Quan hệ tín dụng nêu trên của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực là mối
quan hệ có tính hiệu quả về kinh tế-xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
hoạt động ngân hàng và kinh tế hộ cùng phát triển, góp phần cho chuyển dịch thật sự
kinh tế nông nghiệp, nông thôn tại địa bàn. Qua từng mốc thời gian mối quan hệ được
phát triển cao hơn, sự tin tưởng và tìm đến nhau giữa ngân hàng và người nông dân
ngày càng nhiều hơn, người nông dân thật sự là “khách hàng truyền thống” và
NHNo&PTNT thật sự là “bạn đồng hành” của nhau trong xu thế tiến tới phát triển nền
sản xuất nông nghiệp hàng hoá tại địa bàn.
79 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế như:mây, keo và các loại cây khác.
Hình thành các cơ sở chế biến nông, lâm, thuỷ sản;các điểm du lịch. Phát triển các
loại dịch vụ chợ, khách sạn, nhà hàng, nhà nghỉ, dịch vụ vận tải tại các điểm phù hợp.
3.1.1.2. Đối với hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam
- Về định hướng chung: Tập trung sức toàn hệ thống, thực hiện bằng được những
nội dung cơ bản theo tiến độ cơ cấu lại NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã
được phê duyệt và tập trung xây dựng NHNo&PTNT Việt Nam thành tập đoàn tài
chính;tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh
lời, đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn, mở rộng
và nâng cao dịch vụ ngân hàng đủ năng lực cạnh tranh; tập trung đầu tư, đào tạo nguồn
nhân lực, đầu tư và đổi mới công nghệ ngân hàng phù hợp với hiện đại hoá, đủ năng lực
hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh
và kết hợp với văn hoá doanh nghiệp.
- Định hướng thị trường và khách hàng:
+ Về huy động vốn:
. Đa dạng các hình thức huy động, nâng cao chất lượng hoạt động, tập trung huy
động vốn ngắn hạn, trung dài hạn tại khu vực dân cư và vốn ngắn hạn tại các doanh
nghiệp.
. Khai thác triệt để các lợi thế, thực hiện đầy đủ đúng hạn các cam kết để thu hút,
tăng nhanh nguồn vốn uỷ thác trong nước, ngoài nước.
. Tham gia và khai thác thị trường vốn.
+ Về cho vay:
. Tập trung đầu tư vốn cho thị trường nông nghiệp, nông thôn với khách hàng là hộ gia
đình, cá nhân sản xuất, nông lâm, ngư, diêm nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh
vực nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi…theo
hướng khép kín gắn liền sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, khôi phục và phát triển
ngành nghề nông thôn…
. Khách hàng ở thị trường nông nghiệp, nông thôn chia làm 2 nhóm: Nhóm hộ
nghèo và đối tượng chính sách: NHNo&PTNT Việt Nam nhận thực hiện làm dịch vụ cho
vay uỷ thác. Nhóm khách hàng còn lại, NHNo&PTNT Việt Nam phấn đấu chiếm thị phần
trên 70%, đạt mức dư nợ từ 15 - 20 triệu đồng/hộ trong giai đoạn 2006-2010 và 30 triệu đồng
trong những năm tiếp theo.
. Vùng đô thị (Thành phố, thị xã) NHNo&PTNT Việt Nam tập trung đầu tư cho các
doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện tiêu thụ, chế biến, xuất khẩu nông sản, thực phẩm. Phát
triển các tiện ích, dịch vụ ngân hàng. Mở rộng hoạt động cho vay ngoại tệ gắn với xuất
khẩu nông sản. Chú trọng khách hàng là các hộ kinh doanh nhỏ.
3.1.2. Các quan điểm
- Lợi ích kinh tế là động lực phát triển của các bên trong mối quan hệ tín dụng ngân
hàng với phát triển kinh tế hộ
Lợi ích-lợi ích kinh tế vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quan hệ kinh tế nói chung
và quan hệ tín dụng nói riêng. Tuy nhiên lợi ích trong quan hệ tín dụng giữa NHNo&PTNT
với kinh tế hộ là một quan hệ lợi ích có tính chất đặc biệt “vừa là lợi ích kinh tế vừa là lợi ích
xã hội”, thông qua gắn kết lợi ích mà người nông dân và NHNo&PTNT trở thành bạn đồng
hành của nhau trong quá trình thực hiện chủ trương CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam.
- Tín dụng ngân hàng là công cụ hỗ trợ trong quan hệ giữa hộ sản xuất - Nhà doanh nghiệp
- Nhà nước với ngân hàng, do đó phải lành mạnh hóa quan hệ này.
- Phát triển kinh tế hộ gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu vực nông nghiệp
miền núi; thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo, do đó đây cũng là trách nhiệm của
ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
3.2. Các giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn với phát triển kinh tế hộ tại khu vực miền núi phía bắc
tỉnh Quảng Nam
Kinh tế hộ là một thành phần kinh tế có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy
nền kinh tế nông nghiệp tăng trưởng, nhất là vùng nông thôn miền núi mà phần lớn quy
mô hoạt động của các doanh nghiệp còn quá nhỏ bé, hoạt động ngành nghề chưa đa dạng,
đặc điểm địa hình phức tạp… Vì vậy trong giai đoạn hiện nay kinh tế hộ đóng vai trò khá
quyết định trong việc sản xuất ra sản phẩm ở nông thôn, góp phần nâng cao tốc độ tăng
trưởng tại khu vực.
Quá trình phát triển kinh tế hộ tại khu vực miền núi phía bắc Quảng Nam trong nền
kinh tế thị trường là một quá trình liên quan đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa
bàn, vấn đề này đang đòi hỏi phải có nhiều chính sách giải pháp đồng bộ như giải pháp về
quy hoạch phát triển ngành nghề;các giải pháp về hỗ trợ kỹ thuật sản xuất, chăn nuôi, ứng
dụng tiến bộ kỹ thật, công nghệ mới;giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực;giải pháp về thị
trường tiêu thụ sản phẩm…Đồng thời nhà nước cần phải không ngừng hoàn thiện các
chính sách kinh tế như các chính sách về ruộng đất, chính sách tín dụng, chính sách ưu đãi
đầu tư, chính sách bảo hiểm…nhằm hỗ trợ cho kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Trong điều kiện hạn hẹp về nguồn vốn hoạt động xản xuất kinh doanh của hộ như
hiện nay, chính sách về tín dụng được xem như là một giải pháp cứu cánh giúp thúc đẩy sự
phát triển kinh tế hộ. Tuy nhiên bản chất tín dụng là sự vay mượn, có hoàn trả.Do vậy yếu
tố chất lượng tín dụng là yêu cầu thiết yếu nó liên quan đến tính động lực của các chính
sách, giải pháp khác đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng và kinh tế
hộ nói chung.
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoạt động Ngân hàng
3.2.1.1. Giải pháp về lãi suất trong huy động vốn
Thứ nhất: Thực hiện lãi suất huy động theo cung cầu vốn, đảm bảo nguyên tắc lãi
suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào
Lãi suất là công cụ quan trọng để Ngân hàng huy động nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng khác…trong điều kiện
giá trị đồng tiền ổn định, kiểm soát được lạm phát, giá cả ít biến động…công cụ lãi suất rất
có hiệu quả trong huy động vốn.Do đó cần có lãi suất hợp lý là lãi suất kích thích huy động
vốn ngày càng tăng vào ngân hàng nhưng vừa kích thích các chủ thể sử dụng vốn đảm bảo
có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Điều này cũng chỉ ra rằng việc chỉ đạo lãi suất
trong quan hệ cung cầu vốn hay nói cách khác lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào,
đảm bảo ngân hàng kinh doanh có lãi, người gửi vốn vào ngân hàng có thu nhập từ lãi suất
huy động, người vay cũng chấp nhận được lãi suất vay mà sản xuất kinh doanh đảm bảo có
lãi.
