Luận văn Quản lý nhà nước về đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh

Đầu tư công là hoạt động quan trọng của cả quốc gia và từng địa phương. TP.HCM với tư cách là đô thị lớn nhất Việt Nam xét trên nhiều phương diện, tuy vậy thành phố này đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong sự phát triển của mình, trong đó có vấn đề về hệ thống cơ sở hạ tầng đang trở nên quá tải và không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân, cũng như nhu cầu phát triển của thành phố. Điều đó càng khiến cho vấn đề đầu tư công trên địa bàn TP.HCM trở nên quan trọng và có ý nghĩa hơn đối với thành phố. Với tư cách là cơ quan QLNN có thẩm quyền lớn nhất trong hệ thống chính quyền thành phố, UBND TP.HCM đóng vai trò là cơ quan điều hành và quản lý chung đối với vấn đề đầu tư công trên dịa bàn, góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư công hạn chế từ ngân sách thành phố. Tuy nhiên, qua phân tích bảy nhóm nội dung QLNN về đầu tư công của cơ quan này, gồm: (i) Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công; (ii) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, quy hoạch, giải pháp chính sách đầu tư công; (iii) Theo dõi và cung cấp thông tin về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; (iv) Đánh giá hiệu quả đầu tư công, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đầu tư công; (v) Xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân liên quan đến đầu tư công; (vi) Khen thưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thành tích trong hoạt động đầu tư công; (vii) Hợp tác quốc tế về đầu tư công, cho thấy UBND TP.HCM chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình trọng lĩnh vực này. Điều này đã và đang làm giảm hiểu quả đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, khiến cho các vấn đề cơ bản của thành phố vẫn chưa thể giải quyết được, thành phố đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các thành phố trong khu vực. Trên cơ sở những phân tích về hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong công tác QLNN về đầu tư công của UBND TP.HCM, chúng tôi đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM thời gian tới./

pdf126 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về đầu tư công tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đủ sức để giải quyết những vấn đề cơ bản hiện nay cho TP.HCM, có lẽ trung ương đang “ôm” quá nhiều việc của địa phương, trong đó có TP.HCM, thay vào đó, trung ương chỉ nên tập trung vào một số vấn đề lớn và đóng vai trò giám sát quá trình thực thi của địa phương hơn là trực tiếp giải quyết các vấn đề sự vụ của địa phương như hiện nay. Do đó, chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới song song với việc thiết lập mô hình chính quyền đô thị cho TP.HCM là việc triển khai thực hiện một cách thực chất và nghiêm túc các quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 về phân định thẩm quyền giữa trung ương và địa phương, phân quyền và phân cấp thẩm quyền giữa chính quyền cấp trên và chính quyền cấp dưới trên tất cả các lĩnh vực QLNN. Chẳng hạn, trong vấn đề về đội ngũ công chức, trung ương nên giao quyền tự chủ cho TP.HCM trong việc tính toán số lượng vị trí việc làm và cơ chế trả lương cho công chức, thay vì áp đặt cơ chế lương chung như hiện nay trên toàn quốc mà không tính đến tính đặc thù và khả năng tự chủ về ngân sách của mỗi đơn vị hành chính. Còn một vấn đề liên quan đến việc thiết kế nhiệm vụ và quyền hạn của chính quyền TP.HCM mà chúng tôi cho rằng trung ương không thể bỏ qua, đó chính là vấn đề tỷ lệ ngân sách được giữ lại của TP.HCM. Trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư công trên địa bàn TP.HCM là rất eo hẹp như chúng tôi đã chứng minh thì việc trung ương chỉ cho phép TP.HCM giữa lại khoảng 18% thu ngân sách tăng thêm trên địa bàn của mình như hiện nay là điều bất hợp lý nghiêm trọng. Đành rằng TP.HCM phải chia sẻ với trung ương và với các địa phương khác trong bối cảnh thâm hụt ngân sách cả nước đang gia tăng. Nhưng chính vì sự cào bằng này, theo chúng tôi sẽ triệt tiêu hoặc kìm hãm sự phát triển của TP.HCM, đến lúc TP.HCM không thể hoặc phát triển rất chậm thì chính phần ngân sách tăng thêm của TP.HCM mà trung ương có thể điều tiết về sẽ không còn đáng kể, tức là cả TP.HCM và Trung ương đều bị thiệt hại. Một thành phố lớn nhất nước, một siêu đô 95 thị, thế nhưng hàng năm ngân sách chi cho đầu tư phát triển của TP.HCM không đến một tỷ đô la, hàng loạt các dự án lớn “đói vốn”, nhiều dự án thiếu vốn không thể tiếp tục triển khai. Do đó, cần phải tăng tỷ lệ giữ lại cho TP.HCM, ít nhất cũng phải là 50%, thay vì là 18% như hiện nay. Thứ ba, người đứng đầu thành phố, như chúng tôi đã đề xuất nên là chức thị trưởng do dân bầu và có thực quyền như một vị tổng giám đốc, thay vì là Chủ tịch UBND không thực quyền như hiện nay. Tất nhiên, điều này sẽ đòi hỏi cả sự thay đổi về phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng chúng tôi cho rằng đây là điều tất yếu phải xảy ra nếu muốn TP.HCM tiếp tục phát triển và có những thay đổi cơ bản. Theo đó, người đứng đầu thành phố nên do cử tri thành phố bầu ra theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, dựa trên việc vận động tranh cử công khai để cư tri lựa chọn, làm việc theo nhiệm kỳ và có thể bị bãi miễn cũng chính bởi cử tri, hoặc bị cách chức trong những trường hợp luật định bởi Thủ tướng Chính phủ hoặc Hội đồng thành phố. Người đứng đầu thành phố cần có quyền quyết định đối với các vấn đề quan trọng của thành phố, trong đó có các quyết định liên quan đến vấn đề đầu tư công trên địa bàn TP.HCM. Người đứng đầu thành phố cần có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm cấp dưới của mình để đảm bảo tính thông suốt của nên hành chính và tính nhanh chóng trong việc xử lý các vấn đề nảy sinh trên địa bàn thành phố cần có sự chỉ đạo xử lý từ người đứng đầu. Việc đề bạt công chức cần dựa trên năng lực thực sự của họ thay vì tiêu chí chưa từng sai sót. Chúng tôi cho rằng đội ngũ công chức, viên chức làm việc trong một số Ban quản lý dự án đầu tư công hiện nay (chẳng hạn dự án Đường sắt đô thị TP.HCM - Metro; Thủ Thiêm; Nam Sài Gòn...) trên địa bàn TP.HCM là những trường hợp để thử thách cho việc đề bạt vào các vị trí cao hơn dựa trên kết quả hoàn thành và hiệu quả của các đại dự án đầu tư công này trong tương lai. Tóm lại, để có thể thay đổi một cách thực chất công tác QLNN về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công của thành phố này thì việc thiết kế và tổ chức lại bộ máy tổ chức chính quyền đô thị TP.HCM và trao cho bộ máy ấy những thẩm quyền phù hợp gắn với trách nhiệm rõ ràng