Luận văn Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên

Hoạt động công chứng ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng, phát triển và ổn định của mọi nền kinh tế, đi kèm theo đó là những ảnh hưởng tiêu cực mà bất kể một quốc gia phát triển nào cũng nhận thấy. Do vậy, vai trò QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC là cần thiết và cấp bách cho sự phát triển lâu dài ổn định bền vững của toàn xã hội. Với chủ trương xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá các dịch vụ công chứng nói riêng. Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Như vậy, xã hội hóa công chứng chính là sự xóa bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước. Điều này đã góp phần phân biệt rõ chức năng QLNN và quản lý nghề công chứng. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Mô hình VPCC ra đời đã tạo điều kiện để mọi người dân, với mọi địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với công chứng. VPCC ra đời được coi là cuộc cách mạng đối với lĩnh vực công chứng. Đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử phát triển và hình thành công chứng của Việt Nam. Từ khi có LCC năm 2006 cho đến năm 2008 chúng ta mới triển khai thực hiện, thừa nhận song song tồn tại hai hệ thống: bên cạnh các PCC130 nhà nước đã thành lập, với các công chứng viên nhà nước là các VPCC, dần được nhân rộng với các công chứng viên hành nghề tự do.

pdf143 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 750 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và thủ tục giải quyết công việc giữa các cơ quan nhà nước với nhau, giữa cơ quan nhà nước với tổ chức xã hội và giữa cơ quan nhà nước với công dân. Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính, cải cách trong hoạt động tư pháp, cải cách thủ tục của công chứng, sự ra đời VPCC ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. 107 Thể chế hoá đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cải cách hành chính và cải cách tư pháp về những nội dung liên quan đến hoạt động công chứng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 và Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 01/6/2005 về chiến lược xây dựng pháp luật đến năm 2020. Với mục tiêu Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; Nghị quyết số 49-NQ/TW là một bước nhấn của Nghị quyết số 08 về cải cách tư pháp của Việt Nam, khẳng định lại quyết tâm xây dựng một Nhà nước pháp quyền. Cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc. Với mục tiêu cụ thể như sau: Hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, pháp luật dân sự và thủ tục tố tụng tư pháp; Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy cơ quan tư pháp, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân; Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp; Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp trong sạch, vững mạnh; Hoàn thiện cơ chế giám sát của các cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với các cơ quan tư pháp; Tăng cường hợp tác quốc tế về tư pháp; Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp; Hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp. 108 Trong hoạt động của lĩnh vực công chứng, sự ra đời của VPCC là một trong những định hướng phát triển dịch vụ công. Đặc thù của hoạt động tư pháp là duy trì và bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, thúc đẩy quan hệ kinh tế, bảo đảm quyền con người và quyền công dân. Do vậy, nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật phải được tuân thủ đầy đủ. 3.2.1.2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực công chứng Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo một hành lang pháp lý an toàn trước hết là cho các giao dịch dân sự nói chung, hơn thế tiên liệu được hướng phát triển để có thể hoàn thiện một hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn, điều chỉnh tất cả các mặt liên quan đến các tổ chức HNCC và các hoạt động công chứng. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp luật về công chứng phải xác định phạm vi, nội dung phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế và khu vực. Đây là điều kiện quan trọng, mang tính quyết định đối với tính khả thi, sự thành công của quá trình xã hội hoá công chứng ở Việt Nam. Có thể nói ở nước ta hiện nay, xã hội hóa dịch vụ công nói chung, xã hội hóa công chứng nói riêng là vấn đề còn khá mới, chưa có tiền lệ, chưa có kinh nghiệm nên phải tiến hành thận trọng, tránh chủ quan, duy ý chí, tránh sự sao chép, vay mượn bất cứ một hình mẫu công chứng nào để áp đặt vào Việt Nam. Cần phải thấy rằng, mô hình công chứng hiệu quả nhất có thể không phải là mô hình tiên tiến nhất, hiện đại nhất trên thế giới, mà phải là mô hình phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, mang bản sắc Việt Nam, đồng thời, phù hợp với thông lệ quốc tế. Bởi không chỉ có điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, đặc điểm tâm lý, truyền thống dân tộc mà cả xu thế hội nhập quốc tế và khu vực cũng đang tác động mạnh mẽ đến quá trình xã hội hoá công chứng ở nước ta; đặt ra yêu cầu “quốc tế hoá” lĩnh vực công chứng, khắc phục những “dị biệt” của thiết chế công chứng Việt Nam so với các hệ thống công chứng trên thế giới hiện nay. 109 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta - Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế hoá các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Thực tế cho thấy những thành tựu của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam trong hơn 20 năm qua gắn chặt với quá trình hoàn thiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Chính những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, chẳng hạn về phát triển kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, đã làm cơ sở cho sự hình thành những quan điểm và định hướng chiến lược cho sự phát triển của hệ thống pháp luật của đất nước. Văn kiện tập trung nhiều quan điểm và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật chính là Nghị quyết số 48/NQ-TW 02/6/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật đến năm 2010, tầm