷ USD/năm. Về lạm
phát thì năm 1986 là 77,4% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1% (Nguồn Tổng cục
thống kê).
3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000:
Do mới có một số biện pháp được áp dụng vào cuối kỳ kế hoạch 1986 - 1990
nên kết quả của thời kỳ này còn hạn chế. Song cái được của thời kỳ 1986 -1990 là
chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh mẽ, đến giai đoạn 1991 -1995 sự
chuyển đổi đó đã phát huy tác dụng và tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.
Đại hội Đảng VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như:
- Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế quản
lý thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu, lấy đổi mới kinh tế làm
trọng tâm.
- Tiếp tục kim chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu
có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
- ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân (về vật chất và tinh
thần); tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm nhịp độ tăng dân số....
Những quyết sách ấy được đưa ra trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc”, trong
bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nguồn lực cho phát triển bị thiếu hụt.... dường như đã
tiếp thêm sức mạnh cho quá trình chuyển đổi nền kinh tế để góp phần đưa đất nước ta
khỏi khủng hoảng.
Trong 5 năm đầu (1991 - 1995), tuy nền kinh tế vẫn đứng trước nhiều khó khăn,
thách thức nhưng với việc triển khai mạnh mẽ đường lối đổi mới toàn diện của Đảng,
phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đã tạo ra nhiều động lực phát triển mới, hầu
hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991 -1995 được hoàn thành vượt mức và
toàn diện, mà các kế hoạch 5 năm trước đó chưa bao giờ thực hiện được.
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,2% (trong khi đó mục tiêu
ta đạt ra là 5- 6%), trong đó nông nghiệp tăng 4,5%; công nghiệp và xây dựng tăng
13,6% và dịch vụ tăng 8,8%, lạm phát kìm chế ổn định ở mức thấp (bình quân
23,4%/năm) (Theo nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư), đầu tư xã hội tăng nhanh, thị trường
xuất nhập khẩu mở rộng.... Như vậy, kết quả đổi mới đạt được trong giai đoạn này đã
chứng minh cho đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, thoe hướng “mở” được
đề ra từ Đại hội VI là đúng đắn. Nó cũng chứng tỏ bài học kiên trì con đường vững
vàng, xoá bỏ tập trung hoá cao độ, giải phóng mọi nguồn lực, giải toả tư tưởng kỳ thị
khu vực tư nhân đi liền với khẳng định quyền sở hữu tư nhân, hoàn thiện luật pháp, cơ
chế, chính sách một cách đồng bộ và nhất quán... đã là những nhân tố quan trọng góp
phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng.
Kết thúc thời kỳ kế hoạch 1991 - 1995, Đại hội VII đã kết luận: “ Đất nước ta đã
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo
được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”.
Giai đoạn 1996 -2000 được xác định là bước quan trọng của thời kỳ phát triển
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu và các chỉ tiêu phát
triển của kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 đã được xây dựng với mức phấn đấu rất cao, cả
về tốc độ phát triển, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng của nền kinh tế. Việc chuyển
từ giai đoạn lấy ổn định kinh tế xã hội làm trọng tâm sang giai đoạn lấy phát triển làm
trọng tâm, đặt ra yêu cầu rất cao, rất toàn diện theo chiều sâu cải cách kinh tế, đặc biệt
là phải nhanh chóng hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý với cơ chế quản lý đủ sức vận
hành thông suốt, hướng nền kinh tế đi vào phát triển và ổn định.
Tuy nhiên, các tiền đề cần thiết cho sự phát triển cao như chất lượng nguồn;
trình độ và năng lực khoa học, công nghệ; điều kiện kết cấu hạ tầng; khả năng tài chính
quốc gia; cơ chế thị trường đồng bộ có sự quản lý của Nhà nước.... chưa chuẩn bị đầy
đủ và còn quá thấp so với yêu cầu. Mặt khác, tác động của khủng hoảng khu vực và
những thiên tai khắc nghiệt đã làm tăng thêm khó khăn của nền kinh tế. Vì vậy, hầu hết
các chỉ tiêu đặt ra tại Đại hội VIII đều không đạt được (mục tiêu tốc độ GDP trung
bình 9,0 - 10,0%/năm chỉ đạt 6,55%/năm; mục tiêu tốc độ kim ngạch xuất khẩu
28%/năm nhưng chỉ đạt 21%/năm...) (Nguồn: Văn kiện Đại hội Đảng VIII).
