Luận văn Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên

Từ tổng kết lý luận và thực tiễn tổ chức phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng ở nước ta qua các thời kỳ cách mạng đã khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của công tác thi đua, khen thưởng. Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào thi đua yêu nước đã liên tục được phát động, góp phần vào việc động viên cổ vũ đông đảo các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống đế quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn coi công tác thi đua, khen thưởng là nhiệm vụ của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thi đua, khen thưởng được xem là một trong những công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong những năm qua, cùng những thành tựu chung của đất nước, công tác thi đua, khen thưởng đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng cần phải được quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên hơn nữa của cấp ủy đảng, các cấp, các ngành và các địa phương, đặc biệt là người đứng đầu; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong tổ chức, vận động và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các phong trào thi đua yêu nước, tạo được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động được đông đảo quần chúng tham gia các phong trào thi đua, làm cho thi đua có động lực mạnh mẽ từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân. Bằng những phương pháp tiếp cận, nghiên cứu Đề tài luận văn “Quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên” đã đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, kết quả có thể khái quát như sau:100 Một là, trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống lý luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng; hệ thống hóa và phân tích các khái niệm cơ bản về thi đua, khen thưởng đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua, khen thưởng, làm cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những nội dung trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng nói chung và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng. Hai là, Đề tài đã phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên những năm qua, chỉ ra những mặt được, những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân khách quan, chủ quan, Ba là, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương.

pdf109 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 700 | Lượt tải: 7download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các cấp quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã có sự phối hợp chặt chẽ; các Sở, ngành và địa phương đã tổ chức nhiều phong trào thi đua phong phú về nội dung và hình thức. Phong trào thi đua đã được gắn kết với nhiều cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Đặc biệt việc lồng ghép các phong trào thi đua được tổ chức thực hiện có hiệu quả trên địa bàn tỉnh. Nhìn chung, phong trào thi đua yêu nước đã khơi dậy, động viên và tập hợp được sức mạnh, phát huy được sức sáng tạo tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, trở thành động lực, biện pháp quản lý hữu hiệu, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội và từng bước cải thiện đời sống nhân dân. Công tác khen thưởng đã có tác dụng động viên, cổ vũ kịp thời các tập thể, cá nhân có nhiều thành tích xuất sắc góp phần vào sự nghiệp phát triển, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thi đua và khen thưởng đã có sự gắn kết chặt chẽ hơn, thông qua các phong trào thi đua đã xuất hiện nhiều mô hình mới, nhân tố mới, nhiều điển hình tiên tiến xuất sắc, mang tính sáng tạo. Việc bình xét thi đua, khen thưởng thực hiện đúng quy trình, từ thấp đến cao, trong bình xét đều có giới hạn tỷ lệ nhằm mục đích khen thưởng có chất lượng, không khen tràn lan; chú trọng đến việc khen thưởng thành tích xuất sắc, đột xuất, 77 thành tích trong sản xuất, lao động sáng tạo của công nhân, nông dân, người lao động, công chức, viên chức trực tiếp lao động; kịp thời khen thưởng đột xuất cho những gương người tốt việc tốt, đạt giải cao trong các kỳ thi, hội thi, hội diễn Vì vậy, trong những năm qua, việc triển khai thực hiện, công tác thi đua, khen thưởng và các phong trào thi đua yêu nước của Tỉnh đã đạt được kết quả nhất định, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của Tỉnh nhà. Nền kinh tế của tỉnh phát triển ổn định và tăng trưởng khá. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư phát triển đáng kể; nhiều công trình, dự án quan trọng, nhất là giao thông, thuỷ lợi, điện hoàn thành, đưa vào sử dụng; một số dự án lớn đang được triển khai. Bộ mặt nông thôn, miền núi, các đô thị có nhiều đổi mới, khởi sắc. Văn hoá, giáo dục, y tế, an sinh xã hội có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng lên. Quốc phòng, an ninh được củng cố, tăng cường. Hệ thống chính trị các cấp hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Công tác cải cách hành chính đem lại hiệu quả bước đầu, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến công dân, tổ chức, doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện các phong trào thi đua, công tác khen thưởng được thường xuyên chỉ đạo kịp thời; việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm các phong trào thi đua luôn được chú trọng; công tác tuyên truyền nhân rộng các gương người tốt, việc tốt trên các kênh thông tin đại chúng ngày càng được quan tâm. 2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân - Nhận thức về ý nghĩa, vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng nhất là người đứng đầu trong một số cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể còn hạn chế; chưa quan tâm chỉ đạo sâu sát trong công tác thi đua, khen thưởng; do đó trong lãnh đạo, chỉ đạo kế hoạch phát 78 động phong trào thi đua nội dung, tiêu chí thi đua thiếu cụ thể, chưa phù hợp với đặc điểm tình hình địa phương, đơn vị và chưa có sự tập trung thường xuyên trong việc đôn đốc, kiểm tra và cổ vũ động viên phong trào nên hiệu quả mang lại chưa cao dẫn đến công tác bình xét khen thưởng chưa đảm bảo thành tích. Nguyên nhân, một số đơn vị, địa phương chưa nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng trong chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua; chưa phát huy vai trò người đứng đầu trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả phong trào thi đua và công tác khen thưởng. - Một số chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng chưa triển khai đồng bộ tới cơ sở; Luật Thi đua – Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa được quán triệt đầy đủ; trong thực hiện, vận dụng còn lúng túng nhất là đối với khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Nguyên nhân là do các văn bản quy định của trung ương về công tác thi đua, khen thưởng thường xuyên có sự thay đổi, dẫn đến ở cơ sở điều chính không kịp thời; một số quy định của trung ương chưa rõ, chưa cụ thể nên cơ sở có nhiều cách vận dụng khác nhau và không thống nhất. - Một số Hội đồng Thi đua - Khen thưởng cấp cơ sở hoạt động chưa đồng bộ, sự phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các đơn vị chưa tốt. Nguyên nhân, Hội đồng Thi đua – Khen thưởng ở một số cơ quan, đơn vị hoạt động chủ yếu là xét công nhận danh hiệu và đề nghị khen thưởng; chưa tích cực kiểm tra, đôn đốc thực hiện sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút ra bài học kinh nghiệm các phong trào thi đua. - Hoạt động của các cụm, khối thi đua tuy đã có bước đổi mới về nội dung, tiêu chí thi đua, song còn lúng túng về phương thức hoạt động, tiêu chí 79 ký kết giao ước thi đua thiếu cụ thể, chưa phù hợp với đơn vị trong khối; một số đơn vị chưa tích cực tham gia sinh hoạt cụm, khối thi đua; công tác trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, điển hình, sáng kiến chưa được chú trọng; việc tổ chức hội nghị điển hình thi đua yêu nước thiếu sinh động nên bộc lộ những hạn chế trong tổ chức các phong trào thi đua. Nguyên nhân của những bất cập nói trên là do nhận thức của một số đơn vị chưa đúng và đầy đủ dẫn đến cách hiểu và vận dụng các quy định về thi đua, khen thưởng còn khác nhau; có nơi do xem nhẹ vai trò của thi đua, thậm chí không lấy kết quả thi đua làm thước đo, căn cứ để xét khen thưởng, không chú ý đến phát động thi đua, không sơ kết, tổng kết thi đua. Còn có hiện tượng xem cờ thi đua của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh như là “ Cờ luân lưu” nên việc phấn đấu đạt các tiêu chí trong giao ước còn bị xem nhẹ. - Phong trào thi đua ở một số địa phương, ngành, lĩnh vực, đơn vị chưa toàn diện, thiếu chiều sâu, chưa thu hút được nhiều lực lượng tham gia hưởng ứng, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh và một bộ phận cơ quan hành chính sự nghiệp và đoàn thể; công tác phối hợp trong bình xét thi đua giữa các cơ quan liên quan còn thiếu chặt chẽ và chưa đồng bộ. Nguyên nhân, một số đơn vị, địa phương chưa thực sự quan tâm xây dựng, tổ chức phong trào thi đua; chưa chú trọng đến các giải pháp tổ chức, thực hiện phong trào thi đua, nên hiệu quả mang lại chưa cao. - Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến có nơi còn mang tính hình thức, thiếu tính thuyết phục, không có sức thu hút đối tượng học tập làm theo; công tác tuyên truyền, nêu gương điển hình tiên tiến chưa được chú trọng, nên tác dụng và sự lan tỏa của điển hình trong thực tế vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân, một số nơi chỉ quan tâm đến khen thưởng, chưa chú ý đến công tác xây dựng, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến để tạo 80 nhân tố thúc đẩy phong trào thi đua; điển hình tiên tiến ở một số đơn vị mang tính tự phát do vậy chưa có cơ hội để tỏa sáng, lan tỏa ra cộng đồng, xã hội. - Việc biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc đóng góp cho phong trào thi đua đôi lúc chưa kịp thời; việc xét công nhận sáng kiến, công nhận danh hiệu chiến sỹ thi đua có nơi chưa thật sát, đúng, còn nể nang; việc đề nghị khen thưởng cho lãnh đạo còn nhiều, chưa chú ý đến khen tập thể nhỏ và người lao động trực tiếp ở cơ sở. Công tác xét đề nghị khen thưởng thành tích kháng chiến, cống hiến lâu dài và danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” còn để kéo dài. Nguyên nhân, việc khen thưởng còn mang nặng tính cộng dồn thành tích lấy thành tích bậc thấp để làm căn cứ đề nghị hình thức khen cao hơn dẫn đến khen thưởng chỉ tập trung ưu tiên vào đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý, khen thưởng theo kiểu “đến hạn lại lên”. - Tổ chức, nhân sự làm công tác thi đua, khen thưởng tuy được kiện toàn và dần đi vào hoạt động ổn định, nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở một số cơ quan, đơn vị còn hạn chế về năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Nguyên nhân, một số cơ quan, đơn vị thiếu quan tâm trong việc bố trí nhân sự có trình độ, tâm huyết, có khả năng tham mưu tổ chức xây dựng phong trào thi đua, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến, cũng như khả năng, trình độ thẩm định thành tích khen thưởng. Bên cạnh đó một số cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở cơ sở thường xuyên thay đổi, kiêm nhiệm nhiều việc nên khó thực hiện nhiệm vụ. 81 Tiểu kết chương 2 Thông qua kết quả công tác nghiên cứu, phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản lý nhà nước thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên những năm qua đã chỉ ra được những vấn đề thực tiễn trong quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng của tỉnh; những yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tỉnh Phú Yên. Từ kết quả nghiên cứu cũng đã chỉ ra được những mặt được, những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân khách quan, chủ quan, từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm phát huy những mặt tích cực đã đạt được, đồng thời khắc phục hạn chế, tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Từ thực trạng để đưa ra các giải pháp sẽ góp phần làm cho công tác thi đua, khen thưởng đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhận thức cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, người lao động và các cấp quản lý về vị trí, vai trò của thi đua, khen thưởng trong việc động viên, khích lệ mọi người hăng hái thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 82 Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ YÊN 3.1. Mục tiêu Hoạt động quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng nói riêng đều hướng đến mục tiêu đạt hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của một ngành hay một địa phương. Tuy nhiên, trong những năm qua, cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động quản lý này chưa được nghiên cứu làm rõ, chúng ta mới chỉ quan tâm đến góc độ làm thi đua, khen thưởng; việc quản lý nhà nước thể hiện chưa rõ do vậy để đánh giá hiệu quả của công tác này đòi hỏi phải nhìn nhận một cách toàn diện, sâu sắc từ cơ sở lý luận và thực tiễn để đạt được các mục tiêu trong quản lý. Việc nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên nhằm đạt được các mục tiêu đó là: Công tác thi đua, khen thưởng phải nhằm tạo động lực tinh thần to lớn thúc đẩy mọi người hăng hái lao động, học tập, công tác phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và của ngành. Nội dung và phương thức tổ chức các phong trào thi đua phải được gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, mục tiêu, chỉ tiêu phát triển của từng ngành, từng địa phương trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh. Công tác khen thưởng phải đảm bảo tính nêu gương, giáo dục, được dư luận xã hội đồng tình. Khắc phục bệnh thành tích, tính hình thức trong thi đua, khen thưởng. Chú trọng khen thưởng các tập thể nhỏ, người trực tiếp lao động làm ra của cải vật chất cho xã hội. 83 Thực hiện tốt công tác thi đua, khen thưởng, đảm bảo chính xác, khách quan, công bằng, tạo động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện của tỉnh. Đổi mới nội dung, hình thức, chất lượng các phong trào thi đua. Quan tâm công tác phát hiện, đầu tư xây dựng, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua, tạo nhân tố tích cực thúc đẩy các phong trào thi đua ngày càng phát triển. Tiếp tục thực hiện đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi đua, khen thưởng theo hướng công khai, minh bạch, công bằng, dân chủ, đơn giản các thủ tục hành chính nhằm mục tiêu thúc đẩy phong trào thi đua và công tác khen thưởng của tỉnh ngày càng phát triển, đảm bảo hiệu quả thiết thực. 3.2. Giải pháp 3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng Đây là giải pháp đầu tiên và rất quan trọng cho việc đổi mới quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, nó bắt nguồn từ cơ chế hệ thống chính trị ở nước ta là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Có sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp đổi mới của nước ta trên tất cả các lĩnh vực nói chung, đổi mới về công tác thi đua, khen thưởng nói riêng mới đạt kết quả và thành công được. Thực tế đã cho thấy, nước ta ở những năm đầu của sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, công tác thi đua, khen thưởng thiếu sự quan tâm của Đảng dẫn đến công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng bị buông lỏng và việc thực hiện công tác này đã có nhiều lúng túng, tùy tiện. Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị đã nêu: Phong trào thi đua phát triển chưa đồng đều, liên tục, nhiều nơi còn mang nặng tính hình thức, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị. Nhiều nơi việc khen 84 thưởng còn thiếu chính xác, chưa kịp thời; khen thưởng cho người lao động trực tiếp sản xuất, nông dân, công nhân còn ít. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; biện pháp tuyên truyền thiếu đồng bộ... làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể và cá nhân. Nguyên nhân chủ yếu của hạn chế, yếu kém là: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền ở một số bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là người đứng đầu còn chưa đầy đủ, toàn diện. Nhiều nơi, bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng chưa ổn định, thống nhất; năng lực tham mưu của cán bộ, công chức làm công tác này còn hạn chế. Ðể đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập quốc tế, cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, với những nội dung sau: Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần có kế hoạch cụ thể để tiếp tục tập trung tuyên truyền, quán triệt sâu sắc, đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước; chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Đồng thời coi trọng việc phát hiện, xây dựng điển hình, có nhiều hình thức biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến, các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo sức lan tỏa rộng khắp trong toàn xã hội, lấy kết quả học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những tiêu chuẩn đánh giá bình xét thi đua, khen thưởng hàng năm. Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng. Đặc biệt tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc; các chỉ thị của Đảng về thi đua, khen thưởng. Trong đó tập trung tuyên truyền Chỉ thị 39- 85 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa IX), Kết luận số 83-KL/TW của Ban Bí thư (khóa X) "Về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến", Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng cùng các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay"; những nội dung cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 và Nghị định 65/2014/ NĐ-CP ngày 01/7/2004 và các văn bản hướng dẫn thực hiện, nhằm đưa Luật Thi đua, Khen thưởng năm 2013 từng bước đi vào cuộc sống. Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức các phong trào thi đua yêu nước theo hướng: Tập trung về cơ sở, bám sát nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách để tổ chức phát động với các hình thức thi đua phong phú, hấp dẫn, có chủ đề, tên gọi dễ nhớ, có tiêu chí cụ thể, nội dung thiết thực, triển khai có hiệu quả, chống hình thức. Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong đổi mới phương pháp tổ chức chỉ đạo các phong trào thi đua, bảo đảm thực hiện đồng bộ ở cả bốn khâu: phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến. Quan tâm tạo điều kiện để các điển hình tiên tiến được tuyên truyền nêu gương, tạo sự lan tỏa trong cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương. Bốn là, đổi mới công tác khen thưởng bảo đảm chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch; coi trọng việc phát hiện, lựa chọn các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc để khen thưởng. Chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ, công nhân, nông dân, người lao động trực tiếp sản xuất, kinh doanh, cán 86 bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang, dân quân, tự vệ, công an xã, bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp. Quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa và vùng dân tộc thiểu số. Tập trung giải quyết dứt điểm việc khen thưởng thành tích trong các cuộc kháng chiến và thực hiện chế độ, chính sách đối với các đối tượng có công lao, thành tích, cống hiến trong các cuộc kháng chiến của dân tộc. Chủ động xem xét, khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng góp lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, an ninh-quốc phòng của Việt Nam, có nhiều thành tích trong việc củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế. 3.2.