Tại khu vực nghiên cứu, theo quy định lãi suất cho vay hộ hiện nay ở mức 1, 05 - 1,
15%/tháng (chưa tính giảm 15% và 30% theo khu vực I, II) và NHNo&PTNT tỉnh chỉ đạo
lãi suất huy động ở mức 0, 65 - 0, 72%/tháng là phù hợp. Với nguyên tắc này sẽ tránh tình
trạng chạy đua nâng lãi suất huy động, đẩy lãi suất cho vay tăng lên làm ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng vốn vay của kinh tế hộ mà hệ quả tất yếu dẫn đến các chi nhánh không
thể mở rộng tín dụng và rủi ro tín dụng càng tăng.
Thứ hai: áp dụng lãi suất kích thích đối với người gửi kỳ phiếu rút tiền trước hạn.
Dù muốn hay không thì việc huy động vốn để cho vay đối với lĩnh vực NNNT nói
chung và kinh tế hộ tại khu vực nông thôn miền núi nói riêng không thể tự cân đối trên từng
địa bàn cơ sở, bởi nhu cầu vốn đầu tư trong nông nghiệp phục vụ cho chủ trương CNH-HĐH
là rất lớn do điểm xuất phát đi lên từ NNNT là rất thấp, thu nhập đối với người nông dân khu
vực miền núi còn quá thấp cho nên khả năng huy động vốn nhàn rỗi từ dân cư ở khu vực này
vào ngân hàng chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay. Mặt khác, ngân hàng chưa tạo lập được
một thói quen cho người nông dân gửi tiền vào ngân hàng khi thừa, vay tiền ngân hàng khi
thiếu vốn sản xuất-kinh doanh mà hầu như bất cứ người dân nào cũng muốn giữ lại lượng tiền
mặt trong túi để chi dùng, số thừa thì cất trữ dưới hình thức vàng, cho nên ngân hàng một mặt
phải có chính sách khuyến khích huy động vốn ở thành thị để hỗ trợ cho vay ở nông thôn
thông qua tổ chức mạng lưới và cơ chế điều hoà vốn với lãi suất thích hợp.
Đối với NHNo&PTNT, điều mà người gửi tiền quan tâm là khi họ rút tiền trước
hạn đối với kỳ phiếu thì họ chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn, đây là điều chưa đảm
bảo lợi ích cho những người gửi tiền. Vì vậy để khuyến khích người gửi tiền vào ngân
hàng, nếu rút trước hạn thì ngân hàng có thể giải quyết cho khách hàng được hưởng lãi
suất kỳ hạn liền kề với thời gian đã gửi hoặc nếu quá thời hạn mà người gửi chưa đến rút
tiền thì nên cho hộ được hưởng lãi suất kỳ hạn tiềp theo, nếu hộ đến rút đủ thời gian tính
lãi suất một kỳ hạn nếu chưa đủ thời hạn thì tính lãi suất không kỳ hạn. Điều này sẽ
khuyến khích khách hàng quan tâm gửi tiền vào ngân hàng hưởng lãi suất vì quyền lợi
được đảm bảo và đây là cơ sở để ngân hàng khơi tăng nguồn vốn huy động đáp ứng nhu
cầu tín dụng phục vụ cho phát triển nền kinh tế.
3.2.1.2.Tuyên truyền tiếp thị mở rộng mạng lưới
Thứ nhất: Tổ chức huy động vốn phải đáp ứng theo nhu cầu và tâm lý khách hàng.
Dân cư sinh sống tại khu vực miền núi đại bộ phận là người dân tộc thiểu số và
phân bố trên phạm vi khá rộng, điều kiện đi lại còn rất hạn chế. Mặt dù đời sống còn khó
khăn, song với tính chắt chiu tiết kiệm thì trong mỗi ít nhất một cá nhân, một gia đình vẫn
thường có một khoản tiền để dành dưới dạng tài sản(nhà cửa, trâu bò, trang thiết bị…)mục
đích các khoản để dành chủ yếu mang tính dự phòng, lo xa… Số tiền này có thể tồn tại từ
năm này sang năm khác, tạm thời tách khỏi lưu thông trở thành khoản tích trữ nhàn rỗi
không sinh lời, thậm chí sẽ suy giảm giá trị nếu có lạm phát.
Do vậy, để có thể đứng vững trong cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng về các chi
nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn, các chi nhánh cần tổ chức nghiên cứu tìm hiểu về đặc
điểm, khả năng nguồn lực tài chính, sở thích, thói quen, đặc biệt chú ý đến bí mật lượng tiền
gửi vào ngân hàng của người dân vùng dân tộc ít người. Trên cơ sở đó mà đưa ra các hình
thức huy động thích hợp với quan điểm “năng nhặt chặt bị” và theo phương châm “đi vay
để cho vay”.
Nói tóm lại, trong dân cư đang tồn tại một bộ phận tiền nhàn rỗi khá lớn nằm ngoài
ngân hàng, mà một trong các nguyên nhân là mạng lưới của ngân hàng chưa được mở
rộng, các hình thức tuyên truyền tiềp thị còn đơn điệu và gần như chỉ tập trung ở những
nơi thuận tiện. Do vậy giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền tiếp thị khơi tăng nguồn vốn huy
động từ dân cư ở khu vực vùng dân tộc miền núi là rất cần được quan tâm triển khai.
Thứ hai: Về phát triển màng lưới.
Các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực cần nắm rõ định hướng quy hoạch và
phát triển kinh tế-xã hội tại vùng dân tộc miền núi tỉnh Quảng Nam đến năm 2010, nhất là
chương trình quy họach và phát triển các cụm kinh tế, sắp xếp tái định cư phù hợp với phát
huy hiệu quả đầu tư của các dự án lớn như: hệ thống thuỷ điện bậc thang tại khu vực,
đường Hồ Chi Minh huyền thoại, đường Đông trường sơn, đường 14B nối cửa khẩu Đăkôc
với cảng Tiên sa Đà nẵng…từ đó đề nghị mở thêm các phòng giao dịch tại các khu đông
dân cư, các cụm điểm kinh tế…nhằm đưa tiện ích ngân hàng đến phục vụ nhu cầu khách
hàng. Đồng thời nhanh chóng kiện toàn lại mạng lưới hiện có phù hợp với quy mô hoạt
động, hạn chế lãng phí cơ sở vật chất và chồng chéo trong hoạt động do bố trí mạng lưới
kề cận nhau, hoặc do quy mô nhỏ bé làm cho bộ máy quản lý cồng kềnh, giảm sút năng
lực kinh doanh ngân hàng.
Với giải pháp trên sẽ giúp các chi nhánh NHNo&PTNT tại từng địa bàn đẩy mạnh
hoạt động huy động vốn trong nông thôn, mặt khác tạo tiền đề để tiếp cận một nguồn
khách hàng tiềm năng rất to lớn, sớm chiếm lĩnh thị trường nông thôn trong xu hướng kinh
tế hộ đang từng bước chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá vươn lên
làm giàu.
Thứ ba: Về tuyên truyền tiếp thị.
Hoạt động tuyên truyền tiếp thị của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực thời
gian qua chưa được thực hiện thường xuyên, nhất là các vùng sâu, vùng xa hoạt động này
chỉ gắn với định kỳ công tác của các tổ lưu động nên hiệu quả chưa cao, đa số chỉ quan
tâm đến những khách hàng lớn với những thông tin rập khuôn đơn điệu.