Mặc dù có nhiều khó khăn thách thức gay gắt, bị thiệt hại lớn do thiên tai lũ lụt
liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng, nhưng nhìn chung việc thực hiện chiến lược 1991 -
2000 đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng như: sau mấy năm đầu thực
hiện chiến lược, tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng gấp đôi, tích luỹ
nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể đến năm 2000 đạt 25%GDP, tốc độ tăng
trưởng kinh tế trung bình 7,5%/năm (Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư). Từ tình trạng khan
hiếm, sản xuất không đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, nay đã đảm bảo lương thực thực
phẩm, nhiều loại tiêu dùng, có dự trữ... Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá
nhanh, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các thành phần kinh tế
phát triển khá nhanh. Từ chỗ bị bao vây cấm vận, nước ta đã chủ động tranh thủ thời cơ
từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới, thu hút đáng kể đầu tư trực tiếp và
nguồn tài trợ chính thức của nước ngoài. Mặt khác, trình độ dân trí, chất lượng nguồn
nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; đời sống của các tầng lớp nhân
dân được cải thiện.
4. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta:
Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện - từ
đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội; từ đổi mới tư duy,
nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vấn đề
có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả ba lĩnh
vực: đổi mới tư duy; đổi mới tổ chức và cán bộ; đổi mới phong cách làm việc. Đổi mới
tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo điều,
chủ quan, siêu hình; là phải đấu tranh loại bỏ những quan điểm sai trái, khắc phục
những quan điểm lạc hậu về chủ nghĩa xã hội, về công nghiệp hoá, về cải tạo xã hội
chủ nghĩa, về cơ chế quản lý kinh tế... Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư
duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận mà Đảng đã đạt
được.
Từ Đại hội VI đến nay đã gần15 năm, đã qua Đại hội VII, hội nghị đại biểu giữa
nhiệm kỳ đại hội VIII, đường lối đổi mới đã được cụ thể hoấ và phát triển, đem lại
những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới của Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một, vẫn khẳng định mục tiêu chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng
nghiên cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xây dựng mục tiêu và phương án xã hội chủ
nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan:
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có
lúc đẩy quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh
tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền
tệ, tiêng lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm
trọng. Quán triệt nguyên tắc khách quan, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí là nhiệm
vụ của toàn Đảng, toàn dân ta, nhiệm vụ này chỉ được thực hiện nếu chúng ta kết hợp
chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. ”
Bản thân sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ mới mẻ, khó
khăn, phức tạp, đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, của tính
năng động chủ quan. Những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những biến động
nhiều mặt của đất nước ta trong quá trình đổi mới toàn diện xã hội càng đòi hỏi chúng
ta phải kiên trì, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc phục khó khăn đồng thời phải tỉnh
táo, thông minh, nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình thực tế biến đổi từng
ngày, từng giờ. Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp chặt chẽ giữa nhiệt
tình cách mạng và tri thức khoa học.
- Trong việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
phải dự báo được xu hướng vận động của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời dự báo
trước được xu hướng vận động của các sự kiện, các lĩnh vực có liên quan.
- Mỗi lĩnh vực của thế giới và của đời sống xã hội có những quy luật vận động
đặc thù. Ngoài những quy luật đó, phải nhận thức được các quy luật của triết học như
quy luật mâu thuẫn biện chứng về nguyên nhân của sự vận động, phát triển; quy luật
phủ định của phủ định về xu hướng của vận động và phát triển.
- Mối liên hệ giữa sự vận động, phát triển là hai mặt của quá trình tồn tại của sự
vật; sự vật liên hệ tác động qua lại lẫn nhau gây nên vận động, ngược lại vận động tạo
ra liên hệ. Yêu cầu toà diện chỉ đạt được khi tính đến sự phát triển. Và ngược lại chỉ có
thể dự báo được xu hướng phát triển khi xem xét một cách toàn diện.
Đảng ta đã yêu cầu toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nắm vững các định hướng
lớn:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ đổi mới kinh
tế ở nước ta.
