Để tăng cương công tác QLNN đối với DVC nói chung và với DVCC
nói riêng chúng ta cần có hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ, với những
bước đi thích hợp. Trên cơ sở những định hướng của Đảng, Nhà nước Lào và
các mục tiêu cụ thể của tỉnh Xiêng Khoảng, nhằm nâng cao chất lượng của
các loại hình DVCC trên địa bàn, nâng cao mức thụ hưởng của người dân cần
lựa chọn những giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế tại địa phương
nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế những yếu kém để không ngừng
nâng cao công tác QLNN đối với DVCC được tốt hơn. Muốn làm được điều
này, trước hết cần thay đổi, nâng cao nhận thức của lãnh đạo, đội ngũ CBCC
trực tiếp thực thi công vụ, trực tiếp cung ứng dịch vụ công cộng chuyển từ tư
duy quản lý sang tư duy phục vụ. Từ việc nhận thức đúng, sẽ là cơ sở để có
những hành động đúng. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ, đó sẽ
là những giải pháp cơ bản nhất đưa kinh tế - xã hội của địa phương phát triển.
Như vậy, trên cơ sở thực trạng công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng
Khoảng mà đề ra những giải pháp hợp lý góp phần xây dựng địa phương, xây
dựng tỉnh trở thành tỉnh đi dầu trong công tác cung cấp các loại hình dịch vụ
công cộng, góp phần xã hội hóa các loại hình dịch vụ này ở mức độ nhanh và
hiệu quả, bền vững.
101 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 707 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho thấy tầm
quan trọng cũng như vai trò của công tác quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trong giai đoạn hiện nay.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đối với người dân, cảm thụ tính ưu việt của xã hội chính là thông qua
những gì họ được thụ hưởng từ dịch vụ xã hội mang lại. Khi con người ngày
càng ý thức rõ rệt hơn quyền lợi của mình, thì thụ hưởng dịch vụ xã hội, dịch
vụ công cộng với chất lượng tốt hơn, trách nhiệm cao hơn là thước đo trực
tiếp đảm bảo quyền con người trong xã hội. Nền kinh tế xã hội của một quốc
gia càng phát triển thì nhu cầu đối với dịch vụ công cộng ngày càng cao và
đòi hỏi cần phải chú trọng nhiều hơn nhằm tạo ra sự công bằng, ổn định và
phát triển xã hội một cách bền vững.
Trong chương 2, tác giả đã trình bày và phân tích thực trạng QLNN đối
với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng trên một số lĩnh vực cụ thể. Trong các lĩnh
vực QLNN về DVCC ở tỉnh thì vấn đề QLNN về quản lý và cung ứng các
loại hình dịch vụ tương đối tốt. Bên cạnh đó các lĩnh vực cung ứng dịch vụ
văn hóa, giáo dục, y tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, nước sạch và vệ
sinh môi trường nông thôn... cũng thực hiện khá tốt, công tác chăm sóc sức
67
khỏe cho người dân được thực đầy đủ và đạt hiệu quả cao, các vấn đề cần có
sự QLNN được đáp ứng kịp thời và đầy đủ. Không chỉ có vậy, trong chương
2, tác giả cũng đã chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của vấn đề
liên quan đến công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh. Trong những nguyên
nhân đó có nguyên nhân trực tiếp, gián tiếp tác động đến hiệu quả QLNN đối
với DVCC ở tỉnh. Tuy nhiên, đứng trên góc độ của QLNN thì có thể tách
bạch ra đâu là nguyên nhân chủ quan, đâu là nguyên nhân khách quan, để từ
đó có hướng phát triển điểm mạnh, khắc phục những tồn tại, yếu kém để góp
phần hoàn thiện QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng Khoảng giai đoạn hiện
nay. Trên cơ sở nắm bắt được những nguyên nhân trên chúng ta có có sở để
đưa ra những giải pháp đúng đắn, góp phần tăng cường và hoàn thiện hơn nữa
công tác QLNN đối với DVCC trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn hiện nay.
Chương 2 chính là cơ sở thực tiễn để từ đó đề xuất các giải pháp tăng cường
quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng sẽ được trình bày và phân tích
trong chương 3.
68
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CÔNG CỘNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
XIÊNG KHOẢNG, NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
3.1 Phương hướng của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển
dịch vụ công cộng
Trong công cuộc CNH, HĐH đất nước Lào hiện nay, Đảng Nhân dân
cách mạng Lào đã đề ra những chủ trương, chú trọng phát triển hoạt động
dịch vụ công, các loại hình dịch vụ công cộng, du lịch, chỉ đạo, ban hành và
tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về dịch vụ công công, dịch vụ du lịch.
Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào VII xác định: Thúc đẩy đầu tư phát
triển các loại hình dịch vụ, địa điểm du lịch, phát triển nguồn nhân lực, củng
cố cơ chế quản lý, các ngành có liên quan; các địa phương phải có kế hoạch
phát triểndịch vụ phù hợp với điều kiện hiện nay. Nội dung này cũng được ghi
nhận trong Điều 30 của Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
(CHDCND) năm 2003.
Nghị quyết của Đảng nhân dân cách mạng Lào đã chỉ rõ phải: Đẩy
mạnh cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong các lĩnh vực trực tiếp liên
quan đến đời sống nhân dân.
Cũng theo đó, các văn kiện của Đảng nhấn mạnh rằng: Đẩy mạnh cải
cách hành chính nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và
năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả,
phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
69
nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của
đất nước.
Chính vì vậy mà trong những năm qua các cơ quan nhà nước, các đơn
vị thực hiện chức năng QLNN đối với các loại hình dịch vụ công không
ngừng đổi mới và hoàn thiện, các loại hình dịch vụ tăng lên cả về số lượng và
chất lượng, đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội. Nhờ chính sách phát triển các
loại hình dịch vụ công cộng, nhiều tiềm năng phát triển của đất nước đã được
các địa phương đưa vào khai thác phát huy giá trị, giải quyết việc làm cho
nhiều lao động, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành khác như:
giao thông, hàng không, xây dựng, bưu điện, ngân hàng theo đó các ngành
văn hóa, xã hội, y tế, có bước phát triển phát triển để phục vụ khách nhân
dân. Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã khẳng định: Dịch vụ công cộng là
một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, góp phần vào nâng cao dân trí, tạo
việc làm và phát triển kinh tế - xã hội và coi phát triển dịch vụ là chiến lược
quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực
hiện CNH, HĐH đất nước, phấn đấu đưa đất nước Lào trở thành trung tâm
phát triển trong khu vực. Nhà nước Lào đã xác định dịch vụ là một ngành
kinh tế hàng đầu, có những nét đặc thù riêng, mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc,
có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Thực hiện chủ trương trên, từ
khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế và hợp tác quốc tế, hoạt
động dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của
đất nước.
Như vậy, được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước tới công
tác cải cách hành chính, các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng cung ứng
dịch vụ công cộng ngày càng hoàn thiện cả về tổ chức bộ máy, cơ chế làm
việc, mục tiêu hướng tới, điều này chính là cơ sở vững chắc cho việc tăng
70
cường hơn nữa công tác QLNN đối với DVCC trên thực tế ở các cơ quan, đơn
vị hiện nay trong bộ máy HCNN.