là đòi hỏi cấp thiết cho sự phát triển của thành phố này trong tương lai. 96 3.2.2. Một số dự án trọng điểm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh cần đƣợc ƣu tiên đầu tƣ trong thời gian tới Trong bối cảnh ngân sách chi cho đầu tư phát triển của TP.HCM là rất thấp, không đáp ứng được nhu cầu phát triển của thành phố này, nhưng số tiền đầu tư ít ỏi đó lại đang bị dàn trải cho quá nhiều dự án khiến cho hiệu quả đầu tư công đã thấp lại càng thấp hơn, thì việc xác định những dự án trọng điểm có sức lan tỏa lớn đề ưu tiên tập trung đầu tư là điều rất cần thiết cho TP.HCM. Dưới đây chúng tôi đề xuất một số dự án mà TP.HCM cần tập trung nguồn lực để đầu tư: Thứ nhất, ưu tiên cho các dự án xây dựng hệ thống đường sắt đô thị TP.HCM Theo các nhà khoa học, một đô thị được tổ chức tốt sẽ bao gồm ba hình thái cấu trúc sau đây: (i) Khu trung tâm cho các tòa nhà văn phòng và trung tâm thương mại; (ii) Những hành lang phát triển dọc theo các tuyến vận tải công cộng như: tàu điện ngầm, xe buýt nhanh và xe điện trên cao; (iii) Những khu nhà phố liền kề hoặc nhà biệt thự với mật độ thấp. Như vậy, yếu tố về hệ thống vận tải công cộng là tiền đề không thể thiếu để tổ chức tốt một đô thị theo hướng phát triển hài hòa và bền vững. Nhìn vào thực tế TP.HCM có thể thấy rõ điều này, hầu hết các dự án mở rộng đường, xây dựng đường mới hoặc xây cầu vượt để giải quyết tình trạng kẹt xe chỉ là các giải pháp tạm thời, chúng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn sau khi hoàn thành, và sau đó tất cả vẫn như cũ, kẹt xe lại tiếp tục gia tăng mà không có dấu hiệu thuyên giảm. Tại sao lại như vậy, trong bối cảnh thu nhập của người dân tại TP.HCM gia tăng, nhu cầu thay đổi, sắm mới và sắm thêm phương tiện giao thông cá nhân là điều tất yếu khi không còn hoặc rất khó khăn để lựa chọn phương tiện giao thông khác. Kết quả là khi đường được mở rộng thì lượng xe cá nhân mới được đưa vào lưu thông cũng tăng theo, đặc biệt là xe ô tô. Theo số liệu từ Sở Giao thông vận tải TP.HCM thì trong năm 2016 TP.HCM có khoảng 08 triệu xe gắn máy (chưa kể khoảng 02 triệu xe máy ngoại tỉnh) và hơn 600.000 xe ô tô các loại[39], cũng theo tính toán của Sở này, trung bình hàng năm tỷ lệ tăng lượng xe cá nhân gấp 05 lần so với số diện tích đường tăng thêm[40]. Rõ ràng, nếu TP.HCM chỉ lo chạy theo việc mở rộng đường, xây đường mới, xây cầu vượt thì trong tương lại tình trạng kẹt xe cũng không thể giải quyết được. Vấn đề chỉ có thể được giải quyết một cách căn bản khi phần 97 lớn người dân TP.HCM chuyển sang sử dụng các phương tiện giao thông công cộng. Phương tiện giao thông công cộng phổ biến và quan trọng nhất tại TP.HCM là xe buýt, thế nhưng như chúng tôi đã phân tích trong mục 2.3.2 của luận văn, phương tiện này lại đang trở thành nỗi “ám ảnh” của người dân thành phố, thay vì là phương tiện được ưu tiên lựa chọn của họ. Một loại phương tiện vận tải công cộng khác hiện nay đang nhận được nhiều kỳ vọng có thể giải quyết kẹt xe cho TP.HCM và có thể cho TP.HCM một diện mạo mới là hệ thống tàu điện ngầm đô thị. Hiện tại, TP.HCM đang triển thực hiện các dự án đường sắt đô thị. Theo kế hoạch tổng chiều dài của toàn bộ tuyến đường sắt đô thị vào khoảng 220km với tổng vốn đầu tư ước tính 25 tỷ USD để xây dựng 08 tuyến xuyên tâm và vành khuyên nối các trung tâm chính của thành phố và 03 tuyến xe điện mặt đất hoặc đường sắt một ray. Hiện có 03 dự án đang được triển khai (gồm Tuyến số 1: Bến Thành - Suối Tiên; Tuyến số 2 - Giai đoạn 1: Bến Thành - Tham Lương; Tuyến số 5 - Giai đoạn 1: Bảy Hiền - cầu Sài Gòn với tổng mức đầu tư 6,261 tỷ USD); có 12 dự án đang chuẩn bị đầu tư và xúc tiến đầu tư với tổng mức đầu tư dự kiến khoảng 19 tỷ USD. Theo tìm hiểu của chúng tôi, ngoài 03 dự án đang triển khai đã tạm thời có nguồn vốn đầu tư từ các khoản cho vay ưu đãi của Chính phủ Nhật Bản, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và một số ngân hàng nước ngoài, thì tất cả các dự án còn lại đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc kêu gọi đầu tư. Chúng tôi cho rằng, TP.HCM cần quyết liệt trong việc tìm các giải pháp nhằm huy động vốn cho các dự án này nhằm đảm bảo tiến độ theo kế hoạch, điều này có thể bao gồm cả việc không hoặc hạn chế đầu tư các dự án mới, tạm ngưng các dự án không cần thiết, tập trung nguồn ngân sách hạn chế hiện nay cho các dự án xây dựng hệ thống đường sắt đô thị TP.HCM. Thứ hai, phát triển khu đô thị mới Thủ Thiêm và khu đô thị mới Nam Thành phố Hồ Chí Minh Thực tế cho thấy, khu trung tâm TP.HCM hiện nay đang trở nên quá tải một cách nghiêm trọng, cho dù xây dựng thêm nhiều tòa nhà cao tầng thì cũng khó có khả năng giải quyết được những vấn đề đang đặt ra, điều này làm cản trở sự phát triển của TP.HCM trong mục tiêu hướng tới tầm khu vực. Do đó, việc phát triển khu đô thị mới 98 Thủ Thiêm được kỳ vọng của thể giúp TP.HCM trở thành trung tâm dịch vụ có sức cạnh tranh toàn cầu khi cung cấp 05 nhóm dịch vụ sau: (i) Nơi đặt trụ sở quốc tế và phối hợp hoạt động của các công ty toàn cầu; (ii) Trung tâm dịch vụ tài chính; (iii) Trung tâm nghiên cứu và phát triển phần mềm; (iv) Trung tâm nghiên cứu về khoa học đời sống kết hợp với nghiên cứu thử nghiệm; (v) Trung tâm dịch vụ chia sẻ cung cấp các dịch vụ cho các công ty toàn cầu như tài chính, hỗ trợ khách hàng, nguồn nhân lực... Theo quy hoạch, Khu đô thị mới Thủ Thiêm tọa lạc bên bờ Đông sông Sài Gòn đối diện Quận 1, với tổng diện tích 657 ha. Khu đô thị mới Thủ Thiêm được quy hoạch là một trung tâm mới, hiện đại và mở rộng của TP.HCM, với các chức năng chính là trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ cao cấp của thành phố, khu vực và có vị trí quốc tế, là trung tâm văn hóa, nghỉ ngơi, giải trí. Thủ Thiêm được quy hoạch là một khu đô thị mới bền vững kết hợp chặt chẽ với các điều kiện cảnh quan tự nhiên của vùng đất Thủ Thiêm; đồng thời, tạo ra nhiều không gian mở, các tiện ích, công trình công cộng phục vụ cho cuộc sống cư dân và người lao động[41]. Để có thể đạt được các mục tiêu nêu trên đòi hỏi TP.HCM phải nỗ lực trong việc tìm kiếm các nguồn lực nhằm phục vụ cho các dự án đầu tư đang triển khai và chuẩn bị triển khai trên địa bàn Thủ Thiêm. Chúng tôi cho rằng nhiều dự án có thể triển khai theo mô hình PPP nhằm tiết kiệm ngân sách cho thành phố, đồng thời huy động được sự đóng góp của khu vực tư nhân. Theo quy hoạch của TP.HCM, khu đô thị mới Nam TP.HCM được quy hoạch trên diện tích 2.965 ha, gồm một tuyến đường xương sống dài 17,8km, lộ giới 120m và 10 làn xe, bắt đầu từ cửa ngỏ của Khu chế xuất Tân Thuận, xuyên qua quận 7, quận 8, huyện Bình Chánh, dừng lại tại quốc lộ 1 hướng về vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và 21 phân khu chức năng được xây dựng dọc hai bên đường cấu thành một đô thị hiện đại, hỗn hợp đa chức năng gồm: trung tâm tài chính, thương mại, dịch vụ, công nghiệp sạch, khoa học, văn hóa, giáo dục, y tế, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí với quy mô dân số khoảng 500.000 người[42]. Do đó, cùng với khu đô thị mới Thủ Thiêm, TP.HCM cần tập trung huy động nguồn lực cho các dự án đầu tư công trên khu đô thị mới này nhằm tạo nên một cực phát triển mạnh mới, kéo dãn dân cư khu trung tâm cho TP.HCM. 99 Tóm lại, theo quan điểm của chúng tôi trong thời gian tới, TP.HCM cần ưu tiên tập trung đầu tư cho các dự án đầu tư công có ý nghĩa lớn trên địa bàn, thay vì phân tán nguồn vốn đầu tư ít ỏi của mình cho quá nhiều dự án, khiến cho hiệu quả đầu tư công trên địa bàn TP.HCM rất hạn chế như thời gian qua. 3.2.3. Tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm trong quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ công trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị cho TP.HCM là một vấn đề lâu dài, trong khi hoạt động đầu tư công đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ, đòi hỏi UBND TP.HCM và một số cơ quan nhà nước khác phải thực hiện một cách nghiêm túc, tận tâm và thiện chí nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong QLNN về đầu tư công. Tuy vậy, trong bối cảnh nguồn lực hạn chế, cộng với sự trì trệ và sức ỳ của bộ máy QLNN hiện nay đòi hỏi sự quyết liệt trong khâu chỉ đạo, điều hành của UBND TP.HCM bên cạnh việc thực hiện các giải pháp mang tính căn cơ, lâu dài thì mới có cơ may đổi mới một cách triệt để và toàn diện hoạt động đầu tư công trên địa bàn TP.HCM theo hướng thiết thực và hiệu quả hơn. Theo quy định của Luật Đầu tư công 2014, QLNN về đầu tư công có tất cả 07 nội dung, mỗi nội dung đều có tầm quan trọng riêng và có mối liên hệ sâu sắc đến các nội dung khác, cũng như đến những lĩnh vực trong công tác QLNN. Nhưng để không rơi vào tình trạng phân bổ nguồn lực (con người, thể chế, nguồn vốn, thời gian...) không có trọng tâm, trọng điểm, UBND TP.HCM cần xác định những nội dung QLNN nào trong 07 nội dung được Luật quy định là quan trọng hơn và cần ưu tiên thực hiện. Trên cơ sở những gì đã phân tích trong mục 2.2 của luận văn, chúng tôi đề xuất UBND TP.HCM trong thời gian trước mắt cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ sau đây nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động QLNN về đầu tư công của mình nói riêng và của các cấp chính quyền trên địa bàn TP.HCM nói chung: Thứ nhất, UBND TP,HCM cần chỉ đạo các đơn vị có liên quan phối hợp với Cục Thống kê TP.HCM thực hiện tốt công tác thống kê tình hình kinh tế - xã hội và tình hình đầu tư công trên địa bàn TP.HCM Chúng tôi cho rằng đây là nhiệm vụ đầu tiên phải được quan tâm thực hiện. Thực trạng mà chúng tôi đã phân tích đã chỉ rõ các số liệu thống kê của TP.HCM hiện nay thiếu 100 sót và rất sơ sài, đô tin cậy không bảo đảm. Rõ ràng không thể ra quyết định quản lý chuẩn xác khi thông tin về đối tượng quản lý không đầy đủ, không cụ thể và không chính xác. Do đó, UBND TP.HCM cần chỉ đạo các cơ quan, ban ngành phối hợp với Cục Thống kê TP.HCM tiến hành rà soát, đánh giá và thực hiện nghiêm túc việc khảo sát, xử lý các số liệu thống kê cơ bản về tình hình kinh tế - xã hội và tình hình đầu tư công trên địa bàn TP.HCM trong thời gian qua. Các số liệu kinh tế - xã hội cần được khảo sát, thống kê có thể là quy mô dân số (bao gồm người nhập cư và khách vãng lai), cơ cấu dân số theo độ tuổi, theo giới tính, theo trình độ, theo loại hình nghề nghiệp; số liệu về tình hình phương tiện giao thông cá nhân (bao gồm các xe gắn máy không đăng ký), tính toán chính xác tốc độ tăng số lượng phương tiện giao thông cá nhân qua từng năm; số liệu về tình trạng kẹt xe (cần đưa ra bộ tiêu chí chuẩn và rõ ràng để xác định như thế nào là kẹt xe) trên địa bàn TP.HCM; các số liệu có liên quan đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội của TP.HCM... Các số liệu về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM có thể được khảo sát là số lượng dự án đã, đang triển khai qua các giai đoạn có phân loại theo nhóm dự án, quy mô đầu tư của từng dự án, chủ đầu tư, thời gian thực hiện dự án thực tế (so với kế hoạch), tổng mức đầu tư giải ngân trong từng năm phân theo nguồn vốn; thông tin về các dự án đã được phê duyệt chuẩn bị triển khai; thông tin về các dự án có sử dụng vốn vay ưu đãi hoặc vốn ODA... Thứ hai, UBND TP.HCM cần chỉ đạo Sở KH&ĐT phối hợp với Sở Tài chính triển khai việc phổ biến và hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan thực hiện nghiêm túc các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công Như chúng tôi đã đề cập, hiện nay nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công đã được các cơ quan ở trung ương ban hành, đây là những văn bản mới với nhiều nội dung mới không dễ hiểu và dễ thực hiện nếu không có sự chỉ đạo quyết liệt của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Tất nhiên, việc thực hiện quy định của các văn bản này cần được tiến hành trong thời gian lâu dài. Nhưng trước mắt, có hai vấn đề quan trọng mà UBND TP.HCM cần chỉ đạo Sở KH&ĐT phối hợp với Sở Tài chính hướng dẫn các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan thực hiện là: (i) Xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn cho TP.HCM (trong bối cảnh trễ hạn như hiện nay có thể điều chỉnh thành giai đoạn 2018 - 2022); (ii) Xây dựng kế hoạch đầu tư công hàng năm. Nguyên tắc, trình tự, 101 thủ tục, nội dung lập kế hoạch đầu tư công trung hạn cần nghiêm túc tuân thủ các quy định có liên quan của Luật Đầu tư công và Nghị định số 77/2015/NĐ-CP. Riêng nội dung kế hoạch đầu tư công trung hạn phải ít nhất thể hiện rõ được hai vấn đề trọng tâm sau: (i) Khả năng huy động và cân đối các nguồn vốn; dự kiến tổng mức đầu tư để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong trung hạn, bao gồm vốn chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, hoàn trả các khoản ứng trước, hoàn trả các khoản vốn vay khác của ngân sách địa phương để đầu tư; (ii) Sắp xếp thứ tự ưu tiên, lựa chọn danh mục dự án và mức vốn bố trí cụ thể cho từng dự án trong trung hạn phù hợp với khả năng cân đối vốn đầu tư công và khả năng huy động các nguồn vốn khác để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và định hướng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm. Đối với kế hoạch đầu tư công hàng năm cũng cần được thực hiện theo các quy định liên quan của Luật Đầu tư công và Nghị định số 77/2015/NĐ-CP, về nội dung kế hoạch đầu tư công hàng năm ít nhất cũng phải thể