Để quản lý chặt chẽ quỹ đất đai và ngăn chặn các vi phạm sử dụng đất có hiệu
quả, chính phủ nên nghiên cứu các phương án định giá các loại đất và thành lập tổ
chức định giá thống nhất để xác định giá trị tài sản đất mà nhà nước giao cho các
chủ sử dụng đất. Các vấn đề tài chính liên quan đến đất đề nghị nhà nước phải
nghiên cứu ban hành luật thuế về đất đai trong đó bao gồm tất cả các quy định về
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất với nhà nước thay thế cho luật thuế sử
dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà đất, luật thuế chuyển quyền sử dụng
đất
101 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5499 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n lý.
- Kết hợp 2 loại trên : với loại đất này thì chủ sử dụng là ai. Công việc này
thường được các cơ quan quản lý làm theo chương trình.
Đối với ngành địa chính, sau mỗi lần đo đạc bản đồ lại phải tiến hành công tác
thống kê. Hàng năm phải tiến hành công tác thống kê để nắm được sự biến động
của các loại đất, diện tích đất nông nghiệp chuyển sang các loại đất khác là bao
nhiêu… để cuối năm tổng hợp diện tích đất còn lại của từng quỹ đất. Công việc này
được giao cho UBND xã làm và các UBND huyện tập hợp lại đến cuối năm trình
cho cấp trên là Sở địa chính nhà đất và UBND thành phố xem xét.
6. Công tác thanh tra kiểm tra xử lý vi phạm, giải quyết các khiếu nại tranh
chấp về đất đai.
Công tác thanh tra kiểm tra việc chấp hành các văn bản pháp luật về sử dụng
của các đối tượng sử dụng giúp cho việc sử dụng đất theo đúng pháp luật và có
hiệu quả, tăng cường pháp chế góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về đất
đai, đảm bảo sự quản lý thống nhất của nhà nước và lợi ích hợp pháp của các đối
tượng sử dụng đất. Có thể nói, các tổ chức kinh tế, các hộ gia đình, cá nhân đều có
mối quan hệ với nhau thông qua việc sử dụng đất, các mối quan hệ này rất phức tạp
đa dạng, đan xen, chồng chéo và tương tác lẫn nhau nhất là trong thời buổi kinh tế
thị trường ai cũng chạy theo lợi nhuận và chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của chính
mình. Bởi vậy cần phải tăng cường công tác thanh tra kiểm tra việc chấp hành luật
đất đai của các đối tượng sử dụng mặt khác hạn chế được sự buông lỏng trong quản
lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền cũng như tạo ra được sự ổn định và công
bằng trong việc sử dụng đất.
Từ năm 1999, ngành Thanh tra đất đai đã tiến hành thanh tra theo chương
trình, thanh tra theo chuyên đề tới hơn 20 địa điểm trong toàn thành phố. Điển hình
77
là xử lý vi phạm lấn chiếm đất đai xây dựng không phép đường Láng- Hoà Lạc và
vành đai 3, thanh tra 32 đơn vị sử dụng đất có vi phạm tại quận Tây Hồ, phát hiện
68 doanh nghiệp chưa kí hợp đồng sử dụng đất theo qui định của pháp luật. Đến
năm 2002, Sở địa chính nhà đất đã tiến hành tiếp dân 3243 lượt. Toàn ngành đã
kiểm tra giải quyết 87 vụ khiếu nại tố cáo, trong đó có một số vụ điển hình như
thanh tra kiểm tra việc sử dụng đất của công ty TNHH Ngọc Linh - Đội Cấn, thanh
tra việc quản lý sử dụng đất của bà Đinh Phi Nga và bà Nguyễn Thị Bạch Ngân nhà
34B Cao Bá Quát. Thanh tra kiểm tra việc lấn chiếm đất đai của công ty Rượu -
nước giải khát Thăng Long quản lý tại 45 Lạc Long Quân - Tây Hồ. Kiểm tra việc
xây dựng trụ sở các cơ quan phường Bách Khoa. Ngành thanh tra đã tham gia phối
hợp cùng liên ngành giải quyết các điểm nóng, vụ việc khiếu kiện đông người phức
tạp như : giải quyết khiếu nại của bà Đắc Thị Đức- 55 Kim Mã- Ba Đình, giải
quyết tranh chấp ranh giới đất giữa chùa Pháp Vân với công ty 56 thuộc tổng công
ty Thành An -Bộ Quốc Phòng tại xã Hoàmg Liệt Thanh Trì. Giải quyết đơn thư
khiếu nại tố cáo của công dân xã Việt Hùng - Đông Anh tố cáo cán bộ xã giao đất
trái thẩm quyền
Ngày 12/4/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 273/TTg
về việc kiểm tra quản lý sử dụng đất trên địa bàn. Kết quả kiểm tra theo QĐ273
này như sau:
- Trên địa bàn thành phố có 182 trường hợp được giao đất sau 12 tháng
liên tục không sử dụng với diện tích là 2644252m2 đất.
Các cấp chính quyền đã xử lý tình trạng trên được 61 trường hợp với diện
tích là 474382m2 đất trong đó:
+ Cấp phường xã, thị trấn xử lý 47 trường hợp vi phạm có diện tích là
335463m2 đất với hình thức xử lý : Phạt hành chính 43 trường hợp với diện tích là
316017m2, lập hồ sơ kiến nghị thu hồi 4 trường hợp có diện tích là 19446m2.
+ Cấp quận huyện xử lý 13 trường hợp với diện tích là 82478m2 đất với hình
thức xử lý là lập hồ sơ kiến nghị UBND thành phố thu hồi đất.
+ Cấp thành phố xử lý được 24 trường hợp với hình thức quyết định thu hồi đất.
- Các trường hợp sử dụng đất không đúng mục đích được giao :
Có 1585 trường hợp sử dụng không đúng mục đích được giao với tổng diện
tích là 15462,38m2 đất, trong đó chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục
78
đích khác trái pháp luật là 802 trường hợp với diện tích chuyển đổi là 192,878m2
đất. Tình trạng trên đã được xử lý như ssau:
+ Cấp phường xã xử lý 842 ttrường hợp diện tích là 175874m2 với hình thức lập
biên bản cảnh cáo, cưỡng chế dỡ bỏ công trình xây dựng trả lại hiện trạng là 539
trường hợp, lập biên bản kiến nghị thu hồi 303 trường hợp.
+ Cấp quận huyện xử lý 81 trường hợp với diện tích là 9421 m2 đất với hình thức
xử lý là lập biên bản cảnh cáo cưỡng chế dỡ bỏ 44 ttrường hợp, kiến nghị UBND
thành phố thu hồi 37 trường hợp.
+ Cấp thành phố xử lý 2 trường hợp diện tích là 5561m2 đất.
- Các trường hợp lấn chiếm:
Tổng số trường hợp lấn chiếm là 2220 với diện tích là 233264m2 đất, đã xử lý
1203 trường hợp diện tích là 91064m2.
+ Cấp phường xã thị trấn xử lý 1167 trường hợp với diện tích là 84937 m2, thu
hồi 181 trường hợp có diện tích là 20714,9m2, lập niên bản kiểm tra xử lý dỡ bỏ
công trình xây dựng trả lại hiện trạng là 986 trường hợp diện tích là 64223m2.
+ Cấp huyện xử lý 34 trường hợp có diện tích là 6127m2, hình thức xử lý là thu hồi
đất.
- Các trường hợp chuyển nhượng trái pháp luật.