Có thể thấy tỉnh Xiêng Khoảng trong những năm qua đã có những phát
triển mạnh mẽ về các loại hình dịch vụ công, trong đó có các loại hình dịch vụ
công cộng. Đây là nơi diễn ra các hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng với
tần suất lớn và lượng nhu cầu nhiều, do đó đòi hỏi sự quản lý phải chặt chẽ,
thường xuyên, liên tục hoạt động cung ứng DVCC của các cơ quan và tình
hình sử dụng dịch vụ của đối tượng thụ hưởng. Điều đó đặt ra cho Đảng bộ và
chính quyền tỉnh Xiêng Khoảng cần những chủ trương, định hướng cụ thể đáp
ứng nhu cầu của người dân và tổ chức.
Thứ nhất, về cải cách tổ chức bộ máy và hoạt động của CQNN: Tổng
rà soát và định kỳ rà soát chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và
biên chế hiện có của các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp nhà nước.
Trên cơ sở đó, phân định chức năng QLNN và sự nghiệp công; xóa bỏ chồng
chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chức
và hoạt động của chính quyền đô thị. Tiếp tục thực hiện phân cấp hợp lý giữa
UBND tỉnh cho các Sở ban ngành, cơ quan chuyên môn và UBND các huyện,
bản; bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện có hiệu quả thẩm quyền
được phân cấp. Xây dựng hệ thống theo dõi, đánh giá chất lượng cung ứng
dịch vụ công cộng của các đơn vị sự nghiệp, có so sánh với chất lượng của
các đơn vị do khu vực tư đảm nhiệm. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý,
điều hành của chính quyền cơ sở.
Thứ hai, không ngừng ứng dụng công nghệ thông tin trong cải cách
hành chính, nâng cao chất lượng dịch vụ công cộng
Tin học hóa các quy trình công việc trong nội bộ cơ quan hành chính,
trong giao dịch với các cơ quan hành chính với nhau và trong giao dịch với tổ
chức, cá nhân, đặc biệt là trong hoạt động cung ứng dịch vụ công cộng. Công
71
bố danh mục các dịch vụ công, dịch vụ công cộng trực tuyến trên trang thông
tin điện tử của các cơ quan HCNN. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu
điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính, tổ chức và cá nhân. Bên
cạnh đó, hình thành các cơ sở dữ liệu chung, phục vụ cho công tác quản lý
hành chính nhà nước. Hệ thống một cửa điện tử được triển khai tại các sở,
ban, ngành và UBND các cấp; tích hợp và liên thông, liên kết đồng bộ vào
cổng thông tin điện tử trên toàn tỉnh.
Thứ ba, không ngừng xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức thực hiện nhiệm vụ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ CCVC có chuyên môn, nghiệp vu, hướng tới
chuyên nghiệp hoá, hợp lý về cơ cấu gắn với vị trí việc làm trên cơ sở xác
định rõ về chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị. Từng bước xây
dựng hệ thống vị trí chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ cán bộ CCVC, kể cả cán
bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Đi đôi với vấn đề này là tiếp tục hoàn thiện
chế độ tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực
và phẩm chất của CCVC trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo
nguyên tắc cạnh tranh; thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí phù
hợp. Xây dựng cơ chế đánh giá cán bộ CCVC theo kết quả công việc; xây
dựng cơ chế trả thu nhập và khen thưởng theo kết quả hoàn thành công việc;
vinh danh cán bộ CCVC tiêu biểu. Đây cũng chính là chủ trương xây dựng và
phát triển người cán bộ mẫu mực trong chủ trương về công tác cán bộ ở tỉnh
Xiêng Khoảng trong thời gian qua.
Thứ tư, không ngừng cải cách thủ tục hành chính
Thường xuyên rà soát, đơn giản và kiến nghị cấp có thẩm quyền thực
hiện đơn giản hóa TTHC trên tất cả các lĩnh vực QLNN, trọng tâm là những
TTHC còn phiền hà, liên quan trực tiếp đến người dân. Những lĩnh vực tập
trung là: Đầu tư xây dựng; đất đai; y tế; giáo dục; việc làm; và các lĩnh vực
72
khác theo yêu cầu thực tiễn. Cải cách TTHC trong nội bộ từng cơ quan, đơn
vị và giữa các cấp với nhau. Công khai minh bạch tất cả thủ tục hành chính
dưới các hình thức thiết thực và thích hợp.
Thứ năm, về cải cách thể chế hành chính: Thường xuyên rà soát, sửa
đổi và hoàn thiện hệ thống thể chế quản lý hành chính của tỉnh trên nguyên
tắc đảm bảo tính thống nhất với các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Trung ương, thông suốt trên toàn tỉnh và phù hợp với quá trình phát triển kinh
tế, xã hội của địa phương và cả nước; Xây dựng quy định về việc lấy ý kiến
của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách quan trọng và thực hiện
quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước; Nghiên
cứu, đề xuất cấp có thẩm quyền cho phép triển khai các chính sách đặc thù
của tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, hiện đại và phù
hợp với điều kiện thực tiễn về QLNN của chính quyền trên cơ sở điều kiện tự
nhiên và tính đặc thù của tỉnh Xiêng Khoảng trong phát triển hiện nay.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với dịch vụ
công cộng trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào
3.2.1. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước
đối với các dịch vụ công cộng
Để nâng cao chất lượng cung ứng DVCC, cơ cấu tổ chức của cơ quan
cung ứng dịch vụ phải được sắp xếp hợp lý, gọn nhẹ trên cơ sở xác định số
lượng các đầu việc phù hợp. Tổ chức biên chế và cơ cấu các phòng ban khoa
học và hợp lý. Việc đổi mới cơ cấu tổ chức của các CQNN cung ứng DVCC
là yêu cầu tất yếu, các tổ chức cung ứng DVCC phải bảo đảm các nguyên tắc
hoạt động của bộ máy hành chính, bao gồm:
- Tuân thủ các quy tắc, quy trình và nhiệm vụ của tổ chức;
- Có sự phân công và chuyên môn hoá trong công việc;
73
- Xác định rõ vị trí công việc và trách nhiệm;
- Bảo đảm sự kiểm tra chặt chẽ của cấp trên đối với cấp dưới, cũng như
sự kiểm tra của người quản lý đối với từng nhân viên;
- Định hình tổ chức căn cứ vào quy mô, chức năng, khách hàng, kiến
thức và kỹ năng;
- Bảo đảm sự thống nhất theo chiều dọc và chiều ngang;
- Bảo đảm sự phối hợp giữa các bộ phận và các cá nhân.
Như vậy, cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội, nhất là trong
giai đoạn hiện nay ở tỉnh Xiêng Khoảng ngày càng năng động, đòi hỏi tổ chức
cung ứng DVCC phải linh hoạt, sáng tạo, hướng tới khách hàng nên cần được
đổi mới về tổ chức và cơ chế hoạt động theo xu hướng sau:
Thứ nhất, cần tăng cường sự phân công, phân cấp nhiệm vụ và quyền
hạn cho các tổ chức cung ứng DVCC, bảo đảm tính tự chủ hoạt động cho các
tổ chức, giảm bớt sự lưu chuyển hồ sơ giữa các khâu trong bộ máy. Việc phân
công, phân cấp cho các tổ chức cung ứng DVCC có các ưu thế như:
- Các tổ chức trực tiếp cung ứng dịch vụ có đầy đủ thẩm quyền trong
việc cấp các DVCC cho công dân. Vì các tổ chức gần dân nhất, nắm bắt được
các yêu cầu của dân và trực tiếp thực thi hoạt động cung ứng dịch vụ;
- Động viên và thúc đẩy tổ chức đó cũng như các công chức trong tổ
chức về mặt tinh thần, thể hiện sự tin tưởng của cấp trên vào cấp dưới, khẳng
định quyền hạn của tổ chức cung ứng DVCC trước xã hội;
- Các tổ chức phải chịu trách nhiệm cao hơn trước khách hàng. Đặt các
tổ chức và cán bộ, công chức, viên chức trước một trách nhiệm trước khách
hàng và phải chịu trách nhiệm về những DVCC mà họ cung ứng cho người
dân và tổ chức;
- Tăng cường tính tự chịu trách nhiệm trước cơ quan cấp trên, tự giải
quyết các vấn đề đặt ra trong phạm vi quyền hạn và trách nhiệm được giao.