hiện rõ ràng hai nội dung trọng tâm sau: (i) Khả năng huy động và cân đối các nguồn vốn thực hiện trong năm kế hoạch; (ii) Lựa chọn danh mục dự án và mức vốn bố trí cụ thể cho từng dự án phù hợp với danh mục dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung hạn và khả năng cân đối nguồn vốn kế hoạch hằng năm. Thứ ba, UBND TP.HCM cần xây dựng chiến lược đầu tư công trên địa bàn TP.HCM cho từng giai đoạn phát triển của thành phố Việc xây dựng chiến lược đầu tư công thể hiện khả năng hoạch định chính sách và điều hành vĩ mô của UBND TP.HCM đối với sự phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của thành phố trong tương lai. Chiến lược đầu tư công là văn bản do UBND TP.HCM xây dựng và ban hành trên cơ sở Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cần lưu ý rằng, chiến lược tuy là định hướng chương trình hành động trong lĩnh vực đầu tư công để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội của thành phố, nhưng chúng cần được xây dựng một cách nghiêm túc trên cơ sở các nguồn lực hiện có và khả năng huy động nguồn lực trong tương lai, chúng cũng cần được xây dựng trên cơ sở đánh giá năng lực và sức cạnh tranh của TP.HCM so với các đối thủ cạnh tranh trong khu vực, tập trung khai thác được các lợi thế của TP.HCM. Tránh trường hợp chiến lược đầu tư công được xây dựng một cách cảm tính, đưa ra các 102 mục tiêu và các giải pháp thực hiện quá xa vời, phi thực tế và do đó không thể thực hiện được. Chúng tôi cho rằng, giải pháp về huy động vốn nhằm thực hiện các dự án đầu tư công trên địa bàn TP.HCM được nêu trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến năm 2020, tầm nhìn 2025 là một trường hợp điển hình cho tính phi thực tế trong các chiến lược do các cơ quan nhà nước ban hành. Chúng thể hiện sự lạc quan quá mức, biến thành thái quá của người lãnh đạo, kéo theo đó là hàng loạt dự án được phê duyệt nhưng sau đó không thể bố trí đủ vốn, gây nên sự lãng phí nghiêm trọng. Chẳng hạn, theo Quy hoạch trong giai đoạn 2011 - 2015, ngân sách TP.HCM chi cho phát triển trung bình mỗi năm khoảng 40 ngàn tỷ đồng, tuy nhiên trên thực tế con số này chưa đến 20 ngàn tỷ đồng mỗi năm; trong giai đoạn 2016 - 2020 sẽ khoảng 60 ngàn tỷ đồng mỗi năm, trên thực tế trong năm 2016 con số này là 19 ngàn tỷ đồng (đã bao gồm 4 ngàn tỷ đồng vay ưu đãi). Rõ ràng, chiến lược đầu tư công cần được xây dựng một cách thận trọng, đảm bảo tính xác thực và hợp lý nhằm làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn. Chiến lược đầu tư công có thể được xây dựng trong giai đoạn 10 năm, hoặc có thể hơn, trong đó nó cũng cần xác định các dự án và công trình trọng điểm cần tập trung ưu tiên đầu tư. Thứ tư, UBND TP.HCM cần triển khai xây dựng các chương trình đầu tư công mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển mới của thành phố. Chương trình đầu tư công là một tập hợp các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chương trình đầu tư công là sự cụ thể hóa đối với chiến lược đầu tư công, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của thành phố và kế hoạch đầu tư công trung hạn. Đôi lúc chương trình đầu tư công lại là cơ sở để xây dựng nên kế hoạch đầu tư công trung hạn. Riêng trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, trong thời gian qua TP.HCM đã và đang có 04 chương trình đầu tư mà chúng tôi đã có dịp đề cập đến trong mục 2.2.2 của luận văn. Tuy vậy, những chương trình này đã được ban hành từ lâu, chúng đã hết thời hạn trong kế hoạch thực hiện và cũng tỏ ra không còn phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế. Do đó, chúng tôi cho rằng, UBND TP.HCM cần sớm chỉ đạo các cơ quan hữu quan tiến hành xây dựng lại các chương trình đầu tư công mới cho TP.HCM nhằm tập trung phân bổ nguồn vốn cho hiệu quả, đồng thời giải quyết được 103 những vấn đề cấp bách trước mắt, cũng như những vấn đề căn cơ lâu dài trong phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của TP.HCM. Những vấn đề cần được ưu tiên tập trung giải quyết hiện nay của TP.HCM và có thể phát triển thành các chương trình đầu tư công là: (i) Giải quyết vấn đề kẹt xe (không bao gồm việc thực hiện các dự án đường sắt đô thị TP.HCM) và mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất; (ii) Giải quyết vấn đề ngập nước khi xảy ra mưa lớn và triều cường; (iii) Giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường trên và xung quanh các dòng kênh lớn đang chảy qua địa bàn thành phố, tình trạng ô nhiễm không khí do khói bụi quanh các khu và cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố; (iv) Giải quyết vấn đề thu gom, phân loại và xử lý rác thải (bao gồm rác thải sinh hoạt và rác thải công nghiệp) trên địa bàn thành phố, đặc biệt sau khi nhà máy xử lý rác Đa Phước đóng cửa; (v) Chỉnh trang và phát triển đô thị kết hợp với việc mở rộng hẻm và giải quyết các khu nhà “ổ chuột” trên địa bàn thành phố, đặc biệt tại quận 8; (vi) Giải quyết nhà ở xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp và người nhập cư trên địa bàn thành phố; (vii) Giải quyết tình trạng quá tải tại các bệnh viện công thuộc sự quản lý của thành phố. Cần lưu ý rằng, nội dung các chương trình đầu tư công không phải chỉ được thể hiện một cách chung chung, thay vào đó nói thể hiện được rõ ràng các vấn đề sau đây: (i) Sự cần thiết của chương trình để thực hiện các mục tiêu chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; (ii) Mục tiêu, phạm vi và quy mô chương trình; (iii) Dự kiến tổng mức vốn và cơ cấu nguồn lực thực hiện chương trình, bao gồm danh mục dự án hoặc đối tượng đầu tư, khả năng cân đối nguồn vốn đầu tư công, huy động các nguồn vốn và nguồn lực khác; (iv) Dự kiến tiến độ thực hiện chương trình phù hợp với điều kiện thực tế và khả năng huy động các nguồn lực theo thứ tự ưu tiên hợp lý bảo đảm đầu tư tập trung, có hiệu quả; (v) Xác định chi phí liên quan trong quá trình thực hiện và chi phí vận hành sau khi chương trình kết thúc; (vi) Phân tích, đánh giá sơ bộ những ảnh hưởng, tác động về môi trường, xã hội của chương trình, tính toán hiệu quả đầu tư về mặt kinh tế - xã hội của chương trình; (vii) Phân chia các dự án thành phần của chương trình theo quy định của pháp luật; (viii) Các giải pháp tổ chức thực hiện. Khác với chiến lược đầu tư công, các chương trình đầu tư công phải được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định một cách kỹ lưỡng trước khi phê duyệt để đưa vào thực hiện. 104 Thứ năm, UBND TP.HCM cần chỉ đạo các cơ quan có liên quan công bố công khai các thông tin về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM Việc cung cấp thông tin về tình hình đầu tư công, trong đó trọng tâm là việc quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư công trên địa bàn TP.HCM cho công chúng là việc làm quan trọng và mang nhiều ý nghĩa tích cực. Theo chúng tôi, trong khi chờ đợi quy định cụ thể của trung ương về hình thức, nội dung công bố, công khai thông tin về đầu tư công, UBND TP.HCM có thể ban hành văn bản quy định về vấn đề này để áp dụng chung trên địa bàn TP.HCM. Theo đó, UBND TP.HCM có thể yêu cầu Sở KH&ĐT công bố, công khai các thông tin về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM mà cơ quan này có được lên trang thông tin điện tử của cơ quan này, hoặc thiết lập một trang thông tin điện tử riêng do cơ quan này quản lý chuyên cung cấp các thông tin về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, trang thông tin này có các đường link dẫn đến trang thông tin của các Ban quản lý dự án hoặc các cơ quan có liên quan trên địa bàn thành phố. UBND TP.HCM cũng cần yêu cầu các Ban quản lý dự án hiện nay trên địa bàn thành phố cung cấp các thông tin liên quan đến chương trình, dự án mà các đơn vị này đã quản lý lên trang thông tin điện tử của cơ quan này. Các thông tin được công khai có thể là tất cả các thông tin có thể cung cấp, ngoại trừ các thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước. Việc cung cấp thông tin như thế này có thể không giúp ích nhiều cho hoạt động giám sát của nhân dân đối với tình hình đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, nhưng nó có một giá trị khác, đó là thể hiện thái độ tôn trọng và thiện chí của chính quyền đối với người dân, qua đó tạo nên sự đồng thuận trong nhân dân đối với những gì chính quyền đang làm. Nhìn nhận một cách khách quan, những trục trặc trong sự phát triển của TP.HCM ngày hôm nay không chỉ do những bất cập trong công tác QLNN của các cơ quan nhà nước mà còn bắt nguồn tử “chủ nghĩa thuận tiện” trong cách thức xây dựng và sinh hoạt của người dân. Hay nói một cách khác, những gì mà TP.HCM đang có, bao gồm mặt tích cực và hạn chế do kết quả của cả khu vực công và khu vực tư, không thể chỉ đổ lỗi hoàn toàn cho Nhà nước. Nhưng đáng tiếc, thực tế hiện nay cho thấy, đâu đâu cũng nghe người dân “nói xấu” chính quyền, người dân chỉ nhìn vào những cái tiêu cực, cái hạn chế, cái chưa đạt được của chính quyền nói chung, chính quyền TP.HCM nói riêng để đánh giá, tình trạng đổ lỗi 105 cho khu vực công đang diễn ra phổ biến. Đang có sự thiếu vắng một cách nghiêm trọng sự tham gia một cách tích cực và hồ hởi của người dân trong quá trình xây dựng đất nước nói chung, xây dựng TP.HCM nói riêng. Quan sát diễn biến của hàng loạt sự kiện liên quan đến việc “đòi lại vỉa hè” của chính quyền quận 1 trong khoảng thời gian đầu năm 2017 cho thấy tình trạng này, tình trạng thờ ơ của người dân. Dường như người dân đang xem việc giải quyết các vấn đề cấp bách hiện nay của thành phố (bao gồm tình trạng kẹt xe) là việc của chính quyền, hoặc nếu không thì cũng là việc của người khác. Chúng tôi cho rằng điều này là không có lợi cho hầu hết các vấn đề, chứ không riêng gì vấn đề đầu tư công trên địa bàn TP.HCM nhằm giải quyết các vấn đề mà thành phố này đang gặp phải. Do đó, việc công bố, công khai các thông tin về đầu tư công (một lĩnh vực nhạy cảm liên quan đến sử dụng vốn nhà nước, vốn từ trước đến nay luôn được xem là tham nhũng nghiêm trọng nhất) là một động thái tích cực đến từ phía chính quyền, thể hiện thái độ chân thành, thiện chí trong việc phát triển thành phố, giúp người dân phần nào có cái nhìn và thái độ đúng đắn hơn đối với những gì mà chính quyền đang làm và tham gia đóng góp vào sự nghiệp này, thay vì khiếu nại, tố cáo đông người liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi chính quyền thu hồi đất nhằm thực hiện các dự án vì mục đích công cộng như hiện nay. Thứ sáu, UBND TP.HCM cần chỉ đạo Thanh tra TP.HCM, chỉ đạo Thanh tra Sở KH&ĐT thông qua Giám đốc Sở KH&ĐT khi xây dựng kế hoạch thanh tra cho những năm tới ưu tiên cho việc thanh tra các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan trong việc chấp hành pháp luật về đầu tư công Thanh tra, kiểm tra là công cụ quản lý không thể thiếu của chủ thể quản lý, thậm chí thanh tra còn được ví như “tai, mắt” của chủ thể quản lý. Tuy nhiên, như chúng tôi đã đề cập trong mục 2.2.4 của luận văn, UBND TP.HCM đang gần như buông lỏng hoạt động này trong lĩnh vực đầu tư công. Với hàng ngàn dự án, trong đó có không ít dự án có số vốn đầu tư lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng được triển khai mỗi năm, nhưng chỉ một đến một vài cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan đến các dự án được thanh tra mỗi năm, số vi phạm phát hiện được không có hoặc nếu có thì cũng không đáng kể. Do đó, trong thời gian tới, thông qua Thanh tra TP.HCM và Thanh tra Sở KH&ĐT, UBND TP.HCM cần 106 tăng cường số cuộc thanh tra, kiểm tra đối với các dự án đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, đặc biệt đối với các dự án nhạy cảm, tiềm ẩn các nguy cơ sai phạm, các dự án bị báo chí, người dân phản ánh, các dự án phát sinh nhiều đơn thư khiếu nại, tố cáo, đặc biệt khiếu nại đông người của nhân dân. Với số lượng nhân sự của cơ quan thanh tra rất hạn chế, trong khi khối lượng công việc phải thực hiện là tương đối lớn, đòi hỏi các cơ quan thanh tra cần có sự tính toán kỹ lượng trong việc phân bổ số lượng cuộc thanh tra trong năm, ưu tiên cho các cuộc thanh tra, kiểm tra đối với các dự án đầu tư công trên cơ sở cắt giảm, hoặc tạm thời cắt giảm các cuộc thanh tra chưa thực sự cần thiết, không mang tính cấp bách cao. Để làm được điều này đòi hỏi sự nỗ lực, tận tâm và thiện chí của đội ngũ công chức thanh tra. Bởi đây hầu hết là trách nhiệm chủ động, nên rất khó khăn để đánh giá và xử lý các cơ quan thanh tra trong trường hợp họ không đi thanh tra. Thanh tra TP.HCM và Thanh tra Sở KH&ĐT có thể cùng phối hợp với các cơ quan thanh tra khác trên địa bàn, hoặc đề xuất cùng phối hợp với chính Thanh tra Bộ KH&ĐT để thực hiện các cuộc thanh tra, kiểm tra liên ngành nhằm đảm bảo hiệu quả và tránh sự chồng chéo, trùng lắp về nội dung, đối tượng thanh tra sau này. Thứ bảy, UBND TP.HCM cần thành lập một số hội đồng chuyên trách, chuyên thực hiện việc đánh giá độc lập, hoặc thuê các tổ chức tư nhân tiến hành đánh giá độc lập đối với các chương trình, dự án đầu tư công trên địa bàn Bên cạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về đầu tư công không được quan tâm, thì hiện nay công tác đánh giá hiệu quả đầu tư công đối với kế hoach, chương trình, dự án đầu tư công hầu như cũng chưa được UBND TP.HCM quan tâm thực hiện. Điều này cho thấy công tác hậu kiểm trong lĩnh vực đầu tư công đã không được quan tâm một cách thỏa đáng. Dường như hiện