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của Đảng, Nhà nước về thi đua, khen thưởng Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phát hiện, bồi dưỡng, nhân rộng điển hình tiên tiến và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác thi đua, khen thưởng. Đưa việc thực hiện tuyên truyền, phát hiện, bồi dưỡng và nhân rộng điển hình tiên tiến là một trong những nội dung đánh giá công vụ về thi đua, khen thưởng hàng năm. Các cơ quan, đơn vị, địa phương cần có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng, xây dựng các mô hình mới, nhân tố mới trong từng năm, cả giai đoạn, được thực hiện từ cơ sở và thực hiện đồng bộ cả 04 khâu: Phát hiện - bồi dưỡng - tổng kết - nhân rộng điển hình tiên tiến. Phát huy vai trò tích cực của hệ thống cộng tác viên cung cấp thông tin về gương điển hình tiên tiến, mô hình mới, cách làm hay tại các cơ quan, đơn vị, địa phương. Sở Thông tin và Truyền thông, Đài Phát thanh - Truyền hình Phú Yên, Báo Phú Yên tăng cường tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, tuyên truyền chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về thi đua, khen thưởng; mở chuyên trang, chuyên mục và tăng cường thời lượng để giới thiệu, tuyên 87 truyền các gương điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt trên các lĩnh vực. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền tư tưởng thi đua yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và nhà nước về thi đua, khen thưởng nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò, tác dụng to lớn của các phong trào thi đua yêu nước, và công tác khen thưởng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy, ở đâu cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể có nhận thức đúng đắn sâu sắc về vị trí vai trò của công tác thi đua, khen thưởng ở đó sẽ thật sự quan tâm, đề cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Ngược lại, ở đâu công tác thi đua, khen thưởng không được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, thiếu sự quan tâm trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thì ở đó công tác thi đua, khen thưởng sẽ được thực hiện một cách tùy tiện, hời hợt, chiếu lệ. Để thi đua, khen thưởng thực sự là động lực thúc đẩy phát triển xã hội thì cần nâng cao nhận thức cho mọi người về công tác thi đua, khen thưởng, bởi nhận thức có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của con người; từ nhận thức đúng, đầy đủ mới có hành động đúng mang lại kết quả, sự thành công. Trong công tác thi đua, khen thưởng cũng vậy, muốn phong trào thi đua, khen thưởng có chất lượng và hiệu quả thì phải có nhận thức thức đúng đắn về vị trí, vai trò, bản chất của công tác này. Từ việc có nhận thức đúng, sâu sắc về vị trí, vai trò của công tác thi đua, khen thưởng sẽ nâng cao trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; vai trò nòng cốt của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong phong trào thi đua được phát huy đúng mức; mọi người đều phấn khởi, tự giác hào hứng tham gia các phong trào thi đua, thi đua thật sự trở thành phong trào của quần chúng. 88 Do vậy, để công tác thi đua, khen thưởng có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trước hết cần quan tâm một số nội dung như sau: Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua ái quốc, các chủ trương của Đảng và Nhà nước về thi đua, khen thưởng; Luật Thi đua, Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành đến mọi tổ chức cá nhân trong toàn tỉnh. Các văn bản pháp luật là hành lang pháp lý quan trọng để tiến hành công tác thi đua, khen thưởng trong thực tiễn; đồng thời cũng là cơ sở để quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng, đưa công tác này đi vào cuộc sống, mang lại hiệu quả thiết thực. Hai là, nâng cao nhận thức về công tác thi đua - khen thưởng và quản lý Nhà nước đối với công tác thi đua - khen thưởng. Phải bám sát và thực hiện nguyên tắc khen thưởng: “chính xác, công khai, công bằng, kịp thời”; trong đó, chú trọng khen thưởng tập thể nhỏ, đơn vị cơ sở, hộ gia đình, cá nhân là công nhân viên chức, công nhân trực tiếp sản xuất, nông dân sản xuất giỏi có thành tích xuất sắc; các thành phần kinh tế; khen thưởng gương người tốt, việc tốt có hành động dũng cảm cứu người cứu tài sản; cán bộ, công chức, viên chức đang công tác vùng đồng bằng tình nguyện về công tác ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa của tỉnh; các lĩnh vực trọng yếu, khó khăn, độc hại, nguy hiểm; cá nhân, tập thể từ yếu kém vươn lên... Đẩy mạnh việc giới thiệu, phổ biến kinh nghiệm, cách làm hay, gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt và các bài học kinh nghiệm đã được đúc kết từ thực tiễn, để nhân rộng các gương điển hình; thông qua các điển hình tiên tiến chính là những minh chứng sinh động góp phần chuyển biến nhận thức của mọi người và xã hội đối với công tác thi đua, khen thưởng, nhất là nhận thức về quản lý nhà nước đối với công tác này. Ba là, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền về thi đua, khen thưởng, không những giúp mọi người hiểu về công tác thi đua, khen thưởng 89 mà còn hiểu về nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Từ đó nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật trong thực hiện các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực này, thực tế hiện nay hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng cũng tương đối hoàn chỉnh do đó việc thực hiện nghiêm túc các quy định về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng cũng chính là góp phần đưa công tác này thực sự đi vào cuộc sống. 3.2.3. Tăng cường việc xây dựng ban hành các văn bản về thi đua, khen thưởng phù hợp với thực tiễn của địa phương Để công tác thi đua, khen thưởng đi vào nền nếp, phát huy vai trò hiệu quả thì việc ban hành các văn bản trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo đóng vai trò hết sức quan trọng. Đó là một chức năng quản lý nhà nước được thực hiện phổ biến, có tác dụng hướng dẫn, định hướng