74
Thứ hai, cần thiết lập tổ chức tinh gọn, có tính chuyên nghiệp, chuyên
môn hoá cao và hướng vào kết quả thiết thực
Các cơ quan, đơn vị, tổ chức cung ứng DVCC cần gọn nhẹ, càng ít tầng
nấc càng tốt. Các tổ chức cần xây dựng một cơ chế làm việc năng động hướng
vào kết quả, phải hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật, tuân thủ
các thủ tục do pháp luật đề ra; đặt ra mục tiêu của tổ chức mình và khuyến
khích mọi biện pháp thực hiện để có kết quả tốt nhất đạt được mục tiêu đề ra.
Thứ ba, tăng cường quản lý chặt chẽ chất lượng dịch vụ được cung
ứng.
Sản phẩm cuối cùng của DVCC là các loại hình dịch vụ do cơ quan
hành chính nhà nước cấp cho tổ chức, công dân. Chất lượng DVCC được đo
bằng sự thoả mãn của khách hàng, do đó kiểm tra chất lượng DVCC không
chỉ kiểm tra sản phẩm cuối cùng thu được mà là một quá trình kiểm tra chất
lượng toàn bộ, liên quan đến toàn bộ quy trình và các yếu tố tham gia vào
việc cung ứng dịch vụ. Vì vậy, cơ chế bảo đảm quản lý chất lượng DVCC cần
quán triệt các yếu tố và quá trình như:
- Tiếp nhận các hồ sơ đầu vào đủ và đúng yêu cầu quy định, bao gồm
cả việc xác định rõ các hồ sơ có thể thay thế;
- Xác định rõ các khâu xử lý và yêu cầu đặt ra đối với từng khâu;
- Bảo đảm cung ứng đầy đủ, rõ ràng các thông tin mà khách hàng cần;
- Bảo đảm điều kiện tiếp đón và thái độ của cán bộ, công chức, viên
chức trực tiếp giao dịch với khách hàng ở mức tốt nhất có thể được;
- Xây dựng bộ quy chuẩn, các thủ tục đơn giản, dễ thực hiện;
- Định mức thời gian chờ đợi ngắn, hoàn trả kết quả cho khách hàng
đầy đủ, đúng thời gian quy định, không bị sai sót và nhầm lẫn;
Như trên là các yêu cầu, các tiêu chí mà đơn vị cung ứng DVCC cần
quan tâm và lưu ý trong quá trình cung ứng dịch vụ. Các cơ quan QLNN cần
75
bám sát vào đó để có thể kiểm tra và giám sát việc cung ứng dịch vụ của đơn
vị có đúng và đạt yêu cầu hay không.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý
dịch vụ công cộng
Trong công tác QLNN đối với các DVCC thì Nhà nước cần phải tỏ rõ
là người chủ, là nơi cung ứng gần như toàn bộ các DVCC cho xã hội, điều đó
có nghĩa là Nhà nước phải không ngừng tăng cường sự hiện diện của mình
trong công tác quản lý, cung ứng DVCC cho xã hội. Đồng thời, hệ thống pháp
luật cần đưa ra các quy định rõ ràng, cụ thể, chỉ ra những điều cấm và những
điều giới hạn cấm thực hiện hoạt động cung ứng dịch vụ ở những lĩnh vực
khác nhau. Quyền tự do, bình đẳng trong sử dụng và thụ hưởng dịch vụ của
các chủ thể phải được đảm bảo bằng một hệ thống các quyền tự do. Nhà nước
phải đảm bảo được tính thống nhất trong cả nước, tránh hạn chế đáng tiếc đối
với các quyền tự do của công dân và các tổ chức.
Trong quản lý xã hội hiện nay ở nước CHDCND Lào nói chung và tỉnh
Xiêng Khoảng nói riêng đặt ra yêu cầu cần có một loạt văn bản pháp luật quy
định về các loại hình dịch vụ, chủ thể cung ứng và đối tượng thụ hưởng,.
Như vậy, việc xây dựng cơ chế pháp lý phù hợp để đảm bảo các cơ quan hành
chính nhà nước thực hiện tốt chức năng QLNN đối với DVCC là nhu cầu cần
thiết và chính đáng. Ban hành và hoàn thiện một hệ thống văn bản pháp luật
về DVCC là yêu cầu đảm bảo cho công tác QLNN đối với xã hội được tốt
hơn, hoàn thiện hơn.
Đối với công tác QLNN thì công cụ quản lý quan trọng nhất chính là hệ
thống pháp luật. Pháp luật là công cụ không thể thiếu được để Nhà nước thực
hiện chức năng quản lý vĩ mô đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đời
sống xã hội. Hiện nay, cơ chế thị trường đòi hỏi phải có luật cụ thể, rõ ràng,
đầy đủ và có hệ thống, có cơ chế tài phán phù hợp... Chính từ những yêu cầu
76
nói trên mà hiện nay tỉnh Xiêng Khoảng muốn quản lý các hoạt động cung
ứng DVCC được hiệu quả thì trước tiên cần có Luật điều chỉnh, sau đó cần có
các văn bản hướng dẫn thi hành trong công tác QLNN về DVCC. Ngoài ra,
tỉnh Xiêng Khoảng cũng cần có cơ chế riêng để các cơ quan QLNN có chức
năng ban hành những văn bản mang tính độc lập để giải quyết những công
việc đặc thù và chủ động hơn nữa trong việc thực hiện QLNN đối với DVCC
trên địa bàn tỉnh.
Để làm được điều đó, các cấp lãnh đạo đơn vị, cá nhân cán bộ, công
chức trực tiếp thực hiện nhiệm vụ, trong quá trình quản lý cần nắm chắc các
dịch vụ mà cơ quan cung ứng cho xã hội, hiểu rõ và tường tận các thuận lợi,
khó khăn khi tiến hành quản lý. Từ đó có những báo cáo, rút kinh nghiệm
trong quá trình quản lý, đưa ra những ưu điểm và hạn chế cụ thể, để làm căn
cứ đề xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản, bổ sung và hoàn thiện hệ
thống văn bản QLNN đối với lĩnh vực DVCC còn chưa được điều chỉnh. Như
vậy, xuất phát từ tình hình thực tiễn công tác QLNN trên địa bàn tỉnh mà đề
xuất cấp có thẩm quyền ban hành văn bản QLNN, đây sẽ là con đường đúng
nhất, phản ánh chân thực nhất tình hình hiện nay đối với lĩnh vực quản lý.