nhìn 2020. Xuất phát từ những nghiên cứu toàn diện về hệ thống pháp luật, nhất là những bất cập của nó nhìn từ những yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48/NQ-TW, trong đó đã đánh giá: “Hệ thống pháp luật nước ta vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Cơ chế xây dựng, sửa đổi pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và yếu”. Trong số những nguyên nhân chính của những yếu kém nêu 110 trên Nghị quyết nhấn mạnh đến sự thiếu vắng tầm nhìn chiến lược. Vì vậy, Nghị quyết số 48/NQ-TW đã xác định nhiều quan điểm, định hướng và giải pháp chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, với sáu định hướng cho việc xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật mang tính chiến lược và khoa học cao; và hai nhóm giải pháp thực hiện có tính khả thi cao (nhóm giải pháp xây dựng pháp luật và nhóm giải pháp thực hiện pháp luật). Từ đó, công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là việc xây dựng chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội hàng năm và cho nhiệm kỳ Quốc hội khóa XII có rất nhiều thuận lợi và thực sự đã mang tính định hướng chiến lược sâu sắc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc thực hiện Nghị quyết số 48/NQ-TW trong ba năm qua cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ và sự nhận thức có lúc còn chưa đầy đủ về giá trị to lớn của Nghị quyết này đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Một số định hướng, đặc biệt là “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” và “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân” chưa được triển khai một cách toàn diện và triệt để. Yêu cầu hoàn thiện thể chế công chứng phải gắn liền với yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, đặc biệt là pháp luật liên quan đến lĩnh vực công chứng để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi (pháp luật về hợp đồng, pháp luật về sở hữu, pháp luật về thuế, lệ phí và phí...). Như vậy, chủ trương xã hội hóa và ban hành các văn bản pháp luật của Nhà nước ta điều chỉnh các quan hệ về công chứng trong thời gian qua đã thể hiện được tính ưu việt của nhà nước trong việc nhìn nhận, nắm bắt quy luật khách quan, xử lý các vấn đề xã hội theo hướng vì dân. Đánh dấu một bước 111 tiến quan trọng trong việc đảm bảo cung ứng dịch vụ công cho tổ chức, cá nhân, nâng cao chất lượng phục vụ. Trong quá trình xây dựng chính sách và truyền tải ý chí đổi mới của Nhà nước, chúng ta cũng còn gặp những hạn chế, bất cập đặc biệt là trong việc truyền tải nội dung của văn bản pháp luật đến nhân dân - đối tượng, người thực hiện các quy phạm pháp luật, đưa các quy phạm đó vào thực tiến, để luật của nước ta thực sự có tính ổn định, lâu dài. 3.2.1.3 Kiện toàn tổ chức bộ máy và công chức thực hiện QLNN Hiện nay, việc QLNN đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức HNCC được thực hiện chủ yếu bởi Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp. Tại Bộ Tư pháp, Vụ Bổ trợ tư pháp được giao nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp QLNN về hoạt động công chứng của cả nuớc. Tại Sở Tư pháp, Phòng Bổ trợ tư pháp được giao nhiệm vụ giúp Giám đốc Sở Tư pháp QLNN về hoạt động công chứng tại địa phương. Để thực hiện tốt chức năng QLNN đòi hỏi những người cán bộ, công chức của Vụ Bổ trợ tư pháp và Phòng Bổ trợ tư pháp phải có trình độ nhất định, có tầm nhìn vĩ mô, am hiểu về lĩnh vực công chứng và có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động công chứng, thậm chí phải tuyển chọn những người có trình độ và nghiệp vụ hơn hẳn công chứng viên. 3.2.2. Các giải pháp cụ thể của quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh Phú Yên 3.2.2.1 Nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá Nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá. Công chứng viên không phải chỉ là người được đào tạo cơ bản về luật pháp, về nghề công chứng, tinh thông nghề nghiệp, giàu kinh nghiệm, vốn sống mà còn phải có phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp (trung thực, vô tư, khách quan, liêm khiết, nhiệt tình, trách nhiệm...). Đồng thời, họ phải có kiến 112 thức về ngoại ngữ, tin học để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với công chứng. Các tổ chức HNCC đều có một hệ thống bộ máy nhân sự hoạt động trong các lĩnh vực trợ giúp cho hoạt động của công chứng viên và hoạt động chung của các tổ chức HNCC đó là cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, kế toán, thủ quỹ, nhân viên lưu trữ, nhân viên văn phòng, bảo vệ, lái xe. Về cơ bản, các tổ chức HNCC đều đã thực hiện việc thiếp lập một bộ máy làm việc đúng như đề án Đăng ký thành lập tổ chức HNCC. Đây được coi là yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động công chứng. Công chứng viên phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp hóa. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên làm việc ở của các tổ chức HNCC: Phần lớn của các tổ chức HNCC đã tuyển dụng, đào tạo, nhân viên có trình độ phù hợp với vị trí công tác tại các tổ chức HNCC và làm việc độc lập như: Chuyên ngành kế toán tài chính đối với nhân viên kế toán, chuyên ngành văn thư lưu trữ đối với nhân viên lưu trữ, chuyên ngành luật đối với các cán bộ trợ giúp về mặt hướng dẫn khách hàng, tiếp nhận hồ sơ, soạn thảo văn bản công chứng.... Có một số tổ chức HNCC đã đặc biệt coi trọng công tác đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên của của tổ chức HNCC bằng cách thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt trao đổi kinh nghiệm, mời các chuyên gia trong lĩnh vực hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm cho cán bộ, nhân viên của của tổ chức HNCC, cử cán bộ tham gia các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ do Sở Tư pháp, Cục thuế tỉnh tổ chức,. Tuy nhiên, thực trạng ở một số các tổ chức HNCC vẫn có sự kiêm nhiệm trong hoạt động của nhân viên như: Lưu trữ kiêm kế toán; lưu trữ kiêm công tác văn phòng,.... Về trình độ chuyên môn của công chứng viên, cũng như các thành viên khác trong các tổ chức HNCC là một vất đề nan giải. Nhiều tổ chức HNCC hồ 113 sơ sai rất