Có 358 ttrường hợp chuyển nhượng trái pháp luật có diện tích là 80682m2 trong
đó chuyển nhượng đất nông nghiệp là 294 trường hợp diện tích là 57573m2 đất. Đã
xử lý 36 trường hợp diện tích là 9380 m2 với hình thức xử lý là 3 trường hợp thu
tiền sử dụng đất, thuế, lệ phí và đã được UBND thành phố quyết định hợp thức hoá
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 33 trường hợp báo cáo cấp có thẩm quyền
thu hồi.
Ngày 22/4/2001, UBND thành phố đã ban hành chỉ thị 15 về tăng cường quản
lý đất đai, kiên quyết xử lý thu hồi đất đối với các trường hợp vi phạm luật đất đai
trên địa bàn. Để thực hiện chỉ thị này, thành phố đã ban hành Kế hoạch số
19/KH_UB ngày 8/5/2001 tổ chức giao nhiệm vụ triển khai thực hiện với quan
điểm chỉ đạo kiên quyết tập trung thống nhất đồng bộ từ phường xã đến các quận
huyện và các ngành của thành phố. UBND thành phố đã quyết định thu hồi đất của
34 đơn vị để đất hoang hoá sử dụng sai mục đích với diện tích là 26,6ha. UBND
các quận huyện đang triển khai công tác bồi thường cho người bị thu hồi đất và lập
79
phương án sử dụng đất thu hồi phù hợp với quy hoạch. Đến nay, việc sử dụng đất
thu hồi có hiệu quả là 22 dự án với diện tích là 18,9ha đất chiếm 71,05% diện tích
đất có quyết định thu hồi.
80
BIỂU SỐ 14 :KẾT QUẢ THU HỒI ĐẤT CỦA 34 ĐƠN VỊ VI PHẠM LUẬT ĐẤT ĐAI TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ NĂM 2001
TT
Đơn vị sử dụng đất Quận
huyện
S
giao
(m2)
S thu
hồi
(m2)
%so
với S
giao
1. CT XNK Rau quả 1 Hai Bà 50000 3874 7.75
2 XN VT vân tải chăn nuôi Hai Bà 2291 2291 100
3. Cty VT&DVCC Tây Hồ 4283 4283 100
4. XN SX DC thể dục thể thao Thanh
Xuân
16.00
0
8349 52.18
5. Cty ĐA băng hình Hà Nội Gia Lâm 1714 1714 100
6. Cty NL thuốc lá bắc Sóc Sơn 4084 4084 100
7. Cty hoá chất Đông
Anh
22.76
5
18.491 81.22
8. Cty VL&XD Đại La Thanh Trì 49.47
1
49.471 100
9. Cty CPĐT XD& SXVLXD
nông thôn
Từ Liêm 33.86
0
33.860 100
10. Cty dệt kim Thăng long Hoàn
Kiếm
5524 5524 100
11 Cty dệt Minh Khai Hai Bà 8.000 3.000 37.5
12. Nhà máy CKTrần Hưng Đạo Hai Bà 3649.
3
3649.3 100
13. Cty CP Cơ khí XD Gia Lâm 11087
.8
11087.
8
100
14. Cty Thương mại Hà Nội Thanh Trì 1.000 1.000 100
15. XN Dược TƯ II Hai Bà 2356.
4
2356.4 100
16 Cty kiến thiết và lập dự án ĐT Ba Đình 6580 1564.8 23.78
17 Cty hoá chất Cầu Giấy 3836.
7
3836.7 100
81
18 Cty lương thực Sóc sơn 4000 2970 74.25
19 Cty dịch vụ Thương mại số1 Gia Lâm 13213
,6
13213,
6
100
20 Cty Thể thao Việt nam Từ liêm 826 826 100
21 XN Chế biến thuỷ sản Phú Yên Gia Lâm 26825
,5
19769,
5
73.69
22 Viện cơ đIện NN &Cty
TVXD&PTNT
Đống Đa 1606,
4
1606,4 100
23 Cty CP may Lê TRực Ba Đình 76 76 100
24 Viện Dược liệu Thanh Trì 6540 6540 100
25 Xn tạp phẩm Hà Nội Từ Liêm 6170,
5
6170,5 100
26 Cty VLXD&XNK Hồng Hà Ba Đình 26000 17782,
8
68.39
27 Cty Cao su Phú Riềng Hoàn
Kiếm
609 609 100
28 Cty lương thực Đông Anh Đông
Anh
4346 4346 100
29 Cty lương thực Đông Anh Đông
Anh
4888 4888 100
30 XN may Thuỷ sản Gia Lâm 10788 10788 100
31 Cty XNK Rau quả Đông
Anh
3200 3200 100
32 Cty khai thác VLXD Hà Nội Gia Lâm 1375 1375 100
33 Cty lương thực Hà Nội Ba Đình 3547 3547 100
34 Cty Dâu tằm Gia Lâm 10118 10118 100
Tổng 35063
1
266161
,4
75.91
82
Việc ban hành chỉ thị 15 của UBND thành phố đã được các cấp các ngành thực
hiện khách quan quyết liệt, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ để nâng cao hiệu quả
sử dụng đất trên địa bàn thành phố. Thực hiện chỉ thị này, các cấp, các ngành đã
phân loại các dạng vi phạm cho thấy có 1925 tổ chức vi phạm theo chỉ thị 15 với
diện tích là 4855643m2, 1774 hộ gia đình cá nhân với diện tích là 218.810m2( chi
tiết xem bảng phụ lục). Xử lý các vi phạm này được thực hiện theo chỉ thị 16 ngày
8/4/2002 về việc thực hiện kháng nghị số 01/ VKSTC-KNVTTPL ngày
14/1/2002của Viện Kiểm sát tối cao về khắc phục xử lý vi phạm pháp luật đất đai
trên địa bàn. Đây là việc khó khăn và phức tạp vì phải giải quyết những tồn tại của
công tác quản lý sử dụng đất đai, tài chính có liên quan do lịch sự để lại. UBND
thành phố đã thành lập 4 tổ công tác liên ngành thành phố để thực hiện 4 nội dung
kháng nghị. Tổ liên ngành thành phố khắc phục xử lý vi phạm liên quan đến tổ
chức sử dụng đất, tổ đã có thông báo kế hoạch thực hiện và phương án xử lý đến
1925 tổ chức vi phạm trong đó có:
+ 188 tổ chức kê khai theo chỉ thị 245/TTG có giấy tờ hợp pháp phải liên hệ với
Sở địa chính nhà đất để lập hồ sơ kí hợp đồng thuê đất và nộp tiền thuê đất theo
quy định.