Hạn chế của hoạt động này là một trong những nguyên nhân làm cho khách hàng ít
hiểu biết về ngân hàng, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, sự khan hiếm thông tin kéo theo
một bộ phận nhu cầu liên quan đến dịch vụ tài chính phải thực hiện thông qua thị trường tự
do như vay nóng, vay nặng lãi…
Để khắc phục hạn chế trên, từng chi nhánh tại khu vực cần xây dựng kế hoạch
tuyên truyền tiếp thị phù hợp sự hiểu biết của người dân, ngôn ngữ diễn đạt dễ hiểu mang
tính trực quan và phải tiếp cận đến tận thôn, bản…đề cao sự phối hợp của các trưởng thôn,
già làng và những người dân đã từng tiếp cận và sử dụng các tiện ích của ngân hàng. Ngoài
ra cần nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ lưu động, bố trì lịch thời gian phù hợp với
tập quán sinh hoạt của người dân địa phương.
3.2.1.3. Giải pháp về mở rộng tín dụng thúc đẩy kinh tế hộ ở vùng miền núi
Quảng nam phát triển
Giải pháp chung của ngành là xác định thị trường tín dụng khu vực nông nghiệp,
nông thôn là thị trường quan trọng, chủ yếu;Hộ gia đình, cá nhân là khách hàng truyền
thống, cơ bản, lâu dài, doanh nghiệp nhỏ và vừa là khách hàng tiềm năng cần nâng tầm
quan hệ hoạt động trên cơ sở đó không ngừng hoàn thiện cơ chế, quy trình hồ sơ, thủ
tục;thực hiện triệt để nguyên tắc tín dụng thương mại, bảo đảm chênh lệch lãi suất đầu ra
đầu vào đủ bù đắp chi phí, có mức lợi nhuận hợp lý và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước, xác lập các quỹ theo quy định, không ngừng nâng cao năng lực tài chính của hệ
thống và thu nhập của người lao động.
Đa dạng hoá các hình thức cho vay có kết hợp với chu kỳ sản xuất và thu hoạch.
Thời gian qua các chi nhánh NHNo&PTNT đã từng bước đa dạng hoá các hình thức cho
vay, góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nông nghệp và nông thôn, song cần phải
kết hợp giữa thời hạn cho vay với chu kỳ sản xuất và thu hoạch của nông sản (vì đối tượng
cho vay chủ yếu của NHNo&PTNT là các hộ nông dân, thời hạn cho vay phải tương ứng
với chu kỳ sản xuất cộng với thời gian tiêu thụ sản phẩm), như vậy mới tạo điều kiện cho
các hộ nông dân thu hồi được vốn và có lãi để trả nợ.
Gắn với thực tế phát triển nông nghiệp, nông thôn tại địa bàn, trong quan hệ mở
rộng tín dụng đối với kinh tế hộ cần tập trung thực hiện các giải pháp cụ thể sau:
- Mở rộng đối tượng cho vay không có bảo đảm với hộ vay ký hợp đồng tiêu thụ
nông sản với doanh nghiệp theo quyết định 80/CP của Thủ tướng Chính phủ:
Trong thời gian gần đây, theo bà con nông dân tại khu vực thì vấn đề lãi suất là có
thể chấp nhận được. Song cơ chế tín dụng vẫn còn là rào cản với hộ sản xuất kinh doanh
trong tiếp cận vốn vay ngân hàng.Thực tế này không chỉ là mối quan tâm của khách hàng
mà chính bản thân ngân hàng cũng rất quan tâm, đặc biệt cơ chế cũ có những ràng buộc
mà cán bộ tín dụng phải làm khi cho vay và rủi ro xảy ra sau khi cho vay dẫn đến hình sự
hoá trong hoạt động tín.Do vậy, ngày 31/12/2001 Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng tại quyết định
1627/QĐ-NHNN1 thay quyết đinh 284/2000/QĐ-NHNN1 trước đây mà những nội dung
chính tóm tắt như sau:
+ Điều gì mà luật pháp không cấm thì các tổ chức tín dụng được cho vay, Ngân
hàng nhà nước chỉ cấm các tổ chức tín dụng không được cho vay đối với các hoạt động tài
chính hoặc các dịch vụ làm ăn mà pháp lật cấm.
+ Các Ngân hàng được quyền cho mọi đối tượng, mọi trường hợp vay vốn phù hợp
với pháp luật và phải tự chịu trách nhiệm trước quyết định cho vay của mình.
+ Thời hạn cho vay không phụ thuộc vào đối tượng vay vốn là tài sản lưu động hay
tài sản cố định…mà hoàn toàn xác định trên cơ sở thời hạn thu hồi vốn để phân định cho
vay ngắn hạn hay trung-dài hạn.
+ Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ.gia hạn nợ gốc, lãi không còn bị ràng buộc bởi lý do
khách quan, bất khả kháng đối với khách hàng mà tuỳ theo yêu cầu của khách hàng.Ngân
hàng xem xét để giải quyết thoả đáng tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ sòng phẳng.
+ Việc chuyển nợ quá hạn nay được quản lý theo thông lệ quốc tế nhằm tránh sự
nhầm lẫn giữa nợ vay tốt với nợ vay có vấn đề cần theo dõi xử lý phù hợp để hạn chế rủi
ro tín dụng.
Có thể nói với quy chế cho vay mới này, hoạt động tín dụng của các chi nhánh
NHNo&PTNT tại khu vực đã có những chuyển biến tích cực và không bị ràng buộc nhiều
về cơ chế chính sách khác mà quyết định bây giờ lại phụ thuộc vào chính bản thân các
ngân hàng và hộ vay. Do vậy, bên cạnh nổ lực của ngân hàng thì các hộ vay vốn cần có sự
hợp tác chặt chẽ trong việc lập phương án kinh doanh khả thi và phải báo cáo tài chính đầy
đủ và hợp lệ. NHNo&PTNT đã sớm hoàn thiện các mẫu dự án, phương án sản xuất kinh
doanh đảm bảo đầy đủ các yếu tố về pháp lý, cơ sở kinh tế và tài chính để hướng dẫn hộ
vay lập dự án, phương án sản xuất kinh doanh cũng như thống nhất phương pháp thẩm
định dự án vay vốn đối với kinh tế hộ.
Tuy nhiên trong thực tế việc xây dựng và thẩm định dự án đảm bảo tính khả thi làm
căn cứ để cho vay trong tình trạng hiện nay vẫn là một vấn đề chưa khắc phục ngay những
yếu kém ngay từ khâu cung cấp tình hình, số liệu, thông tin từ khách hàng khi lập dự án,
phương án đầu tư…hay nói cách khác, các dự án, phương án sản xuất kinh doanh được lập
nên hầu như rất có hiệu quả, khả năng hoàn vốn khá tốt nhưng khi đi vào triển khai thực
hiện lại không đáp ưng mong muốn như khi thẩm định hiệu quả.Qua thực hiện có 2 vấn đề
đặt ra:
Thứ nhất, các thông tin dữ liệu và tình hình tài chính của hộ vay lập dự án chưa
được kiểm nghiệm tính khách quan và chính xác khi đưa vào xây dựng dự án.Các số liệu
hạch toán, kế toán tình hình tài chính của hộ vay hầu như không có số liệu tích luỹ. Đối
với kinh tế trang trại nếu có thì cũng thiếu tính cập nhật hoặc không trung thực-khách
quan, thiếu chính xác làm cho thẩm định cũng lẹch hướng kết luận hiệu quả.
Thứ hai, trình độ cán bộ tín dụng ngân hàng còn hạn chế trong việc thẩm định, bên
cạnh sự cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn đến hạ thấp điều kiện cần và đủ để làm căn
cứ cho vay…Hai khía cạnh trên đây đã dẫn đến quyết định cho vay thiếu luận cứ khoa học,
thiếu chính xác và tất yếu rủi ro là không tránh khỏi. Xuất phát từ luận cứ này mà các ngân
hàng thiếu mạnh dạng cho vay không có bảo đảm.