nhiều. Bởi số lượng đang là công chứng viên ra thành lập VPCC không nhiều, mà phần lớn từ các luật sư, kiểm sát viên, cán bộ tòa án nghỉ hưu chuyển sang làm công chứng viên. Về số lượng cán bộ công chứng viên hiện này vừa thiếu, vừa thừa, thực tế với các VPCC ở tỉnh Phú Yên, chủ yếu các công chứng viên hoạt động trong các VPCC là luật sư chuyển sang. Về nghiệp vụ pháp lý các công chứng viên này rất giỏi, trình tự thủ tục để chứng nhận một việc công chứng nắm vững, nhưng để nhận biết đâu là giấy tờ thật để công chứng, đâu là giấy tờ giả thì không phải đơn giản, cần có kinh nghiệm, thời gian làm quen công việc. Vì thế bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho đội ngũ công chứng viên, cũng như tăng cường công tác giao lưu, trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động công chứng giữa các PCC và các VPCC là việc nên làm thường xuyên và cần thiết để nâng cao trình độ nghiệp vụ chung cho công chứng viên. Cần sớm rà soát, sắp xếp lại hệ thống cơ quan công chứng, đánh giá chất lượng đội ngũ công chứng viên trên phạm vi cả nước để có giải pháp tăng cường, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ quan công chứng và có chính sách đào tạo, đào tạo lại đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp. Cần đánh giá kịp thời hiệu quả QLNN đối với tổ chức hoạt động công chứng, chứng thực. Xác định rõ thẩm quyền và phân cấp quản lý, làm rõ trách nhiệm của ngành, cấp đối với lĩnh vực công chứng. Nghiên cứu thành lập tổ chức tự quản nghề công chứng để tách bạch thẩm quyền QLNN và thẩm quyền quản lý nghề công chứng, giảm bớt gánh nặng quản lý cho nhà nước. Trước các yêu cầu trên, để nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên theo hướng chuyên nghiệp hoá, cần xây dựng kế hoạch, chiến lược đào tạo toàn diện. Trước mắt, làm tốt công tác đào tạo nghề công chứng với việc xây dựng chương trình, giáo trình chuẩn và đội ngũ giáo viên chuyên nghiệp, kết hợp nhuần nhuyễn giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành. Đồng thời, 114 cần phải hoàn thiện bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên; bảo đảm các nguyên tắc bổ nhiệm công chứng viên với điều kiện bổ nhiệm và quy trình bổ nhiệm chặt chẽ. Đổi mới chế độ chính sách đối với công chứng viên, tạo động lực để công chứng viên phát huy tính tích cực, chủ động, đề cao trách nhiệm phục vụ trong hoạt động nghề nghiệp của mình. 3.2.2.2 Hoàn thiện bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng Chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng đã được xã hội hoan ngênh, ủng hộ. Sau gần 10 năm thực hiện LCC đã mang lại nhiều kết quả đáng ghi nhận và hiệu quả. Việc quy định về đạo đức hành nghề công chứng là một trong những vấn đề cần thiết trong hoạt động công chứng. Bởi vì, hoạt động công chứng trong đó công chứng viên là người được Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng, công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch tại tổ chức HNCC. Do vậy, việc tuân thủ hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành nghề công chứng của công chứng viên. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ 115 sở để công chứng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống xã hội nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội. Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (gồm 4 chương, 15 điều) quy định các chuẩn mực đạo đức, hành vi ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống nhằm nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp, nâng cao uy tín của công chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội. Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của xã hội. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự tự kiểm tra bởi chính mình. Có thể khẳng định rằng, khi làm bất cứ ngành nghề nào cũng cần phải có đạo đức nghề nghiệp. Công chứng là một nghề cao quý, bởi hoạt động công chứng bảo đảm tính an toàn pháp lý, ngăn ngừa tranh chấp, giảm thiểu rủi ro cho các hợp đồng, giao dịch, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Đó là một nghề mang tính công quyền. Trong đó, công chứng viên là người được Nhà nước giao quyền, thay mặt Nhà nước chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của các hợp đồng, giao dịch bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc tổ chức, cá nhân tự nguyện yêu cầu công chứng. Thông qua hoạt động nghề công chứng, công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, 116 bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch tại tổ chức HNCC. Do vậy, việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; khách quan, trung thực; chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng; tuân theo đạo đức hành nghề công chứng là nguyên tắc không thể thiếu đối với hoạt động hành nghề công chứng của công chứng viên. Với tư cách là một công chứng viên đang hành nghề, ngoài việc thực hiện nghiêm túc và đầy đủ những quy định của LCC và các văn bản quy phạm có liên quan, công chứng viên phải tuân theo và tôn trọng Quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Đó chính là quy tắc ứng xử đã được luật hóa bằng Thông tư số 11/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp, cho nên không chỉ mang tính chất tự nguyện mà còn mang tính chất bắt buộc phải thực hiện. Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng đòi hỏi thái độ của công chứng viên khi ứng xử và hành nghề phải đi vào khuôn phép pháp luật, đó là: - Phải thật sự khách quan, trung thực, không thiên vị, không vì lợi ích cá nhân, sự quen thân làm ảnh hưởng đến lợi ích người khác; - Không công chứng hợp đồng, giao dịch có nội dung trái đạo đức xã hội. Công chứng viên phải luôn coi trọng uy tín của mình đối với công việc chuyên môn, không thực hiện những hành vi làm tổn hại đến danh dự cá nhân, thanh danh nghề nghiệp; - Không sử dụng trình độ chuyên môn, hiểu biết của mình để trục lợi, gây thiệt hại cho người yêu cầu công chứng; - Để hoàn thành công việc được Nhà nước trao quyền, công chứng viên phải gương mẫu trong hành vi, lối sống, tôn trọng người dân, thực hiện công việc tuân theo quy định pháp luật. Để thực hiện tốt Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng, đòi hỏi mỗi công chứng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn uy tín, 117 thanh danh nghề nghiệp, xứng đáng với sự ủy thác của Nhà nước, sự tôn trọng và tin cậy của nhân dân. Đạo đức hành nghề công chứng là sự chuẩn mực về phẩm chất, chuẩn mực về xử sự trong khi hành nghề. Sự chuẩn mực đó được thể hiện trong quan hệ với đồng nghiệp, với người yêu cầu công chứng nói riêng và với nhân dân nói chung, với Nhà nước và xã hội: Đối với đồng nghiệp, tổ chức HNCC nơi mình làm việc và các tổ chức xã hội nghề nghiệp khác, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện sự tôn trọng, thân thiện, đoàn kết giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; giám sát lẫn nhau, kiên quyết đấu tranh loại bỏ những hành vi sai trái; khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót thì góp ý thẳng thắn nhưng không hạ thấp danh dự, uy tín của đồng nghiệp, hướng dẫn giúp đỡ đồng nghiệp mới vào nghề; Chấp hành các nội quy, quy chế của tổ chức HNCC, Hội công chứng. Đối với người yêu cầu công chứng, đạo đức hành nghề công chứng là thể hiện sự văn minh, lịch sự khi tiếp xúc với người dân, khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên cần có thiện chí và phải tư vấn cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về hệ quả pháp lý phát sinh sau khi hợp đồng, giao dịch được công chứng. Công chứng viên phải có trách nhiệm hướng dẫn cho người yêu cầu công chứng lựa chọn hình thức văn bản công chứng phù hợp để bảo đảm tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên cần tận tình, hòa nhã giải đáp thắc mắc của người yêu cầu công chứng để họ hiểu đúng pháp luật, ý chí của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch phải phù hợp với các quy định của pháp luật. Đồng thời, giải thích cho người yêu cầu công chứng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm đối với Nhà nước, về quyền được khiếu nại, tố cáo của người yêu cầu công chứng khi tham gia ký kết hợp đồng, giao dịch. Công chứng viên đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng; không phân biệt giới tính, dân tộc, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo, địa 118 vị xã hội, khả năng tài chính,. Thu đúng, thu đủ, thu công khai phí và thù lao công chứng đã quy định và niêm yết, khi thu phải có chứng từ đầy đủ. Đồng thời, chấp hành nghiêm chỉnh các hành vi bị nghiêm cấm đối với công chứng viên quy định tại LCC như sau: - Không được sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; - Không đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác ngoài phí, thù lao công chứng và chi phí khác đã được thoả thuận; - Không nhận tiền hoặc bất kỳ lợi ích vật chất nào khác để thực hiện hoặc không thực hiện việc công chứng; - Không sử dụng thông tin biết được từ việc công chứng để phục vụ lợi ích cá nhân; - Không công chứng đối với trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội. Đối với việc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, với tư cách là người được nhà nước giao phó, cho phép sử dụng quyền lực nhà nước để đứng ra làm chứng trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại công chứng viên phải khẳng định các hợp đồng, giao dịch đã được công chứng không chỉ dựa trên những tài liệu xác thực, tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật mà còn nhất thiết không được làm ảnh hưởng xấu tới lợi ích công cộng, quyền lợi của Nhà nước. Điều này có nghĩa công chứng viên sẽ vi phạm đạo đức hành nghề công chứng nếu như tư vấn để cho người yêu cầu công chứng trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước hay làm ảnh hưởng không tốt tới khả năng quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nói theo một cách khác, khi có sự mâu thuẫn giữa lợi ích của người yêu cầu công chứng với lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng thì công chứng viên có nghĩa vụ ưu tiên bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng. 119 Tóm lại, để Quy tắc Đạo đức nghề hành nghề công chứng được thi hành nghiêm túc và tôn trọng trong hành nghề công chứng đòi hỏi mỗi công chứng viên phải không ngừng phấn đấu, trau dồi phẩm chất, chú trọng nâng cao trình độ, thường xuyên học tập, nghiên cứu kiến thức về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động nghiệp vụ chuyên môn; tích cực tham gia các hoạt động, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm với đồng nghiệp trong hoạt động công chứng; Tôn trọng, bảo vệ danh dự, uy tín cho đồng nghiệp, có thái độ thân thiện, giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ; Giữ gìn mối quan hệ hợp tác, bình đẳng giữa công chứng viên với nhân viên nghiệp vụ, với những người giữ vị trí lãnh đạo và đồng nghiệp trong hoạt động công chứng. Hiện nay, cùng với xu thế phát triển của đất nước, tỉnh Phú Yên cũng đã có nhiều công chứng viên có kinh nghiệm và tâm huyết với nghề, hết lòng phục vụ nhân dân, được đồng nghiệp và nhân dân tin tưởng - đó là vốn quý, là chỗ dựa cho các thế hệ đi sau, là những công chứng viên gạo cội không chỉ am hiểu các quy định của pháp luật để vận dụng xử lý tốt các tình huống phức tạp mà họ còn tận tâm với nghề nghiệp, say mê nghiên cứu và sẵn sàng chia sẻ với đồng nghiệp, tham mưu có hiệu quả giúp cơ quan quản lý đưa ra các chủ trương chính sách phù hợp góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề công chứng. 