nay việc quản lý đầu tư công chỉ tập trung vào khâu tiền kiểm, tức là thực hiện tương đối chặt chẽ và nghiêm túc việc phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đối với chương trình, dự án đầu tư công. Thế nhưng những giai đoạn tiếp theo sau đó lại không được quan tâm, khiến cho các chương trình, dự án đầu tư công rơi vào tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”, hiệu quả thực tế mang lại không đáng kể, gây nên sự lãng phí, thất thoát không đáng có cho nguồn vốn ngân sách. Do đó, theo chúng tôi, để có cơ sở cho việc xử lý các cá nhân, tổ chức có liên quan, cũng như có 107 cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hàng năm và chương trình đầu tư công, UBND TP.HCM cần thuê ngoài các tổ chức đánh giá độc lập, hoặc tự mình thành lập ra các hội đồng đánh giá độc lập đối với các chương trình, dự án đầu tư công trên địa bàn TP.HCM. Trước hết việc đánh giá cần tập trung vào một số dự án lớn đã hoàn thành và các công trình đã đưa vào sử dụng; kế đến là đánh giá các dự án đầu tư công có sử dụng vốn vay ưu đãi hoặc vốn ODA để xem xét hiệu quả của việc sử dụng nguồn vốn này, tránh các gánh nặng nợ nần sau này cho nguồn ngân sách.... Chúng tôi cho rằng, đây là một việc làm cần thiết và cần được quan tâm nghiên cứu để triển khai một cách nghiêm túc vì giá trị mà nó mang lại cho các chủ thể quản lý trong việc cung cấp một cách nhìn chính xác, khách quan và khoa học nhất về thực trạng đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, thay vì chỉ là những nhận định, nhận xét chung chung không mang nhiều giá trị như hiện nay trong các báo cáo của các cơ quan nhà nước. Thứ tám, UBND TP.HCM tập trung giải quyết và chỉ đạo các cơ quan có liên quan cùng tham gia giải quyết các vụ khiếu nại đông người hiện nay trên địa bàn TP.HCM UBND, Chủ tịch UBND TP.HCM và các cơ quan có liên quan cần quan tâm giải quyết thấu tình, đạt lý các khiếu nại của người dân liên quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cho việc thực hiện các dự án đầu tư công để đảm bảo tiến độ của các dự án. Điều này đòi hỏi dự án trước khi quyết định đầu tư cần được đánh giá tác động một cách kỹ lưỡng, cần quan tâm việc lấy ý kiến nhân dân khu vực bị giải tỏa... Hoạt động giải quyết khiếu nại cần tuân thủ nguyên tắc vừa kiên quyết vừa mềm dẻo, tránh gây nên những sự việc đáng tiếc xảy ra. Thứ chín, UBND TP.HCM cần thay đổi cách thức làm quy hoạch hiện nay trên địa bàn thành phố. Cách thức làm quy hoạch hiện nay trên địa bàn TP.HCM vừa làm tăng tính cục bộ của các sở, ngành, quận, huyện, vừa làm giảm kỷ luật và khả năng phối hợp của các cơ quan này với nhau. Kết quả là nguồn lực đầu tư công của thành phố trở nên phân tán, chồng chéo, kém hiệu quả. Do đó, UBND TP.HCM cần có những chỉ đạo quyết liệt nhằm thay đổi cách thức làm quy hoạch kiểu này. Theo đó: (i) Xác định rõ ràng các mục tiêu và ưu tiên của chiến lược đầu tư công để từ đó có cơ sở trong việc loại bỏ những đề xuất đầu 108 tư không thích hợp; (ii) Quy hoạch căn cứ vào nguồn lực thực tế, kiên quyết loại bỏ khỏi quy hoạch những đề xuất đầu tư không có cơ sở rõ ràng và thuyết phục về nguồn lực; (iii) Tuân thủ kỷ luật quy hoạch, không cho phép điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nếu như không có luận cứ xác đáng; (iv) Quy hoạch có tính đến sự điều phối giữa các sở, ngành, giữa các loại quy hoạch phải có đầu mối tổng hợp và phối hợp để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn, phân tán của các quy hoạch. 3.2.4. Tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả quy trình quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ công Quy trình quản lý đầu tư công hiện nay được quy định một cách phân tán và không được thể hiện rõ ràng trong Luật Đầu tư công và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Cần lưu ý rằng, quy trình quản lý đầu tư công không phải là những nội dung QLNN về đầu tư công mà chúng tôi đã đề cập và phân tích trong mục 1.2.4 và 2.2 của luận văn. Quy trình quản lý đầu tư công ở đây được hiểu là những bước hoặc công việc cụ thể mà cơ quan QLNN về đầu tư công và các các cơ quan có liên quan thực hiện nhằm quản lý một chương trình, hoặc dự án đầu tư công cụ thể. Do đó, các bước và quy trình quản lý đầu tư công có thể được thể hiện một phần thông qua việc thực hiện các nội dung QLNN về đầu tư công. Tuy nhiên, vì pháp luật không quy định rõ ràng vấn đề về quy trình quản lý đầu tư công, thế nên những gì liên quan đến vấn đề này hiện đang trong tình trạng rời rạc, vì vậy, thực trạng này cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho hiệu quả đầu tư công trên địa bàn TP.HCM không cao. Điều này chủ yếu bắt nguồn từ việc pháp luật không quy định cụ thể về quy trình quản lý đầu tư công. Do đó, theo chúng tôi, trong thời gian tới, Bộ KH&ĐT cần tham mưu cho Chính phủ ban hành một Nghị định riêng về quy trình quản lý đầu tư công. Theo đó, các quy định của Nghị định này có thể tập trung vào các vấn đề sau: Thứ nhất, thẩm định dự án và kiểm tra việc thẩm định dự án một cách độc lập Việc thẩm định dự án hiện tại đang được giao cho nhiều cơ quan khác nhau, và hiện nay khi khâu thẩm định đang giao về cho Bộ KH&ĐT nhiều hơn đang gây nên sự phàn nàn cho nhiều địa phương về việc phải chờ đợi rất lâu mới được bộ thẩm định. Điều này đòi hỏi Bộ KH&ĐT và thay đổi phương thức hoạt động và cơ cấu tổ chức nhằm đảm bảo thực hiện tốt những nhiệm vụ mới được giao. Điều đáng quan tâm hiện nay không phải là 109 nên giao cho trung ương hay địa phương thẩm định dự án, mà vấn đề là việc cần thiết phải áp dụng các chuẩn mực quốc tế để thẩm định đối với tất cả các dự án đầu tư công. Điều này đòi hỏi Chính phủ phải ban hành một quy chuẩn thẩm định dự án thống nhất để các cơ quan có liên quan áp dụng. Bên cạnh đó, cần áp dụng chế độ thẩm định khác nhau đối với một số nhóm dự án sau: (i) Những dự án có quy mô vốn lớn cần thành lập hội đồng thẩm định độc lập; (ii) Những dự án có tầm quan trọng lớn tuy quy mô vốn có thể không quá lớn nhưng vượt một ngưỡng quy định thì không cần thành lập hội đồng thẩm định độc lập, nhưng cần đánh giá lại kết quả thẩm định một cách độc lập; (iii) Đối với những dự án khác chỉ cần đánh giá lại kết quả thẩm định khi thấy cần thiết. Thứ hai, quy định việc lựa chọn dự án cần phải đi kèm với việc lập dự toán đầu tư Có một điểm đáng quan ngại là hiện nay, trong quản lý đầu tư công có sự tách rời giữa một bên là lựa chọn dự án và lập dự toán với bên bố trí nguồn vốn. Do đó, cần có những quy định rõ ràng cho vấn đề này. Theo đó, cần quy định các nguyên tắc sau: (i) Chỉ được phê duyệt chủ trương đầu tư nếu dự án có phương án bố trí nguồn vốn đầy đủ và có