3.2.3 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ, công chức quản lý về dịch vụ công cộng
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định đến sự thắng lợi
của các hoạt động trên mọi lĩnh vực. Tăng cường QLNN, nâng cao chất lượng
cung ứng dịch vụ công cộng cũng không ngoại lệ, yếu tố con người luôn được
xem là yếu tố hàng đầu, có tính quyết định tới chất lượng của dịch vụ. Xét
đến cùng thì cho dù thủ tục đơn giản, quy trình được tổ chức khoa học, thuận
tiện như thế nào đi nữa nhưng nếu không có đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức (CBCCVC) đủ năng lực, phẩm chất đạo đức thì khó có thể thực hiện
thành công được. CBCCVC là người trực tiếp giao dịch với các tổ chức và
77
công dân, thể hiện hình ảnh của Nhà nước trước người dân. Thông qua kết
quả giải quyết công việc của họ, người dân có thể đánh giá chất lượng giải
quyết và năng lực của cơ quan hành chính. Ngoài ra, thái độ phụ vụ của
CBCCVC cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình cảm, niềm tin, sự hài lòng của
nhân dân đối với bộ máy nhà nước, phản ánh một cách cụ thể mối quan hệ
của nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, việc nâng cao năng lực và thái độ
phục vụ của đội ngũ CBCCVC này là điệu kiện quan trọng để cơ chế vận
hành tốt, để Nhà nước phục vụ nhân dân được tốt hơn, xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp giữa Nhà nước và nhân dân. Nâng cao năng lực, đạo đức và thái độ
phục vụ của CBCCVC ở tỉnh hiện nay là giải pháp quan trọng đối với công
tác QLNN nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công cộng của UBND tỉnh
Xiêng Khoảng và của UBND các huyện, các Sở, Ban ngành trong tỉnh.
Thứ nhất, nâng cao đạo đức công vụ
Để không ngừng rèn luyện và nâng cao đạo đức của công chức, các tổ
chức cung ứng dịch vụ công cần quan tâm đến các biện pháp như: Đề ra các
tiêu chuẩn rõ ràng về đạo đức công chức, các tiêu chuẩn này cần được thể chế
hoá bằng các văn bản pháp luật; Tất cả công chức đều phải được giới thiệu
chi tiết về các tiêu chuẩn đạo đức; Công chức phải biết rõ quyền và trách
nhiệm của mình nếu để xảy ra sai phạm; Công chức phải có bản cam kết thực
hiện các tiêu chuẩn về đạo đức; Các quyết định đưa ra phải gắn với trách
nhiệm cá nhân cụ thể; Cần xây dựng cơ chế quy trách nhiệm rõ ràng trong
cung ứng dịch vụ công; Người quản lý cần biểu dương và khuyến khích các
tấm gương về đạo đức; Ý thức đạo đức của công chức phải được đề cao trong
các chính sách cũng như trên thực tế; Có các quy định và biện pháp xử lý
thích hợp đối với những vi phạm về đạo đức. Đặc biệt cần xử lý nghiêm minh
các hành vi nhận hối lộ, tham nhũng trong đội ngũ công chức thực thi các
dịch vụ công.
78
Thứ hai, nâng cao kiến thức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho
CBCCVC
Đối với công tác cán bộ, tỉnh Xiêng Khoảng cần đặc biệt chú ý tới các
vấn đề như tuyển dụng, sử dụng và đào tạo cán bộ, công chức, viên chức,
phải chọn lọc ngay từ khâu đầu tiên. Lựa chọn những người vững về chuyên
môn để xử lý các công việc liên quan đến dịch vụ công cộng theo yêu cầu của
khách hàng, bảo đảm tính chính xác và nhanh chóng; Bố trí công việc phù
hợp với chuyên môn và năng lực của mỗi người nhằm tạo điều kiện cho cán
bộ, công chức phát huy tốt nhất khả năng của mình. Nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ: Định kỳ tổ chức các khóa đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho cán
bộ CCVC về kỹ năng ứng xử khi tiếp xúc với khách hàng, khả năng thực hiện
thành thạo công việc với kỹ thuật công nghệ hiện đại, kỹ năng xử lý công việc
khoa học, đồng thời lập kế hoạch cử cán bộ trẻ có năng lực đi đào tạo chuyên
sâu về nghiệp vụ nhằm xây dựng đội ngũ giỏi làm nòng cốt cho đơn vị. Quan
tâm, tạo điều kiện cử công chức đi học cập nhật các kiến thức mới, nắm bắt
kịp thời các quy định, nghiệp vụ và kỹ năng mới phục vụ cho công việc, nhất
là việc sử dụng máy vi tính, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới về chuyên môn.
Có các biện pháp hướng dẫn, bồi dưỡng tại chỗ về chuyên môn đối với các
công chức trẻ dưới hình thức trao đổi, báo cáo, kèm cặp...Khuyến khích sự
tham gia của công chức vào hoạt động QLNN để tích lũy kinh nghiệm và phát
triển thế hệ kế cận.
Người quản lý có các biện pháp kiểm tra chất lượng hoạt động của
công chức, đánh giá công chức định kỳ về chất lượng chuyên môn, xây dựng
hệ thống tiêu chuẩn đánh giá công chức để bảo đảm ghi nhận đúng đắn công
lao đóng góp của mỗi người, kịp thời phát hiện và uốn nắn các sai sót, động
viên, khuyến khích đối với những kết quả tốt trong công việc. Tổ chức cần
thường xuyên khuyến khích và phát huy các sáng kiến của công chức trong
79
cải tiến chuyên môn, nghiệp vụ, ứng dụng và phổ biến rộng các sáng kiến
hay. Tăng cường sự tham gia và tính chủ động của công chức, tạo cho công
chức phạm vi hoạt động độc lập trong công việc và đánh giá họ dựa trên cơ sở
kết quả cuối cùng. Cách làm này có tác dụng: Nâng cao tính trách nhiệm của
công chức đối với kết quả cuối cùng; Tạo cho công chức sự chủ động lớn hơn
trong công việc; Mở rộng phạm vi hoạt động của công chức, làm cho mỗi
người có thể thực hiện nhiều công đoạn khác nhau chứ không bị giới hạn
trong một khâu nhất định; Dễ xác định kết quả, dễ kiểm tra đánh giá công
việc thực hiện của mỗi người căn cứ vào số lượng, chất lượng sản phẩm làm
ra.
Thứ ba, cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC
Cần quan tâm, tạo động lực khuyến khích CBCCVC phát huy năng lực,
tận tâm phục vụ nhân dân vì lợi ích chung. Tiến hành xây dựng các tiêu chí
đánh giá kết quả thực hiện công việc của CBCCVC, trên cơ sở đó tiến hành
đánh giá CBCCVC hàng năm và xét khen thưởng hay kỷ luật. Mỗi đơn vị cần
xây dựng chế độ thưởng, phạt rõ ràng. Biểu dương và khuyến khích về vật
chất và tinh thần đối với những CBCCVC hoàn thành tốt nhiệm vụ, sáng tạo
và có nhiều đóng góp. Cơ quan, đơn vị, tổ chức nên tạo ra một môi trường
khuyến khích công chức phát huy năng lực và phẩm chất của mình. Cụ thể
như:
- Có các khuyến khích thoả đáng đối với công chức về vật chất và tinh
thần theo công lao đóng góp của công chức;
- Đề cao giá trị đạo đức của người công chức;
- Tạo cho công chức sự tự chủ trong công việc và khả năng ứng xử
trước những tình huống xảy ra;
- Tạo môi trường làm việc đoàn kết, tin tưởng, phối hợp và giúp đỡ lẫn
nhau;
80
- Tạo điều kiện làm việc đây đủ và tốt nhất có thể được cho công chức;
Tạo môi trường giao tiếp và bình đẳng trong đối xử với công chức;
- Quan tâm đến đời sống cá nhân của công chức (hoàn cảnh gia đình,
sức khoẻ, việc đi lại...);
Từng bước đổi mới chính sách tiền lương công chức, bảo đảm để công
chức có thể sống ở mức trung bình khá trong xã hội. Cần có chế độ chính sách
tiền lương, thưởng, phạt nghiêm minh, ghi nhận các nỗ lực đóng góp của cán
bộ CCVC để tôn vinh giá trị của họ, được như vậy, công chức mới yên tâm
công tác và dành tâm lực cho công việc.
