Năng lực quản lý tài chính của người đứng đầu nhà trường còn thể hiện ở khả năng dự báo
nhu cầu về thiết bị cần thiết cho dạy và học, về vốn cần thiết cho trang thiết bị trong tương lai.
Sau đó xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hút, tìm kiếm nguồn lực từ hệ thống trường học và
các bên quan tâm. Để xây dựng được dự báo này, Hiệu trưởng phải hiểu được các quy trình dự
kiến tuyển sinh và yêu cầu về trang thiết bị dựa trên số lượng tuyển sinh, không gian làm việc
cần thiết cho các chương trình đặc biệt và/hoặc đổi mới, nâng cấp theo định kỳ.
81 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2783 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng và chất lượng, từng bước nâng cao hiệu qủa giáo dục, đào
tạo.
- Chuyển đổi loại hỡnh trường và mở thêm trường mới theo hướng đa dạng hoá,
chuẩn hoá, đồng bộ hoá, từng bước hiện đại hoá, cân đối giữa số lượng và chất lượng, có
bước đi, phù hợp với qui hoạch và khuyến khích trường ngoài công lập chất lượng cao.
- Đảm bảo hệ thống THPT ngoài công lập phát triển cân đối về qui mô số lượng, đảm
bảo chất lượng, phân bổ hợp lý, tạo thuận lợi cho mọi học sinh có nhu cầu học.
- Khai thác tối ưu sự tham gia của cộng đồng vào việc phát triển giáo dục THPT,
ngăn chặn lợi dụng xó hội hoỏ nhằm mục tiờu trục lợi.
- Điều chỉnh và chuyển đổi các loại hỡnh trường công lập, ngoài công lập hiện nay
sang loại hỡnh mới theo Luật giỏo dục 2005 với bước đi và qui hoạch hợp lý.
- Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, thực hiện tốt chương trỡnh, sỏch giỏo
khoa phõn ban. Phõn lớp, phõn tầng chất lượng để có cách làm riêng, phù hợp, sáng tạo, đáp
ứng nhu cầu của học sinh, cha mẹ học sinh, xó hội và nõng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo
cho nhà trường.
3.2. Các giải pháp cụ thể
3.2.1. Đẩy mạnh xó hội hoá, tạo được sự công bằng giữa giáo dục ngoài công lập
và công lập
Phát triển giáo dục ngoài công lập là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, có cơ sở lý
luận và thực tiễn. Trong hoàn cảnh đất nước có nhiều khó khăn, ngân sách của Nhà nước
chưa đủ để đầu tư lớn hơn cho giáo dục, thì việc huy động rộng rãi các nguồn lực để phát
triển sự nghiệp giáo dục là một đòi hỏi tất yếu. Việc hệ thống các trường ngoài công lập ra
đời và tồn tại suốt những năm qua là một minh chứng sinh động. Điều này đã được khẳng
định trong các văn bản pháp quy và càng ngày càng được thể chế hóa một cách chặt chẽ,
đồng bộ. Trong quá trình triển khai, các chính sách của trung ương cũng như của địa phương
về các trường ngoài công lập đã ngày càng hoàn thiện theo hướng có lợi cho các nhà đầu tư,
phù hợp với yêu cầu của người học. Điều đó đã tạo điều kiện cho các trường ngoài công lập gần
đây phát triển cả chất lượng và số lượng.
Huy động sức mạnh toàn dân vào việc thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát
triển đa dạng các hình thức đào tạo, mang lại cho mọi người có cơ hội học tập và đóng góp
nhân tài vật lực cho giáo dục, phát triển trường dân lập tư thục theo phương châm xã hội
hoá giáo dục và bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Phát triển mạnh hội khuyến học, quỹ
khuyến khích tài năng và các tổ chức bảo trợ, hỗ trợ giáo dục.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội
học tập. Mở rộng và hoàn thiện các trường dân tộc nội trú cho con em dân tộc thiểu số, trú
trọng đặc biệt đến quyền lợi học tập của con em nhân dân ở những nơi có nhiều khó khăn.
Có các biện pháp hữu hiệu chấm dứt các hiện tượng tiêu cực đang diễn ra như dạy thêm,
học thêm khuynh hướng thương mại hoá, cấp bằng giả, học giả, bạo lực trong trường học,
ma tuý và các tệ nạn xã hội khác.
Chủ trương và các văn bản nêu trên đều nhất quán một tinh thần Nhà nước khuyến
khích các trường ngoài công lập phát triển và dành cho các trường này quyền tự chủ về
nhiều lĩnh vực như nhân sự, tài chính; Nhà nước chỉ quản lý riêng lĩnh vực chuyên môn.
Thực tế, những văn bản nói trên phần nào đã có tác dụng tích cực, thúc đẩy sự phát
triển của hệ thống các trường ngoài công lập và ít nhiều điều chỉnh chúng theo chiều hướng
lành mạnh, tích cực. Tuy nhiên, khách quan mà nói, nội dung các văn bản nói trên cũng còn
những điểm thiếu tính khả thi, thiếu cụ thể, rõ ràng. Vì thế, hiệu lực của chúng chưa được
như mong muốn. Điều này không thể không ảnh hưởng tới sự phát triển của các trường
ngoài công lập, khiến cho sự phát triển của loại hình trường này chưa tương xứng với tiềm
năng của mỗi địa phương và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế giáo dục.
Thực tế hiện nay, bắt đầu xuất hiện một loại trường mới do nước ngoài đầu tư, xây
dựng và quản lý. Nhìn chung, hầu như đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào nói
về loại hình trường này. Tính đến năm 2005, chúng ta có đủ các loại hình trường ngoài công
lập thuộc những ngành học khác nhau từ mầm non đến tiểu học, từ trung học phổ thông đến
trung học chuyên nghiệp. Trong đó, loại trường bán công thu hút tới ngót 70% tổng số học
sinh ngoài công lập, tiếp đến loại hình dân lập chiếm khoảng 20% và loại trường tư thục
chiếm 10%. Nhưng đáng lưu ý là trừ những trường bán công, còn lại các loại trường tư thục,
tức là cá nhân bỏ vốn xây trường sắm sửa trang thiết bị dạy học tuyển chọn giáo viên và học
sinh, quản lý việc thu, chi.
Theo Luật giáo dục năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/1/2006, hệ thống giáo dục ngoài
công lập chỉ còn hai loại hình trường là trường dân lập và trường tư thục (không có trường
bán công), nhưng thực tế phương thức hoạt động hầu hết theo loại hình trường tư thục. Có
thể nói, huy động sự tham gia rộng rói của xó hội (XHH) là yếu tố quyết định đối với việc
phát triển hệ thống giáo dục ngoài công lập.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần quan tâm đến các nội dung sau đây:
- Đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về xó hội hoỏ, về trường
ngoài công lập, tạo lập được nhận thức đúng từ Đảng, Chính quyền, nhân dân về sự cần
thiết của hệ thống trường ngoài công lập, sự bỡnh đẳng và công bằng giữa giáo dục công lập
và ngoài công lập.
- Xõy dựng kế hoạch xó hội hoỏ chi tiết, khả thi trong từng cấp quản lý và từng
trường.