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Phát triển văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với
tinh hoa văn hoá nhân loại.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng ta sở dĩ giữ vững được vai trò lãnh
đạo và lãnh đạo thành công trong sự nghiệp đổi mới cũng trước hết nhờ Đảng ta không
xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không xa
rời mục tiêu xã hội chủ nghĩa, không mất đi bản chất của giai cấp công nhân. Thành
công và thưc tiễn sinh động của công cuộc đổi mới trên đất nước ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng ta đã và đang chứng minh sức sống và làm sáng tỏ bản chất cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn trong quá trình đổi mới đất nước càng làm nổi bật vai trò của lý luận, đồng
thời càng thấy rõ sự cần thiết phải tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc để không chỉ làm
sáng tỏ mà còn phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều
kiện và hoàn cảnh mới của đất nước ta.
Vào thời điểm đầu của giai đoạn này, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở các
nước Đông Âu và Liên Xô cũ, gây nên một tác động xấu về tình cảm, niềm tin và cả sự
hoài nghi về chủ nghĩa xã hội. Dẫn đến xã hội chủ nghĩa tạm thời lâm vào tình trạng
thoái trào, nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại; loài người vẫn
đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ
bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức
biểu hiện có nhiều nét mới. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra
dưới nhiều hình thức. Những năm gần đây nước ta chịu sự tác động bất lợi của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính nó nổ ra ở khu vực bị thiên tai, thiệt hại liên tiếp xảy ra ở
các vùng.
Lênin đã từng chỉ ra rằng: có trên cơ sở hiểu đúng thời đại, chúng ta mới có thể
định ra chiến lược và sách lược đúng đắn. Khẳng định tính thời đại có căn cứ vững
chắc giúp củng cố lòng tin của người cộng sản vào con đường đã chọn, nó bác bỏ
những quan điểm chỉ thấy mặt lực lượng sản xuất nhưng phủ nhận nội dung giai cấp,
nội dung chính trị, kinh tế, xã hội trong sự vận động đầy mâu thuẫn của hình thái kinh
tế.
III. Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường:
1. Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường:
- Vận dụng quan điểm toàn diện trong việc thúc đẩy sự hình thành, phát triển và
từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt
quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị
trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học -
công nghệ.
- Trong điều kiện các yếu tố thị trường phát triển không đồng bộ và toàn diện có
phần nào đã cản trở việc hình thành nền kinh tế thị trường, làm cho thị trường phát
triển không đúng theo bản chất của nó, làm sai lệch đi những nôi dung cần có của các
yếu tố thị trường.
Trong thời gian tới việc cấp thiết là xây dựng và hoàn chỉnh một cách toàn diện
các yếu tố thị trường, cụ thể sau:
(1) Phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ:
Thị trường hàng hoá và dịch vụ là yếu tố nòng cốt của nền kinh tế hàng hoá. Có
thị trường hàng hoá phát triển, mới có thể đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng
đa dạng. Để thực hiện vấn đề này, một mặt phải ra sức sản xuất những loại hàng hoá
mà thị trường có nhu cầu mặt khác phải nâng cao sức mua của thị trường trong cả
nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng nhiều khó khăn. Mở rộng
thêm thị trường mới ở nước ngoài.
(2) Phát triển thị trường sức lao động:
ở nước ta thị trường lao động chưa được phát triển. Tuy nhiên theo quan điểm
toàn diện, lao động là yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất kinh doanh. Do vậy,
việc phát triển thị trường lao động cần được quan tâm đúng mức. Việc mở rộng thị
trường lao động trong nước cần có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích
của người lao động và của người sử dụng lao động. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và
chính sách để tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận
lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học
nghề mới.
(3) Phát triển thị trường vốn:
Phát triển nhanh thị trường vốn, nhất là thị trường vốn dài hạn và trung hạn là
yếu tố rất quan trọng để bảo đảm cho nền kinh tế phát triển và có tăng trưởng cao. Hình
thành đồng bộ thị trường tiền tệ; khả năng chuyển đổi của đồng Việt nam .
Tổ chức vận hành thị trường chứng khoán an toàn, hiệu quả.
Việc tổ chức các thị trường thu hút là đảm bảo động viên mọi tầng lớp dân cư có
tiền đưa vào đầu tư gián tiếp bằng gửi tiền vào ngân hàng. Yếu tố quan trọng để người
dân đưa tiền vào gửi ngân hàng là phải bảo đảm ổn định kinh tế, không làm tăng giá,
đồng tiền ổn định, đồng thời các ngân hàng thương mại phải cải tiến các thủ tục hành
chính, gửi tiền vào cùng nhưng rút ra một cách thuận lợi.