Quan tâm đến các chính sách đãi ngộ, quyền lợi của cán bộ CCVC; các
chế độ bảo hiểm, chăm sóc sức khỏe, tham quan nghỉ mát hang năm cũng là
một trong những yếu tố góp phần động viên và tạo sự gắn bó lâu dài của cán
bộ CCVC với tổ chức.
3.2.4. Xã hội hóa dịch vụ công cộng trên các lĩnh vực
Xã hội hoá DVCC nằm trong sự quản lý của nhà nước. Nhà nước quản
lý các hoạt động xã hội hoá thông qua hệ thống chính sách và pháp luật, qua
hoạt động chấp hành và điều hành của hệ thống các cơ quan hành chính nhà
nước. Để xã hội hoá DVCC được hiệu quả, cần phải tăng cường QLNN đối
với hoạt động này. Trong những năm qua, vấn đề xã hội hóa DVC nói chung,
xã hội hóa DVCC nói riêng không chỉ được đề cập trong các văn bản mang
tính chất định hướng của Đảng và Nhà nước, mà còn được sự quan tâm phía
người dân. Trong đó, vai trò cung ứng DVCC của các đối tượng sẽ có sự thay
đổi: chuyển từ sự độc quyền của Nhà nước sang hướng mở rộng cung ứng các
dịch vụ này ra ngoài khu vực nhà nước nhằm khai thác nguồn lực của xã hội
để cùng thực hiện mục tiêu cải thiện chất lượng cung ứng DVCC. Phá bỏ sự
độc quyền của Nhà nước, một mặt sẽ giảm tải được gánh nặng cho các cơ
quan công quyền, mặt khác huy động được các nguồn lực trong xã hội.
81
Không chỉ vậy, xã hội hóa còn được hiểu là quá trình để mọi người
được tham gia bình đẳng vào môi trường lành mạnh, được thụ hưởng những
lợi ích công bằng do dịch vụ công cộng đem lại. Xã hội hóa dịch vụ công
cộng đem lại những lợi ích không hề nhỏ. Việc thay đổi nhận thức về vai trò
của Nhà nước đối với các DVCC - lĩnh vực mà trước đây chỉ có Nhà nước
đảm trách - thì hiện nay đã đã chuyển giao một phần cho các tổ chức ngoài
nhà nước. Có thể kể đến các DVC như: dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự
nghiệp công, cung ứng dịch vụ về văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, đã từng
bước được thừa nhận hiệu quả. Điều đó đã từng bước thể hiện tính đúng đắn
của chủ trương xã hội hóa mạnh mẽ DVCC trên phạm vi rộng khắp.
Tuy nhiên, chúng ta cần thiết phải xác định rõ mục tiêu mà công cuộc
cải cách DVCC hướng tới là chất lượng dịch vụ chứ không phải là mức độ xã
hội hóa. Xã hội hóa loại hình dịch vụ này chỉ là phương thức để đạt được chất
lượng DVCC như mong muốn. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm cung ứng
những lĩnh vực mà khu vực tư không tham gia hoặc chưa tham gia. Ở nước
CHDCND Lào hiện nay cung ứng DVCC vẫn phụ thuộc phần lớn vào Nhà
nước vì khu vực tư chưa đủ năng lực để cung cấp tốt các dịch vụ này. Do vậy,
cần phải xác định được lĩnh vực nào cần xã hội hóa và xã hội hóa ở cấp độ
nào thì đem lại hiệu quả tốt nhất cho người dân, chứ không vì tiêu chí xã hội
hóa mà không quan tâm tới chất lượng dịch vụ. Muốn đảm bảo chất lượng
cung ứng DVCC đồng thời mở rộng chuyển giao việc cung ứng dịch vụ này
cho khu vực tư nhân, Nhà nước cần phải có cơ chế thích hợp.
Trước hết, hoàn thiện pháp luật một cách đồng bộ về bộ máy nhà nước,
trao thẩm quyền cụ thể cho từng loại cơ quan thực hiện quản lý và cung ứng
dịch vụ công. Đặt ra chế tài xử lý vi phạm cùng với cơ chế bảo đảm thực hiện
các chế tài đó khi có hành vi vi phạm. Đồng thời với nó thì chế độ chịu trách
nhiệm phải được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Cùng với việc đặt ra
82
hệ thống tiêu chuẩn chất lượng thì trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong
cung ứng DVCC phải được nâng cao. Nên đề cao trách nhiệm cá nhân đồng
thời đặt ra cơ chế giải trình hợp lý.
Các DVCC hiện nay cần có cơ chế quản lý mới, mang tính chất đặc thù
để tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Trên địa bàn tỉnh
Xiêng Khoảng hiên nay cần phải thúc đẩy và đẩy mạnh hơn nữa công tác xã
hội hóa dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ tác động đến số đông người dân và tổ
chức, mang lại hiệu quả sâu rộng như các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, vệ
sinh môi trường, giao thông vận tải,
Đối với lĩnh vực y: tế cần đẩy mạnh hơn nữa sự tham gia của người dân
và doanh nghiệp, tổ chức có đủ năng lực tài chính, năng lực nhân sự, chuyên
môn để hoạt động chăm sóc sức khỏe của người dân, hoạt động khám chữa
bệnh được lan rộng và phát triển rộng khắp, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng
tính cạnh tranh trong lĩnh vực chắm sóc và bảo vệ sức khỏe của người dân.
Thông qua việc xã hội hóa này, chúng ta có thể quản lý tốt hơn các loại hình
dịch vụ y tế, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua hệ thống
các tiêu chuẩn của ngành. Đồng thời, sự phát triển của ngành góp phần giải
quyết gánh nặng, giảm tải sức ép cho các bệnh viện công hiện nay. Bên cạnh
đó, việc quản lý và thu thuế các cơ sở y tế tư nhân cũng mang lại nguồn thu
cho ngân sách nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển.
Đối với lĩnh vực văn hóa, giáo dục: Ưu tiên phát triển các cơ sở giáo
dục các bậc học, đầu tư chú trọng phát triển ở các ngành học có xu hướng và
chất lượng cao như kinh tế, đầu tư, công nghệ, y dược,Đẩy mạnh hơn nữa
công tác phát triển hệ thống trường học tư thục, các bậc học từ mầm non, đến
trung học cũng mở rộng thu hút nguồn lực từ phía ngoài nhà nước. Nhà nước
chỉ quản lý và giám sát hoạt động cảu các cơ sở này thông qua các công cụ
quản lý nhà nước. Đồng thời, khởi dậy và phát huy văn hóa bản sắc của dân
83
tộc, tiếp thu văn hóa tiến bộ của thế giới, tiếp thu nền giáo dục của tiên tiến
của nước ngoài thông qua các tổ chức giáo dục và thông qua con đường du
học.