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giáo dục nói chung và về giáo dục trung
học phổ thông ngoài công lập nói riêng; tổ chức thực hiện có hiệu lực, hiệu quả pháp
luật; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Căn cứ vào các mục tiêu cơ bản hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, các chủ
trương về đổi mới giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân
tài; về chiến lược phát triển giáo dục đào tạo; căn cứ vào các quyền con người về học tập
được quy định trong luật pháp quốc gia và quốc tế. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giáo dục sau đây cần được đặc biệt lưu ý:
Một là, thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển sự nghiệp giáo dục
trong thời kỳ mới theo tinh thần “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, thể hiện ở sự tập trung cho giáo dục về đầu tư tài
chính, đầu tư cán bộ, ban hành các chính sách ưu tiên và tổ chức quản lý giáo dục. Trong
những năm qua Đảng, Nhà nước và nhân dân đã rất quan tâm phát triển giáo duc.
Các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X, Hội nghị lần thứ sáu và Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương Khoá IX xác
định những nhiệm vụ mà toàn Đảng, toàn dân, nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ quản
lý giáo dục cần tập trung thực hiện. Phù hợp với các quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Thực hiện giáo dục toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, nhất là
trong các trường đại học và cao đẳng; Đặc biệt chú trọng giáo dục tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình lý tưởng xã
hội chủ nghĩa, bản lĩnh chính trị lòng nhân ái, ý thức tôn trong pháp luật, lối sống văn hoá,
tác phong công nghiệp, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ, lập thân, lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn; đào tạo lớp người năng động, sáng tạo, cóp sức khoẻ, có kiến thức, làm chủ kỹ
năng nghề nghiệp, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên nắm bắt thành tựu về khoa học
và công nghệ. Ngăn chặn các tệ nạn xã hội thâm nhập vào nhà trường. Tập trung chỉ đạo đổi
mới nội dung, chương trình, mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường hiệu quả và
thực hiện công bằng xã hội; đáp ứng yêu cầu dân trí, nhân lực, nhân tài của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân, tiến
tới một xã hội học tập. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình thức
hoạt động cơ bản nhất của Nhà nước mang tính sáng tạo cao nhằm tạo ra công cụ quản lý:
các văn bản quy phạm pháp luật.
Hai là, bảo đảm pháp luật về giáo dục phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành
Việc hoàn thiện pháp luật về giáo dục phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo sự
đồng bộ, thống nhất với các luật chuyên ngành khác, đặc biệt là các luật mới ban hành trong
những năm gần đây (Bộ luật dân sự, Luật khoa học và công nghệ, Luật Tổ chức hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân... ). Vấn đề mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài, hội nhập
với các nước khu vực và quốc tế là vấn đề thời sự và hết sức cần thiết hiện nay. Nhưng
khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động đó chưa đầy đủ và đủ mạnh để quản lý, kiểm tra
các hoạt động giáo dục như liên kết đào tạo với các cơ sở giáo dục nước ngoài, quản lý du
học tự túc…
Hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong giai đoạn hiện nay là giải pháp then chốt để
đổi mới và nâng cao năng lực quản lý nhà nước trong giáo dục và đào tạo; đẩy mạnh đổi
mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam cùng với đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Kiên quyết giảm hợp lý nội
dung chương trình học cho phù hợp với tâm sinh lý của học sinh cấp tiểu học và trung học
cơ sở. Khẩn trương triển khai đề án phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và
cán bộ quản lý giáo dục; cơ cấu lại hệ thống đào tạo, hoàn thiện hệ thống đào tạo thực hành
định hướng nghề nghiệp. Khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các trường công lập và
ngoài công lập. Đổi mới cơ chế, chính sách tạo kinh phí cho giáo dục đào tạo; xác định công
khai và phù hợp phần đóng góp của người học, kiên quyết đấu tranh khắc phục các tiêu cực
trong dạy và học; đồng thời có chính sách bảo đảm cho con các gia đình nghèo cũng có điều
kiện được học tập. Tăng cường hợp tác với nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài vào
lĩnh vực giáo dục. Xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo. Đẩy mạnh xã hội
hoá giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Phấn đấu đưa nền giáo dục nước ta tiến kịp so với
các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Hàng năm, có kế hoạch rà soát các văn bản, quy định về giáo dục, điều chỉnh và
quyết định bãi bỏ, thay thế, bổ sung các văn bản không còn phù hợp với tình hình phát triển
giáo dục, với chủ trương đường lối và các quy định có liên quan. Nâng cao năng lực, kỹ
thuật soạn thảo, thẩm định, rà soát, kiểm tra, giám sát văn bản của các cán bộ, công chức
trong ngành giáo dục. Đảm bảo các văn bản ban hành đồng bộ, thống nhất, hợp hiến, hợp
pháp và có hiệu lực pháp lý cao. Củng cố tổ chức và nâng cao năng lực của tổ chức pháp
chế ngành. Tăng cường công tác pháp chế, có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và có chế độ đãi ngộ đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật. Tăng
cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật làm cho xã hội hiểu về giáo dục, góp phần
đẩy nhanh sự phát triển giáo dục trên nhiều lĩnh vực. Củng cố và phát triển đội ngũ làm
công tác hoạch định chính sách, xây dựng chế độ, tiêu chuẩn và các quy định về giáo dục
đào tạo từ trung ương đến địa phương và các cơ sở giáo dục, nhà trường. Tăng cường công
tác kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp lụât về giáo dục ở các cơ sở giáo dục và địa
phương, phát hiện các quy định bất cập, không khả thi, các quy định chồng chéo để có kế
hoạch chỉnh sửa, bổ sung văn bản kịp thời góp phần ổn định các hoạt động giáo dục.
Các quy định pháp luật nói chung và pháp luật về giáo dục nói riêng khi xây dựng
nhất thiết phải có sự đóng góp ý kiến của các cơ quan, tổ chức xã hội có liên quan, của đối
tượng phải thi hành và phải được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng
để mọi người, mọi cơ quan, tổ chức đều biết để thực hiện.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về giáo dục đáp ứng nhu cầu thực tế phát triển sự
nghiệp giáo dục
Trong lĩnh vực giáo dục văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất điều chỉnh các hoạt
động giáo dục đó là Luật Giáo dục. Luật Giáo dục được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14 tháng 16 năm 2005 là cơ sở pháp lý quan trọng của hệ
thống giáo dục quốc dân. Luật Giáo dục đã góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục, hệ thống
giáo dục được đổi mới và từng bước kiện toàn; trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân
lực được nâng cao. Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động giáo dục và nhu
cầu học tập ngày càng cao của nhân dân đã xuất hiện một số bức xúc do thực tiễn đặt ra cần
phải hoàn thiện pháp luật về giáo dục tạo cơ sở pháp lý để phát triển mạnh mẽ sự nghiệp
phát triển giáo dục, đáp ứng ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước trong bối cảnh
toàn cầu hoá. Thời gian qua, tuy đạt được nhiều kết quả to lớn về giáo dục, nhưng bước vào
thế kỷ XXI nền giáo dục vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập, chưa ngang tầm với yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vấn đề bức xúc nhất trong giáo
dục ở Việt Nam hiện nay là hoàn chỉnh hệ thống giáo dục, nâng cao trình độ quản lý giáo
dục và chất lượng giáo dục toàn diện. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo
hướng đa dạng hoá, chuẩn hoá, liên thông, tổ chức phân luồng sau trung học cơ sở và trung
học phổ thông theo hướng xây dựng cơ cấu đào tạo hợp lý, gắn với yêu cầu của thị trường lao
động.