Việc cho vay không thế chấp đối với hộ vay sản xuất hàng hoá lớn như kinh tế
trang trại ở mức 30 triệu đồng như hiện nay không đủ đáp ứng nhu cầu vốn cho sản
xuất, trong khi các hộ này chủ yếu có giá trị là nhà cửa, quyền sử dụng đất nhưng dùng
thế chấp không được bao nhiêu, trongkhi có nhu cầu vốn lên đến trên 100 triêu
đồng/hộ. Vì vậy, bên cạnh phần vốn cho vay có tài sản đẩm bảo, ngân hàng cũng cần
mở rộng cho vay kinh tế hộ không có bảo đảm, nếu hộ vay ký hợp đồng tiêu thụ theo
quyết định 80/CP. Trước khi cho vay hộ vay cần phải thực hiện cam kết với doanh
nghiệp thu mua nông sản hàng hoá, NHNo&PTNT nơi cho vay và uỷ ban nhân xã về
trách nhiệm thực hiện hợp đồng bán sản phẩm cho doanh nghiệp thu mua.Ngân hàng sẽ
căn cứ vào hợp đồng bán sản phẩm của hộ vay để cho vay và thông qua hợp đồng để
giám sát, đôn đốc hộ vay thực hiện cam kết bán sản phẩm, trả nợ ngân hàng theo thoả
thuận, mức cho vay tuỳ thuộc vào nhu cầu vay, tuỳ thuộc vào việc chấp hành cam kết
và uy tín thực hiện hợp đồng của hộ vay nhưng tối đa không quá 70% giá trị hợp
đồng.Việc cho vay này phù hợp với mô hính kinh tế trang trại đang có xu hướng phát
triển tại khu vực, giúp hộ vay đủ vốn tổ chức sản xuất và yên tâm ở đầu ra của sản
phẩm, song ngân hàng phải kiểm soát chặt chẽ tiến độ thực hiện hợp đồng của hộ vay
vốn.
- Đa dạng hoá các hình thức cho vay đến kinh tế hộ
Các hình thức cho vay có vai trò quan trọng đến việc chuyển tải vốn từ ngân hàng
đến hộ sản xuất kinh doanh và ngược lại, xây dựng kênh phân phối đa dạng hợp lý sẽ làm
cho đồng vốn luân chuyển nhanh hơn, lưu thông tiền tệ phục vụ tốt, làm cho lưu thông
hàng hoá nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Hiện nay tuy quy mô sản xuất kinh doanh tại khu vực còn khá nhỏ so với các khu
vực khác, tuy nhiên với sự tăng trưởng trong những năm qua, kinh tế hộ đang trong giai
đoạn phát triển. Việc đa dạng kênh phân phối tín dụng phụ thuộc rất nhiều yếu tố như trình
độ và quy mô sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, điều kiện cơ sở hạ tầng, viễn thông, mức
độ hiện đại hoá của ngân hàng…để tạo thuận lợi hơn nữa về vốn cho kinh tế hộ phát triển,
Ngân hàng cần đa dạng hoá các kênh phân phối tín dụng đó là:
+ Cũng cố và phát triển hình thức cho vay qua tổ vay vốn thông qua sự hỗ trợ của
nhiều đầu mối như của Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh
niên…đặc biệt là xây dựng các tổ nhóm mang tính tự nguyện của một số hộ có nhu cầu
vay vốn.
+ Kết hợp phát triển mạng lưới với đào tạo cán bộ, ngoài các hình thức thanh toán
và các phương thức cho vay đang áp dụng cần mở rộng các công cụ thanh toán như thẻ,
cho vay theo hạn mức thấu chi…để phục vụ các nhu cầu tín dụng trực tiếp.
+ Đẩy mạnh dự án hiện đại hoá ngân hàng, tiến tới thực hiện giao dịch một
cửa…tạo điều kiện cho kinh tế hộ tham gia hội nhập khu vực và quốc tế một cách hiệu quả
nhất.
Tuỳ theo quy hoạch phát triển kinh tế của vùng mà mỗi địa phương, mỗi chi nhánh
ngân hàng có thể tài trợ vốn phát triển có tính đến yếu tố khép kín các hoạt động sản xuất,
các cơ sở chế biến tương ứng với mức sản xuất trong tương lai, có thể tài trợ tín dụng cho
đơn vị cung ứng vật tư nguyên liệu, thu mua tiêu thụ hàng hoá xuất khẩu, chăn nuôi…tạo
sự cân đối bền vững giữa cung cầu, sản xuất và lưu thông.., gắn kết giữa sản xuất với thị
trường trong và ngoài nước.
- Giải pháp về nâng cao hiệu quả và an toàn trong cho vay đối với kinh tế hộ.
Xét về góc độ ngân hàng, hiệu quả cho vay được đánh giá dựa trên khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc và lãi của số vốn đầu tư trên cơ sở hiệu quả mang lại từ hoạt động sản xuất kinh
doanh của kinh tế hộ. Có thể trong một số trường hợp ngân hàng thu đầy đủ cả nợ gốc và lãi
của số vốn đã cho vay như thu hồi nợ từ bán tài sản thế chấp, từ bảo lãnh của người thứ ba,
trường hợp này được đánh giá như là khả năng thu hồi nợ vay hơn là hiệu quả cho vay mang
lại, như vậy hiệu quả cho vay ngân hàng được xem xét trên góc độ hiệu quả đầu tư của kinh tế
hộ mà mục tiêu cuối cùng là ngân hàng vừa thu đầy đủ cả nợ gốc, lãi, hộ vay sản xuất kinh
doanh có lãi, đồng thời góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo đúng định hướng.Vơí
những lập luận đó, thì ngân hàng có thể sử dụng các giải pháp để tác động nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ, để làm tiền đề nâng cao hiệu quả cho vay ngân hàng dưới
đây:
Thứ nhất: Sớm thiết lập mối quan hệ đồng bộ giữa việc xử lý thông tin ở trụ sở
chính với tổ chức thẩm định dự án vay vốn ở chi nhánh địa phương.
Kinh tế thị trường phát triển đa dạng trong đó các quan hệ cung cầu do thị trường tự
điều tiết. Tuy nhiên do tác động của quy luật cạnh tranh, bên cạnh sự điều tiết của bàn tay
vô hình thì mặt trái của kinh tế thị trường cũng có nhiều cơ hội để bùng phát, đó là hiện
tượng đầu cơ, găm giữ hàng hoá chèn ép giá..làm cho thị trường rối loạn..dẫn đến nguy cơ
xảy ra thiếu hàng tạm thời, tình trạng các doanh nghiệp đua nhau lao vào sản xuất những
mặt hàng nhất định có lợi nhuận cao, làm cho giá cả giảm xuống, cung lớn hơn cầu hàng
hoá, có thể dẫn đến khủng hoảng thừa…
Trong điều kiện quy hoạch phát triển các vùng cây con chưa được định hình một
cách rõ ràng như tại miền núi bắc Quảng nam, thông tin về thị trường thiếu, sự biến động
trên thị trường hết sức phức tạp, việc dự đoán định hướng sản xuất kinh doanh của kinh tế
hộ là hết sức khó khăn, thậm chí có nhiều may rủi, trông chờ thiên thời, vào tương lai…do
vậy khả năng thành công của kinh tế hộ cũng rất lớn và rủi ro xảy ra cũng rất nhiều, điển
hình như đầu tư trồng cây quế, trẩu phục vụ xuất khẩu ở khu vực miền núi bắc Quảng nam
trong những năm vừa qua.
Để giúp kinh tế hộ hoạt động hiệu quả, với vai trò đòn bẩy của hoạt động tín dụng,
ngân hàng có thể quyết định tham gia đầu tư vốn vào những ngành nghề, những đối tượng
có triển vọng phát triển nhất, để đảm bảo hiệu quả mang lại cao nhất.Tuy nhiên điều này
chỉ có hiệu quả thật sự khi ngân hàng làm tốt công tác nghiên cứu, phân tích và dự báo thị
trường để đầu tư cho những đối tượng nhất định, theo từng mùa vụ nhất định, mà kết quả
thẩm định được đánh giá là có hiệu quả nhất. Để giải pháp này có hiệu quả ngân hàng cần
thực hiện một số nội dung sau:
+ Hình thành bộ phận thu nhập và xử lý thông tin ở tầm vĩ mô (tất cả mọi thông tin liên
quan đến thị trường thế giới và trong nước).Tổng hợp phân tích và đưa ra những dự báo, sau
đó chuyển tải theo định kỳ đến tất cả cán bộ tín dụng nhằm có cơ sở tham khảo lựa chọn đối
tượng đầu tư nào có hiệu quả nhất.
+ Bám sát quy hoạch phát triển kinh tế từng vùng, miền để bố trí vốn đầu tư đúng
quy hoạch và định hướng phát triển.
+ Xây dựng và hình thành đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề, có trình độ đa ngành
để nâng cao năng lực thẩm định, có kỹ năng trong tiếp xác, phân tích xếp loại khách hàng
và kiểm soát được chất lượng tín dụng.
+ Thường xuyên mở các lớp tập huấn về quy trình thẩm định để kịp thời giúp cán
bộ tín dụng nắm bắt được những yêu cầu thẩm định mới phù hợp tình hình thực tế và
những bổ sung của quy trình thẩm định đã ban hành.
Thứ hai: cần hiện đại hoá nhanh công nghệ ngân hàng tại các chi nhánh trong khu
vực.
Hiện nay, các chi nhánh NHNo&PTNT tại địa bàn yêu cầu hiện đại hoá công nghệ
ngân hàng vẫn chưa được quan tâm, tiện ích trong thanh toán chỉ mới thực hiện với dịch
vụ chuyển tiền điện tử nội tỉnh.Tuy nhiên vấn đề ở đây là để nâng cao hiệu quả trong quan
hệ tín dụng với kinh tế hộ, một trong những giải pháp quan trọng đó là bố trí vốn đầu tư
khép kín kết hợp với đáp ứng kịp thời các dịch vụ mới, hiện đại của Ngân hàng, cụ thể:
+ Các chi nhánh NHNo cần xây dựng kế hoạch trang bị, sớm hiện đại hoá các tiện
ích phục vụ khách hàng như:thanh toán điện tử khác hệ thống, chi trả tiền bằng ATM,
thanh toán thẻ vừa phải mở ra các hoạt động thu hộ, chi hộ, các hoạt động môi giới.
+ Sớm đa dạng hoá các sản phẩm, các dịch vụ ngân hàng đảm bảo cung ứng đủ các dịch
vụ cho khách hàng, nhằm tăng thu dịch vụ cho ngân hàng, có như vậy tuỳ theo điều kiện mà
khách hàng là hộ sản xuất có cơ hội để tiếp cận ngân hàng và cũng là cơ hội để ngân hàng trở
thành thủ quỹ tin cậy của nhà nông.
Thứ ba: Sử dụng biện pháp cho vay gắn với biện pháp đề phòng rủi ro
Lãi suất cho vay trong nền kinh tế thị trường được hình thành dựa trên quan hệ
cung cầu quỹ cho vay, nếu nhu cầu vay tăng thì lãi suất tăng và ngược lại. Tuy là lãi suất
thị trường, nhưng xét về kết cấu lãi suất có thể phân tích lãi suất cho vay của ngân hàng
thành những bộ phận sau đây:
Lãi suất ngân hàng = lãi suất đầu vào+chi phí + rủi ro + lợi nhuận.
Về nguyên tắc do sự điều tiết của thị trường nên lãi suất bình quân đầu vào ở các
ngân hàng thương mại là gần tương đương nhau, như vậy hiệu quả tín dụng mang lại và
tính cạnh tranh của mỗi ngân hàng thương mại phụ thuộc rất nhiều mức độ chi phí và khả
năng xảy ra rủi ro ở mỗi ngân hàng, nếu ngân hàng nào tiết giảm được chi phí và rủi ro
thấp thì khả năng mang lại lợi nhuận sẽ cao. Như vậy có thể thấy mức lãi suất cho vay một
khách hàng có liên quan đến rất nhiều vào dự báo khả năng xảy ra rủi ro đối với khách
hàng đó.Tức là lãi suất cho vay cần phải xác định trên cơ sở mức độ rủi ro đối với từng đối
tượng khách hàng.
Trên thực tế, mặt dù nhà nước đã chuyển sang điều hành lãi suất theo cơ chế thoả
thuận và không áp đặt mức trần lãi suất như trước nhưng do nhiều quan điểm cạnh tranh
khác nhau nên hầu hết các ngân hàng thương mại đều áp dụng lãi suất cho vay cho mọi
khách hàng mà không tách bạch cụ thể mức lãi suất theo mức độ rủi ro cho từng khách
hàng.Điều này, từng đối tượng vay riêng biệt có thể biết chắc rủi ro ngay từ khi cho vay và
ngược lại những đối tượng khác thì quá bị thệt thòi khi phải vay vốn với lãi suất cao hơn vì
phải chịu bù đắp rủi ro cho đối tượng khác, tạo nên một sự không bình đẳng trong cạnh
trên thương trường.
Trong lĩnh vực kinh tế nông hộ, mặc dù ngân hàng thương mại, đặc biệt là
NHNo&PTNT có nhiều cơ chế tạo thuận lợi cho việc chuyển tải vốn đến bà con nông dân
song lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại ở nông thôn luôn cao hơn hệ số cho vay
đối với khu vực thành thị với lý do: món vay nhỏ, chi phí cao và rủi ro nhiều trong sản
xuất nông nghiệp.Mặt khác hầu như lãi suất chưa có cơ chế khuyến khích mà chỉ thực hiện
theo lãi suất ưu đãi của nhà nước, tạo tâm lý làm hộ vay thiếu gắn bó với ngân hàng và
cũng thiếu động viên để xây dựng khách hàng truyền thống, bởi vì dù họ vay lần đầu hay
vay trả sòng phẳng có uy tín..thì cũng áp dụng cơ chế lãi suất như nhau tuỳ thuộc vào mức
độ cạnh tranh trên địa bàn.
Do vậy, đối với kinh tế nông hộ cần có lãi suất cho vay có phân biệt cụ thể:
+ Hộ vay lần đầu có thể áp dụng lãi suất cao nhất trên địa bàn cho vay như: 1,
05%/tháng (theo lãi suất cho vay ngắn hạn hiện nay).
+Hộ đã vay trả sòng phẳng từ lần thứ ba trở đi có lãi suất khuyến khích
như:1%/tháng.
+ Hộ vay có tính chất thường xuyên, khách hàng truyền thống của ngân hàng thì
nên có lãi suất khuyến khích hơn, có thể là 0, 95%/tháng.
Việc phân loại hộ theo tiêu chí uy tín trong quan hệ vay trả tạo được sự đồng thuận
cao đối với khách hàng truyền thống và động viên khách hàng mới muốn có lãi suất
khuyến khích thì phấn đấu làm ăn tốt, vay trả sòng phẳng để có lãi suất thấp hơn.
Thứ tư: Nâng cao năng lực quản trị điều hành kinh doanh cho cán bộ nhân viên
ngân hàng.
Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo khuynh hướng thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay với khuynh hướng thị trường không
biên giới, thì sự biến động của thị trường thường xuyên xảy ra, rất phức tạp và tiềm ẩn
nhiều rủi ro.