tính khả thi; (ii) Bộ Tài chính cần thẩm định chặt chẽ về khả năng bố trí vốn, đặc biệt đối với các dự án có nguồn vốn đầu tư lớn; (iii) Hạn chế việc ứng trước vốn năm sau cho các dự án đang triển khai trong năm; (iv) Đối chiếu chi phí của dự án đang xem xét với các dự án tương tự trong và ngoài nước, tránh tình trạng kê khống chi phí để rút ruột sau này (tình trạng phổ biến xảy ra trong lĩnh vực xây dựng cơ bản). Thứ ba, quy định các vấn đề cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả việc triển khai các dự án đầu tư công Để hạn chế tình trạng các dự án bị chậm tiến độ, làm gia tăng chi phí đầu tư, cần có các quy định cụ thể về: (i) Thực hiện tốt khâu chuẩn bị dự án, đặc biệt là việc giải phóng mặt bằng, đền bù, hỗ trợ, tái định cư cho người có đất bị thu hồi; (ii) Theo dõi, giám sát, đánh giá thường xuyên tiến độ thực hiện dự án, tiến độ giải ngân hoặc bố trí vốn, và những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án nhằm kịp thời để xuất các giải pháp giải quyết vấn đề; (iii) Tạo điều kiện cho sự tham gia giám sát của người dân đối với dự án. Thứ tư, quy định nhằm thực hiện nghiêm kỷ luật đối với việc điều chỉnh dự án 110 Thời gian qua, không chỉ trên địa bàn TP.HCM mà tại nhiều nơi khác xảy ra tình trạng phổ biến là nhiều dự án đầu tư công phải điều chỉnh nhiều nội dung, đặc biệt là mức đầu tư, điều này gây nên nhiều sự khó khăn cho công tác quản lý nhà nước, cũng như công tác lập kế hoạch và bố trí nguồn vốn. Để giảm thiểu tình trạng này cần quy định: (i) Hạn chế đến mức tối đa việc điều chỉnh tiến độ, dự toán và phương án huy động vốn để buộc chủ đầu tư phải tính toán kỹ lưỡng trước khi thực hiện dự án; (ii) Những dự án đề nghị điều chỉnh phải có đầy đủ cơ sở theo quy định và chúng phải được thẩm định, đánh giá độc lập trước khi chấp thuận; (iii) Quy định rõ ràng trách nhiệm, trường hợp miễn trách nhiệm và chế tài cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc dự án phải điều chỉnh. Thứ năm, cần quy định việc quản lý và vận hành dự án như một bước trong quy trình quản lý đầu tư công Quy định của pháp luật và thực tế hiện nay cho thấy, việc vận hành dự án không được xem là một nội dung thuộc phạm vi QLNN về đầu tư công. Điều này khiến cho tình trạng thất thoát, lãng phí xảy ra một cách nghiêm trọng đối với các dự án đầu tư công. Để khắc phục điều này, cần quy định: (i) Chủ đầu tư phải có trách nhiệm bảo hành các dự án mà họ thực hiện; (ii) Hiệu quả của các dự án là cơ sở để họ được tiếp tục làm chủ đầu tư của các dự án sau (nếu có); (iii) Thực hiện việc đăng ký đối với các tài sản hình thành trong các dự án đầu tư công; (iv) Theo dõi và hạch toán đầy đủ những thay đổi về giá trị của những tài sản được đăng ký trong quá trình vận hành chúng; (v) Theo dõi hiệu quả và chất lượng cung ứng dịch vụ công của dự án đầu tư công; (vi) Dự toán đầy đủ cho chi phí vận hành, bảo trì, bảo dưỡng công trình sau khi dự án hoàn thành. Thứ sáu, quy định cụ thể hơn vấn đề kiểm toán và đánh giá dự án sau khi dự án hoàn thành Cần hiểu rằng việc đánh giá dự án ở đây là một phần trong nội dung đánh giá hiệu quả đầu tư công đã được đề cập trong các phần trên. Tuy vậy, với tư cách là một bước trong quy trình quản lý đầu tư công, bên cạnh quy định bắt buộc về công tác kiểm toán đối với các dự án đầu tư công sau khi hoàn thành thì việc quy định việc đánh giá bắt buộc (do một cơ quan chuyên trách thực hiện, đây có thể chính là cơ quan đã tiến hành đánh giá, thẩm định ban đầu) đối với dự án là điều cần thiết nhằm kiểm điểm lại quá trình thực 111 hiện dự án, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết cho các nhà quản lý trong việc đánh giá hiện trạng đầu tư công trên địa bàn. Mặt khác, việc kiểm toán và đánh giá dự án sau khi hoàn thành cũng giúp chúng ta so sánh dự án với một số dự án tương tự khác ở trong cũng như ngoài nước trên một số nội dung, như chi phí, tiến độ, khả năng của dự án.. 112 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 Trong Chương 3 luận văn đã tập trung làm rõ một số định hướng nhằm hướng đến hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư công và đề xuất giải pháp nhằm khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, bất cập hiện nay trong công tác quản lý nhà nước về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM. Việc hoàn thiện công tác QLNN về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM phải nhằm đảm bảo giúp TP.HCM đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra trong thời gian tới như: (i) phù hợp với quan điểm phát triển của thành phố; (ii) phù hợp với mục tiêu tổng quát về phát triển của thành phố; (iii) phù hợp phương hướng phát triển ngành, lĩnh vực của thành phố; (iv) phù hợp với phương hướng tổ chức không gian phát triển của thành phố. Đồng thời, các giải pháp tập trung vào bốn nhóm vấn đề, gồm: (i) Xây dựng chính quyền đô thị TP.HCM nhằm phù hợp với tình hình thực tiễn của thành phố là một siêu đô thị, đòi hỏi phải có mô hình và cách thức quản lý khác với mô hình hiện tại; (ii) Trong bối cảnh ngân sách cho đầu tư công hạn chế, TP.HCM cần tập trung đầu tư cho một số dự án trọng điểm để giải quyết các bức xúc lớn nhất hiện nay của người dân, đồng thời cũng là những điểm ngẽn trong tăng trưởng của thành phố; (iii) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn thành phố cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm trong các tác quản lý nhà nước về đầu tư thời gian tới nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại trong công tác này; (iv) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trên địa bàn TP.HCM cần có những biện pháp nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả của việc áp dụng quy trình quản lý nhà nước về đầu tư công. 113 KẾT LUẬN Đầu tư công là hoạt động quan trọng của cả quốc gia và từng địa phương. TP.HCM với tư cách là đô thị lớn nhất Việt Nam xét trên nhiều phương diện, tuy vậy thành phố này đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong sự phát triển của mình, trong đó có vấn đề về hệ thống cơ sở hạ tầng đang trở nên quá tải và không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân, cũng như nhu cầu phát triển của thành phố. Điều đó càng khiến cho vấn đề đầu tư công trên địa bàn TP.HCM trở nên quan trọng và có ý nghĩa hơn đối với thành phố. Với tư cách là cơ quan QLNN có thẩm quyền lớn nhất trong hệ thống chính quyền thành phố, UBND TP.HCM đóng vai trò là cơ quan điều hành và quản lý chung đối với vấn đề đầu tư công trên dịa bàn, góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư công hạn chế từ ngân sách thành phố. Tuy nhiên, qua phân tích bảy nhóm nội dung QLNN về đầu tư công của