Hoàn thiện pháp luật về giáo dục để xác định rõ hơn hành lang pháp lý cho tổ chức
và hoạt động giáo dục và sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý giáo
dục, giữa các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động giáo dục. Việc hoàn thiện pháp luật về
giáo dục là bức xúc và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý khắc phục những khó khăn, yếu kém và
đáp ứng nhu cầu mới phát sinh trong lĩnh vực giáo dục hiện nay. Trong bối cảnh toàn cầu
hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, cuộc cách mạng khoa học công nghệ có những bước phát
triển nhảy vọt trong thế kỷ XXI, vấn đề đổi mới về giáo dục đang diễn ra trên toàn cầu.
Hoàn thiện pháp luật về giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước
trong thời kỳ hội nhập và phát triển những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
Hiện nay, chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển nguồn nhân lực
trước hết là chất lượng giáo dục chính trị, lý tưởng, đạo đức và lối sống, đặc biệt ở bậc cao
đẳng, đại học. Đặc biệt là ý thức trách nhiệm cộng đồng, năng lực hành động, kỹ năng nghề
nghiệp của học sinh, sinh viên tốt nghiệp còn thấp. Nội dung, chương trình và phương pháp
dạy và học còn lạc hậu, thi cử còn nặng nề chưa đáp ứng tốt yêu cầu chuẩn bị nhân lực cho
công nghiệp hoá rút ngắn và trình độ chưa theo kịp phát triển khoa học công nghệ hiện đại.
Quy mô phát triển giáo dục chưa gắn với bảo đảm chất lượng, vượt quá khả năng, điều kiện
bảo đảm chất lượng. Quản lý nhà nước về giáo dục còn yếu kém, lúng túng trước yêu cầu
mới, thiếu tầm nhìn và giải pháp chiến lược, nặng về chỉ đạo nghiệp vụ cụ thể, khoa học
giáo dục chưa theo kịp thực tiễn, chưa thường xuyên chỉ đạo sát sao việc thực hiện các
nguyên lý giáo dục và các tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục do các Văn kiện Nghị quyết
trung ương đề ra. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong nhà trường chậm được khắc phục. Sự
phối hợp giữa các ngành trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch, dự án trong
lĩnh vực giáo dục còn chậm được cải tiến. đào tạo còn chạy thao nhu cầu tự phát của người
học và gia đình chưa gắn với nhu cầu sử dụng.
ý nghĩa giải pháp này là ở chỗ, khi có hệ thống chính sách đúng đắn, đồng bộ, cơ chế
thông thoáng mới thực hiện được có hiệu quả xó hội hóa giáo dục và phát triển trường ngoài
công lập.Thực hiện tốt giải pháp này chính là thực hiện các điều 65 đến 68 của Luật Giáo
dục 2005.
Để thực hiện được giải pháp này, trước hết về phương diện lý luận cần làm rõ vấn đề
thừa nhận hay không thừa nhận đầu tư vào giáo dục ngoài công lập vì lợi nhuận hay không
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhà nước cần tạo ra hành lang pháp lý, khuyến khích những ngư-
ời có khả năng thành lập trường yên tâm đứng ra tổ chức và sau đó đầu tư phát triển trường
lâu dài. Cần học tập, tham khảo kinh nghiệm của các nước một cách có chọn lọc, áp dụng
chúng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Nội dung chủ yếu của giải pháp này bao gồm:
- Bổ sung, hoàn thiện cơ chế quản lý cỏc trường THPT ngoài công lập, đặc biệt là phân
cấp, giao quyền tự chủ, tự quyết cho nhà trường về tuyển sinh, học phí, nhân sự, xây dựng kế
hoạch giáo dục. Qui định rừ ràng, rành mạch trỏch nhiệm và quyền hạn, mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý giáo dục (Sở GD&ĐT, phũng GD&ĐT) và nhà trường ngoài công lập, cũng như
các tổ chức, lực lượng trong nội bộ nhà trường (Chi bộ, HĐQT, Hiệu trưởng, giáo viên…);
- Đổi mới chính sách về đất đai, tài chính, học phí, thuế, đầu tư nhằm tháo gỡ những
khó khăn hiện nay và tạo điều kiện cho trường THPT ngoài công lập phát triển. Nhà nước
có chính sách đầu tư cho trường THPT ngoài công lập. Xem xét để có thể tăng học phí
trường công lập tạo nguồn vốn hỗ trợ một phần trường ngoài công lập và giảm bớt khoảng
cách giữa học phí trường cụng lập và ngoài cụng lập tạo nờn sự cụng bằng xó hội;
- Xây dựng hệ thống tiêu chí để kiểm định chất lượng hàng năm đối với trường ngoài
công lập, chế tài để giải quyết các vi phạm đối với các trường;
- Bộ GD&ĐT có quy chế mới hoặc hướng dẫn thực hiện Quy chế 39/2001 về tổ chức và
hoạt động của trường ngoài công lập theo Luật giáo dục 2005.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Củng cố và phát triển tổ chức pháp chế ngành, có chế độ chính sách đào tạo, nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực soạn thảo, thẩm định, rà soát, kiểm tra, giám
sát văn bản quy phạm pháp luật và chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ làm công tác xây dựng
pháp luật giáo dục. Thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giáo dục,
tổ chức thực hiện công tác xây dựng pháp luật, thẩm định, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy
phạm pháp luật, phổ biến giáo dục pháp luật. Tăng cường tổ chức pháp chế ở các cấp giáo
dục, các cơ sở giáo dục; thực hiện việc kiểm tra, thực hiện các văn bản pháp luật về giáo dục
ở địa phương và các cơ sở giáo dục. Chuyển từ tư tưởng quản lý chủ yếu bằng mệnh lệnh
hành chính sang chủ yếu quản lý bằng pháp luật.
Công khai, minh bạch các kết quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Phát hiện, xử lý
kịp thời, nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong quá trình quản lý nhà nước đối với các
trường trung học phổ thông ngoài công lập.
3.2.3. Xây dựng và thực hiện qui hoạch mạng lưới, kế hoạch phát triển, lộ trỡnh
chuyển đổi các loại hỡnh trường đến 2010
Đây là giải pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tăng cường sự quản lý nước
đối với trường THPT ngoài công lập. Liên quan đến giải pháp này, có một số nội dung sau
đây:
a. Về cỏc loại hỡnh trường trong giáo dục THPT
Theo Luật giáo dục (2005), bậc THPT có trường công lập, dân lập, tư thục. Theo các
văn bản của Bộ GD&ĐT trường công không có lớp bán công. Từ thực tiễn của các nhà
trường, đề xuất các loại hỡnh trường THPT như sau:
- Thứ nhất, trường công lập;
- Thứ hai, trường công lập có lớp "tự nguyện" cho những địa bàn không có trường
dân lập, tư thục nhất là ở các vùng khó khăn. Các trường này hoạt động theo cơ chế đơn vị
sự nghiệp có thu. Lớp "tự nguyện" có thể là tuyển những học sinh không đủ điểm vào công
lập nhưng cũng có thể là những học sinh khá, giỏi có nhu cầu học nâng cao hơn;
- Thứ ba, trường công lập tự chủ về tài chính là những trường công lập có truyền
thống, có chất lượng, ở những địa bàn phát triển , có khả năng tự chủ về tài chính;
- Thứ tư, trường dân lập;
- Thứ năm, trường tư thục.