+1737 tổ chức đã kê khai sử dụng đất theo chỉ thị 245 chưa có giấy tờ hợp pháp
phải lập hồ sơ theo quy định để làm thủ tục hợp thức quyền sử dụng đất. Như vậy
các tổ chức kinh tế đã được thông báo cụ thể để khắc phục các vi phạm sử dụng
đất, đảm bảo ý thức pháp luật đất đai để tiếp tục sản xuất kinh doanh, làm cho họ
nhận rõ được trách nhiệm của mình. Bởi vậy đến tháng 11/2002, đã có 800/1737
đơn vị liên hệ với Sở địa chính nhà đất để được làm thủ tục hợp thức hoá quyền sử
dụng đất đạt 46%, 60/188 tổ chức có giấy tờ sử dụng đất hợp pháp đã ký hợp
đồng thuê đất đạt tỉ lệ 32%. Các con số tỉ lệ này vẫn còn thấp nhưng nó cho thấy
những vi phạm sử dụng đất đã bước đầu được khắc phục. mặt khác cũng có nhiều
đơn vị chủ động tự giác hoàn thiện hồ sơ, thực hiện nghĩa vụ tài chính đói với nhà
nước. Ngoài ra tổ liên ngành cũng đã rà soát các đối tượng theo từng dạng và mức
độ vi phạm để có biện pháp xử lý phù hợp tạo được lòng tin trong quần chúng nhân
dân. Thực hiện theo chỉ thị 16 tổ liên ngành thành phố đã truy thu nghĩa vụ tài
chính đối với tổ chức, cá nhân sử dụng đất chưa thực hiện, thông báo đến 77 tổ
chức còn nợ đọng nghĩa vụ tài chính và 188 đơn vị nợ tiền thuê đất, đã truy thu
83
được 14.432.408.000 đồng và xử lý nợ được 19.161.414.000 đồng. Tổ công tác do
lãnh đạoUBND quận huyện nơi có vi phạm đã kiểm tra tại huyện Từ Liêm có 4 xã
giao trái thẩm quyền cho 110 cá nhân với diện tích 11.829m2 và 1 đơn vị với diện
tích 4.118 m2, tại huyện Đông Anh có 15 xã giao trái thẩm quyền cho 154 hộ với
diện tích 26.688m2, tại huyện Thanh Trì, cấp xã giao trái thẩm quyền cho 102 cá
nhân với diện tích 31.136m2 đất và 8 đơn vị với diện tích 50.050m2 đất, quận Cầu
Giấy đã phát hiện Hợp tác xã nông nghiệp Yên Hoà giao trái thẩm quyền cho 1
đơn vị với diện tích là 3.960m2 đất.
Nhằm tăng cường công tác quản lý đất đai, ngăn chặn, xử lý việc mua bán,
chuyển đổi, chuyển nhượng mục đích sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp trái
phép, ngày 9/4/2002, UBND thành phố đã ban hành chỉ thị 17. Thực hiện chỉ thị
này, Sở địa chính nhà đất đã phát hiện 126 trường hợp mua bán trái phép đất nông
nghiệp tại các huyện Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Cầu Giấy, Hai Bà Trưng, 1761
trường hợp tự chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp với diện tích là
333.757m2. Sau khi ban hành chỉ thị 17, về cơ bản đã ngăn chặn được tình trạng
mua bán, chuyển nhượng và chuyển mục đích đất nông nghiệp trái pháp luật, nhất
là tại các khu vực quy hoạch phát triển đô thị.
Để có thể đạt được kết quả trên là nhờ có sự chỉ đạo tập trung thống nhất của
thành phố từ Trung ương tới địa phương, quan điểm của thành uỷ, Hội đồng nhân
dân và UBND thành phố là kiên quyết xử lý thu hồi đất đối với các trường hợp vi
phạm pháp luật đất đai, bởi vậy đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp trong công tác
quản lý nhà nước về đất đai. Sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành thành phố, cấp
uỷ địa phương đã thật sự công tâm, làm cho quần chúng nhân dân đồng tình và ủng
hộ từ đó góp phần sử dụng đất ngày càng hiệu quả hơn.
IV. Đánh giá chung
1. Những kết quả cụ thể đạt được :
Trong những năm qua, ngành ĐCNĐ Hà Nội đã thực hiện có kết quả nhiều
nhiệm vụ được giao, giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ cấp bách, đáp ứng được
các yêu cầu thực tế đặt ra đối với công tác quản lý đất đai, góp phần phát triển kinh
tế xã hội của thành phố, thực hiện thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng và
nhà nước về lĩnh vực đất đai. Với sự lãnh đạo của Đảng bộ, UBND thành phố, sự
84
phấn đấu quyết tâmcủa cán bộ, công nhân viên Sở địa chính nhà đất vì sự lập lại
trật tự quản lý đất đai ở Hà Nội đã đặt được những kết quả to lớn:
- Đã ban hành nhiều văn bản pháp quy dưới hình thức chỉ thị, kế hoạch,
quyết định, quy định… trong công tác quản lý đất đai, đã giải quyết tháo gỡ
vướng mắc về cơ chế, chính sách, cải cách một bước về thủ tục hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
- Nhiều đợt thanh tra, kiểm tra vi phạm pháp luật đất đai và chỉ đạo xử lý vi
phạm đã được tổ chức thành công.
- Công tác lập quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010, kế hoạch sử dụng đất 5
năm (2001-2005) của thành phố đã dược thủ tướng chính phủ phê duyệt tại
quyết định số1115/QĐ-TTg ngày 25/11/2002, đã tổ chức thực hiện công tác
thống kê đất đai hàng năm, kiểm kê đất đai 5 năm 1995- 2000 báo cáo thủ
tướng.
- Công tác giao đất cho thuê đất, thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đã được
triển khai theo đúng pháp luật, đáp ứng được yêu cầu thực hiện các dự án
phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn thành phố.
- Hoàn thành cơ bản công tác giao đất nông nghiệp và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất nông nghiệp cho các hộ gia đình cá nhân theo Nghị định
64CP và chỉ đạo hướng dẫn chuyển đổi ruộng để tạo điều kiện công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông thôn.
- Hoàn thành cơ bản công tác đo đạc bản đồ địa chính trên toàn địa bàn thành
phố và bàn giao cho các quận huyện, phường xẫ, thị trấn để kịp thời phục
vụ cho công tác quản lý đất, đồng thời triển khai lập hồ sơ Địa chính ở cả 3
cấp theo quy định làm nền tảng đưa công tác quản lý đất đai có hiệu quả
trên cơ sở khoa học.
- Đã chỉ đạo lập và bàn giao đất công, đất chưa sử dụng cho 102 phường và
8 thị trấn để quản lý với tổng diện tích đất công và đất chưa giao sử dụng
là 1911ha. Đây là hồ sơ quan trọng để quản lý chặt chẽ có hiệu quả qũy đất
trên địa bàn các phường xã.
2. Những tồn tại:
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác quản lý đất đai còn nhiều tồn tại cần
phải khắc phục:
85
- Trong công tác quản lý đất đai, tuy số lượng văn bản ban hành nhiều nhưng
chất luợng xây dựng văn bản còn hạn chế về nội dung và chưa kịp thời.
Nhiều hiện tượng vi phạm pháp luật đất đai vẫn xảy ra, công tác thu hồi đất
còn gặp nhiều khó khăn, kết quả thực hiẹn không cao do sự cản trở từ nhiều
cấp.
- Vai trò quản lý của các cấp chính quyền phường xã, thị ttrấn theo quy định
phân cấp chưa rõ ràng. Không ít trường hợp cơ quan quản lý đất đai không
thể xử lý dứt điểm các vấn đề phát sinh trong quan hệ sử dụng đất của các
thành phần kinh tế. Có lúc vai trò quản lý bị coi nhẹ, hạn chế về quyền lực.
- Công tác cho thuê đất cho các tổ chức kinh tế còn gặp nhiều khó khăn phức
tạp làm cản trở thực hiện các dự án đầu tư. Thủ tục thuê đất phải qua nhiều
cấp nhiều cơ quan, thời gian xét duyệt lâu dài làm nản lòng các nhà đầu tư.
Cơ chế cho thuê lại đất trong khu công nghiệp còn bất hợp lý, không bình
đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nông nghiệp
nước ngoài đầu tư tại Việt Nam.
- Việc lập phương án bồi thường cho các chủ sử dụng đát thực hiện theo
quyết định thu hồi đất theo chỉ thị 15 và phương án sử dụng đất có hiệu quả
nhìn chung còn chậm, có nhiều bất cập, một số tổ chức sử dụng đất không
có hệu quả khi lập hồ sơ thu hồi đất còn có ý thức không chấp hành, thậm
chí có đơn vị còn chống đối làm cho hiệu lực thu hồi đất có nhiều hạn chế.