cơ quan này, gồm: (i) Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư công; (ii) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch, quy hoạch, giải pháp chính sách đầu tư công; (iii) Theo dõi và cung cấp thông tin về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; (iv) Đánh giá hiệu quả đầu tư công, kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về đầu tư công; (v) Xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của tổ chức, cá nhân liên quan đến đầu tư công; (vi) Khen thưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thành tích trong hoạt động đầu tư công; (vii) Hợp tác quốc tế về đầu tư công, cho thấy UBND TP.HCM chưa thực hiện tốt trách nhiệm của mình trọng lĩnh vực này. Điều này đã và đang làm giảm hiểu quả đầu tư công trên địa bàn TP.HCM, khiến cho các vấn đề cơ bản của thành phố vẫn chưa thể giải quyết được, thành phố đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các thành phố trong khu vực. Trên cơ sở những phân tích về hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng trong công tác QLNN về đầu tư công của UBND TP.HCM, chúng tôi đã đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả QLNN về đầu tư công trên địa bàn TP.HCM thời gian tới./. 114 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt A. Văn bản quy phạm pháp luật 1. Luật Khiếu nại (Luật số 02/2011/QH13) ngày 11 tháng 11 năm 2011; 2. Luật Tố cáo (Luật số 03/2011/QH13) ngày 11 tháng 11 năm 2011; 3. Luật thi đua, khen thưởng (Luật số 15/2003/QH11) ngày 26 tháng 11 năm 2003 đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 47/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, Luật số 32/2009/QH12 ngày 18 tháng 6 năm 2009 của Quốc hội, Luật số 39/2013/QH13 ngày 16 tháng 11 năm 2013; 4. Luật Đầu tư công (Luật số 49/2014/QH13) ngày 18 tháng 6 năm 2014; 5. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật số 80/2015/QH13) ngày 22 tháng 6 năm 2015; 6. Luật Tiếp cận thông tin (Luật số 104/2016/QH13) ngày 06 tháng 4 năm 2016; 7. Nghị quyết về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 (Nghị quyết số 26/2016/QH14) ngày 10 tháng 11 năm 2016; 8. Nghị định số 90/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng 8 năm 2013 quy định trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao; B. Tài liệu tham khảo 9. Chính phủ (2013), Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm quốc tế về đầu tư công, Hà Nội; 10. Huỳnh Thế Du và các cộng sự (2016), Đánh giá sức cạnh tranh của TP.HCM và gợi ý định hướng chiến lược phát triển đến năm 2025, tầm nhìn 2045, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright, TP.HCM; 11. Võ Đại Lược - Nguyễn Văn Cường (2012), Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý đầu tư công hiện nay, Tạp chí Kinh tế và Chính trị thế giới, Số 6 (194); 115 12. Đặng Thị Minh (2014), Chính sách phát triển trường đại học tư thục ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia; 13. Võ Kim Sơn (2004), Phân cấp quản lý nhà nước - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 14. Nguyễn Đức Thành và Đinh Tuấn Minh (2011), Đổi mới thể chế, cơ chế và những giải pháp chấn chỉnh, hoàn thiện, tái cấu trúc lĩnh vực đầu tư công (Bài thảo luận chính sách CS-07), Trung tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội; 15. Nguyễn Xuân Thành (2013), Vấn đề tranh chấp và giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước trong hoạt động đối tác công - tư tại Việt Nam: Nghiên cứu tình huống dự án BOT Cầu Phú Mỹ và kinh nghiệm quốc tế, Fulbright Economics Teaching Program, TP.HCM; 16. Đỗ Thiên Anh Tuấn (2015), Ghi chú bài giảng 7: Đầu tư công và quản lý đầu tư công ở Việt Nam, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Niên khóa 2015 - 2016, TP.HCM; 17. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2005), Giáo trình quản lý dự án đầu tư, Nxb. Lao động - xã hội, Hà Nội; 18. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2007), Giáo trình Kinh tế đầu tư, Nxb. Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội; 19. Bộ Tư pháp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Đề cương giới thiệu Luật Đầu tư công, Hà Nội; 20. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng; 21. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2013), Thông tin chuyên đề: Đầu tư công, nợ công và mức độ bền vững ngân sách ở Việt Nam, Hà Nội; 22. Nguyễn Cửu Việt - Chủ biên (2014), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức, TP.HCM; 116 23. Ủy ban nhân dân TP.HCM (2012), Quyết định số 1104/QĐ-UBND về giao kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2012 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách thành phố và vốn viện trợ phát triển (ODA), TP.HCM; 24. Ủy ban nhân dân TP.HCM (2013), Quyết định số 630/QĐ-UBND về giao kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2013 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách tập trung, nguồn vốn xổ số kiến thiết và vốn viện trợ phát triển (ODA), TP.HCM; 25. Ủy ban nhân dân TP.HCM (2014), Quyết định số 459/QĐ-UBND về giao kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2014 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách tập trung, nguồn vốn xổ số kiến thiết và vốn viện trợ phát triển (ODA), TP.HCM; 26. Ủy ban nhân dân TP.HCM (2015), Quyết định số 325/QĐ-UBND về giao kế hoạch đầu tư xây dựng năm 2015 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách thành phố và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), TP.HCM; 27. Ủy ban nhân dân TP.HCM (2016), Quyết định số 192/QĐ-UBND về giao kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản năm 2016 (đợt 1) nguồn vốn ngân sách thành phố, nguồn vốn xổ số kiến thiết và nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), TP.HCM; C. Website 28. 20160424124019672.htm; 29. 30. the-gioi-nu-len-ngoi-tre-vuot-gia-359470.html; 31. https://vi.wikipedia.org/wiki/; 32. 33. chuyen-gia-kinh-te-noi-gi; 34. va-phat-trien; 35. 117 36. cong/c/19649602.epi; 37. tphcm.html; 38. Chi-Minh-d-xu-t-thanh-l-p-4-thanh-ph-v-tinh.aspx; 39. cao-nhat-nuoc/1033000.html; 40. 41. 42. 43. tam-my-duc-367942.html; Tiếng Anh 44. Leo Dobes (2013), The World Bank’s public investment management framework, 45. Mark Miller and Shakira Mustapha (2016), Public Investment Management: A public finacial management introductory guide, London; 46. The World Bank (2006), A Diagnostic Framework for Assessing Public Investment Management, Washington D.C; 47. The World Bank (2014), Public Investment Management Systems: An Overview and an Agenda,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dau_tu_cong_tai_thanh_pho_ho_ch.pdf
Luận văn liên quan