Theo đó, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau:
* Việc thành lập trường ngoài công lập mới
Nên thành lập trường THPT ngoài công lập mới theo những định hướng và yêu cầu nêu ở
trên. Các trường THPT ngoài công lập mới chỉ có trường dân lập và tư thục, khuyến khích
loại hỡnh trường tư thục.
* Việc chuyển đổi loại hỡnh trường bán công hiện nay
Các trường bán công hiện nay có thể chuyển thành:
- Trường công lập có lớp "tự nguyện", hoặc trường công lập tự chủ tài chính;
- Trường dân lập hay tư thục.
* Việc chuyển đổi trường công lập
Có thể chuyển đổi trường công lập sang mô hỡnh:
- Trường công lập có lớp "tự nguyện" ở những địa bàn không có trường dân lập, tư
thục.
- Trường công lập tự chủ tài chính.
- Trường dân lập, tư thục. Khuyến khích thành trường tư thục.
* Việc chuyển đổi trường dân lập
Khuyến khích chuyển đổi trường dân lập sang tư thục.
b. Thực hiện giải pháp qui hoạch:
- Các sở GD&ĐT xem xét hệ thống trường THPT ngoài công lập của tỉnh, căn cứ
vào kế hoạch phát triển kinh tế - xó hội của tỉnh, cỏc huyện và qui hoạch hiện có để điều
chỉnh, xây dựng qui hoạch mới trỡnh UBND tỉnh phờ duyệt;
- Đẩy mạnh tuyên truyền để các trường trong tỉnh nhận thức đúng, tự nguyện, tự giác
đề xuất cách giải quyết, không dùng mệnh lệnh hành chính, áp đặt;
- Xõy dựng lộ trỡnh cụ thể từng năm từ nay đến 2010;
- Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các Sở Giáo dục và Đào tạo ở địa phương có các văn
bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết.
3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên
Đội ngũ cán bộ, giáo viên là nhân tố quyết định tạo nên chất lượng của trường ngoài
công lập và đều do các trường tự quyết định. Do đó các trường cần xác định được quan
điểm, cách làm tối ưu nhất để xây dựng đội ngũ cán bộ, giáo viên. Để có đội ngũ cán bộ,
giáo viên có chất lượng, cần chú ý:
- Xây dựng đội ngũ theo hướng “tinh” song phải đồng bộ, đảm bảo sự ổn định song
vẫn linh hoạt, đảm bảo tính kế thừa và phát triển. Các trường phải xây dựng được qui chế
tuyển dụng, bồi dưỡng, quản lý và sử dụng đội ngũ mang rừ nột đặc thù của trường mỡnh;
- Xõy dựng cỏc tiờu chớ, qui trỡnh quản lý, đánh giá nội bộ công khai, dân chủ, rừ
ràng;
- Xây dựng chế độ đói ngộ, khen thưởng nội bộ, hợp lý.
- Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT hướng dẫn để các trường chủ động, sáng tạo xây dựng
quy chế nội bộ và cách làm riêng của trường về nhân sự (tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng, tự
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đói ngộ, khen thưởng...).
- Nhà nước thực hiện chế độ bồi dưỡng cán bộ, giáo viên về chuyên môn, nghiệp vụ,
khen thưởng,...bỡnh đẳng với các trường công lập.
- Các trường xây dựng tiêu chí, chuẩn đánh giá, công khai đánh giá, xếp loại cán bộ,
giáo viên.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên cần được theo định hướng chuẩn
sau:
a. Đối với Hiệu trưởng
Tổ chức nhà trường tồn tại trong một tổ chức lớn hơn- hệ thống giáo dục quốc dân.
Hiệu trưởng có trách nhiệm trước các cơ quan quản lý cao hơn và học sinh, cũng như trước
nhà trường mà mình lãnh đạo. Vì vậy, Hiệu trưởng cần thực hiện tất cả nhiệm vụ một cách
chuyên nghiệp, hoàn thành nhiệm vụ chính xác và đúng hạn, thể hiện tính giờ giấc trong
công việc, họp hành và và các cuộc tiếp đón khác; kịp thời xem xét lợi ích của các bên liên
quan khi ra quyết định và đáp ứng các yêu cầu phục vụ một cách tích cực.
Hiệu trưởng như một đường ống dẫn hay đường cáp truyền tải thông tin đi và đến từ
hệ thống nhà trường. Hiệu trưởng duy trì những thông tin chính xác, cập nhật về nhà
trường, học sinh, cộng đồng, tổ chức các hoạt động trong nhà trường và trong hệ thống
trường học. Hiệu trưởng cung cấp thông tin kịp thời và theo quy cách phù hợp cho cộng
đồng nhà trường và cho hệ thống nhà trường. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm thực hiện luật
pháp và chính sách của nhà nước và địa phương ở một số lĩnh vực. Hiệu trưởng phải hiểu
biết kỹ lưỡng Luật Giáo dục, các văn bản dưới luật trong lĩnh vực giáo dục; các chính
sách và quy trình khác của nhà nước mà theo đó nhà trường tổ chức các hoạt động.
Hiệu trưởng phải biết thiết lập hệ thống tuyên truyền hiệu quả trong nhà trường, giữa
các bên quan tâm trong cộng đồng nơi nhà trường cư ngụ; giữa nhà trường với hệ thống
trường học rộng hơn trong cả nước và quốc tế. Trong hệ thống tuyên truyền này, kỹ năng
tuyên truyền miệng, viết và công nghệ của bản thân Hiệu trưởng sẽ là mẫu cho người khác.
b. Đối với giáo viên
Các yêu cầu của chuẩn giáo viên gồm:
- Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; thực hiện nghĩa vụ công dân đối với nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thông qua các hoạt động giáo dục và giảng dạy giáo dục học sinh
lòng tự hào dân tộc, yêu quê hương đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội; chấp hành pháp luật,
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các quy định của ngành; tham gia các hoạt
động xã hội trong nhà trường và cộng đồng;
- Giáo viên phải thương yêu, tôn trọng và đối xử công bằng với học sinh; bảo vệ các
quyền và lợi ích chính đáng của học sinh. Thân mật, gần gũi với học sinh; quan tâm đến
hoàn cảnh và đặc điểm của học sinh, giúp các em khắc phục khó khăn trong học tập và rèn
luyện; không phân biệt đối xử, không thành kiến và trù dập học sinh; tham gia bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của trẻ em.