3.2.2.3. Thành lập Hiệp hội công chứng Ngày 02/02/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 132/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam. Mục đích của Đề án nhằm xây dựng Hiệp hội công chứng viên Việt Nam là đầu mối thống nhất về hoạt động tự quản nghề nghiệp của các công chứng viên, Hội công chứng viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi cả nước và thực hiện các hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của Tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn quốc của các công chứng 120 viên theo quy định của pháp luật nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chứng viên, chất lượng hành nghề công chứng; Tạo cơ sở pháp lý để Tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn quốc của các công chứng viên tham gia, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền trong việc phát triển nghề công chứng, quản lý tổ chức, hoạt động công chứng trong điều kiện tiếp tục thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, bảo đảm nghề công chứng phát triển ổn định và bền vững và Đại diện cho các công chứng viên, Hội công chứng viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tổ chức HNCC trên phạm vi cả nước trong hợp tác quốc tế về công chứng theo quy định; thông tin, trao đổi về chuyên môn nghiệp vụ trong hành nghề công chứng giữa Việt Nam với các nước trên thế giới nhằm học hỏi kinh nghiệm, quảng bá hình ảnh, vai trò của công chứng Việt Nam với bạn bè trong khu vực và quốc tế. Về địa vị pháp lý, hiệp hội công chứng viên Việt Nam là Tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn quốc của các công chứng viên Việt Nam, đại diện cho các công chứng viên, Hội công chứng viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng, được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự quản, công khai, minh bạch, phi lợi nhuận, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hoạt động phù hợp với quy định của LCC và Nghị định số 29/2015/NĐ-CP. Hiệp hội công chứng viên Việt Nam có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 29/2015/NĐ-CP. Hội viên của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam là các công chứng viên, Hội công chứng viên của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quyền và nghĩa vụ của hội viên Hiệp hội công chứng viên Việt Nam do Điều lệ Hiệp hội công chứng viên Việt Nam quy định. Hoạt động của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Hiệp hội công chứng viên Việt Nam có 121 trách nhiệm báo cáo định kỳ về tổ chức, hoạt động hoặc báo cáo khác theo yêu cầu của Bộ Tư pháp. Trong giai đoạn đầu mới thành lập, để kiện toàn tổ chức, giúp Hiệp hội thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ Tư pháp sẽ tiếp tục hỗ trợ Hiệp hội trong việc đôn đốc thành lập Hội đối với các địa phương chưa thành lập Hội công chứng viên; tiếp tục hỗ trợ Hiệp hội thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng và sẽ bàn giao lại khi Hiệp hội có đủ khả năng để tự đảm đương. Đề án nêu rõ, Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, đơn vị có liên quan ban hành Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện Đề án; thành lập Ban Chỉ đạo đại hội đại biểu công chứng viên toàn quốc lần thứ nhất, Ban vận động thành lập Hiệp hội, thành lập Hiệp hội công chứng viên Việt Nam trong năm 2017. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Hội công chứng viên; tạo điều kiện thành lập Hội công chứng viên đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chưa thành lập Hội công chứng viên theo quy định của LCC và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hơn 10 năm từ khi PCC số 1 tỉnh Phú Yên ra đời (ngày 01/4/2007), tỉnh Phú Yên đã có 5 VPCC, hoạt động theo mô hình doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Nhờ có những hoạt động của các VPCC mà khối lượng công việc của Phòng Công chứng nhà nước đã giảm đáng kể, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội chung của tỉnh Phú Yên. Ngoài ra, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong việc thành lập VPCC cho phù hợp vị trí địa lý cũng như khả năng cạnh tranh lành mạnh, Sở Tư pháp sẽ thực hiện việc xây dựng bản đồ quy hoạch phát triển tổ chức HNCC từ nay đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Tỉnh sẽ ưu tiên phát triển tổ chức HNCC tại các huyện chưa có tổ chức HNCC. 122 3.2.2.4. Xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng Cùng với việc thành lập Hiệp hội Công chứng, thì một việc không kém phần quan trọng đó là xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng. Đây được coi là một hình thức liên kết khác giúp hạn chế rủi ro trong hoạt động công chứng, đồng thời Sở Tư pháp sẽ triển khai và hoàn chỉnh Trung tâm quản lý các giao dịch ngăn chặn. Các PCC có mối quan hệ chặt chẽ hơn do đều cùng thuộc Sở Tư pháp, sự chia sẻ thông tin, kinh nghiệm cũng tốt hơn. Các VPCC thì hoàn toàn độc lập với nhau và độc lập với cả các PCC. Vì vậy, việc phối hợp, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin với nhau gặp khó khăn. Đây phải là ưu tiên số một của Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên, bởi một "kho" thông tin chung ra đời sẽ giúp công chứng viên và người dân tránh được rủi ro khi thực hiện các hợp đồng giao dịch, như đối với tài sản đang có tranh chấp.... Bản thân các VPCC tại tỉnh Phú Yên đã sẵn sàng ủng hộ cả vật chất lẫn con người cho đề án thành lập cơ sở dữ liệu. Như một cơ chế phòng ngừa rủi ro rất cần thiết đảm bảo an toàn cho cả hệ thống tổ chức HNCC và cho những người yêu cầu công chứng, đó là cơ chế chia sẻ thông tin trong hoạt động công chứng. Hiện nay việc công chứng hợp đồng, giao dịch có liên quan đến bất động sản, cũng như một số lĩnh vực mang tính nhạy cảm có tình trạng khá lộn xộn, thiếu sự gắn kết giữa các tổ chức HNCC, thậm chí là sự đối lập nhau trong hoạt động nghiệp vụ thể hiện ở hiện tượng nơi này từ chối vì có thông tin ngăn chặn giao dịch, giấy tờ không hợp lệ nhưng nơi kia lại công chứng vì không được chia sẻ thông tin. Nghiêm trọng hơn là hiện tượng một tài sản được công chứng ở nhiều tổ chức HNCC với những chủ thể khác nhau không phải là hiếm gặp. Chính thực trạng này đã tạo điều kiện cho những công chứng viên hạn chế về trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp trục lợi, sự nghi ngại của người yêu cầu công chứng cũng như các cơ 123 quan hữu quan đối với các tổ chức HNCC sau khi xã hội hoá cũng vì thế mà không dễ gì thay đổi. Để chấm dứt tình trạng trên đây và nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động công chứng trong thời gian tới đây, Điều 62 LCC 2014 đã kịp thời bổ sung quy định bắt buộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải xây dựng cơ sở dữ liệu chung và chia sẻ thông tin ngăn chặn giao dịch trong hoạt động công chứng