Đối với lĩnh vực cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, công ty
chiếu sáng đô thị, vận tải hành khách, Trong những năm qua bước đầu
được triển khai với nhiều kết quả khả quan. Các công ty tư nhân thực hiện
chức năng mọc lên khá nhiều, điều này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt nền
kinh tế - xã hội ở tỉnh, góp phần vào sự nghiệp chung của cả nước. Trực tiếp
thay đổi cơ cấu trong sản xuất và phát triển kinh tế của địa phương.
Như vậy, Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ chốt trong cung ứng DVCC.
Vấn đề đặt ra là đồng thời với việc thúc đẩy xã hội hóa DVCC, thì chính các
cơ quan hành chính nhà nước phải tự nâng cao chất lượng phục vụ người dân.
Nhà nước phải là người có trách nhiệm điều tiết DVCC. Trách nhiệm này
nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các vùng miền, giữa các huyện, các sở ban
ngành trong tỉnh bằng cách hỗ trợ cho những khu vực có điều kiện kinh tế,
môi trường sống khó khăn hơn như khu vực miền núi, vùng nông thôn, khu
vực có nhiều người dân tộc thiểu số sinh sống. Có như vậy mới thực hiện
thành công cuộc CCHC nhà nước. Điều đó cho thấy vai trò QLNN đối với
DVCC ở chính quyền tỉnh là hết sức quan trọng, nhất là đối với cấp huyện.
3.2.5. Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng dịch vụ công
cộng
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,
trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ dạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu; Nhà nước chỉ thực
hiện ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực sản phẩm;
một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, khắc phục
84
những rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa bởi vậy phương
thức tổ chức quản lý và cung ứng DVCC cũng phải chuyển sang hướng xã hội
hoá tiếp cận thị trường mới phù hợp.
Nhà nước và các cơ quan chức năng quản lý cung cấp DVCC phải là
người chịu trách nhiệm duy nhất việc bảo đảm cung cấp DVC cho xã hội theo
các nguyên tắc vốn có. Các cơ quan chức năng quản lý, cung cấp DVCC như
cấp tỉnh, cấp huyện, phải chịu trách nhiệm, nhưng cuối cùng của việc đảm
bảo cung cấp DVCC cho xã hội vẫn phải là các cơ quan cao nhất ở tỉnh.
Trong một hoạt dộng cung cấp DVCC có nhiều cơ quan chức năng
tham gia, phải lấy kết quả cuối cùng làm căn cứ, phải quy định rõ một cơ
quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc bảo đảm cung cấp DVCC để một
khi có xảy ra các vấn đề bất ổn trong đảm bảo cung cấp DVCC thì cơ quan
chịu trách nhiệm cuối cùng phải là người chịu trách nhiệm toàn bộ; tránh tình
trạng có thành tích tốt thì cơ quan nào cũng tranh, nhận về mình, khi có sự cố
xấu thì đổ lỗi, đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Để làm tốt việc đổi mới cơ chế
quản lý và phương thức hoạt động về DVCC, vấn đề cốt lõi là phải có cách
đánh giá chính xác kết quả của các quyết định QLNN đối với DVCC. Từ đó,
tác giả đề xuất hai hướng đánh giá kết quả của các quyết định cơ bản sau:
Thứ nhất, về các nguyên tắc đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với
DVCC khoa học, chuẩn xác. Để thực hiện tốt theo phương án này, chúng ta
cần thực hiện theo các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc các quyết định ban hành phải đảm bảo tính hợp pháp và
hợp lý. Điều đó có nghĩa là khi một quyết định ban hành của nhà quản lý phải
đảm bảo phù hợp với pháp luật hiện tại, phù hợp với các văn bản quản lý của
nhà nước đã có và không được đi ngược lại hoặc chồng chéo lên các văn bản
trước đó ban hành liên quan đến vấn đề. Đó là đảm bảo tính hợp pháp. Đồng
thời, quyết định ban hành ra cũng phải đảm bảo tính hợp lý, phù hợp với thực
85
tiễn cuộc sống, xuất phát từ thực tiễn của vấn đề cần có quyết định để giải
quyết, có hiệu quả nhất định trên thực tế. Có như vậy quyết định ban hành ra
mới có kết quả cao và chính xác nhất, khoa học nhất.
Nguyên tắc vê mối quan hệ giữa mục tiêu và tiêu chuẩn đánh giá. Theo
nguyên tắc này, tiêu chuẩn đánh giá được định ra trên cơ sở mục tiêu. Mục
tiêu khác nhau, tiêu chuẩn đánh giá cũng khác nhau, mục tiêu thay đổi, tiểu
chuẩn đánh giá cũng thay đổi theo. Tiêu chuẩn đánh giá phải được xem như là
thước đo để thực hiện các mục tiêu.
Bên cạnh đó, để có một quyết định quản lý đối với DVCC phù hợp, đạt
kết quả cao còn cần lưu ý tới các nguyên tắc khác như: Nguyên tắc về sự
thống nhất lợi ích, nguyên tắc về tính khoa học và chính xác, nguyên tắc về
tính đơn giản và tính thực té, dễ hiểu dễ áp dụng, nguyên tắc so sánh,
Thứ hai, là phương pháp đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với
DVCC và kết quả hoạt động của các tổ chức công chuẩn xác. Đây là tổng thể
các cách thức có thể và có chủ đích của người đánh giá trong việc vận dụng
các nguyên tắc đánh giá về và việc chính xác kết quả hoạt động QLNN đối
với DVCC và kết quả hoạt động của tổ chức công. Để thực hiện theo phương
pháp này, chúng ta cần lưu ý tới các vấn đề định lượng và định tính trong
đánh giá kết quả đạt được đối với việc QLNN đối với DVCC. Sự phối hợp
các đánh giá định lượng và định tính sẽ là một công cụ tốt nhất nhằm đáp ứng
nhu cầu thông tin của việc đánh giá kết quả hoạt động QLNN đối với DVCC
và đối với các tổ chức thực hiện cung ứng loại hình dịch vụ này.
3.2.6. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và tài chính cho các cơ quan
có chức năng quản lý nhà nước về dịch vụ công cộng
Để nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác QLNN đối với DVCC thì
cần phải có một tổ hợp các giải pháp từ khâu đầu là xác định và phân loại
chính xác các DVCC, đến khâu cuối cùng là đổi mới hoạt động cung ứng
86
DVCC. Nhưng xuyên suốt là hệ thống thông tin trong quản lý. Trong các yêu
cầu về thông tin trong QLNN đối với DVCC thì yêu cầu về tính chính xác,
kịp thời, đầy đủ, công khai, hiệu quả, là những yêu cầu cơ bản nhất cần
phải được hoàn thiện hiện nay.
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống thông tin trong quản lý thì việc ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ trong QLNN đối với DVCC đóng vai
trò quan trọng. Việc QLNN đối với DVCC cũng giống như QLNN đối với xã
hội nói chung đòi hỏi phải nhanh chóng đưa vào sử dụng các thành tựu của
khoa học, công nghệ. Chỉ có đưa các thành tựu của khoa học, công nghệ vào
QLNN đối với DVCC mới có thể tạo ra chất lượng, số lượng hàng hóa dịch
vụ công cao và với chi phí hợp lý nhất,Đồng thời việc sử dụng các thành
tựu khoa học, công nghệ còn giúp cho các hoạt động QLNN đối với DVCC
trở lên công khai và minh bạch hơn.