- Công tác thanh tra sử dụng đất đai ở các quận huyện chưa thường xuyên
thiếu kiên quyết trong quá trình xử lý làm kéo dài thời gian thanh tra, gây
tác động xấu đối với công tác quản lý đất đai trên địa bàn. Các đoàn kiểm
tra mới chỉ dừng lại ở khâu kết luận thanh tra và kiến nghị xử lý mà chưa có
kế hoạch và quan tâm thực hiện giám sát kết quả xử lý.
- Vấn đề nổi cộm đó là việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá
chậm thủ tục phiền hà. Giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
nông nghiệp là một chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhưng ở nông thôn,
vẫn có xã chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm những
người nông dân ở xã đó không yên đầu tư sản xuất nông nghiệp.
- Việc lấn chiếm đất đai tuỳ tiện để xây dựng nhà ở của nhân dân vẫn xảy ra
trong khi đó sự quản lý của các cấp chính quyền còn thiéu chăt chẽ bởi vậy
86
đã dẫn đến nhiều vụ khiếu kiện tranh chấp, tố cáo những vi phạm trong quá
trình quản lý sử dụng đất.
- Trình độ chuyên môn, năng lực của đội ngũ cán bộ còn yếu kém, chưa được
trải qua đào tạo chu đáo bài bản về công tác quản lý, có những đơn vị cán
bộ là những người đươc đào tạo trái ngành nghề nhưng vẫn làm công tác
quản lý bởi vậy trình độ chuyên môn của họ không có hoặc họ chỉ biết sơ
qua về quản lý đất đai là như thế nào cho nên hiệu qủa quản lý không cao,
nhất là ở những nơi phường xã, thị trấn.
- ở một số địa phương còn chưa có sự chỉ đạo đồng bộ thiếu kiên quyết còn
có tư tưởng né tránh trong xử lý vi phạm quản lý sử dụng đất, tao tiền lệ
xấu, gây sức cản trong khi triển khai đồng bộ xử lý thu hồi đất. Hồ sơ quản
lý đất đai đối với các trường hợp vi phạm tại một số quận huyện chưa chặt
chẽ, chưa theo dõi cập nhật được những biến động, gây khó khăn kéo dài
khi xử lý vi phạm.
3. Nguyên nhân của những tồn tại đó là:
- Việc chấp hành pháp luật và thực hiện nghĩa vu tài chính của các tổ chức sử
dụng đất còn chưa tự giác, chưa ý thức được trách nhiệm ccủa họ trong
việc sử dụng đất. Đồng thời kiến thức pháp luật của các đối tượng sử dụng
còn thấp.
- Công tác ban hành văn bản pháp luật đất đai còn chưa đồng bộ, chưa kịp
thời và thiếu ổn định, việc tuyên truyền phổ biến pháp luật đất đai chưa sâu
rộng đó cũng là nguyên nhân của những tồn tại trên và nhiều hiện tượng vi
phạm pháp luật vẫn xảy ra.
- Sự quan tâm chỉ đạo của các cáp quận uỷ địa phương còn chưa thường
xuyên và sâu sát, công tác quản lý và hiệu lực của chính quyền các cấp một
số nơi chưa chặt chẽ, chưa theo kịp với yêu cầu trong quản lý cũng là
nguyen nhân không nhỏ gây khó khăn khi tién hành thanh tra, kiểm tra xử
lý v phạm.
- Tổ chức quản lý Nhà nước về đất đai có nhiều khâu, nhiều việc còn chồng
chéo giữa cơ quan chức năng, gây ách tắc trong quá trình chỉ đạo thực hiện.
- Việc quy hoạch xây dựng mở rộng đô thị ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ và
kết quả giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo
87
nghị định 64 CP. Bên cạnh đó phương pháp giao đất không thống nhất của
các cơ quan từ trung ương đến địa phương cũng là nguyên nhân làm cho
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chậm, làm cho công tác quản lý đất
chưa thực sự hiệu quả.
- Quản lý các cấp các ngành còn chưa đồng bộ từ trung ương đến xã phường,
làm hạn chế việc chỉ đạo thực hiện những vấn đề mang tính chất chính trị và
cấp bách của thành phố.
- Một số ngành có liên quan của thành phố chưa tích cực tham gia, tham gia
không thường xuyên trong công tác đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các quy
định quận, huyện thực hiện các quyết định của thành phố
Những kết quả đạt được của công tác quản lý đất đai tạo tiền đề quan trọng để
thực hiện các nhiệm vụ đặt ra cho những năm tiếp theo, đồng thời cũng khuyến
khích động viên cán bộ địa chính phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Việc tìm ra những nguyên nhân của những hạn chế nhằm khắc phục, giải quyết
triệt để những hạn chế đó góp phần đưa công tác quản lý đất đai trên địa bàn thành
phố vào nề nếp theo quy định của pháp luật.
88
89
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
I. Quan điểm của việc quản lý
Thực tiễn của hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới cho thấy quan điểm
đúng đắn của Đảng về giải phóng mọi tiềm năng của lực lượng sản xuất đã tạo ra
những động lực to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Đường lối kinh tế, các giải
pháp đúng đắn đã nâng cao năng lực sản xuất, phát huy cao độ tiềm lực của nhân
dân, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế, mọi người dân ra sức làm ăn để làm
giàu cho mình và cho đất nước. Những năm qua, đường lối, cơ chế chính sách pháp
luật của Đảng và nhà nước ta về vấn đề đất đai là đúng đắn sáng tạo. Việc giao đất
ổn định lâu dài cho hộ gia đình cá nhân đã giải quyết được vấn đề lương thực và
dành một phần cho xuất khẩu. Các nguồn thu từ đất như giao đất có thu tiền, cho
thuê đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất… đã tạo ra một nguồn thu ổn định cho
ngân sách nhà nước. Mặt khác, quan hệ đất đai luôn luôn biến đổi và để cho đất đai
trở thành một hàng hoá đặc biệt hình thành nên thị trường bất động sản đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì đòi hỏi phải có những quan điểm
quản lý đúng đắn phù hợp với sự thay đổi về cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước ta
hiện nay.
1. Quan điểm kết hợp giữa quyền sở hữu với quyền sử dụng và đảm bảo sự quản lý tập
trung thống nhất của nhà nước
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý, quan điểm này
đã được khẳng định trong các văn kiện đại hội Đảng và được ghi nhận trong hiến
pháp 1992. Đây là quan điểm cực kì quan trọng và đúng đắn của Đảng ta bởi vì đất
đai của nước ta ngày nay là kết quả của quá trình chế ngự thiên nhiên và chống giặc
ngoại xâm của dân tộc với hàng nghìn năm dựng và giữ nước, trải qua nhiều thế hệ
nhân dân ta đã đổ nhiều sức lực và xương máu để giữ gìn từng tấc đất. Chính vì vậy
đất đai phải thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước là người thay mặt nhân dân đứng lên
quản lý toàn bộ đất đai, nhà nước là chủ sở hữu đối với đất đai, có quyền chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt số phận pháp lý của đất đai. Sự kết hợp giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng chính là sự gắn bó thống nhất giữâ hai quyền này. Từ đó
trách nhiệm của chủ sở hữu cũng như hiệu quả sử dụng đất của các đối tượng sử
90
dụng được nâng cao. Sự kết hợp giữa hai quyền này đảm bảo cho quyền sở hữu
vẫn không hề thay đổi còn quyền sử dụng được thực hiện bằng hình thức nhà nước
giao đất cho các hộ gia đình cũng như tổ chức kinh tế sử dụng lâu đài ổn định,
ngoài ra nhà nước còn cho thuê đất, có quyền thu hồi đất khi cần thiết. Việc sử
dụng đất của các đối tượng được nhà nước bảo đảm bằng pháp luật và từ đó mở
rộng các quyền của người sử dụng đất như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thừa kế, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Từ đó cho thấy nhà nước quan tâm đến
lợi ích của những người sử dụng đất và nhà nước công nhận quyền và nghĩa vụ của
họ nhất là các hộ gia đình, cá nhân đã tạo ra động lực thúc đẩy quá trình sử dụng
đất đai hợp lý hơn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển.
Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quan trọng và quý giá của mỗi dân tộc.
Không có một tổ chức hay một tập đoàn nào có thể đứng ra quản lý đất đai. Chỉ có
nhà nước, người đại diện hợp pháp của mọi tầng nhân dân mới có quyền tối cao để
quản lý đất đai. Và cũng chỉ có nhà nước mới có khả năng biến mọi đường lối chủ
trương của Đảng thành kế hoạch để có thể quản lý đất đai. Nhà nước phải nắm giữ
quyền thống nhất quản lý những vấn đề cơ bản trong tay mà đại diện là các cơ quan
như chính phủ, các bộ, đồng thời nhà nước giao quyền cho các địa phương, các
ngành tức là thực hiện phân cấp quản lý, nhà nước giao quyền được sáng tạo và
linh hoạt trong tổ chức quản lý điều hành để thực hiện luật và các văn bản pháp quy
của trung ương cho các cấp, các ngành. Quyền quản lý tập trung thống nhất của nhà
nước được quy định là cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục
tùng trung ương, thực hiện chế độ một thủ trưởng ở tất cả các đơn vị, các cấp, đảm
bảo mối quan hệ chặt chẽ và tối ưu giữa các hoạt động trong quá trình quản lý sử
dụng đất. Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để hoàn chỉnh hệ thống pháp
luật đất đai, làm cho pháp luật đất đai được thực hiện nghiêm minh. Quyền quản lý
tập trung thống nhất được thực hiện ở việc nhà nước thông qua công tác quy
hoạch kế hoạch để điều chỉnh các hoạt động sử dụng đất và cũng dựa vào đó nhà
nước giao đất cho thuê đất cho các đối tượng sử dụng đất. Thông qua hệ thống
văn bản pháp lý về quyền quản lý mà văn bản có tính chất pháp lý cao nhất là Luật
đất đai để thực hiện quyền thống nhất quản lý. Để đảm bảo quyền này, nhà nước
phải sử dụng các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thích hợp. Nếu sử dụng
tốt các công cụ quản lý và phương pháp quản lý thì quyền quản lý tập trung thống
91
nhất của nhà nước sẽ được duy trì và vai trò quản lý nhà nước về đất đai sẽ được
phát huy đầy đủ. Ngược lại, nếu công cụ quản lý sử dụng không tốt, không có sự
kết hợp một cách hiệu quả giữa công cụ và phương pháp quản lý đặc biệt là trong
cơ chế thị trường thì quyền quản lý tập trung thống nhất bị giảm đi, đất đai sử dụng
không hiệu quả và vi phạm luật đất đai ngày càng tăng.
2. Quan điểm kết hợp quản lý đất đai với vấn đề bảo vệ môi trường và các vấn đề xã
hội..
Vấn đề rất lớn đặt ra trong quản lý đất đai khi đẩy mạnh công ngiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn là sử dụng đất đai, các tài nguyên thiên nhiên từ
lòng đất có hiệu quả và phải bảo vệ môi trường. Đây là vấn đề thách thức đối với
các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Mỗi hoạt động của con người đều làm
biến đổi môi truờng một cách mạnh mẽ. Vấn đề ô nhiễm đất, lạm dụng các chất hoá
học, xác sinh vật, động vật, các chất thải công nghiệp … sẽ làm giảm năng suất
chất lượng cây trồng, huỷ diệt sự sống của một số sinh vật khác và đe doạ dến sức
khoẻ con người. Sự ô nhiễm không khí do sử dụng các phương tiện vận tải, của
các nhà máy công nghiệp cùng quá trình đô thị hoá làm cho môi trường sinh thái bị
mất cân bằng. Nguồn nước sạch đang ngày càng khan hiếm, các tài nguyên thiên
nhiên cũng đang trong quá trình cạn kiệt dần. Đặc biệt là tài nguyên đất bị khai thác
tuỳ tiện. Sự mất cân bằng sinh thái làm biến đổi khí hậu và làm tăng các thiên tai
dồn dập gây hậu quả to lớn. Tất cả những thách thức về môi trường đó đòi hỏi
chúng ta phải khai thác giư gìn đất đai, phát huy tiềm năng của rừng, mặt khác phải
chăm sóc bảo vệ rừng, bảo vệ nguồn nước, phủ xanh đất trống, đồi trọc, bảo vệ các
di tích lịch sử, các công trình văn hoá… Vì vậy phải có kế hoạch sử dụng đất một
cách hợp lý, khoa học và trong quá trình sử dụng phải kết hợp với các vấn đề xã
hội, bảo vệ môi trường. Đó là sự đảm bảo hạnh phúc lâu dài cho các thế hệ. Do đó
phải thực hiện quan điểm này trong quá trình quản lý đất đai.
3. Quan điểm quản lý đảm bảo tính hệ thống và đồng bộ.
Có thể nói, đất đai là tài nguyên quý giá của đất nước và vấn đề quản lý, sử
dụng đất đai đã được nhà nước ta phân cấp cụ thể cho các cơ quan quản lý từ trung
ương cho đến địa phương. Việc quản lý đất đai bao gồm 7 nội dung mà các nội
dung quản lý đều có liên quan đến nhau, thực hiện quản lý theo 7 nội dung này phải
đảm bảo tính hệ thống từ nội dung thứ 1 cho đến nội dung thứ 7, từ việc xác định
92
ranh giới diện tích đất để xác định chủ sử dụng cụ thể của mảnh đất đó, đến việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và đăng kí cập nhật biến động đất
đai … Công tác quản lý này liên quan đến nhiều cơ quan quản lý : quản lý chuyên
môn và quản lý hành chính. Cụ thể về đất đai liên quan đến UBND thành phố, Sở
địa chính nhà đất, UBND quận- Phòng ĐC-NĐ quận, UBND phường- cán bộ địa
chính nhà đất phường.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai cũng được quy định trong các văn bản nghị
định, quy định, quyết định, chỉ thị, thông tư hướng dẫn …của nhà nước và các cơ
quan liên quan. Để thực hiện tốt công tác quản lý đất đai, bảo vệ chế độ sở hữu đất
đai thì quản lý phải được triển khai một cách đồng bộ, đảm bảo tính hệ thống trong
suốt quá trình thực hiện nội dung, trong việc ra quyết định của các cơ quan quản lý
cấp trên cho đến các cơ quan cấp dưới, giữa các cơ quan liên ngành với nhau. Tính
đồng bộ được thể hiện ở việc ban hành các văn bản, văn bản được ban hành phải
đảm bảo cho việc áp dụng dễ dàng, không chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Nội
dung quy định về quản lý hay hướng dẫn thực hiện các quy định, quyết định … do
các cơ quan quản lý chuyên môn và quản lý hành chính phải nhất quán với nhau.
Trong trường hợp một số các quy định do cơ quan quản lý ban hành không phù hợp
với thực tế cần phải rà soát và bổ sung, sửa đổi để đảm bảo cho nội dung được ban
hành không bị lạc hậu giúp cho công tác quản lý được thực hiện tốt.