NHNo&PTNT là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và
ngân hàng và mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, do vậy hoạt động cuả NHNo&PTNT phải
đặt trên nền tảng của sự an toàn và hiệu quả nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển về
lâu dài.Một trong những yêu cầu cấp thiết để đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh là phải
nhanh chóng khắc phục các bất cập về trình độ chuyên ngành, kiến thức hỗ trợ của các
ngành kinh tế khác, nhất là các kỹ năng, kỹ xảo và các hình thức quản trị điều hành hoạt
động kinh doanh ngân hàng, phù hợp với sự hình thành và phát triển nhanh nhạy của cơ
chế thị trường. Vì vậy, nhằm nâng cao tính an toàn trong cho vay hộ, NHNo&PTNT cần
chú trọng những nội dung sau:
+ Thường xuyên đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ để bổ sung những kinh
nghiệm, cập nhật thông tin về thị trường, về sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật…nhằm nâng
cao năng lực thẩm định đầu tư, đồng thời có đủ khả năng để tư vấn cho kinh tế hộ hoạt
động đúng hướng, có hiệu quả.
+ Đào tạo về kinh doanh ngân hàng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo(quản trị nguồn
vốn, rủi ro trong kinh doanh…)nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực hiện có để
hoạch định có khả thi các chiến lược về huy động vốn, về cho vay trong từng thời kỳ của
từng chi nhánh NHNo&PTNT trên địa bàn.
+ Định hướng vốn đầu tư cho các khu vực cụ thể, tương ứng với nó là phái xác định
các mức trích lập rủi ro theo loại cho vay, theo ngành nghề để bù đắp đủ rủi ro khi có xảy
ra.
+ Cần tính toán cân đối giữa tỷ lệ cho vay không có bảo đảm và cho vay có bảo
đảm, các hình thức bảo lãnh, bảo hiểm…đảm bảo sự an toàn cần thiết trong hoạt động kinh
doanh.
Mặc dù hiện nay, NHNo&PTNT là ngân hàng kinh doanh, nhưng đồng thời là ngân
hàng thực hiện vai trò điều chỉnh thị trường theo chức năng của một ngân hàng thương mại
nhà nước, phục vụ cho phát triển kinh tế theo định hướng của nhà nước, song đối với ngân
hàng thương mại, thì hoạt động không chỉ thuần tuý là phục vụ, thực hiện chính sách mà
phải kinh doanh, phải an toàn vốn và có lợi nhuận. Do vậy, NHNo&PTNT cần thiết phải
tăng cường năng lực quản trị điều hành kinh doanh để hoạt động của NHNo&PTNT tồn
tại, phát triển lâu dài và trở lại phục vụ tốt hơn cho phát triển kinh tế NNNT.
Thứ năm: Nâng cao vị thế và uy tín của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Việt Nam trên thương trường.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều biến động thì uy tín, vị thế của ngân hàng có
vai trò rất lớn trong phát triển, mở rộng hoạt động kinh doanh.Thực tế tại khu vực cho thấy
có nhiều ngân hàng, tổ chức tài chính chào mời với lãi suất cao hơn các chi nhánh
NHNo&PTNT nhưng khách hàng vẫn ưa chuộng gửi tiền vào NHNo&PTNT nhiều hơn,
điều này cho thấy uy tín là động lực quan trọng để thu hút khách hàng. Vì vậy để khơi tăng
nguồn vốn huy động vào NHNo&PTNT phục vụ cho phát triển kinh tế thì NHNo&PTNT
nhất nhất cần cũng cố, nâng cao vị thế của mình trong suốt quá trình hoạt động. Các chi
nhánh NHNo&PTNT cần chú ý một số nội dung sau:
+ Tăng cường cơ sở vật chất, huấn luyện kỹ năng giao tiếp cho cán bộ nhân viên, thực hiện
trang phục thống nhất, phong cách giao tiếp lịch sự, thân thiện, tạo sự đa dạng trong tuyên truyền
quảng cáo gắn với giữ gìn phát huy văn hoá doanh nghiệp “Trung thực, kỷ cương, sáng tạo, chất
lượng, hiệu quả” nhằm tạo ra những đặc trưng riêng đối với khách hàng khi đến giao dịch với
NHNo&PTNT.
+ Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá nguồn vốn, thực hiện dự trữ bắt buộc, bảo hiểm
tiền gửi, dự trữ thanh toán, đảm bảo tính thanh khoản cao trong hoạt động, đảm bảo thanh toán
và chi trả kịp thời đầy đủ nhu cầu của khách hàng gửi tiền để người gửi yên tâm và tin tưởng
vào hoạt động của ngân hàng.
3.2.2. Nhóm giải pháp để phát triển kinh tế hộ
3.2.2.1. Giải pháp về tạo điều kiện kinh hộ tế tiếp cận nguồn vốn tín dụng tại các
tổ chức tín dụng
Từ những hạn chế và nguyên nhân chưa phát huy tốt mối quan hệ tín dụng giữa các
chi nhánh NHNo&PTNT với kinh tế hộ trong thời gian qua tại địa bàn, trong đó có phần
nguyên nhân từ phía ngân hàng, nhưng đồng thời những nguyên nhân hạn chế về điều kiện để
tiếp xúc với vốn vay ngân hàng từ phía khách hàng cũng là vấn đề cần được tổ chức tháo gỡ
để phát huy tốt hơn mối quan hệ đã có; đó là giải pháp tháo gỡ những tồn tại để kinh tế trang
trại phát triển và hộ nông dân có quyền thật sự đối với tài sản thuộc sỡ hữu của mình như:
+ Tiếp tục giao đất và cấp quyền sử dụng đất ổn định lâu dài cho các hộ nông dân
một cách kịp thời theo hướng: chuyển nhanh các hộ du canh, du cư, phá rừng làm nương
rẫy sang nhận đất rừng để quản lý kinh doanh và khoanh nuôi bảo vệ rừng;nơi nào có điều
kiện về quỹ đất, nhất là khu vực có đất trống đồi núi trọc thì có thể giao vượt mức hạn điền
cho những hộ có khả năng và có đề án sản xuất-kinh doanh đã được cấp có thẩm quyền
phê duyệt;đối với các nông lâm trường còn diện tích chưa sử dụng thì bàn giao lại cho hộ
nông dân trực tiếp khai thác để phát triển kinh tế trang trại.
Hướng dẫn hộ nông dân phát huy có hiệu quả và tự chịu trách nhiệm đối với các
quyền sử dụng đất đai đã được ban hành. Khuyến khích họ ngoài việc dồn đổi ruộng đất kể
cả trên đất đồi, tích cực hợp tác liên gia, liên kết góp vốn góp đất mở rộng sản xuất kinh
doanh để hình thành khu vực có khối lượng nông sản hàng hoá lớn.
+ Ưu tiên cấp đất cho những hộ có khả năng xây dựng các cơ sở sản xuất nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có quy mô hiện đại ở vùng nông thôn và được trả
tiền thuê đất trong nhiều năm.Tuy nhiên phải duy trì quỹ đất sản xuất nông nghiệp, nhất là
diện tích trồng cây lương thực.
+ Khẩn trương tiến hành công tác quy hoạch phát triển KTV, KTTT theo nguyên
tắc phát triển bền vững, từng bước hình thành các vùng KTV, KTTT tập trung n.hư chăn
nuôi, cây công nghiệp dài ngày (cao su, điều…)cây ăn quả bán địa.Gắn phát triển các vùng
sản xuất rau, làng chăn nuôi với quy hoạch các nhà máy chế biến, chợ nông sản ở nông
thôn và du lịch sinh thái.
Đây chính là những điều kiện cần và đủ để ngân hàng tiếp cận tư vấn giúp hộ nông
dân xây dựng các dự án đầu tư và tính toán được hiệu quả khi triển khai thực hiện, bên
cạnh đó hộ nông dân có đủ điều kiện để vay nhu cầu vốn cao hơn khi phải áp dụng biện
pháp đảm bảo tiền vay.