Ngoài các thị trường chủ yếu như trên, còn phải phát hiện thị trường bất động
sản, thị trường nhà ở, thị trường đất đai,...
Như vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển toàn diện, đồng bộ các yếu tố thị
trường, các loại thị trường là yếu tố rất cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát
triển. Tuy nhiên việc phát triển các yếu tố thị trường cần được định hướng của Nhà
nước bằng hàng loạt các công cụ quản lý nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
2. Hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý kinh tế thị
trường.
Để tiến hành quản lý kinh tế, Nhà nước phải sử dụng một hệ thống các công cụ
quản lý, đó là các phương tiện mà Nhà nước sử dụng để tác động vào nền kinh tế nhằm
đạt được những mong muốn của mình.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp
luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách, các đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu
vực kinh tế Nhà nước”.
Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường,
tạo điều kiện để phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, hạn chế những tác động
tiêu cực của thị trường.
Hệ thống các công cụ được Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ là:
- Pháp luật.
- Kế hoạch.
- Cơ chế chính sách, đòn bẩy kinh tế.
- Các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước.
(1) Các công cụ pháp luật là đảm bảo môi trường pháp lý, môi trường kinh
doanh cho mọi thành phần kinh tế phát triển.
(2) Các công cụ kế hoạch: Nhà nước tập trung làm tốt chức năng hoạch định
chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển, thực hiện những dự án trọng
điểm bằng nguồn lực tập trung; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh.
(3) Các công cụ chính sách: các công cụ của chính sách tiền tệ, chính sách tài
chính như: dự trữ bắt buộc, thị trường mở, tái chiết khấu, chi, thu và thuế, tỷ giá hối
đoái.
- Chính sách tài chính là điều tiết thu nhập thông qua việc thu thuế các doanh
nghiệp, thu thuế thu nhập của dân cư, doanh nghiệp.
- Tiền tệ..
(4) Các công cụ khác là thông tin, tuyên truyền, dự trữ Nhà nước, sức mạnh của
doanh nghiệp Nhà nước...
Như vậy, như đã nêu trên, để định hướng nền kinh tế thị trường đi theo định
hướng xã hội chủ nghĩa cần có các cơ chế chính sách, các công cụ quản lý nền kinh tế
một cách đồng bộ và toàn diện nền kinh tế quốc dân.
Hàng loạt các công cụ như đã trình bày ở trên không thể bỏ qua bất cứ công cụ
quản lý nào, nếu thiếu đi một trong các công cụ trên thì hậu quả của nó sẽ rất nghiêm
trọng. Đó là sự phân hóa giàu nghèo sẽ gia tăng, cạnh tranh sẽ rất khốc liệt, môi trường
kinh doanh sẽ bị thiệt hại,.... Do vậy quan điểm toàn diện trong việc xây dựng các công
cụ quản lý nền kinh tế là hết sức cần thiết và rất quan trọng.
Kết luận
ở nước ta, thời gianqua việc tổ chức lại nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã gặt hái được những thành công mà thế giới đánh giá rất
cao. Đó là chúng ta đã biết vận dụng đúng đắn quan điểm toàn diện trong việc phát
triển nền kinh tế ngay từ khi bắt đầu đổi mới. Những bài học đổi mới do Đại hội VI,
VII, VIII nêu lên đến nay vẫn còn có giá trị lớn. Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thử thách, những biến
động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn luôn kiên định mục tiêu
cách mạng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên
cơ sở đó xây dựng các chủ trương chính sách đổi mới. Chúng ta kiên trì bảo vệ những
truyền thống quí báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững
mục tiêu độc lập dân tộc, vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Đối với người cán bộ quản lý kinh tế, tìa chính trong điều kiện hiện nay, bài học
xuất phát từ những thực tế khách quan đồng thời phát huy nỗ lực chủ quan càng có ý
nghĩa quan trọng. Xoá bỏ cơ chế quan liêu, bao cấp cũng có nghĩa là đòi hỏi người làm
công tác quản lý kinh tế tài chính phải năng động, sáng tạo, nhạy bén, nắm bắt được
thực tế, quy luật vận động và phát triển của nó. Kinh nghiệm cho thấy rằng, đôi khi chỉ
cần một nhận thức không đùng, một thông tin xuyên tạc... đã có thể dẫn tới thiệt hại
lớn về kinh tế; ngược lại có khi chỉ cần nhạy bén một chút, biết tận dụng đúng thời cơ...
thì cũng có thể đạt tới thắng lợi không nhỏ. Chính vì vậy mà phương châm kinh doanh
của người Nhật là nhanh như gió, kín như rừng, mạnh như lửa và vững như núi.