4. Chủ động xây dựng và quản lý tốt thị trường bất động sản
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ : “ Tổ chức quản lý tốt thi trường
bất động sản. “. Trong bộ luật dân sự cũng đã quy định :” Đất đai là một yếu tố bất
động sản “. Như vậy chủ trương, đường lối chính sách pháp luật của nhà nước về
thị trường bất động sản đã được hình thành. Tuy vậy trong thực tế vẫn còn có
những ý kiến khác nhau về vấn đề đất đai có phải là hàng hoá không, đất đai tham
gia thị trường bất động sản như thế nào. Mặt khác chủ trương về thị trường bất
động sản của Đảng và nhà nước đã được thể hiện nhưng các quy định cụ thể của
pháp luật đất đai đối với vấn đề này còn chưa rõ. Thực tế cho thấy, kể cả từ trước
khi pháp luật đất đai cho phép, thị trường bất động sản ngầm đã từng tồn tại và hoạt
động. Việc buông lỏng quản lý thị trường, để thị trường ngầm phát triển vừa làm
mất đất, mất tiền và sự công bằng trong xã hội không được thực hiện tốt, khoảng
cách giàu nghèo ngày càng tăng. Trong thời gian vừa qua, thị trường bất động sản ở
93
Hà Nội đã trở nên sôi động, đã xảy ra những cơn sốt đất nằm ngoài sự kiểm soát
của nhà nước, gây khó khăn cho công tác quản lý đất đai. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này mà nguyên nhân cơ bản là các quy định của pháp luật về bất
động sản còn thiếu và không kịp thời với yêu cầu thực tế. Chính vì vậy để có thể
xây dựng một thị trường bất động sản hoạt động hiệu quả và lành mạnh thì phải coi
đất đai là một tư liệu hàng hoá đặc biệt, là yếu tố quan trọng để phát triển sản xuất
và phải chủ động xây dựng thị trường bất động sản, tiến tới xoá bỏ thị trường phi
chính thức trên địa bàn thành phố.
II. Các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước về đất đai
trên địa bàn Hà Nội:
Việc đảm bảo cho đất đai được sử dụng theo đúng pháp luật, nhằm tạo được
trật tự kỉ cương trong quản lý sử dụng, thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ đất
đai, hình thành thị trường bất động sản trên phạm vi cả nước nhất là ở các đô thị
lớn trong đó có Hà Nội là vấn đề hết sức bức xúc hịên nay. Từ thực trạng của công
tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn trong thời gian qua và các quan điểm
quản lý, căn cứ vào pháp luật đất đai hiện hành, em xin đề xuất một số giải pháp
sau:
1. Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính:
-Đổi mới công tác cán bộ, nâng cao trình độ năng lực của người làm công tác địa
chính. Bởi vì cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân cho nên cần phải đào
tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ địa chính là yêu cầu cấp bách.
+ Xây dựng quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác địa chính, trong đó chú trọng
cả hai phẩm chất đạo đức chính trị và trình độ năng lực chuyên môn. Việc xây
dựng và tiêu chuẩn hoá cán bộ có ý nghĩa lớn đối với việc đào tạo bồi dưỡng, lựa
chọn và sử dụng có hiệu quả cán bộ công chức địa chính trong quản lý nhà nước
về đất đai, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý.
+ Đào tạo và đào tạo lại cán bộ địa chính, trang bị kiến thức quản lý đất đai trên
bình diện rộng, làm cho cán bộ địa chính thấy vai trò vô cùng quan trọng của đất
đai đối với nền kinh tế - chính trị - xã hội.
+ Đặc biệt chú trọng công tác địa chính ở cấp xã phường, nâng cao trình độ năng
lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ địa chính ở cấp này bởi vì họ là những người
hiểu sâu sắc các vấn đề quản lý và sử dụng đất đai trong quá khứ cũng như ở hiện
94
tại, các tâm tư nguyện vọng của người sử dụng đất, các trường hợp lấn chiếm đất
đai, tranh chấp đất đai, vi phạm pháp luật đất đai trong địa phương mình quản lý.
Cán bộ địa chính cấp xã còn là người đầu tiên xử lý các vấn đề phát sinh trong quá
trình quản lý và sử dụng đất đai nên nếu trình độ của họ yếu kém thì công tác quản
lý đất đai sẽ không đạt hiệu quả. Mặt khác cần phải xác định họ là những công
chức nhà nước và làm việc lâu dài trong ngành địa chính, vừa chịu sự quản lý của
cơ quan địa chính vừa chịu sự quản lý của UBND xã. Điều đó sẽ đảm bảo tính hệ
thống và tính khách quan trong quản lý đất đai tại địa bàn cấp xã. Thường xuyên
bồi dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho các cán bộ địa chính xã về khoa học
quản lý và sử dụng đất, về pháp luật đất đai trong cơ chế thị trường.
Đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính, nâng cao năng lực của họ sẽ làm cho việc giải
quyết các quan hệ đất đai được hiệu quả hơn, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nước về đất đai hiên nay.
2. Đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quản lý chặt chẽ đất đai trên địa bàn thành phố theo pháp luật quy định đảm
bảo mục tiêu quản lý đến từng thửa đất, từng chủ sử dụng đất thông qua việc cấp
giấy chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời theo dõi cập nhật
thường xuyên biến động về đất đai là một trong những nhiệm vụ chiến lược của
ngành địa chính và công tác quản lý đất đai của chính quyền địa phương các cấp.
Hiện nay việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà
Nội vẫn chưa được hoàn thành, một số xã thuộc các huyện ngoại thành vãn chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là cấp giấy
chứng nhậ quyền sử dụng đất theo nghị định 60CP vẫn còn chậm, gây lực cản trong
giao dịch dân sự về mua bán nhà đất của các chủ thể trong thị trường bất động sản.
Bởi vậy để đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cần thực hiện
những giải pháp sau:
- Cần phải đơn giản hoá căn cứ và thủ tục cấp giấy chứng nhận theo hướng coi
trọng hiện trạng sử dụng đất hơn là tìm hiểu về ngọn ngành về lịch sử hình thành và
phát triển của nó. Thực tế sử dụng đất ổn định, không tranh chấp, hoà thuận với
xóm giềng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với nhà nước là một cơ sở quan
trọng chứng nhận quyền sử dụng đất chính đáng của người đó. Để làm được điều
này nên đẩy mạnh hơn nữa vai trò của đơn vị chính quyền nhỏ nhất là UBND xã,
95
phường, thị trấn cùng với hệ thống cụm dân cư và tổ dân phố cũng như cảnh sát
khu vực, những người hàng ngày lăn lộn với cuộc sống và biết rõ nhất tình hình sử
dụng đất đai ở khu vực mình. Mặt khác trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế, để có
thể đẩy nhanh cấp giấy chứng nhận thì không nên trông chờ vào sự hoàn hảo ngay
từ đầu, nôn nóng muốn đạt thành tích cao mà phải đi từng bước một và đảm bảo
thực hiện đúng tiến độ đề ra.
- Về chính sách truy thu các loại thuế: Chính sách thu tiền sủ dụng đất khi hợp
thức hoá để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn quá cao. Tuy Thủ tướng
chính phủ đã cho phép chậm nộp các khoản thu theo quy định của nhà nước khi xét
hợp thức hoá để cấp gíây đến nay vẫn được duy trì nhưng vẫn còn tồn tại những
điều bất hợp lý, để được cấp giấy, người dân phải nộp đầy đủ các khoản thu cho
ngân sách như tiền sử dụng đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, phạt tiền xây dựng
không phép, sai phép, truy thu các loại thuế đất, lệ phí trước bạ... Chính sách thu
này không phù hợp vơí khả năng tài chính của người dân và khó có thể đẩy nhanh
tiến độ cấp giấy chứng nhận được. Bởi vậy giải pháp đặt ra là nhà nước cần nghiên
cứu các chế độ nhằm giảm bớt mức thu của từng khoản, nhà nước xem xét cho
người dân chậm nộp các khoản thu theo quy định của nhà nước khi được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Về tài chính để phục vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Để kê khai
đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhằm phục vụ công tác quản lý đất
đai được tốt cần phải đưa công nghệ thông tin vào trong quá trình kê khai đăng ký.