để mọi người làm theo. Việc ban hành văn bản về thi đua, khen thưởng bao gồm thứ nhất là các văn bản hành chính thông thường mang tính chỉ đạo, lãnh đạo như: Kế hoạch, hướng dẫn, công văn, Chỉ thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Tỉnh, Chương trình, Báo cáo,... thứ hai là các văn bản mang tính pháp quy như: Quy định, Quy chế, Quyết định,... Trong giai đoạn vừa qua công tác xây dựng và ban hành văn bản về thi đua, khen thưởng của tỉnh Phú Yên đã quan tâm thực hiện. Đặc biệt là từ khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Thi đua, Khen thưởng năm 2013; Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Thông tư số: 07/2014/TT-BNV ngày 29/8/2014 hướng dẫn thi hành các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thi đua, khen thưởng; Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số: 11/2015/QĐ-UBND ngày 27/3/2015 về việc ban hành Quy chế về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh, đây là một 90 hành lang pháp lý quan trọng trong việc quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên qua quá trình thực hiện nhiều vấn đề phát sinh chưa cụ thể hóa tại địa phương dẫn đến việc thực hiện còn nhiều bất cập. Do vậy, việc nghiên cứu sửa đổi các quy định hiện hành, đồng thời bổ sung những quy định mới phát sinh trong thực tiễn thời gian vừa qua là yêu cầu cấp bách trong công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh hiện nay. Ví dụ: Khoản 39 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng 2013, quy định Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh cho tập thể: “2 năm liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nội bộ đoàn kết, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tổ chức tốt các phong trào thi đua; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần trong tập thể; thực hành tiết kiệm; thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với mọi thành viên trong tập thể” [16, tr. 16]. Tuy nhiên, hiện nay theo Nghị định 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 chỉ quy định về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; chứ chưa quy định đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của tập thể. Do vậy, các cơ quan tham mưu về công tác thi đua, khen thưởng rất lúng túng trong việc thẩm định hồ sơ khen thưởng của các tập thể. Để hệ thống các văn bản về thi đua, khen thưởng có tính ổn định lâu dài, đòi hỏi công tác tham mưu đề xuất phải được thực hiện một cách bài bản, có chiều sâu và có tầm nhìn. Muốn đạt được điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp thường xuyên hiệu quả giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tham mưu ban hành các văn bản chỉ đạo; chính sách ban hành để thực hiện trong cuộc sống do đó mọi chính sách phải bắt nguồn từ thực tiễn cuộc sống, từ cơ sở. Ban Thi đua - Khen thưởng của tỉnh Phú Yên phải thường xuyên phối hợp với các sở, ban, ngành trong việc ban hành các văn bản theo thẩm quyền hoặc phối hợp trong công tác tham mưu với Ủy ban nhân dân Tỉnh ban 91 hành các văn bản chỉ đạo, có như vậy hệ thống các văn bản mới có tính thống nhất, phù hợp với thực tiễn khi ban hành sẽ đi vào cuộc sống, có tính ổn định lâu dài và phát huy vai trò, hiệu quả. Tăng cường sự quản lý của Nhà nước thông qua việc tham mưu xây dựng thể chế về thi đua, khen thưởng, tạo cơ sở pháp lý để quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Công tác tham mưu xây dựng các quy định về thi đua, khen thưởng cần được triển khai tích cực, đồng bộ hơn; việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng phải phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm động viên các phong trào thi đua yêu nước phát triển sâu rộng, lan tỏa mạnh mẽ; phát hiện nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, nhiều tấm gương điển hình tiên tiến trong xã hội; đồng thời làm cho công tác thi đua, khen thưởng thực sự là động lực tinh thần to lớn, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng ngành, từng địa phương và đơn vị cơ sở. Bên cạnh việc ban hành các văn bản mang tính pháp quy, cần xây dựng có chất lượng các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo đặc biệt là các văn bản hướng dẫn tổ chức triển khai các phong trào thi đua, công tác khen thưởng; văn bản hướng dẫn thực hiện công tác xây dựng, nhân rộng điển hình tiên tiến; các kế hoạch, chương trình thi đua,... 3.2.4. Cải cách thủ tục hành chính trong công tác thi đua, khen thưởng Trong cải cách thủ tục hành chính, điều quan trọng đầu tiên là về quy trình, thủ tục, thời gian của hồ sơ đề nghị khen thưởng được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nghị định 39/2012/NĐ-CP, ngày 27/4/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, 92 khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng; đã hướng dẫn hồ sơ, thủ tục, thời gian đề nghị khen thưởng của cấp Nhà nước trong giai đoạn này là phù hợp. Tuy nhiên, các mẫu báo cáo đề nghị khen thưởng thì cần phải sửa đổi, bổ sung. Ví dụ: Đối với tập thể có thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ công tác: “Báo cáo thành tích 10 năm trước thời điểm đề nghị đối với Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, 05 năm đối với Huân chương Độc lập, Huân chương Quân công, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc, Huân chương Lao động, Huân chương Chiến công; 03 năm đối với Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 01 năm đối với Cờ thi đua của Chính phủ, Cờ thi đua cấp Bộ, cấp tỉnh và Giấy khen; 02 năm đối với Tập thể lao động xuất sắc và Bằng khen cấp Bộ, cấp tỉnh” [7, tr. 12]. Trong khi đó, Nghị định số 65/2015/NĐ-CP ngày 01/7/2014 Quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013; quy định: - Huân chương Sao Vàng tặng thưởng cho tập thể: “Đã được tặng thưởng “Huân chương Hồ Chí Minh”, 25 năm tiếp theo liên tục lập được thành tích đặc biệt xuất sắc, có phạm vi ảnh hưởng rộng và có nhân tố mới, mô hình mới tiêu biểu cho cả nước học tập” [8, tr. 4]. Vậy, báo cáo thành tích là 25 năm, theo Nghị định 39/2012/NĐ-CP, báo cáo thành tích 10 năm là không phù hợp. - Huân chương độc lập hạng nhất: đã được tặng thưởng “Huân chương Độc lập” hạng nhì, 10 năm tiếp theo liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong thời gian đó có 04 lần được tặng “Cờ thi đua của Chính phủ” và 01 lần được tặng “Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ” hoặc có 04 lần được