- Giáo viên phải có lòng yêu nghề, giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; có
tinh thần trách nhiệm; có ý thức tổ chức kỷ luật; có tinh thần hợp tác.Gắn bó với nghề dạy
học; luôn rèn luyện phẩm chất nghề nghiệp, nâng cao trình độ tay nghề; sống trung thực,
lành mạnh, giản dị; giữ gìn đạo đức, tác phong sư phạm và uy tín của nhà giáo; đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực; thực hiện kỷ cương, nền nếp của nhà trường; hoàn thành
nhiệm vụ được giao; đoàn kết, hợp tác với đồng nghiệp, phối hợp với cha mẹ học sinh và
cộng đồng trong công tác giáo dục và giảng dạy;
- Giáo viên phải có tinh thần tự học, phấn đấu năng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ; có ý thức rèn luyện sức khoẻ. Tham gia bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ do các cấp quản lý tổ chức, tự xác định nhu cầu bồi dưỡng, xây
dựng và thực hiện kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt về đổi
mới giáo dục tiểu học; có ý thức rèn luyện đạo đức và sức khoẻ để hoàn thành nhiệm vụ
giảng dạy và giáo dục.
- Giáo viên phải có kiến thức cơ bản đạt trình độ chuẩn được đào tạo để dạy các môn
học trong chương trình. Nắm được mục tiêu, nội dung cơ bản của chương trình, sách giáo
khoa các môn học, hệ thống kiến thức của mỗi môn học ở các khối lớp; mối quan hệ kiến
thức giữa các môn học trong chương trình.
Có hiểu biết về những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nắm được nội
dung cơ bản của các chủ trương, chính sách về giáo dục, trong đó có đổi mới giáo dục; hiểu
biết một số chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hoá - xã hội liên quan đến sự phát triển
của giáo dục, một số vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với giáo dục;
- Giáo viên có kiến thức cần thiết về tâm lý sư phạm và tâm lý học lứa tuổi, biết ngoại
ngữ, tin học để hỗ trợ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Nắm được đặc điểm tâm - sinh
lý của học sinh, vận dụng hiểu biết đó vào hoạt động giáo dục và giảng dạy phù hợp với các
đối tượng; có hiểu biết về các phương pháp quản lý, giáo dục học sinh, các phương pháp
dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; bước đầu biết sử dụng máy vi tính,
ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với điều kiện thực tế và
học sinh của trường;
Ngoài ra, giáo viên phải có kiến thức phổ thông về những vấn đề xã hội và nhân văn
liên quan đến hoạt động giáo dục và giảng dạy. Nắm được mục đích, nội dung và phương
pháp thực hiện giáo dục môi trường, dân số, an ninh quốc phòng, an toàn giao thông, phòng
chống ma tuý, tệ nạn xã hội và vận dụng được vào hoạt động giáo dục, giảng dạy.
Bên cạnh đó, giáo viên cần có sự hiểu biết về tình hình thực tế của địa phương nơi giáo
viên công tác; nắm được tình hình chung về chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, giáo dục;
những đặc điểm về truyền thống lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, ngôn ngữ, điều kiện
sống của địa phương nơi giáo viên công tác; vận dụng thiết thực, có hiệu quả bài giảng và
góp phần phát huy tác dụng của nhà trường và địa phương;
- Giáo viên biết phân tích chương trình, nội dung sách giáo khoa; biết lập kế hoạch dạy
học; biết cách soạn bài theo hướng đổi mới phù hợp với các đối tượng học sinh. Biết xác
định cấu trúc, mục tiêu, những nội dung cơ bản, chuẩn kiến thức và kĩ năng đối với môn
học trong chương trình, sách giáo khoa; trên cơ sở đó biết cách lập kế hoạch dạy học theo
năm, tháng, tuần phù hợp với điều kiện thực tế của học sinh và nhà trường, biết xây dựng
giáo án như là một kế hoạch thực hiện các hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò
một cách tích cực phù hợp với đối tượng học sinh;
- Giáo viên phải biết tổ chức hoạt động dạy học theo hướng tích cực hoá quá trình học
tập của học sinh. Vận dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động học tập của học sinh; hướng dẫn học sinh cách tự học; tạo ra môi trường dân chủ và
hợp tác trong học tập; đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh; sử dụng thiết
bị dạy học thiết thực, có hiệu quả; sử dụng ngôn ngữ, chữ viết chuẩn mực;
- Giáo viên phải biết làm công tác của giáo viên phụ trách lớp; biết tổ chức các hoạt
động giáo dục như: sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động của Đoàn
thanh niên. Biết cách xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác của giáo viên phụ
trách lớp; biết hướng dẫn học sinh tự sửa chữa những hành vi không đúng; biết giáo dục
học sinh cá biệt, phối hợp với cha mẹ học sinh và cộng đồng để giáo dục học sinh; thực hiện
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp một cách thiết thực, hiệu quả, phù hợp với đặc
điểm tâm- sinh lý của học sinh;
- Giáo viên phải biết cách giao tiếp, ứng xử với học sinh, cha mẹ học sinh, đồng
nghiệp và cộng đồng. Trang phục phù hợp môi trường giáo dục; cử chỉ, lời nói khi tiếp xúc
với mọi người ân cần, đúng mực, lịch sự, biết lắng nghe, chân thành tiếp thu và thẳng thắn
góp ý kiến giúp đỡ người khác; Giữ tác phong chuẩn mực của nhà giáo trong giao tiếp, ứng
xử ở nhà trường và cộng đồng;
- Giáo viên phải biết lập, lưu giữ, sử dụng hồ sơ giáo dục và giảng dạy. Tập hợp, sưu
tầm các tài liệu, tư liệu dưới nhiều dạng khác nhau để xây dựng các hồ sơ hỗ trợ cho bài
giảng, hồ sơ theo dõi sự tiến bộ trong quá trình rèn luyện, học tập của học sinh; biết sắp
xếp, lưu giữ và sử dụng hồ sơ vào hoạt động giáo dục, giảng dạy một cách thiết thực, hiệu
quả.
c. Đối với tập thể giáo viên
Mặc dù các giáo viên có năng lực sư phạm và uy tín cá nhân, nhưng công tác giáo dục
cũng không thể tốt được nếu mỗi một giáo viên đều hành động đơn độc và chỉ quan tâm đến
thành tích lao động cá nhân của riêng mình. Nếu một tập thể giáo viên thiếu tinh thần đoàn
kết và giúp đỡ lẫn nhau, lại hay tranh giành nhau về quyền lợi cá nhân, thì một trường học
như vậy không thể nói gì đến việc giáo dục, thậm chí việc học tập cũng tồi, rất khó nâng
cao kết quả học tập của học sinh. Trong một tập thể giáo viên tốt và trưởng thành thường
các giáo viên giúp đỡ lẫn nhau, bổ khuyết lẫn nhau, cùng hợp lực sửa chữa những thiếu sót
và khuyết điểm của nhau.
Trong một tập thể giáo viên tốt người ta không sợ phê bình khi được phê bình người ta
không tự ái, bởi vì ai cũng hiểu rằng người phê bình làm như vậy không phải là để “chơi
khăm”, làm nhục “dìm” người khác hoặc chỉ để tỏ ra mình trội hơn người khác. Người bị
phê bình cảm thấy điều đó có lợi cho mình, mọi người muốn giúp mình khắc phục những
thiếu sót mọi người tin vào khả năng làm việc tốt của mình và có thể còn làm việc tốt hơn
những người khác.