của địa phương mình, trên cơ sở đó tiến dần tới việc xây dựng mạng thông tin công chứng trên phạm vi toàn quốc. Ngoài ra, để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công chứng viên trong việc thành lập VPCC cho phù hợp vị trí địa lý cũng như khả năng cạnh tranh lành mạnh, Sở Tư pháp sẽ thông qua đề án quy hoạch và phát triển tổ chức HNCC trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Tỉnh sẽ ưu tiên phát triển tổ chức HNCC tại các huyện chưa có các tổ chức HNCC. Để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả LCC năm 2014, ngày 9/3/2017, Bộ Tư pháp ban hành Công văn số 729/BTP-BTTP về việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng và ban hành quy chế khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng. Theo đó, Bộ Tư pháp đề nghị UBND các tỉnh xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương và ban hành quy chế khai thác sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng. Quy định này nhằm bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng cần tính toán đến an toàn, bảo mật, thuận tiện khi khai thác, sử dụng dữ liệu, khả năng kết nối cơ sở dữ liệu với hệ thống thông tin, đất đai, nhà ở. Đối với quy chế khai thác, sử dụng dữ liệu công chứng cần tập trung vào một số vấn đề chủ yếu như trách nhiệm của 124 cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý cung cấp, cập nhật thông tin vào cơ sở dữ liệu với trách nhiệm trong khai thác sử dụng dữ liệu. Về việc sửa đổi, bổ sung cơ sở dữ liệu công chứng và quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng, các địa phương đã có cơ sở dữ liệu công chứng và đã thực hiện trong địa phương, UBND tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành ở địa phương rà soát, bổ sung để phù hợp với quy định của LCC năm 2014 về nội dung cơ sở dữ liệu công chứng. Bên cạnh việc triển khai xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung cơ sở dữ liệu công chứng và quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng, UBND tỉnh cần tiếp tục chỉ đạo để đảm bảo sự chia sẻ thông tin đầy đủ, kịp thời giữa Sở Tư pháp với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương. UBND tỉnh Phú Yên đã ban hành văn bản về việc xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng và ban hành quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng. Theo đó, căn cứ vào Văn bản của Bộ Tư pháp, UBND tỉnh yêu cầu Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai thực hiện văn bản trên. 3.2.2.5. Xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho tỉnh Phú Yên Gắn liền với việc xây dựng cơ sở dữ liệu cho Hiệp hội Công chứng thì chúng ta phải xây dựng kho lưu hồ sơ công chứng chung cho tỉnh. Đây là một điều kiện về cơ sở vật chất để các tổ chức HNCC có thể hoạt động được, các tổ chức HNCC trong đó có VPCC là những đơn vị sử dụng nguồn vốn ngoài ngân sách và được thành lập theo LCC năm 2014. Sự ra đời của VPCC đã góp phần làm giảm thiểu sự quá tải của các PCC trước đây. Các VPCC có trụ sở riêng, đảm bảo diện tích làm việc, đặc biệt là nơi lưu trữ hồ sơ được bảo quản chặt chẽ với các thiết bị chống cháy nổ, thiết bị chốn mối mọt... theo quy định tại Điều 17 - Nghị định 29/2015 hướng dẫn LCC năm 2014 thì trụ sở VPCC được quy định như sau: 125 “1. Trụ sở của Văn phòng công chứng phải có địa chỉ cụ thể, có nơi làm việc cho công chứng viên và người lao động với diện tích tối thiểu theo quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc tại các đơn vị sự nghiệp, có nơi tiếp người yêu cầu công chứng và nơi lưu trữ hồ sơ công chứng. 2. Công chứng viên thành lập Văn phòng công chứng nộp các giấy tờ chứng minh về trụ sở của Văn phòng công chứng tại thời điểm đăng ký hoạt động Văn phòng công chứng. 3. Sở Tư pháp có trách nhiệm kiểm tra việc đáp ứng các điều kiện về trụ sở của Văn phòng công chứng khi thực hiện đăng ký hoạt động cho Văn phòng công chứng.” Vấn đề nan giải, nếu Nhà nước không có một giải pháp thì những điều kiện về vật chất sẽ để lại một hậu quả vô cùng lớn. Không phải VPCC nào khi ra đời, công chứng viên của các VPCC đã có đủ điều kiện vật chất. Ví dụ việc thuê văn phòng, công chứng viên không có nhà để kinh doanh mà phần lớn phải thuê mướn, nhất là trụ sở tại trung tâm thành phố, thị xã, huyện với giá trị lớn, cần phải có nhà với diện tích lớn thì mới đủ điều kiện để làm việc. Chưa kể việc lưu giữ hồ sơ, đây là một vấn để vô cùng quan trọng liên quan đến ngân hàng hồ sơ lưu. Lưu giữ hồ sơ, giấy tờ là một trong những vấn đề then chốt của công chứng, qua hồ sơ có thể biết được giao dịch được thực hiện lần thứ mấy, tình trạng của giao dịch đó như thế nào? Thời gian vừa qua, qua công tác kiểm tra tại tỉnh Phú Yên nhiều VPCC còn chưa đáp ứng được điều kiện vật chất, hồ sơ lưu còn thiếu sót nhiều, đây có thể nói là mầm bệnh tiềm ẩn để bùng phát. Thực tế, nhiều đối tượng đã lợi dụng sự yếu kém về việc lưu hồ sơ để thực hiện lừa đảo như vụ tại VPCC Việt Tín (Hà Nội) có đến 200 hồ sơ bị làm giả và một ngôi nhà bán cho nhiều người, hoặc không có đất vẫn mua bán được. Dẫn đến ảnh hưởng nghiêm trọng đến những giao dịch 126 dân sự được nhà nước cho phép. Đây là một khó khăn chung của các VPCC, vì thế nhà nước, Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp, UBND cấp tỉnh nên tìm ra một giải pháp để có thể đảm bảo an toàn cho các giao dịch được nhà nước bảo vệ. Tránh tính trạng hậu quả xảy ra, khôi phục vô cùng khó, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của người dân. Nhà nước lập ra một trung tâm lưu trữ để tất cả các tổ chức HNCC có thể nộp hồ sơ qua trung tâm của tỉnh, thông tin được nối mạng giữa các tổ chức HNCC sẽ hạn chế được những rủi ro. Thời đại của công nghệ thông tin mà còn rất nhiều các tổ chức HNCC còn quản lý hồ sơ một cách thủ công, thiếu khoa học đơn giản vì điều kiện vật chất có hạn, trên tinh thần xã hội hóa, nhà nước sẽ hỗ trợ để giải quyết các vấn đề xã hội đặt lợi ích của người dân nên trên hết. Khách quan, thì tâm lý khách hàng vẫn còn e dè, hoài nghi phân biệt giữa công chứng nhà nước và loại hình VPCC. Với tỉnh như Phú Yên, để có được một VPCC hoạt động, có kho