tặng “Cờ thi đua của Chính phủ” và 02 lần được tặng Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể Trung ương. 93 Thời gian thành tích Huân chương độc lập các hạng là 10 năm, theo Nghị định 39/2012/NĐ-CP, báo cáo thành tích 05 năm là không phù hợp. - Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ: đã được tặng Bằng khen cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể Trung ương, 05 năm tiếp theo liên tục hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, trong thời gian đó có 05 sáng kiến được công nhận và áp dụng hiệu quả trong phạm vi cấp cơ sở hoặc mưu trí, dũng cảm, sáng tạo trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu được 05 lần tặng giấy khen trở lên. Vậy, báo cáo thành tích là 5 năm, theo Nghị định 39/2012/NĐ-CP, báo cáo thành tích 03 năm là không phù hợp. Ngoài ra, cần phải quy định cụ thể đối tượng tập thể được tặng thưởng Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương độc lập các hạng; vì những tập thể nhỏ như phòng thuộc sở chỉ có 3 đến 4 công chức thì không thể xét tặng những Huân chương bậc cao như đã nêu trên. Đơn giản hóa thủ tục, một trong những nội dung của cải cách hành chính trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng; đối với cấp tỉnh, cần sử dụng cơ chế trao trách nhiệm cho thủ trưởng đơn vị. Ví dụ: Đối với thành tích những đơn vị trực thuộc, thì Thủ trưởng cấp trên trực tiếp xác nhận và chịu trách nhiệm về những điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng theo quy định (Không phải kèm theo những giấy tờ chứng minh như: hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tổ chức đảng, đoàn thể phải đạt trong sạch, vững mạnh), tránh gây phiền hà cho tổ chức cá nhân đề nghị khen thưởng. Cải tiến quy trình xét khen thưởng; hàng năm, căn cứ những quy định của pháp luật, có văn bản hướng dẫn cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện của từng hình thức khen thưởng; cần rà soát những nội dung còn trùng lặp, chồng chéo để sửa đổi, bổ sung hoặc loại bỏ nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính trong thi đua, khen thưởng. Xử lý nghiêm những cá nhân, tổ chức tùy tiện đặt ra 94 những quy định trái pháp luật, trái thẩm quyền gây phiền hà cho đối tượng đề nghị khen thưởng nhằm trục lợi. Cần hạn chế tình trạng đơn vị quan tâm đến công tác khen thưởng, trình khen thưởng nhiều thì được khen nhiều và ngược lại. Nếu cần thiết, có thể quy định tỷ lệ khen thưởng để nâng cao số lượng khen thưởng cho người trực tiếp lao động; hạn chế khen cho cán bộ lãnh đạo quản lý. Sớm xây dựng và ứng dụng phần mềm quản lý công tác thi đua, khen thưởng để góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác, chất lượng quản lý, điều hành và tổ chức các phong trào thi đua cũng như việc thực hiện các trình tự, thủ tục khen thưởng bảo đảm đúng quy định. Đồng thời đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin công tác lưu trữ hồ sơ khen thưởng phục vụ nhu cầu khai thác, tra cứu thông tin về khen thưởng. 3.2.5. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng Cơ quan chuyên trách và các tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng làm nhiệm vụ thường trực Hội đồng thi đua, khen thưởng cùng cấp; tham mưu cho lãnh đạo cụ thể hóa chủ trương chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng. Vì vậy việc kiện toàn bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng là cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nâng cao hơn nữa vai trò của Hội đồng Thi đua - Khen thưởng các cấp. Nâng cao trách nhiệm các thành viên Hội đồng, đặc biệt là trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng trong chỉ đạo, kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng trong cơ quan, đơn vị. Xây dựng và kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng; kiện toàn Hội đồng Thi đua- Khen thưởng các cấp. Bố trí đủ về số lượng và chất lượng cán bộ chuyên trách thi đua, khen thưởng các sở, ban, ngành, huyện, thị xã, thành phố và cán bộ kiêm nhiệm thi đua cấp xã, phường, 95 thị trấn. Kiện toàn tổ chức bộ máy thi đua, khen thưởng theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực, hiệu quả, số lượng cán bộ đủ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ thi đua, khen thưởng có phẩm chất và bản lĩnh chính trị tốt, có tri thức, hiểu biết rộng, có năng lực tham mưu hoạch định chính sách, cụ thể hóa các chủ trương, chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng và có khả năng tổ chức vận động quần chúng tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng; xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt các quy chế, quy trình về công tác cán bộ, công chức, viên chức ngành thi đua, khen thưởng, làm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, thực sự có tính khoa học; đảm bảo công tác cán bộ thống nhất theo nguyên tắc, chuẩn mực chung, tránh tình trạng tùy tiện, áp đặt chủ quan duy ý chí trong công tác cán bộ. Thực hiện tốt điều này sẽ tránh được tình trạng cán bộ công chức, viên chức làm công tác thi đua, khen thưởng bị điều động đến các vị trí khác và điều động cán bộ, công chức, viên chức chuyên môn ở những lĩnh vực khác về làm công tác thi đua, khen thưởng; tạo ra hiện tượng vừa thừa, vừa thiếu cục bộ ở những tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng. Thường xuyên tổ chức hướng dẫn, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác thi đua từ tỉnh đến cơ sở để nâng cao chất lượng tham mưu, đáp ứng yêu cầu đổi mới công tác thi đua, khen thưởng theo Chỉ thị của Bộ Chính trị. Chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác thi đua, khen thưởng cần phải đổi mới; kết hợp trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ với việc nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, tác phong, kiến thức pháp luật và kỹ năng thực hành cho đội ngũ cán bộ, công chức và cán bộ lãnh đạo quản lý. Phải đào tạo cán bộ công chức một cách toàn diện, trang bị kiến thức cơ bản, kiến thức chuyên ngành thi đua, khen thưởng, gắn 96 khoa học và công nghệ tiên tiến với thực tiễn phong phú, đa dạng ở các cơ quan, đơn vị, địa phương. Theo tinh thần của Chỉ thị số: 34-CT/TW của Bộ Chính trị: các trường chính trị cấp tỉnh thực hiện việc đưa vào chương trình giảng dạy đường lối, chủ trương của Ðảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng. Tuy nhiên, đến nay tỉnh Phú Yên chưa thực hiện được. Trong thời gian đến, Trường Chính trị tỉnh Phú Yên cần sớm thực hiện việc đưa vào giảng dạy đường lối, chủ trương của Ðảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng trong chương trình đào tạo trung cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước ngạch chuyên viên, chuyên viên chínhKết hợp chặt chẽ giữa đào tạo, bồi dưỡng trong nhà trường với đào tạo, rèn luyện trong thực tế. Việc tự học tập, tự nghiên cứu và tự rèn luyện của bản thân người cán bộ, công chức có vai trò hết sức quan trọng, học đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tiễn, đặc biệt là phải biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo; học tập là việc phải thực hiện suốt đời. 3.2.