Trong một tập thể giáo viên đã trưởng thành, không còn có sự phân chia ra thành
những giáo viên “kém” và “giỏi”. Trong tập thể đó mọi người đều làm việc ở trình độ tương
đối cao và nếu có ai bắt đầu giảm sút về chất lượng lao động, thì cả tập thể quan tâm lo lắng và
sẽ giúp đỡ người đồng đội đó của mình.
Thái độ thân mật và quan tâm của cán bộ lãnh đạo nhà trường đối với các giáo viên trẻ
mới bước vào nghề có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi mà các vấn đề chưa rõ ràng được
giải quyết hay các vấn đề đều có thể xin ý kiến hiệu trưởng và nhận được sự giúp đỡ khi cần
thiết và nếu cần thì bất cứ vấn đề nào cũng có thể đa ra tập thể thảo luận. Khi các giáo viên
biết quan tâm phát huy tính tích cực và tinh thần trách nhiệm của các đoàn thể xã hội của
học sinh, thì mọi việc trong trường sẽ có nề nếp hơn, giáo viên sẽ làm việc dễ dàng hơn, học
sinh cũng được rèn luyện trở thành những người tự giác hơn, biết làm việc độc lập, biết tổ
chức lao động và có trách nhiệm với công việc của tập thể.
3.2.5. Xây dựng bộ máy, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý
Tổ chức bộ máy và công tác quản lý là khâu then chốt để xây dựng đội ngũ cán bộ,
giáo viên và tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà
trường.
Kể từ khi thành lập đến nay, tuy có những đóng góp rất lớn vào sự phát triển giáo dục
đất nước, các trường THPT ngoài công lập vẫn không được xã hội tôn trọng và thừa nhận
một cách thoả đáng.
Theo truyền thống, các trường THPT ngoài công lập phụ thuộc vào học phí vì không có
sự trợ giúp tài chính nào của chính phủ. Kết quả là, các trường này bị thiệt thòi do môi trường
giáo dục thấp kém, sa sút so với các cơ sở công lập. Nếu không hoàn thiện các trường THPT
ngoài công lập thì không thể có sự chuyển biến toàn diện trong giáo dục vì vai trò quan trọng
của các trường này.
Do đó, cải cách các trường THPT ngoài công lập và tăng cường sự hỗ trợ của chính
phủ đối với các trường THPT ngoài công lập là những nhiệm vụ không thể thoái thác và
cần thực hiện kịp thời để giải quyết những vấn đề tồn tại của các trường THPT ngoài công
lập và làm cho các trường THPT ngoài công lập thể hiện đầy đủ vai trò của mình trong nền
giáo dục chung.
ở đầu bảng của những vấn đề cần giải quyết là, việc các trường THPT ngoài công lập
phải đối mặt với những khó khăn trong hoạt động. Vì chịu sức ép dai dẳng về tài chính và
sự hạn chế có tính nhất loạt, hầu hết các trường THPT ngoài công lập không thể nào phát
huy được những đặc tính của mình hoặc nâng cao được niềm tin riêng biệt của những người
sáng lập và bị thất bại trong việc đáp ứng các nhu cầu giáo dục của khách hàng. Thêm vào
đó, những va chạm và bất hoà giữa các thành viên về quyền hạn quản lý nổi lên dai dẳng ở
nhiều trường, dẫn đến hậu quả làm giảm sút lòng tin của công chúng đối với các trường
THPT ngoài công lập.
Do vậy, cần tìm kiếm cách phát triển một tình cảm mạnh mẽ về trách nhiệm trong các
trường THPT ngoài công lập. Thay vì hạn chế một cách nghiệt ngã, Chính phủ cần khuyến
khích các trường THPT ngoài công lập tiến hành những bước đi đầu tiên để thúc đẩy sự
quản lý cởi mở, minh bạch và thu hút sự kiểm soát chặt chẽ của công chúng, dựa trên các
nguyên tắc:
Thứ nhất, thực hiện trách nhiệm và minh bạch trong điều hành của các trường THPT
ngoài công lập; đồng thời thông báo công khai ngân quỹ và quyết toán tài chính
Ngân quỹ và quyết toán của bộ máy quản lý các trường và các tổ chức phải được công
khai càng sớm càng tốt khi kết thúc mỗi năm tài chính; Quy trình mở ngân quỹ phải được
xác định bằng pháp luật.
Thứ hai, hoàn chỉnh thể chế để thúc đẩy việc tự quản trị của các trường THPT ngoài
công lập, bảo đảm sự tự quản về tổ chức của Hội đồng quản trị
Ngoài việc bảo đảm tính tự chủ bằng cách hạn chế sự can thiệp của chính quyền, tăng
cường trách nhiệm và sự minh bạch của các trường, các quy định hiện hành vẫn phải được
duy trì, trong đó cho phép mỗi tổ chức nhà trường riêng biệt xác định một cách độc lập các
điều kiện tổ chức hội đồng quản trị.
Thứ ba, khẳng định địa vị của các nhà giáo tại các trường THPT ngoài công lập
Vì sự công bằng về địa vị nhà giáo, việc bổ nhiệm giáo viên của các trường THPT
ngoài công lập cần tuân theo các quy định tương tự cho các cơ sở quốc lập và công lập, căn
cứ vào các điều khoản tham chiếu về côngviệc.
Thứ tư, nâng cao hệ thống quản trị của các trường trung học THPTNCL và tăng cư-
ờng hỗ trợ cho các trường THPT ngoài công lập quản trị những chương trình phục vụ công
chúng
Sự tự quản tối đa trong quản trị nhà trường và sự ưu tiên trong hỗ trợ của chính quyền
sẽ được dành cho trường THPT ngoài công lập nào dự kiến quản lý các chương trình phục
vụ công chúng đặc biệt dành cho những người kém may mắn, chẳng hạn chậm phát triển về
trí tuệ, bị tật nguyền về thể chất và những thanh niên sao lãng học tập, tuỳ theo mục đích
của các trường này.
Thứ năm, khuyến khích quản lý các trường THPT ngoài công lập một cách chuyên
nghiệp
Cần phải xây dựng và thi hành các chính sách và chiến lược đa dạng nhằm thúc đẩy
tính chuyên nghiệp và hợp lý trong việc quản lý các trường THPT ngoài công lập và bảo
đảm cho các trường có tính độc lập.
Để thực hiện giải pháp này, về phía nhà trường cần:
- Tổ chức bộ máy đảm bảo tinh, gọn, năng động, hiệu quả, phải quy định rõ chức
trách, mối quan hệ và có quy chế hoạt động cụ thể;
- Xây dựng các tiêu chí, quy trình quản lý, đánh giá nội bộ, công khai, dân chủ, rõ
ràng, chính xác.