lưu trữ hồ sơ lưu là một vấn đề. Bản thân những công chứng viên có được diện tích theo quy định để được thành lập VPCC đã là khó. Trên thực tế, nếu kiểm tra thì số lượng đáp ứng được tiêu chí về điều kiện văn phòng để thành lập ở tỉnh Phú Yên là không nhiều. Đây có thể nói là khó khăn chung của các VPCC. Điều này là nguyên nhân sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc lưu giữ hồ sơ công chứng của khách hàng - đây là những giấy tờ, tài liệu, chứng cứ vô cùng quan trọng, nó là bằng chứng cho thấy hồ sơ có hợp lệ hợp pháp hay không. Mà thời gian lưu giữ tối thiểu phải là 5 năm, chưa kể những hồ sơ mà theo luật lưu trữ thì phải lưu đến 10 năm. Với lượng giao dịch nhiều như hiện nay, thì việc có được kho lưu trữ hồ sơ công chứng là rất khó, xong hậu quả là vô cùng nghiêm trọng, mà không thể lường hết được hậu quả xảy ra. Nhất là khi mà QLNN đang có quá nhiều việc đáng làm. Sở Tư pháp là đầu mối về hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến các vấn đề tư pháp, đứng ra thành lập kho lưu trữ hồ sơ chung để thuận tiện cho việc kiểm tra, thanh tra hoạt động của các tổ 127 chức HNCC. Hơn nữa hồ sơ được thống nhất về một mối. Vấn đề này không dễ thực hiện, xong khi mà Việt Nam tham gia vào sân chơi chung của thế giới thì bản thân chúng ta phải tự bảo vệ mình, phải xây dựng dữ liệu lưu trữ một cách khoa học sẵn sàng cho việc bước vào sân chơi chung. Đây là vấn đề mà chúng ta hoàn toàn có thể lường trước được hậu quả. Bản thân Nhà nước cần có giải pháp tạo trụ sở, cũng như kho lưu trữ hồ sơ chung cho các tổ chức HNCC, nếu có sự hỗ trợ từ phía nhà nước bản thân các loại hình dịch vụ này thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa trụ sở, khiến cho hoạt động này vừa bảo đảm chất lượng, vừa thuận lợi cho người dân khi tiếp cận loại hình dịch vụ này. Và đây cũng là cách mà Nhà nước có thể phân bố được mạng lưới VPCC đến tận người dân, nhất là những vùng dân còn khó khăn, cũng là thực hiện bảo an cho toàn hệ thống công chứng. 128 Tiểu kết Chương 3 Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết phải tiến hành cải cách hành chính trong đó có lĩnh vực công chứng nói chung, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chúng ta đã tiến hành cải cách hành chính từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành chính, cải cách trong hoạt động tư pháp, cải cách thủ tục của công chứng, các tổ chức HNCC ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả QLNN bằng pháp luật đối với hoạt động công chứng cần tăng cường thanh, kiểm tra là giải pháp cần phải đặc biệt chú trọng. Thường xuyên, liên tục để uốn nắn các tổ chức HNCC trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng và cả nước nói chung việc thực hiện đúng quy định của LCC và các văn bản hướng dẫn thi hành là đúng đắn, cụ thể hóa chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng theo tinh thần Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đến năm 2020 phục vụ một cách thuận tiện cho nhu cầu công chứng ngày càng tăng của nhân dân, ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Phú Yên. 129 KẾT LUẬN Hoạt động công chứng ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng, phát triển và ổn định của mọi nền kinh tế, đi kèm theo đó là những ảnh hưởng tiêu cực mà bất kể một quốc gia phát triển nào cũng nhận thấy. Do vậy, vai trò QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC là cần thiết và cấp bách cho sự phát triển lâu dài ổn định bền vững của toàn xã hội. Với chủ trương xã hội hoá dịch vụ công nói chung, xã hội hoá các dịch vụ công chứng nói riêng. Xã hội hoá công chứng là quá trình nhà nước thực hiện đổi mới phương thức tổ chức hoạt động công chứng, từng bước chuyển giao hoạt động công chứng cho các cá nhân, tổ chức phi nhà nước thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả công chứng, đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Như vậy, xã hội hóa công chứng chính là sự xóa bỏ độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực công chứng. Trong quá trình đó, nhà nước rút dần khỏi việc trực tiếp cung ứng dịch vụ công chứng, tiến tới chuyển giao hẳn cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện, nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người thực hiện quản lý nhà nước. Điều này đã góp phần phân biệt rõ chức năng QLNN và quản lý nghề công chứng. Nhà nước tăng cường quản lý bằng pháp luật, xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý, bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực công chứng. Mô hình VPCC ra đời đã tạo điều kiện để mọi người dân, với mọi địa vị xã hội, khả năng kinh tế khác nhau đều bình đẳng, dễ tiếp cận với dịch vụ công chứng, xoá bỏ tâm lý e ngại khi người dân tiếp cận với công chứng. VPCC ra đời được coi là cuộc cách mạng đối với lĩnh vực công chứng. Đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử phát triển và hình thành công chứng của Việt Nam. Từ khi có LCC năm 2006 cho đến năm 2008 chúng ta mới triển khai thực hiện, thừa nhận song song tồn tại hai hệ thống: bên cạnh các PCC 130 nhà nước đã thành lập, với các công chứng viên nhà nước là các VPCC, dần được nhân rộng với các công chứng viên hành nghề tự do. Dựa trên cơ sở những căn cứ khoa học và thực tiễn của hoạt động công chứng nước ta trong những năm qua, tham khảo những quy định, luận văn đã làm sáng tỏ những vẫn đề còn hạn chế trong quy định của pháp luật cụ thể là LCC năm 2006, LCC năm 2014 thực tiễn tại tỉnh Phú Yên, đưa đến cho những người quan tâm đến lĩnh vực công chứng. Sự phát triển của hệ thống công chứng gắn chặt chẽ với sự phát triển QLNN bằng pháp luật đối với công chứng, đến nay một mạng lưới các tổ chức HNCC đã được hình thành và triển khai rộng khắp trên toàn quốc, đáp ứng được phần lớn các yêu cầu về chứng nhận hợp đồng, giao dịch dân sự của cá nhân, tổ chức. Hoạt động công chứng từng bước được chuyên nghiệp hóa, người dân tiếp cận dịch vụ công chứng ngày càng thuận tiện, nhanh chóng, số sai phạm trong hoạt động công chứng dẫn đến tranh chấp không nhiều, đặc biệt các VPCC hiện nay đã trở thành địa chỉ tin cậy của nhiều người dân. Điều đó, chứng tỏ công tác QLNN bằng pháp luật đối với công chứng, các tổ chức HNCC đã thực hiện tốt chủ trương, theo kịp sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, nếu so với công chứng của các nước đã có hàng trăm năm phát triển thì hoạt động công chứng, mô hình VPCC ở nước ta còn khá trẻ, phải tích cực quan tâm nghiên cứu hoàn thiện để kịp thời với sự vận động của thực tiễn Việt Nam, đồng thời trình độ phát triển của công chứng không thể tách rời với trình độ phát triển của xã hội hiện tại. Vì vậy, em hy vọng rằng kết quả nghiên cứu của luận văn “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên” sẽ góp phần vào công cuộc đổi mới, hoàn thiện quy chế QLNN bằng pháp luật đối với các tổ chức HNCC, nâng cao hiệu quả QLNN bằng pháp luật trong việc ban hành, văn bản quản lý, tổ chức thực hiện quản lý, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm,.... 