Để hoàn thiện hệ thống hồ sơ quản lý về đất đai thì công tác cấp giấy chứng nhận
phải được tiến hành trên quy mô lớn, khối lượng hồ sơ sẽ tăng lên rất nhiều và quản
lý hồ sơ cũng gặp nhiều khó khăn. Do đó đầu tư tài chính vào công tác này là rất
cần thiết, nó vừa đáp ứng được khối lượng công việc và nhu cầu quản lý được
nhanh gọn, thông tin được lưu trữ an toàn. Bởi vậy để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy
chứng nhận, các cơ quan quản lý địa chính cũng như UBND các quận, huyện cần
tập trung tài chính cho công tác này và xin hỗ trợ về tài chính của cấp trên.
- Ngoài ra phải có sự phối hợp, giúp đỡ của cơ quan địa chính với UBND các
quận, huyện về chuyên môn, thủ tục cấp giấy chứng nhận nhằm giải quyết nhanh
các thủ tục, đơn giản hoá các thủ tục để đẩy nhanh tiến độ cấp giấy. Sở Địa chính -
Nhà đất phải tập trung chỉ đạo tới cấp cơ sở, đôn đốc các cơ sở thực hiện công tác
96
này, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn để có thể thực hiện được mục tiêu hoàn
thành công tác cấp giấy chứng nhận trên toàn địa bàn thành phố Hà Nội.
Thực hiện giải pháp này sẽ giúp cho cơ quan địa chính hoàn thành được công
tác kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
đất đai, làm ổn định tình hình kinh tế chính trị xã hội và cuộc sống của người sử
dụng đất.
3. Nâng cao ý thức pháp luật đất đai của các đối tượng sử dụng đất.
Hiện nay, ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân tham gia vào hoạt động quản
lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế làm ảnh hưởng tới quản lý nhà nuớc về đất
đai. Do đó phải nâng cao ý thức pháp luật đất đai cho các chủ thể này.
Việc nâng cao ý thức pháp luật đất đai của các cán bộ quản lý nhà nước về đất đai
và người sử dụng đất có tác dụng tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi, đảm bảo
các quy phạm pháp luật đất đai được thực hiện tốt hơn từ giai đoạn ban hành quy
phạm pháp luật đất đai cho tới lúc áp dụng các quy phạm này.
Để nâng cao ý thức pháp luật đất đai, đảm bảo cho ý thức pháp luật đất đai trở
thành nhân tố tác động có hiệu quả tới công tác quản lý thì cần phải tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật đất đai cho toàn thể cán bộ và nhân dân qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Đây là một biện pháp rất ưu việt vì nó có ưu thế
về mặt không gian, thời gian và liên tục, đưa pháp luật đất đai đến các đối tượng
trong xã hội làm cho mọi người hiểu sâu sắc pháp luật đất đai, các nghị định của
chính phủ, các quy định quản lý đất đai, các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất từ đó làm cho người sử dụng đất nhận thức rõ được vai trò quan trọng của pháp
luật đất đai trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ.
Nâng cao chất lượng giảng dạy môn pháp luật đất đai trong các trường đại
học. Với biện pháp này sẽ chuyển tải được một lượng lớn kiến thức về pháp luật
đất đai cho sinh viên, làm cho họ hiểu được cả chiều rộng cũng như chiều sâu của
pháp luật đất đai. Đây là biện pháp có tính chiến lược để nâng cao ý thức pháp luật
đất đai bởi sinh viên là những cán bộ tương lai của đất nước.
Mặt khác để nâng cao ý thức pháp luật đất đai, góp phần quản lý đất đai có hiệu
quả thì cũng phải đổi mới và tăng cường công tác hoà giải các vụ tranh chấp đất đai
ở cấp phường xã thị trấn. Bởi vì thông qua hoà giải mà các cán bộ hoà giải đã vận
97
dụng các quy phạm pháp luật đất đai để thuyết phục phân tích đúng sai. Trên cơ sở
đó làm cho người sử dụng đất hiểu sâu hơn và có thái độ đúng đắn đối với pháp
luật đất đai từ đó nâng cao ý thức pháp luật đất đai của họ.
4. Giải pháp về quy hoạch kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất là công cụ để nhà nước quản lý đất đai, đảm
bảo cho đất đai được sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm. Công tác quy hoạch – kế
hoạch sử dụng đất đã được các ngành quan tâm và đạt được những kết quả nhất
định. Tuy nhiên vấn đề quy hoạch kế hoạch vẫn còn nhiều hạn chế như quy hoạch
sử dụng đất chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, tiến hành quy hoạch
chậm lại thiếu công bố rộng rãi nên có một số đối tượng nắm được quy hoạch, kế
hoạch đã lợi dụng để làm giàu. Quy hoạch, kế hoạch thiếu nghiên cứu một cách
đồng bộ nên chắp vá sửa đi sửa lại nhiều lần … Những khiếm khuyết này đòi hỏi
phải có những giải pháp cụ thể về quy hoạch - kế hoạch sử dụng đất nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý đất đai.
- Bổ sung thêm một số quy định vào luật đất đai hiện hành để xác định rõ hơn
trách nhiệm và nghĩa vụ lập và thực hiện quy hoạch – kế hoạch của UBND các
cấp.
- Bổ sung những quy định pháp lý để đảm bảo cho quy hoạch kế hoạch sử dụng
đất được công khai hoá, thực hiện được nguyên tắc dân chủ công khai trong
quản lý và sử dụng đất. Quy định cụ thể chi tiết việc lập quy hoạch – kế hoạch
sử dụng đất trên toàn địa bàn thành phố, từng quận, huyện và đối với từng loại
đất trong đó chú trọng đất nông nghiệp, lâm nghiệp và đô thị, quy định chi tiết
hơn trình tự và thủ tục các bước tiến hành trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất. Xác định nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước quản lý
đất đai và các cá nhân được trao quyền trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện
lập quy hoạch – kế hoạch sử dụng đất.
- Xác định ranh giới cụ thể giữa các vùng để có quy chế đối với việc quy hoạch
các vùng, các quận, huyện của thủ đô. Từ đó có sự kết hợp giữa các thành phố
với các quận huyện để có thể thực hiện tốt công tác quy hoạch tổng thể trên toàn
địa bàn thành phố cũng như quy hoạch từng vùng trên địa bàn.
- Có sự phân cấp mạnh hơn trong việc sử dụng các công cụ điều tiết như hạn
ngạch, thuế, lệ phí và nghĩa vụ tài chính để đảm bảo cho Hà Nội có một chế độ
98
thực hiện quy hoạch. Sự phân cấp hợp lý sẽ đảm bảo được sự lựa chọn việc sử
dụng đất đúng đắn và thực hiện có kết quả các chiến lược phát triển của thành
phố
5. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của các cơ quan quản lý nhà nước.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc quản lý sử dụng đất đai của
chính quyền địa phương các cấp và các cơ quan chuyên môn của thành phố.
Kiểm tra việc giao đất sản xuất nông, lâm nghiệp, cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất để giải quyết các khiếu nại tố cáo đất đai, đồng thời đẩy nhanh tiến
độ giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai kéo dài nhằm ổn định tình hình
chính trị xã hội.