Về phía cơ quan quản lý cần:
- Bộ GD&ĐT có quy chế mới, hướng dẫn xây dựng bộ máy, chức năng, quyền hạn,
nhiệm vụ, mối quan hệ của các tổ chức trong trường THPT ngoài công lập. Trên cơ sở đó,
các trường chủ động, sáng tạo, có cách làm phù hợp với từng loại hình và nhà trường;
- Khuyến khích tự quản và tăng cường trách nhiệm của các trường THPTNCL.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất các trường trung học phổ thông ngoài công lập
Cơ sở vật chất là điều kiện đặc biệt quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục, đào
tạo và khẳng định thương hiệu của các trường THPT ngoài công lập. Song đây lại đang là
vấn đề khó khăn nhất của đa số các trường hiện nay, mặc dù cũng có một số trường (khoảng
10%) đó tạo dựng được cơ sở vật chất hiện đại do có các giải pháp phù hợp.
Thực tế cho thấy, các trường THPT ngoài công lập đang đối mặt với sự kiệt quệ vì với
sự thiếu hụt tài chính hoặc vì sự quản lý kém cỏi cần phải được phép tổ chức lại thành một
tổ chức phi lợi nhuận trên cơ sở thừa nhận sự đóng góp của các trường này đối với nền giáo
dục quốc dân.
Một là, tăng cường sự hỗ trợ về chỉ đạo, điều hành và về tài chính cho các trường
THPT ngoài công lập
Sự hỗ trợ của chính phủ trung ương và chính quyền địa phương cho các trường ngoài
công lập cần được mở rộng hằng năm. Tổng số tiền hỗ trợ cho mỗi cơ sở phải được xác
định bởi mức độ nỗ lực tự vươn lên của cơ sở.
Cùng với việc trợ cấp trực tiếp, cần phải phát triển, mở rộng việc cấp học bổng và các
biện pháp có tính hỗ trợ khác cho học sinh học tại các trường THPT ngoài công lập, nhờ
vậy sẽ tăng hỗ trợ tài chính và tạo ra sự cạnh tranh để cải thiện chất lượng trong giáo dục.
Các nguồn ngân quỹ cho các trường THPT ngoài công lập có thể được tạo ra thông
qua các khoản vay dài hạn lãi suất thấp từ các ngân hàng nước ngoài hoặc công trái giáo
dục trong nước.
Hai là, hỗ trợ dựa trên đánh giá, nghĩa là, sự hỗ trợ của chính phủ cho các trường
THPT ngoài công lập cần phải gắn liền với kết quả các đánh giá khác nhau.
Giải pháp này liên quan đến các vấn đề sau đây:
- Giải pháp vấn đề đất đai, địa điểm: Có nhiều cách, song trường phải có nội lực
mạnh, đũi hỏi nhà đầu tư phải linh hoạt, phải góp vốn, phải vay…, sáng tạo chọn phương án
tối ưu.
- Giải quyết vấn đề trang thiết bị dạy học: Kết hợp từng bước đầu tư mua sắm với mở
rộng các hỡnh thức khỏc, thuờ, liờn kết đào tạo.
- Giải quyết vấn đề tài chính: Ngoài nguồn kinh phí, cần đa dạng hoá nguồn thu để
tăng thu bằng cách đa dạng hoá các nội dung, cỏc loại hỡnh giỏo dục và cỏc dịch vụ.
- Các trường xây dựng kế hoạch huy động nguồn vốn, hạch toán và kèm theo cam
kết.
- Cỏc cấp quản lý tạo hành lang phỏp lý thụng thoỏng, tổ chức hướng dẫn các trường
xây dựng và thực hiện kế hoạch; có tiêu chí đánh giá các trường hàng năm.
3.2.7. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường
Ngoài các yếu tố đội ngũ cán bộ, giáo viên và cơ sở vật chất nói trên, các trường
ngoài công lập thường gặp khó khăn trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục vỡ
cỏc lý do như: chất lượng đầu vào thấp, nội dung và phương thức hoạt động chưa phù hợp
với loại hỡnh. Tuy nhiờn, trong thực tế nhiều trường đó nõng cao được chất lượng tuyển
sinh, đổi mới thành công nội dung, phương thức hoạt động nên chất lượng được nâng cao
nhờ cách làm hợp lý. Để nâng cao chất lượng giáo dục, cần:
- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động nói chung và nội dung phương pháp
dạy học nói riêng cho thật phù hợp với loại hỡnh trường và điều kiện cụ thể của Nhà trường
cũng như yêu cầu ngày càng đa dạng của xó hội;
- Đổi mới nội dung, qui trỡnh kiểm định chất lượng các hoạt động nói chung và nội
dung, cách đánh giá chất lượng dạy học nói riêng;
- Áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động giáo dục vào dạy học;
- Xây dựng chiến lược hỡnh thành và từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo của nhà trường mà cốt lừi của nú là thành tớch cao mà nhà trường đạt được (nhiều học
sinh giỏi, khá, đỗ cao trong thi tốt nghiệp, thi vào đại học, trường có nền nếp, dạy chữ, dạy
người tốt, học sinh chăm, ngoan…) và có các nội dung, phương thức hoạt động đa dạng,
hiệu quả, đáp ứng mọi yêu cầu của người học, có cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại, có đội ngũ
giáo viên giỏi, nhiệt tỡnh chăm sóc học sinh…
Theo đó, về phía Bộ GD&ĐTvà Sở GD&ĐT cần hướng dẫn các trường xây dựng
chương trỡnh, kế hoạch thực hiện đổi mới nội dung, phương thức hoạt động; xây dựng các
bộ tiêu chí kiểm định chất lượng và qui trỡnh tự kiểm định và hướng dẫn các trường tự đánh
giá; về phía các trường ngoài công lập đánh giá những hạn chế về nội dung, phương thức
hoạt động, uy tín của trường mỡnh, trờn cơ sở đó xây dựng kế hoạch đổi mới các hoạt động
tối ưu trong từng giai đoạn.
3.2.8. Tăng cường kiểm định và đánh giá chất lượng tổ chức, hoạt động của
trường trung học phổ thông ngoài công lập
Phát triển các trường ngoài công lập nói chung và các trường THPT ngoài công lập
nói riêng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua hệ
thống các trường THPT ngoài công lập ở nước ta đã có những đóng góp cho sự phát triển
giáo dục nhưng vẫn còn nhiều yếu kém và bất cập về nhiều mặt như: Cơ chế quản lý của các
cấp quản lý giáo dục; đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; cơ sở vật chất; chất lượng học
sinh...
Những yếu kém và bất cập này dẫn đến tình trạng chậm phát triển về số lượng các
trường cũng như số lượng học sinh, chưa tạo ra được niềm tin đối với xã hội, chưa đủ sức
thu hút học sinh đăng ký vào trường và thậm chí dẫn đến việc một số trường phải giải thể...
Một trong những nguyên nhân quan trọng gây ra những yếu kém bất cập nói trên là
chưa làm tốt công tác kiểm định và đánh giá.
Kiểm định và đánh giá chất lượng là những hoạt động của đảm bảo chất lượng.
Những hoạt động này vừa góp phần tạo ra những động lực nhằm cải tiến và nâng cao chất
lượng đào tạo và chất lượng nhà trường đồng thời còn đảm bảo rằng nhà trường có trách
nhiệm đối với chất lượng đào tạo của mình.
Trong những năm qua, hoạt động kiểm định và đánh giá chất lượng đối với trường
THPT nói chung và các trường ngoài công lập nói riêng còn rất yếu kém và nhiều bất cập
gây ra nhiều khó khăn ảnh hưởng đến sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của hệ
thống các trường THPT ngoài công lập.
Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường nói chung và các
trường THPT ngoài công lập nói riêng cần phải tăng cường hoạt động kiểm định và đánh
giá chất lượng giáo dục đối với các nhà trường. Nghiên cứu các giải pháp thực hiện kiểm
định, đánh giá nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng các trường THPT ngoài công lập góp
phần vào sự phát triển nhanh chóng, lành mạnh hệ thống các trường THPT ngoài công lập
cả về số lượng và chất lượng.
3.2.9. Nâng cao năng lực thực hiện nhiệm vụ quản lý tài chính, cơ sở vật chất và
trang thiết bị
Hiệu trưởng có trách nhiệm tiếp nhận, phân bổ ngân sách và các nguồn lực để thực
hiện các kế hoạch đã xây dựng nhằm đạt được tầm nhìn, sứ mệnh và mục tiêu đã xác định.
Vì trọng điểm của tầm nhìn, sứ mệnh, mục tiêu và toàn bộ hoạt động của nhà trường là việc
học tập của học sinh nên mối quan hệ giữa việc phân bổ các nguồn lực tài chính chủ yếu
nhằm vào các hoạt động để nâng cao kết quả học tập của học sinh.
Trong nhà trường định hướng theo kết quả, Hiệu trưởng phải thu hút các bên quan tâm
tham gia vào các quy trình và quyết định tài chính. Hiệu trưởng phải biết về các qui định,
yêu cầu của các nhà tài trợ khác nhau cũng như các quy trình, qui định về quản lý ngân sách
và các nguồn vốn ngoài ngân sách của trung ương và địa phương. Hiệu trưởng phải thiết lập
các thủ tục tiếp nhận và giải ngân đúng đắn và tuân thủ chế độ sổ sách kế toán. Hiệu trưởng
phải nắm được các quy trình kiểm toán và đảm bảo rằng các hồ sơ chứng từ kế toán cho các
nguồn vốn của nhà trường được kiểm toán thường xuyên.
Năng lực quản lý tài chính của người đứng đầu nhà trường còn thể hiện ở khả năng dự báo
nhu cầu về thiết bị cần thiết cho dạy và học, về vốn cần thiết cho trang thiết bị trong tương lai.
Sau đó xây dựng và thực hiện kế hoạch thu hút, tìm kiếm nguồn lực từ hệ thống trường học và
các bên quan tâm. Để xây dựng được dự báo này, Hiệu trưởng phải hiểu được các quy trình dự
kiến tuyển sinh và yêu cầu về trang thiết bị dựa trên số lượng tuyển sinh, không gian làm việc
cần thiết cho các chương trình đặc biệt và/hoặc đổi mới, nâng cấp theo định kỳ.
Dự báo nhu cầu thiết bị đòi hỏi phải thu thập dữ liệu về những đổi mới và tập quán
hiện tại và tương lai ở nơi làm việc cũng như các dữ liệu về số lượng.
Kết luận
Trường THPT ngoài công lập là loại hình không thể thiếu trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Loại hình trường này đã hình thành, phát triển và có những đóng góp đáng kể vào
sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định và phát triển đất nước. Theo xu thế và định
hướng của Nhà nước, thời gian tới cần phát triển loại hình trường THPT ngoài công lập cả
về số lượng và chất lượng đáp ứng yêu cầu của xã hội.
Để củng cố và phát triển hệ thống các trường THPT ngoài công lập cần thực hiện
đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp đã được xác định ở chương 3. Tuy vậy, về mặt chỉ
đạo, quản lý từ cấp phòng GD&ĐT, Sở GD&ĐT đến Bộ GD&ĐT cần quan tâm hơn ba giải
pháp quy hoạch, đổi mới cơ chế, chính sách, đẩy mạnh xã hội hóa; ở các nhà trường cần
quan tâm nhiều đến giải pháp xây dựng bộ máy, đội ngũ; tăng cường cơ sở vật chất; đổi mới
nội dung phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục nhằm góp phần
nâng cao uy tín của giáo dục Việt Nam trên trường quốc tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đỗ Thị Bỡnh (2005), "Khái quát về giáo dục ngoài công lập trên thế giới", Tạp chí Thông
tin giáo dục, (114).
2. Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (1997), Giáo trình luật
hành chính, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Nguyễn Văn Đản (1998), "Một số vấn đề cấp bách trong công tác tổ chức quản lí các trường
phổ thông dân lập", Thông tin khoa học giáo dục, (67).
4. TS. Nguyễn Văn Đản (Chủ nhiệm) (2001), Những cơ sở lí luận và thực tiễn để xây dựng
qui chế trường phổ thông ngoài công lập, Đề tài cấp Bộ, mó số B 97- 49- 40.
5. PGS, TS Trần Đường (Chủ biên) (1998), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 BCHTW Khoá VII, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Tiến Đoàn (Chủ nhiệm) (2006), Thực trạng và giải pháp củng cố, phát triển các
trường ngoài công lập ngành học mầm non, phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp
trên địa bàn Hà Nội đến năm 2010- Đề tài khoa học cấp thành phố.
9. Lê Ngọc Hùng - Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2000), “Xã hội học quản lý - Khoa học quản lý,
bước đầu tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Khoa học Xã hội,
Đại học quốc gia Hà Nội, (1).
10. Học viện Hành chính Quốc gia, Viện nghiên cứu hành chính (2000), Một Số thuật ngữ
hành chính, Chủ biên: PGS, TS Bùi Thế Vĩnh, Nxb Thế giới, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Hiền (1999), "Trường tư và trường ngoài công lập ở các nước phát triển
phương Tây", Tạp chí Thông tin giáo dục, (64).
12. Đặng Thành Hưng (1998), "Tỡnh hỡnh và đặc điểm trường phi quốc lập trên thế giới",
Tạp chí Thông tin giáo dục, (67, 68).
13. Phan Văn Khải (2000) “Nâng cao hiệu quả cải cách hành chính, chỉnh đốn kỷ cương
trong bộ máy nhà nước” , Tạp chí Quản lý nhà nước, (12).
14. V.I. Lênin (1974), Nhà nước và cách mạng, Nxb Sự thật, Mátcơva.
15. V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátcơva.
16. Nguyễn Thị Mai (2000), Các giải pháp cải tiến cơ chế quản lí trường trung học phổ
thông dân lập thành phố Hải Phũng, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành "Quản lí và
tổ chức công tác văn háo giáo dục", Mó số: 5.07.03.
17. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (2000), Bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
22. C. Mác và Ph.ăngghen (1983), Tuyển tập, Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội.
23. C. Mác và Ph.ăngghen (1983), Toàn tập, Tập 25, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. C. Mác và Ph. ăngghen (1983), Toàn tập, Tập 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Phạm Quang Sáng (2005), "Giáo dục phổ thông ngoài công lập thành tựu và tồn tại",
Tạp chí Thông tin giáo dục, (114).
27. TS. Phạm Hồng Thái - Đinh Văn Mậu (1996), Giáo trình Luật hành chính Hà Nội, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với trường trung học phổ thông ngoài công lập.pdf