131 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tư Pháp (1987), Thông tư số 574/QLTPK về công chứng nhà nước. 2. Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo tổng kết 5 năm thi hành Luật công chứng. 3. Chính phủ (1996), Nghị định số 31/CP ngày 18/05/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. 4. Chính phủ (2000), Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 08/12/2000 về công chứng, chứng thực. 5. Chính phủ (2007), Nghị định số 79/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 5 năm 2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. 6. Chính phủ (2008), Nghị định số 02/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng. 7. Chính phủ (2013), Nghị định số 04/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07 tháng 01 năm 2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật công chứng, sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 02/2008/NĐ-CP. 8. Chính phủ (2013), Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. 9. Dương Đình Thành (1995), “Công chứng Nhà nước - công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và tổ chức” Tạp chí Pháp luật 10. Dương Quốc Hoàng (2005), “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trên lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” Luận văn 132 thạc sĩ 11. Hoàng Quốc Hùng, Phó chánh thanh tra Bộ Tư pháp (2012), “Báo cáo tham luận một số vi phạm trong lĩnh vực công chứng - Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp khắc phục”. 12. Học viện Tư pháp (2010), “ Chuyên đề ba năm thực hiện Luật công chứng”, Tạp chí Nghề luật 4/2010. Tr. 8-13. 13. Hương Giang (2013), “Tìm cách xóa bất cập cho công chứng”, 14. Lê Quốc Hùng (2011), “Kiến nghị hoàn thiện Luật Công chứng” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1+2 (210+211). 15. Lê Văn Trung (2001), “Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ 16. Lê Xuân Vũ (2012), “Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực hải quan – qua thực tiễn Hải quan tỉnh Thừa Thiên Huế” Luận văn thạc sĩ 17. Nguyễn Quang Minh (2009) “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” Luận văn thạc sĩ 18. Phạm Thị Mai Trang (2011), “Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, thực trạng và giải pháp” Luận văn thạc sĩ 19. Phan Hải Hồ (2008), “Phân cấp quản lý nhà nước về công chứng, chứng thực (Qua thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh)” Luận văn thạc sĩ 20. Phan Hải Hồ (2012), “Hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với văn phòng công chứng” Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 14. 21. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội. 22. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 23. Quốc hội (2006), Luật Công chứng, Hà Nội. 24. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội. 25. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2012), “ Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Luật Công chứng”. 133 26. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2013), “Báo cáo công tác quản lý nhà nước về công chứng và tình hình tổ chức, hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên”. 27. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2016), “ Báo cáo kết quả công tác công chứng 06 tháng đầu năm 2016 và chương trình công tác 06 tháng cuối năm 2016”. 28. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2017), “Báo cáo kết quả công tác năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ công tác trọng tâm năm 2017”. 29. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2017), “Báo cáo tình hình tổ chức và hoạt động công chứng năm 2016”. 30. Sở Tư pháp tỉnh Phú Yên (2017), Trang thông tin điện tử www.sotuphap.phuyen.gov.vn. 31. Tính toán theo số liệu của Cục Thống kê Phú Yên: “Niên giám thống kê 2016”. 32. Trần Thất và Đặng Văn Khanh (1998), “Một số nhận xét về pháp luật hiện hành về công chứng Nhà nước và hướng hoàn thiện” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật . 33. Tổng hợp từ trang điện tử 34. Tuấn Đạo Thanh (2011), Nhập môn công chứng, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 35. Tuấn Đạo Thanh (2011), “Mấy bình luận về đề án cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực công chứng”, Nghiên cứu Lập pháp 36. UBND tỉnh Phú Yên (2008), “Đề án thành lập và phát triển các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Phú Yên”, Quyết định số 1840/QĐ-UBND ngày 12/11/2008 37. UBND tỉnh Phú Yên (2014), “Kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020”, Công văn số 40/KH-UBND ngày 11/3/2014. 134 38. UBND tỉnh Phú Yên (2016), “Báo cáo tình hình thực hiện pháp luật về công chứng, chứng thực trên địa bàn tỉnh Phú Yên”. 39. UBND tỉnh Phú Yên (2017), “Báo cáo tổng kết 3 năm thi hành Luật Công chứng năm 2014”. 40. Vụ Bổ trợ tư pháp - Bộ Tư pháp (2012), Báo cáo những định hướng lớn về sửa đổi, bổ sung Luật công chứng tại Hội thảo “Định hướng sửa đổi, bổ sung Luật Công chứng”. 41. Vũ Việt Hoàn (2012), “Vai trò của hoạt động công chứng trong lĩnh vực tư pháp”, Tạp chí Nghề luật số 5/2012. 135

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_bang_phap_luat_doi_voi_cac_to_chuc.pdf
Luận văn liên quan