3.2.2.2. Vai trò nhà nước về hạn chế sự cách biệt giữa các vùng, miền, khu vực
Nhà nước cần ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác để tiếp tục và tăng
cường thực hiện tốt hơn chủ trương đầu tư phát triển cho vùng dân tộc và miền núi để rút
ngắn sự cách biệt giữa khu vực miền núi so với khu vực khác, nhất là các chương trình đầu
tư cho Ytế, Giáo dục-Đào tạo, đặc biệt là đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn khu vực miền núi. Thực tế cho thấy vùng nào, khu vực nào có sự đầu tư phát
triển kết cấu hạ tầng sản xuất như xây dựng hệ thống giao thôn vận tải, hệ thống công trình
thuỷ lợi, thuỷ nông, phát triển mạng lưới điện, trạm trại sản xuất và cung ứng giống vật
nuôi cây trồng, dịch vụ thương mại đầu vào-đầu ra cho kinh tế hộ, thì vùng đó có sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hơn vùng khác và sự cách biệt về đời sống kinh tế, văn
hoá, xã hội của người dân địa phương sẽ được rút ngắn đáng kể, trong đó nhất thiết kinh tế
hộ cũng sẽ được cải thiện.
3.2.2.3. Giải pháp về đào tạo nghề, tạo lập thị trường đầu ra ổn định
Với sự ít hiểu biết về cách thức tổ chức làm ăn của hộ nông dân tại khu vực do hạn
chế về trình độ văn hoá nên trong một thời gian dài mặc dù nhà nước đã đầu tư tiền của rất
nhiều, nhưng tốc độ phát triển kinh tế-xã hội vẫn thấp so với các vùng miền khác. Để tiếp
tục tháo gỡ hạn chế này, nhà nước cần quan tâm hơn nữa giải pháp về tăng cường bồi
dưỡng kiến thức văn hóa, nâng cao kinh nghiệm, khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh
cho các hộ nông dân tại địa bàn. Vì nâng cao trình độ văn hoá được xem là cơ sở nâng cao
trình độ quản lý sản xuất-kinh doanh, nhờ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và
phát triển kinh tế xã hội tại địa phương, để làm được điều đó, cần giải quyết các vấn đề
sau:
+ Thông qua các hình thức đào tạo đa dạng, bồi dưỡng kiến thức văn hoá, kiến thức
khoa học - kỹ thuật canh nông và kiến thức làm giàu cho các chủ thể hộ nông dân, cần nghiên
cứu và kết hợp với trung tâm giáo dục cấp huyện để biên soạn tài liệu và có kế hoach đào tạo
bồi dưỡng theo chương trình chuẩn cho kinh tế hộ nông dân làm tròn vai trò của một đơn vị
kinh tế tự chủ.
+ Chính quyền địa phương cần có kế hoạch đào tạo thế hệ trẻ làm nghề nông lâm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làm dịch vụ nông nghiệp, làm trang trại ở vùng nông thôn,
đây là lực lương kế tục và thuận lợi cho áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào
sản xuất.Họ sẽ là những người sáng tạo ra khối lượng của cải to lớn, giải quyết được việc
làm, bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên rộng lớn tại khu vực mà không một lực lượng
nào có thể thay thế họ được.
Việc đào tạo thế hệ trẻ có trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế gắn
bó với sản xuất nông lâm nghiệp ngay trên quê hương mình, tuy có tốn kém nhiều về kinh
phí, song xét về lâu dài thì mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội không nhỏ.Vấn đề này cần
được tính đến trong quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân tại khu vực miền núi Quảng
Nam.
+ Tiến hành quy hoạch đào tạo cán bộ quản lý kinh tế cho kinh tế hộ nông dân,
thực hiện đãi ngộ và ưu tiên quy hoạch cán bộ người dân tộc.Động viên con em các hộ
nông dân trúng tuyển vào các trường trung cấp, cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp trở về
góp sức làm giàu cho quê hương.
Song song với ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực, một giải pháp cần thiết cho phát
triển kinh tế hộ nông dân đó là giải pháp tạo lập thị trường đầu ra cho hàng hoá sản xuất tại
khu vực. Cho đến nay thị trường nông thôn tại khu vực đã được hình thành, nhưng chưa
đồng bộ, còn nhiều hạn chế đối với hoạt động sản xuất-kinh doanh của kinh tế hộ bởi
những lý do sau đây:
+ Do sản xuất của hộ nông dân mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, năng suất chất
lượng kém, sản phẩm tiêu thụ hầu hết dưới dạng thô nên không đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, khó tránh khỏi bị ép giá, nhất là khi khai thác thu hoạch theo mùa vụ tập trung.
Chính vì vậy cùng với phát triển sản xuất hàng hoá, không thể không mở rộng các
loại thị trường đa dạng ở các vùng nông thôn trong khu vực để phục vụ hoạt động sản xuất
kinh doanh của kinh tế nông hộ từ thị trường tư liệu sản xuất đến thị trường sản phẩm nông
lâm nghiệp và các ngành nghề ở nông thôn miền núi.
Trong quá trình đi lên sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế trang trai, kinh tế hộ
nông dân là lực lượng đông đảo nhất tham gia vào thị trường. Muốn tạo được thị trường
đầu ra là nông sản hàng hoá thì đương nhiên các yếu tố đầu vào cũng phải là hàng hoá, kể
cả đất đai, bởi vì người nông dân có quyền tự chủ ruộng đất với 5 quyền sử dụng đất theo
luật đất đai, tức là có quyền sử dụng đất như một thứ hàng hoá.Mặt khác nền nông nghiệp
hàng hoá tất yếu sẽ hình thành các loại hình lao động như lao động của hộ nông dân tự sản
xuất, lao động vừa tự sản xuất vừa tranh thủ đi làm thuê, lao động đi làm thuê theo vụ hoặc
làm thuê thường xuyên trông nông lâm nghiệp và trong các ngành nghề tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ theo quy luật phân công lao động xã hội, nên sức lao động của hộ nông
dân cũng có thể coi là hàng hoá.
Để thị trường nông thôn phát triển thúc đẩy kinh tế nông hộ phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá và CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn cần giải quyết tốt các vấn đề sau:
+ Gắn sản xuất -kinh doanh của kinh tế nông hộ với thị trường, tìm kiếm thị trường
để tổ chức sản xuất.Kinh tế nông hộ cần phải nhạy bén năng động trong tìm hiểu thông tin,
thị trường, giả cả. Chính quyền địa phương cần từng bước tạo lập các thị trường, như thị
trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường khoa học - công
nghệ…để kinh tế nông hộ chuyển nhanh sang sản xuất hàng hoá.
+ Khuyến khích mở các chợ nông thôn, các cửa hàng đại lý khai thông luồng hàng
hoá vật tư, máy móc thiết bị công cụ, nông sản từ sản xuất trên thị trường. Động viên
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư mọi nguồn lực vào phát triển thị trường ở nông
thôn.
+ Đối với thị trường đầu ra tiêu thụ nông sản, cần mở rộng và phát triển đồng bộ
bảo đảm vừa giữ vai trò quyết định đối với thị trường đầu vào kích thích hoạt động sản
xuất kinh doanh của kinh tề nông hộ. Muốn vậy cần nâng cao năng lực tiếp thị, dự báo và
xử lý thông tin về thị trường trong và ngoài nước của các cơ quan hoạch định chiến lược
phát triển sản xuất-kinh doanh nông nghiệp.Cũng cố và mở rộng thị trường truyền thống,
tìm kiếm thị trường mới. Lấy sức mua của thị trường để định hướng đầu tư, xác định qui
mô sản xuất. Phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến nông lâm sản với tư cách là thị
trường đầu ra cho kinh tế hộ nông dân, đồng thời chính sản phẩm của kinh tế hộ nông dân
là nguyên liệu đầu vào của công nghiệp chế biến.