Chúng ta nhận thức rằng, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong thời
gian qua đó là một sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta. Đồng thời những tồn tại và
những khó khăn thách thức mà chúng ta sẽ gặp phải cũng hết sức to lớn đòi hỏi chúng
ta phải tiếp tục cố gắng hơn nữa để vượt qua mọi khó khăn vẫn còn trước mắt.
Với thực tiễn đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày một rõ ràng và đầy đủ hơn.
Điều này trên thực tế, đã trở thành một nguồn lực đặc biệt có ý nghĩa bảo đảm cho mỗi
hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội cụ thể trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước.
Nhận thức bao giờ cũng là một quá trình đi từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội lại là một hiện tượng mới mẻ,
đang vận động, hình thành trong lịch sử loài người. Bởi vậy bám sát thực tiễn, nghiên
cứu và tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận đó là yêu cầu to lớn mà thực tiễn đang
đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng hôm nay.
Một số suy nghĩ để phát triển các yếu tố theo quan điểm toàn diện trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
Thực tế cho thấy, nhờ vận dụng quan điểm toàn diện trong việc hình thành đồng
bộ các yếu tố thị trường, hình thành các công cụ quản lý kinh tế, nhất là các công cụ về
pháp luật, công cụ kế hoạch, công cụ tài chính tiền tệ... đã thu được nhiều thành công,
cho chúng ta nhiều bài học trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường rất quí giá.
Tuy nhiên, theo đánh giá của tôi thì hiện nay các yếu tố thị trường tuy đã được
hình thành nhưng vẫn còn sơ khai và chưa thật đồng bộ, nhiều thị trường mới bắt đầu
hoạt động như thị trường chứng khoán, thị trường lao động, thị trường nhà ở... do vậy
trong thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện nhiều hơn nữa các yếu tố thị
trường của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với các công cụ quản lý nền kinh tế cũng có tình hình tương tự. Tuy đã có
các công cụ quản lý nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song các công cụ
quản lý, các chính sách vẫn còn quá phức tạp, chưa đồng bộ còn chồng chéo, chưa huy
động hết sức dân vào công cuộc phát triển kinh tế. Do vậy chúng ta cần phải hoàn thiện
hơn các công cụ quản lý đã có.
Thực hiện chuyên đề này cho tôi thấy vai trò của quan điểm toàn diện trong việc
nhìn nhận, đánh giá, và phát triển các sự vật, hiện tượng là một điều đáng quan tâm và
hết sức quan trọng.
tài liệu tham khảo
a. Sách tham khảo
1. Giáo trình “Triết học Mác - Lênin”, tập 2 NXB Chính trị quốc gia - năm
1997.
2. văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII
3. Kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2000 mục tiêu, phương hướng và giải pháp.
4. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng.
5. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước
- PGS, PTS Nguyễn Trọng Phúc - NXB Chính trị quốc gia.
b. Tạp chí tham khảo
1. Tạp chí Cộng sản số 19 tháng 10/1998
2. Tạp chí Cộng sản số 7 tháng 4/2000
3. Tạp chí Cộng sản số 17 tháng 9/2000
4. Tạp chí Cộng sản số 24 tháng 12/2000
5. Một số tạp chí khác.
Mục lục
Nội dung Trang
Lời nói đầu
Phần I : Những lý luận về quan điểm toàn diện
I- Cơ sở lý luận
II- Yêu cầu của quan điểm toàn diện
III- ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm toàn diện
Phần II : Vận dụng lý luận vào việc xây dựng
nền kinh tế thị trường
I- Khái niệm nền kinh tế thị trường.
Ưu điểm và nhược điểm
1, Khái niệm
2, Mặt tích cực và hạn chế của nền kinh tế thị trường trong
đời sống xã hội ở nước ta
3, Mục đích của nền kinh tế thị trường
II- Thực trạng và quá trình phát triển
nền kinh tế thị trường ở nước ta
1, Giai đoạn trước năm 1986
2, Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1990
3, Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000
4, Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
III- Tính toàn diện trong xây dựng nền kinh tế thị trường
1, Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường
2, Hoàn chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ
quản lý nền kinh tế thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quan điểm toàn diện trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.pdf