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong việc thực hiện các quy định về công tác thi đua, khen thưởng Trên thực tế, không phải tổ chức, cá nhân nào cũng thực hiện tốt, đầy đủ những quy định pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng. Vì vậy, hàng năm, tỉnh đã thành lập đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện chủ trương, chính sách, các quy định của luật, nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng ở các đơn vị trong cụm, khối thi đua thuộc tỉnh. Thông qua việc kiểm tra thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng tỉnh nắm tình hình triển khai, thực hiện các văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh và văn bản hướng dẫn Trung ương về công tác thi đua và khen thưởng; đề ra các biện pháp, giải pháp tiếp tục nâng cao nhận thức, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia các phong 97 trào thi đua, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và nâng cao chất lượng công tác khen thưởng ở các đơn vị, địa phương; phát hiện, bồi dưỡng các mô hình lao động sáng tạo, cách làm hay, điển hình tiên tiến trong các phong trào thi đua yêu nước để kịp thời biểu dương, khen thưởng, nhân rộng, nhằm thúc đẩy, cổ vũ phong trào thi đua lan tỏa rộng khắp trong xã hội. Đồng thời phát hiện những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ công tác thi đua, khen thưởng; đề xuất những nội dung về các cơ chế chính sách, các quy định hiện hành về công tác thi đua, khen thưởng; xem xét, đề xuất giải quyết những trường hợp vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng. Trong quản lý nhà nước, bất kỳ lĩnh vực nào, đều phải có thanh tra, kiểm tra, giám sát, nếu không việc thực hiện trở nên tùy tiện, không tuân thủ những quy định của pháp luật. Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại tố cáo được quy định tại Điều 96 của Luật Thi đua, khen thưởng. Tuy nhiên, công tác này, trong thời gian qua vẫn còn những mặt hạn chế nhất định. Do vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần phải tăng cường và đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát những nội dung chủ yếu sau: - Phải tiến hành theo định kỳ, hàng quý, hàng năm hoặc theo đợt phát động phong trào thi đua. Tăng cường thanh tra, kiểm tra đột xuất khi phát hiện những vấn đề tiêu cực trong công tác thi đua, khen thưởng. - Hình thức thanh tra, kiểm tra cần được đổi mới, có sự kết hợp giữa thanh tra, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ với việc thực hiện các quy định về công tác thi đua, khen thưởng. Trong trường hợp cần thiết có thể thanh tra, kiểm tra chuyên đề về thi đua, khen thưởng nhằm đánh giá sâu hơn, hiệu quả hơn công tác này. - Qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát phát hiện những sai sót, bất cập của những kế hoạch, chính sách, những quy định của pháp luật trong công 98 tác thi đua, khen thưởng, từ đó đề ra những giải pháp hoặc kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh cho phù hợp. - Kết hợp với thanh tra, kiểm tra, Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh Phú Yên cần hướng dẫn trực tiếp cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng ở cơ sở; đây là hình thức “Cầm tay, chỉ việc” rất hiệu quả trong việc nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng thẩm định hồ sơ khen thưởng, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay đang tồn tại Luật Thi đua, khen thưởng (2003) và 2 Luật sửa đổi bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng (2005, 2013); 3 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Thi đua, Khen thưởng và các thông tư hướng dẫn đang còn hiệu lực. Sau khi thanh tra, kiểm tra phải có kết luận, đánh giá đối với từng địa phương, đơn vị trong việc triển khai và thực hiện các nội dung trong công tác thi đua, khen thưởng. Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được quan tâm thường xuyên để những quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng được thực hiện một cách bài bản, có hệ thống, nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng. Có như vậy, thi đua, khen thưởng mới thật sự là động lực cho mọi cá nhân, tập thể tích cực thi đua hoàn thành xuất sắc công việc của mình góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. 99 KẾT LUẬN Từ tổng kết lý luận và thực tiễn tổ chức phong trào thi đua yêu nước và công tác khen thưởng ở nước ta qua các thời kỳ cách mạng đã khẳng định vị trí, vai trò hết sức to lớn của công tác thi đua, khen thưởng. Từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các phong trào thi đua yêu nước đã liên tục được phát động, góp phần vào việc động viên cổ vũ đông đảo các tầng lớp nhân dân phát huy truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường bất khuất của dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, lập nên những chiến công hiển hách trong kháng chiến chống đế quốc xâm lược cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn coi công tác thi đua, khen thưởng là nhiệm vụ của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thi đua, khen thưởng được xem là một trong những công cụ quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước. Trong những năm qua, cùng những thành tựu chung của đất nước, công tác thi đua, khen thưởng đã có những đóng góp tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Trong điều kiện hiện nay, hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng cần phải được quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên hơn nữa của cấp ủy đảng, các cấp, các ngành và các địa phương, đặc biệt là người đứng đầu; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể trong tổ chức, vận động và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong các phong trào thi đua yêu nước, tạo được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, huy động được đông đảo quần chúng tham gia các phong trào thi đua, làm cho thi đua có động lực mạnh mẽ từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân. Bằng những phương pháp tiếp cận, nghiên cứu Đề tài luận văn “Quản lý Nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên” đã đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, kết quả có thể khái quát như sau: 100 Một là, trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng; hệ thống hóa và phân tích các khái niệm cơ bản về thi đua, khen thưởng đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thi đua, khen thưởng, làm cơ sở nghiên cứu, phân tích, đánh giá làm rõ những nội dung trong hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng nói chung và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng. Hai là, Đề tài đã phân tích đánh giá về thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên những năm qua, chỉ ra những mặt được, những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân khách quan, chủ quan, Ba là, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh Phú Yên, góp phần tạo động lực thúc đẩy phát triển trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. 101 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Thi đua-Khen thưởng Trung ương (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 2. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị 35-CT/TW ngày 03/6/1998 về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới, Hà Nội. 3. Bộ Chính trị (2004), Chỉ thị 39-CT/TW ngày 21/5/2004 về việc tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến, Hà Nội. 4. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 07/4/2014 về tiếp tục đổi mới, công tác thi đua, khen thưởng, Hà Nội. 5. Bộ Nội vụ (2014), Thông tư 07/2014/TT-BNV ngày 29/8/2014 hướng dẫn Nghị định số 42/2010/NĐ-CP, Nghị định số 39/2012/ND-CP và Nghị định số 65/2014/NĐ-CP về hướng dẫn Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội. 6. Chính phủ (2010), Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội. 7. Chính phủ (2012), Nghị định số 39/2012/NĐ-CP ngày 27/4/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội. 8. Chính phủ (2015), Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày 01/7/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật thi đua, khen thưởng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội. 9. Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, tập 4, NXB Sự thật, Hà Nội. 10. Hồ Chí Minh (1994), Toàn tập, tập 5, NXB CTQG, Hà Nội. 11. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 6, , NXB CTQG, Hà Nội. 102 12. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, NXB CTQG, Hà Nội. 13. Hội đồng Thi đua-Khen thưởng Tỉnh Phú Yên (2015), Kỷ yếu Đại hội thi đua yêu nước tỉnh Phú Yên Lần thứ IV - 2015, Phú Yên. 14. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva. 15. Quốc Hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X (2003), Luật Thi đua, Khen thưởng số 15/2003/QH11, Hà Nội. 16. Quốc Hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2013), Luật số 39/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng, Hà Nội. 17. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2015), Quyết định số 11/2015/QĐ- UBND ngày 27/3/2015 về việc ban hành quy chế về công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh, Phú Yên. 18. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Quyết định số 1435/QĐ-UBND ngày 28/6/2016 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh, Phú Yên. 19. Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên (2016), Kế hoạch số 21/KH-UBND ngày 15/02/2016 về xây dựng và nhân điển hình tiên tiến giai đoạn 2016 - 2020, Phú Yên. 20. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà Nội. 103 PHỤ LỤC CÁC PHONG TRÀO THI ĐUA TIÊU BIỂU CỦA TỈNH PHÚ YÊN (Giai đoạn 2011 – 2016) STT Tên phong trào thi đua 1 Phú Yên đoàn kết, sáng tạo, tích cực thi đua xây dựng và bảo vệ tổ quốc 2 Phú Yên chung sức, chung lòng xây dựng nông thôn mới 3 Doanh nghiệp Phú Yên, hội nhập và phát triển 4 “Minh bạch – Chuyên nghiệp – Liêm chính – Đổi mới” của ngành thuế 5 “Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã” của Liên minh hợp tác xã 6 “Mỗi thầy giáo, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” của ngành giáo dục 7 “Lao động giỏi, lao động sáng tạo” gắn với thực hiện tốt “12 điều y đức” của ngành y tế 8 “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng gia đình văn hóa, thôn, buôn, khu phố văn hóa, xã, phường văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa” của ngành văn hóa 9 “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” của ngành thể dục, thể thao 10 “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Tháng hành động vì trẻ em” của ngành lao động, thương binh và xã hội 11 “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, “Dân chủ, đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, quyết thắng” của Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh 104 12 “Vì an ninh Tổ quốc”, “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” của Công an Tỉnh 13 “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư”, “Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Phú Yên 14 “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” của Hội Liêp hiệp phụ nữ Tỉnh 15 “Cựu chiến binh giúp nhau phát triển kinh tế gia đình, xóa nghèo, xóa nhà ở tạm, làm kinh tế giỏi và hoạt động tình nghĩa” của Hội Cựu chiến binh tỉnh 16 “Toàn thể cán bộ và hội viên nông dân tỉnh Phú Yên chung sức, đồng lòng, thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng tổ chức hội vững mạnh về mọi mặt, góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới” của Hội nông dân Tỉnh 17 “Tuổi trẻ Phú Yên chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Thanh niên lập nghiệp, tuổi trẻ giữ nước; Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; 5 xung kích phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc - 4 đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” của Tỉnh đoàn Phú Yên 18 “Xanh - sạch - đẹp, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động” của Liên đoàn Lao động Tỉnh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_thi_dua_khen_thuong_tren_dia_ba.pdf
Luận văn liên quan