Chính vì lẽ đó mà không ngừng tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, lắp
đặt các trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin tại các đơn vị, phòng ban
cung ứng DVCC là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Việc bố trí cơ sở vật chất
đầy đủ, hiện đại và ứng dụng công nghệ thông tin có tác dụng rất lớn trong
việc nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc. Nó giúp cho cán
bộ công chức rút ngắn được thời gian lao động, tiết kiệm công sức, tạo thuận
lợi cho việc xử lý, tổng hợp, theo dõi hồ sơ của công dân, tổ chức. Trụ sở làm
việc rộng rãi, thoáng mát, có nơi tiếp đón người dân đàng hoàng, lịch sự còn
thể hiện ý thức tôn trọng nhân dân, đồng thời mối quan hệ giao tiếp giữa
người dân và đội ngũ CBCCVC cũng trở nên gần gũi, thân thiện hơn trong
công việc.
Trong giai đoạn hiện nay, tỉnh Xiêng Khoảng cần phải đẩy mạnh hơn
nữa việc ứng dụng công nghệ thông tin, triển khai phần mềm trong việc vận
hành, cung ứng các loại hình DVCC để đáp ứng yêu cầu của người dân và các
87
tổ chức. Xây dựng hệ thống thông tin mạng, liên kết giữa các bộ phận trong
toàn tỉnh, thiết lập quy trình giải quyết hồ sơ trực tuyến, thiết lập đường dây
nóng để giải quyết các thắc mắc và yêu cầu của người dân. Điều này sẽ giúp
quy trình tiếp nhận và giải quyết hồ sơ được thực hiện một cách thông suốt,
nhanh chóng, chính xác. Đồng thời nó còn giúp cho các cơ quan chuyên môn,
các cán bộ, công chức, viên chức có thể dễ dàng tiếp cận và quản lý, theo dõi
tình hình cung ứng và sử dụng DVCC được thuận lợi, nhanh chóng hơn.
Việc đầu tư ứng dụng CNTT đòi hỏi kinh phí lớn nên cần tham khảo,
học tập và rút kinh nghiệm của các địa phương đã thực hiện tốt nội dung này.
Đồng thời, cũng cần có lộ trình, kế hoạch thực hiện cụ thể và phù hợp với
điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ chuyên môn, trình độ CNTT của đội ngũ
CBCC trong toàn tỉnh. Tuy nhiên, cũng cần có kế hoạch và có sự ưu tiên thực
hiện, ưu tiên đầu tư đối với những ngành, những huyện, những nơi mang tính
trọng điểm và cần được ưu tiên trong phát triển, làm điển hình cho các đơn vị
khác noi theo.
3.2.7. Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động
cung ứng dịch vụ công cộng trên địa bàn tỉnh
Về công tác thanh tra, tư pháp và xây dựng chính quyền, tăng cường
công tác QLNN; nắm chắc tình hình, báo cáo kịp thời những vụ việc mới phát
sinh tại cơ sở có khả năng khiếu kiện. Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các
ngành, các đơn vị của huyện và tỉnh trong công tác khiếu nại, tố cáo. Đây
cũng là một trong những giải pháp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
công tác QLNN đối với DVCC. Các cơ quan cấp trên và bản thân lãnh đạo
mỗi đơn vị cần đẩy mạnh các hoạt động thanh tra, kiểm tra, đôn đốc việc triển
khai thực hiện việc cung ứng các dịch vụ công. Phối hợp với Mặt trận, các
đoàn thể và UBND các cấp tăng cường giám sát việc giải quyết các thủ tục
hành chính ở các đơn vị. Qua kiểm tra có thể phát hiện và kịp thời giải quyết
88
những khó khăn, thiếu sót về quy trình, hình thức công khai, trình độ tác
nghiệp - xử lý hồ sơ của cán bộ, công chức tại các đơn vị cơ sở, đồng thời xử
lý nghiêm các hành vi sai phạm của CBCC.
Tiếp tục tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật. Chú ý nâng cao
trách nhiệm và tinh thần phục vụ nhân dân; CBCC tạo điều kiện tốt nhất cho
doanh nghiệp và người dân trong thủ tục hành chính. Chuẩn hóa các nội quy,
quy chế, quy trình. Triển khai thực hiện cơ chế phản hồi của nhân dân với
chính quyền cơ sở thông qua các hình thức như: hòm thư góp ý, phiếu góp ý,
đường dây nóng, để nhân dân có điều kiện phản ánh những bức xúc, kiến
nghị đối với CBCC trong các hoạt động cung ứng DVCC mà họ thực hiện.
Hàng năm, các đơn vị cần tiến hành đánh giá kết quả hoạt động của các đơn
vị thực hiện chức năng QLNN đối với các DVCC trên địa bàn tỉnh. Việc đánh
giá kết quả này phải căn cứ trên những tiêu chí nhất định, vì vậy cần phải xây
dựng các căn cứ khách quan và khoa học. Thông qua đánh giá đúng mức kết
quả hoạt động của từng đơn vị, cá nhân chúng ta có thể xác định rõ mặt mạnh,
mặt yếu, từ đó đề ra các biện pháp phát huy thế mạnh và khắc phục các tồn tại
hiện có, giúp cho các cấp chính quyền địa phương không ngừng hoàn thiện và
nâng cao chất lượng cơ chế cung ứng DVCC.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 luận văn đã trình bày các quan điểm và định hướng chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước Lào trong QLNN đối với DVCC. Đồng thời, cũng đưa
ra những giải pháp mang tính định hướng đối với công tác QLNN đối với
DVCC trên địa bàn tỉnh Xiêng Khoảng. Trong các giải pháp nêu trên, đặc biệt
lưu ý tới giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thực thi
nhiệm vụ, việc lựa chọn cán bộ, công chức có năng lực, trình độ và đạo đức là
một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi đối với QLNN. Từ đó,
không ngừng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chuyên môn, trình độ,
89
uốn nắn về đạo đức công vụ, Đây sẽ là động lực lớn cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của tỉnh, nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, nâng cao chất
lượng cung ứng dịch vụ và quản lý tốt dịch vụ công công. Cũng từ đó mà chất
lượng cuộc sống của người dân được nâng cao.
90
KẾT LUẬN
Để tăng cương công tác QLNN đối với DVC nói chung và với DVCC
nói riêng chúng ta cần có hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ, với những
bước đi thích hợp. Trên cơ sở những định hướng của Đảng, Nhà nước Lào và
các mục tiêu cụ thể của tỉnh Xiêng Khoảng, nhằm nâng cao chất lượng của
các loại hình DVCC trên địa bàn, nâng cao mức thụ hưởng của người dân cần
lựa chọn những giải pháp phù hợp, sát với tình hình thực tế tại địa phương
nhằm phát huy những thế mạnh và hạn chế những yếu kém để không ngừng
nâng cao công tác QLNN đối với DVCC được tốt hơn. Muốn làm được điều
này, trước hết cần thay đổi, nâng cao nhận thức của lãnh đạo, đội ngũ CBCC
trực tiếp thực thi công vụ, trực tiếp cung ứng dịch vụ công cộng chuyển từ tư
duy quản lý sang tư duy phục vụ. Từ việc nhận thức đúng, sẽ là cơ sở để có
những hành động đúng. Đồng thời, cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng
dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động cung ứng dịch vụ,đó sẽ
là những giải pháp cơ bản nhất đưa kinh tế - xã hội của địa phương phát triển.