3.2.3. Quan hệ tác động của hai nhóm giải pháp đến lợi ích của nông hộ và
Ngân hàng ở khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam
Quan hệ tác động của 2 nhóm giải pháp nêu trên sẽ là điều kiện góp phần thúc đẩy
nền sản xuất hàng hoá tại khu vực miền núi phía bắc Quảng nam phát trển nhanh hơn, mối
quan hệ giữa các chi nhánh NHNo&PTNT và nông hộ qua đó sẽ được cũng cố bền chặt
hơn trong mối quan hệ lợi ích, hộ vay vốn sẽ có đủ điều kiện để tiếp cận nguồn vốn tín
dụng của ngân hàng và họ thấy rằng nguồn vốn tín dụng sẽ giúp họ thực hiện được dự án
hoặc phương án sản xuất kinh doanh, sau khi trả nợ cho ngân hàng cả gốc và lãi thì họ vẫn
còn được hưởng một khoản lợi tức nhất định và họ cho rằng có thể chấp nhận được; còn
đối với các chi nhánh NHNo thì có đủ điều kiện để tính toán thẩm định đối tượng vay vốn,
chủ động lựa chọn và ra quyết định cho vay khi các điều kiện tín dụng kèm theo đã đảm bảo
để có thể bù đáp chi phí huy động vốn, các khoản chi phí quản lý của ngân hàng, chi phí dự
phòng rủi ro và có lãi.
Tuy nhiên mặt đạt được lớn nhất đó là giải phóng được sức sản xuất xã hội của
nông nghiệp nông thôn khu vực miền núi vốn từ lâu nay đã bị “bỏ quên”, người nông dân
được hưởng lợi từ các tiềm năng từ đất, rừng, các cơ chế đầu tư…nông nghiệp nông thôn
có sự “thay da đổi thịt” rõ rệt tạo nên sự phát triển bền vững, đời sống tinh thần vật chất
được nâng cao, thu hẹp khoảng cách giữa miền núi với đồng bằng và thành thị;từ đó tạo
lập sự gắn kết giữa Đảng-Nhà nước-Nông dân và ngược lại ngày càng thêm bền chặt sâu
đậm;thể hiện đúng tính ưu việt về một Nhà nước “Của dân, Do dân và Vì dân”. Niềm tin
của người dân đối với chủ trương chính sách của nhà nước, Chính phủ ngày càng được
củng cố và nâng cao.Vai trò vị thế của đất nước trên trường quốc tế không ngừng được
cũng cố mở rộng.
Kết luận
Từ nghiên cứu mối quan hệ giữa tín dụng NHNo&PTNT với kinh tế nông hộ tại
khu vực miền núi phía bắc tỉnh Quảng Nam, bản thân rút ra được những kết luận sau đây:
- Quan hệ tín dụng nêu trên của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực là mối
quan hệ có tính hiệu quả về kinh tế-xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
hoạt động ngân hàng và kinh tế hộ cùng phát triển, góp phần cho chuyển dịch thật sự
kinh tế nông nghiệp, nông thôn tại địa bàn. Qua từng mốc thời gian mối quan hệ được
phát triển cao hơn, sự tin tưởng và tìm đến nhau giữa ngân hàng và người nông dân
ngày càng nhiều hơn, người nông dân thật sự là “khách hàng truyền thống” và
NHNo&PTNT thật sự là “bạn đồng hành” của nhau trong xu thế tiến tới phát triển nền
sản xuất nông nghiệp hàng hoá tại địa bàn.
- Qua đánh giá đúng thực trạng và nhìn nhận được xu thế phát triển tất yếu khách
quan của KTH tại khu vực, có thể nói với tổ chức mạng lưới và trang bị công nghệ như
hiện tại, thì hoạt động của các chi nhánh NHNo&PTNT tại khu vực chưa có đủ các tiện ích
đáp ứng cho nhu cầu phát triển của KTH, chưa tương xứng là một chi nhánh NHTM nhà
nước giữ vai trò chủ đạo trong phục vụ phát triển NNNT. Luận văn đặt ra yêu cầu: Trên
cân đối năng lực tài chính; công nghệ Ngân hàng của toàn hệ thống, các chi nhánh
NHNo&PTNT tại khu vực cần sớm hoàn thiện để trở thành một NHTM hiện đại, đủ khả
năng đáp ứng tốt hơn yêu cầu cho phát triển kinh tế-xã hội tại địa bàn nói chung và yêu
cầu phát triển kinh tế của hộ nông dân nói riêng.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Vũ Tuấn Anh, Trần Thị Vân Anh (1997), Kinh tế hộ: Lịch sử và triển vọng phát triển,
Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Báo cáo chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp,chế biến nông,lâm sản và ngành nghề nông thôn.
3. Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Nam (10/2004), Tìm hiểu con người xứ Quảng: Một số
vấn đề dân tộc và miền núi ở Quảng Nam, tháng 10/2004.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng bộ Tỉnh Quảng Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng
Nam lần thứ XIX, Tam Kỳ.
6. Đảng bộ huyện Đông Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ
XIVnhiệm kỳ 2006-2010.
7. Đảng bộ huyện Nam Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ XIV
nhiệm kỳ 2006-2010.
8. Đảng bộ huyện Tây Giang (2006), Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ
XIVnhiệm kỳ 2006-2010.
9. Lê Mạnh Hùng- Nguyễn Sinh Cúc- Hoàng Vĩnh Lê (1998), Thực trạng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.
10. Võ Văn Lâm (1999), Đổi mới hoạt động tín dụng NHNo&PTNTnhằm phát triển Nông
nghiệp,nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Lịch (2002), "Cơ chế lãi suất đổi mới hình thức nông nghiệp, nông
thôn”, Tạp chí Ngân hàng, (số 12).
12. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, Báo cáo tổng kết 15 năm
(1991-2005) cho vay kinh tế hộ.
13. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam (2005), Báo cáo
tổng kết 15 năm (1991-2005) cho vay kinh tế hộ.
14. Phòng Thống kê huyện Đông Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005.
15. Phòng Thống kê huyện Nam Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005.
16. Phòng Thống kê Tây Giang (4/2006), Niên Giám thống kê năm 2005.
17. Thủ tướng Chính phủ (1991), Chỉ thị 202/CT (1991) ngày 08/6/1991 về mức cho vay
vốn để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đến hộ sản xuất, Hà Nội.
18. Thủ tướng Chính phủ (1993), Nghị định 14/CP ngày 02/3/1993 về chính sách cho hộ
sản xuất vay vốn để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn.
19. Lê Đức Thuý (1998), Tín dụng cho Nông nghiệp,nông thôn những vướng mắc cần
được tháo gỡ, Nghị quyết TW 6 khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Nguyễn Tuấn (1999), “Làm gì cho nền nông nghiệp 12 triệu hộ”, Báo Lao động, (số
42, 49).
21. Nguyễn Ngọc Tuấn (1998), Giải pháp hữu hiệu cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông,
lâm, ngư nghiệp và chính sách hỗ trợ tại chính đối với sản xuất nông nghiệp,
Nghị quyết TW 6 khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. Phạm Văn Thực (1995), NHNo&PTNT Việt Nam và vấn đề cho vay hộ sản xuất ở
nông thôn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam (2006), Quyết định 48/2006/QĐ-UBND v/v Ban hành
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 53/2006/NQ-HĐND (04/5/2006) về
tiếp tục phát triển KTV,KTTT trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010,
Tam Kỳ 10/2006.
24. Uỷ ban nhân dân huyện Đông Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005)
thực hiện đề án phát triển KTV, KTTT.
25. Uỷ ban nhân dân huyện Nam Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005) thực
hiện đề án phát triển KTV, KTTT.
26. Uỷ ban nhân dân huyện Tây Giang (2005), Báo cáo tổng kết 5 năm (2001-2005) thực
hiện đề án phát triển KTV, KTTT.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quan hệ giữa Tín dụng ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn với Nông hộ ở khu vực miền núi phía Bắc tỉnh Quảng Nam.pdf