- Tăng cường và tạo chuyển biến mới trong công tác giải quyết khiếu kiện, khiếu
nại về lĩnh vực đất đai, góp phần quản lý trật tự đô thị, thống kê và phân loại các
vụ tranh chấp đất đai để giải quyết các vụ nổi cộm, điểm nóng. Đẩy mạnh việc
phân cấp và làm rõ trách nhiệm của các cấp các ngành trong công tác giải quyết
tranh chấp khiếu nại đất đai.
- Tiến hành kiểm tra thanh tra về các hoạt động nghiệp vụ như đo đạc, quy hoạch,
thực hiện các chế độ chính sách, quy trình quy phạm kĩ thuật thống nhất của
Tổng cục Địa chính ban hành về công tác này.
- Kiên quyết xử lý các vi phạm trong quản lý đất đai để tăng cường pháp chế, thi
hành nghiêm luật đất đai đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và đối với cả
cán bộ công chức trong bộ máy quản lý, làm trong sạch bộ máy quản lý đất đai.
- Mặt khác khi thanh tra kiểm tra cần phải xây dựng kế hoạch cụ thể, xây dựng
nội dung thanh tra rõ ràng, đẩy mạnh sự phối hợp giữa các cấp chính quyền một
cách chặt chẽ đồng bộ. Cần phải tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra thường
xuyên, toàn diện, phát huy được vai trò của pháp luật, vai trò quản lý cua nha
nước đối với các vi phạm trong quản lý sử dụng đất.
- Xây dựng củng cố, kiện toàn tổ chức thanh tra từ Sở ĐCNĐ đến các phòng ĐC
ở các quận huyện để cán bộ thanh tra có đủ khả năng, năng lực hoàn thành
nhiệmvụ.
Thực hiện giải pháp này, sẽ làm cho hoạt động quản lý và sử dụng đất được trong
sạch theo đúng các quy định của pháp luật, lấp kín được những kẽ hở trong pháp
99
luật đất đai mà các đối tượng xấu có thể lợi dụng để đầu cơ trục lợi, từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả quản lý đất đai hiện nay.
III. Một số kiến nghị.
Từ những giải pháp trên, để góp phần làm cho đất đai được sử dụng có hiệu quả
và ổn định, em xin đề xuất một số kiến nghị sau:
- Luật đất đai năm 1993 đã hai lần được sửa đổi bổ sung một số điều vào các năm
1998và 2001dẫn đến việc phổ biến và thực hiện luật đất đai còn gặp nhiều khó
khăn đăc biệt là đối với những đối tượng sử dụng đất. Đề nghị chính phủ cần thay
thế bằng luật mới, luật này lớn hơn luật cũ về các điều và có bổ sung các chế tài xử
lý hành vi vi phạm luật đất đai để đảm bảo tính khả thi của pháp luật.
- Quản lý và sử dụng đất đô thị có đặc thù riêng và phức tạp nhất, đặc bịêt ở các
đô thị phát triển nhanh. Cũng ở khu vực đô thị, ngân sách bổ sung từ các nguồn thu
về đất là nhiều nhất vì vậy chính phủ cần tập trung nghiên cứu, bổ sung chính sách
về quản lý sử dụng đất đô thị.
- Để quản lý chặt chẽ quỹ đất đai và ngăn chặn các vi phạm sử dụng đất có hiệu
quả, chính phủ nên nghiên cứu các phương án định giá các loại đất và thành lập tổ
chức định giá thống nhất để xác định giá trị tài sản đất mà nhà nước giao cho các
chủ sử dụng đất. Các vấn đề tài chính liên quan đến đất đề nghị nhà nước phải
nghiên cứu ban hành luật thuế về đất đai trong đó bao gồm tất cả các quy định về
nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất với nhà nước thay thế cho luật thuế sử
dụng đất nông nghiệp và pháp lệnh thuế nhà đất, luật thuế chuyển quyền sử dụng
đất …
- Luật đất đai cần được thực hiện đồng bộ với việc ban hành các nghị định mới
của chính phủ, bổ sung hoặc thay thế các nghị định trước đây để phát huy hiệu lực
của pháp luật vào cuộc sống thực tế. Đề nghị chính phủ chỉ đạo cho các bộ ngành
liên quan khẩn trương nghiên cứu trình chính phủ ban hành nghị định mới thay thế
nghị định số 87CP về quy định khung giá đất và nghị định 22CP về đền bù thiệt
hại khi nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng mà đây là những vấn đề bức xúc trong thực tế.
- Đề nghị UBND thành phố chỉ đạo tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, giảm
bớt thủ tục phiền hà để thu hút đầu tư, tập trung theo hướng một đầu mối quản lý :
Sở địa chính nhà đất là đầu mối quản lý nhà đất, Kiến trúc sư trưởng thành phố là
100
đầu mối quản lý về quy hoạch – kiến trúc, Sở Kế hoạch đầu tư là đầu mối về quản
lý đầu tư. Quận huyện là đầu mối thoả thuận địa phương về phương án bồi thường
giải phóng mặt bằng.
- Đề nghị chính phủ và UBND thành phố Hà Nội rà soát lại các văn bản quản lý
đất đai trên phạm vi cả nước cũng như trên địa bàn thành phố nhằm cắt bỏ các văn
bản trùng lặp, mâu thuẫn giữa các văn bản với luật đất đai, xử lý kịp thời những
bất hợp lý của các văn bản đó làm cho các quy phạm pháp luật đất đai được gọn
nhẹ, điều chỉnh các quan hệ đất đai có hiệu quả.
101
KẾT LUẬN
Đất đai có vị trí hết sức quan trọng về nhiều mặt đối với đời sống một dân tộc,
quốc gia, với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đất cũng là vấn đề nhạy
cảm đối với sự duy trì trật tự và tâm lý của mỗi người dân. Chính vì thế, quản lý
nhà nước về đất đai luôn là sự chú ý của nhà nước.
ở nước ta, trong những năm đổi mới, do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp,
sự buông lỏng trong quản lý của nhiều cấp chính quyền nên vấn đề quản lý và sử
dụng đất đai vẫn còn nhiều yếu kém mà cụ thể là tình trạng lấn chiếm đất đai vẫn
xảy ra thường xuyên, mua bán đất đai diễn ra dưới hình thức trao tay là chủ yếu.
Trong tình hình đó, việc nhà nước chú ý hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai, tăng
cường quản lý đã làm cho việc sử dụng đất có nhiều chuyển biến tích cực. Điều
này thể hiện khá rõ trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Thực hiện đường lối công nghiệp
hoá- hiện đại hoá, xây dựng thủ đô văn minh lịch sự, có nền kinh tế phát triển, duy
trì trật tự xã hội và tiến tới kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội thì vấn đề đảm
bảo cho mọi người dân, mọi cơ quan, tổ chức chấp hành nghiêm pháp luật trong đó
có luật đất đai là điều hết sức quan trọng. Một số giải pháp đã được đặt ra để có thể
đạt được mục tiêu đó như đẩy mạnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tăng
cường công tác thanh tra kiểm tra, nâng cao ý thức pháp luật đất đai của người sử
dụng đất…đã được đề cập trong bài để có thể khắc phục những yếu kém đó. Dưới
ánh sáng của nghị quyết IX của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố
lần thứ XIII thì các cơ quan quản lý đất đai cũng như người dân Hà Nội đã và đang
phát huy sự năng động sáng tạo, tíêp tục thực hiện những giải pháp đặt ra để làm
cho công tác quản lý ngày càng hiệu quả, xoá bỏ những bức xúc vẫn còn tồn tại để
đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp phát triển của thủ đô, để Hà Nội xứng
đáng là thủ đô anh hùng trong thời kì đổi mới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Quản lý Nhà nước về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.pdf