Như vậy, trên cơ sở thực trạng công tác QLNN đối với DVCC ở tỉnh Xiêng
Khoảng mà đề ra những giải pháp hợp lý góp phần xây dựng địa phương, xây
dựng tỉnh trở thành tỉnh đi dầu trong công tác cung cấp các loại hình dịch vụ
công cộng, góp phần xã hội hóa các loại hình dịch vụ này ở mức độ nhanh và
hiệu quả, bền vững.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Tài liệu tiếng Lào:
1. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, Nxb Chanthabuly, Viêng Chăn.
2. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X, Nxb Học viện Chính trị và Hành chính quốc gia, Viêng
Chăn.
3. Quốc hội (2003), Hiến pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào năm năm
1991 sửa đổi, bổ sung năm 2003.
4. Quốc hội (2003), Luật Quốc hội của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
5. Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào (CHDCND) năm 2003;
6. Quốc hội (2015), Luật Cán bộ, công chức.
7. Quy định của Bộ trưởng Nội vụ, số 119/TTg, ngày 8/3/2012 về bộ máy tổ
chức và hoạt động của Vụ Hành chính địa phương.
8. Sổ tay phân tích và phát triển bộ máy tổ chức, xuất bản do Cơ quan Hành
chính và Quản lý công chức, viên chức, năm 2009.
9. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 010/BCT, ngày
20/6/1981 về việc cải cách bộ máy tổ chức và sửa đổi quy định phương tức
làm việc của đảng trong thời kỳ mới.
10. Nghị quyết của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, số 07/BCT, ngày
9/8/2013 về việc chuẩn bị và tiến hành đại hội X của Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào.
11. Từ điển tiếng Lào, số biên soạn và in ấn bởi Viện Khoa học và Xã hội
Quốc gia năm 2012.
12. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ VI của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm
1996.
92
13. Văn kiện Đại hội đảng lần thứ IX của Đảng, Nhà xuất bản nhà nước, năm
2011.
14. Chỉ thị số 068/ BKTTW, của ban kiểm tra Trung ương đảng, về việc tổ
chức hoạt động thi lệnh số 09/ bộ chính trị Trung ương đảng
15. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2005 -
2010).
16. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước Lào (2010-
2020).
17. Nghị quyết của bộ chính trị Trung ương Đảng số 09/NQBCTTW, ngày
17/02/2007.
18. Nghị quyết số 171-172 /TTCP ngày 11 tháng 11 năm 1993 của Thủ tướng
chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.
19. Nghị quyết số 82/TTCP ngày 19 tháng 5 năm 2003 (sửa đổi năm 2003)
của thủ tướng chính phủ về luật lệ cán bộ, công chức Lào.
20. Tổng hợp, số liệu cán bộ, công chức hành chính tỉnh Xiêng Khoảng năm
(2010-2015).
21. Thống kê số lượng tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức tỉnh Xiêng
Khoảng tháng 6 năm 2010.
22. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2010
23. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2010
24. Thống kê trình độ học vấn của cán bộ, công chức Xiêng Khoảng năm
2012.
25. Thống kê trình độ QLNN & lý luận chính trị của cán bộ, công chức tỉnh
Xiêng Khoảng năm 2009;
93
26. Tổng hợp 5 năm ( 2005- 2009) về trình độ, thâm niên công tác của cán bộ,
công chức tỉnh Xiêng Khoảng năm 2010.
27. Văn kiện Đại hộ IV của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1986), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng chăn;
28. Văn kiện đại hội V của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1991), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn;
29. Văn kiện đại hội VI của Đảng nhân dân cách mạng Lào (1996), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn;
30. Văn kiện đại hội VII của Đảng nhân dân cách mạng Lào (2001), Nhà xuất
bản quốc gia, Viêng Chăn.
31. Văn kiện đại hội VIII của Đảng nhân dân cách mạnh Lào (2006), Nhà
xuất bản quốc gia, Viêng Chăn.
II/ Tài liệu tiếng Việt:
32. Lê Dân (2011), “Phương án đánh giá sự hài lòng về dịch vụ hành chính
công của công dân và tổ chức”, tạp chí Khoa học, công nghệ Đại học Đà
Nẵng số 3.
33. Giáo trình “Luật hành chính Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội, 2000, tr. 185
34. Giáo trình “Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 1997, tr. 262
35. Giáo trình “Quản lý hành chính nhà nước tập I”, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, 1994, tr. 391
36. Học viện Hành chính Quốc gia (2003), “Giáo trình Hành chính công”,
Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.
37. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), “Kỹ năng và cách tiếp cận trong
việc cải tiến cung ứng dịch vụ công”, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
94
38. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), “Hành chính công – dùng cho
nghiên cứu học tập và giảng dạy sau đại học”, Nxb. Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
39. Phạm Ngọc Hà, Trần Việt Hoa, “Một số đề xuất triển khai thực hiện
đánh giá kết quả hoạt động cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam hiện nay”.
40. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa (2010), “Tiêu chí đánh giá chất lượng
cung ứng dịch vụ hành chính công tại các cơ quan hành chính nhà
nước”, tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 3.
41. Nguyễn Ngọc Hiến (2001), “Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính
ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
42. Nguyễn Ngọc Hiến (2002),“Vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch
vụ công - Nhận thức, thực trạng và giải pháp”, Nxb. Văn hoá-Thông tin.
43. TS. Nguyễn Khắc Hùng, TS. Lê Thị Vân Hạnh: “Cải tiến việc cung ứng
dịch vụ công trong tiến trình cải cách hành chính nước ta”, Kỷ yếu Hội
thảo “Dịch vụ công – nhận thức và thực tiễn”, Học viện Hành chính
Quốc gia, T9-2001.
44. Lê Chi Mai (2003), “Cải cách dịch vụ công ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr. 12,13.
45. Lê Chi Mai (2006), “dịch vụ hành chính công”, Nxb. Lý luận Chính trị,
Hà Nội, tr. 49.
46. Đinh văn Mậu: “Bàn luận về thẩm quyền hành chính và dịch vụ công”,
Kỷ yếu hội thảo: “Dịch vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng
dịch vụ công”, Học viện Hành chính Quốc gia, 2002.
47. Nguyễn Tuấn Minh, Nguyễn Thị Thanh Vân, “kinh nghiệm cải cách và
đo lường chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công của Hàn Quốc”.
95
48. Nghị quyết số 17/NQ/TW ngày 01/8/2007 của Hội nghị lần thứ năm Ban
chấp hành Trung ương khóa X: “về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Bộ máy nhà nước”.
49. Thang Văn Phúc (2001), “Cải cách hành chính nhà nước – Thực trạng,
nguyên nhân và giải pháp”, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
50. Nguyễn Đình Phan (2010),“Nâng cao chất lượng dịch vụ hành chính
công ở Thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập”, Nxb. Đại học
Kinh tế Quốc dân.
51. Nguyễn Văn Thâm, Võ Kim Sơn (2002), “Thủ tục hành chính – Lý luận
và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
52. Chu Văn Thành (2004), “Dịch vụ công và xã hội hóa dịch vụ công một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
53. Chu Văn Thành (2007), “Dịch vụ công – Đổi mới quản lý và tổ chức
cung ứng ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Đoàn Trọng Truyến (chủ biên): “Hành chính học đại cương”, Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 18.
55. Nguyễn Minh Tuấn (2002),“Bàn về dịch vụ hành chính công”, tạp chí
khoa học số tháng 4/2002.
56. Bùi Huy Khiên, Nguyễn Thị Vân Hương (2013), “Quản lý công”, Nxb
Chính trị Hành chính, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dich_vu_cong_cong_tren_dia_ban.pdf