- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và tỉnh Kiên
Giang nói riêng, của hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, việc tăng cường QLNN nói chung, về
bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng càng trở lên bức thiết
và tất yếu. Muốn vậy, trong thời gian tới QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang cần bám sát các phương hướng như: Tăng cường QLNN
trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Tăng cường quản lý nhà nước trong bảo đảm
TTATGTĐB hướng đến phục vụ và đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội về giao thông
đường bộ; Tăng cường QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB hướng tới khắc phục
những hạn chế, yếu kém trong giao thông đường bộ đặc biệt là tình trạng ùn tắc và
tai nạn giao thông đường bộ. Đồng thời, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải
pháp sau: Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường
bộ và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan; Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về TTATGTĐB; Tăng cường công
tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông đường bộ; Nâng cao hiệu quả an toàn
của kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Hoàn thiện các chính sách, biện pháp hỗ
trợ và hạn chế; Nâng cao chất lượng an toàn phương tiện giao thông đường bộ;
Tăng cường quản lý chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ; Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát; xử lý kịp thời, nghiêm
minh và triệt để mọi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Về cơ bản luận văn đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Tuy
nhiên, QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB là một vấn đề có nội dung rộng lớn và
phức tạp. Vì vậy, khó có thể giải quyết một cách thật đầy đủ và toàn diện vấn đề.
Chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế cần được chỉnh lý.
Tác giả rất mong nhận được sự bình luận, góp ý của các nhà khoa học và đồng
nghiệp để bổ sung, sửa chữa cho luận văn được hoàn thiện hơn.
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh khách công cộng hoạt động chỉ cho phép xe máy và ô tô con hoạt
động trong thời gian phương tiện công cộng không hoạt động hoặc chỉ cho đi theo
một chiều; Khống chế số lượng phương tiện giao thông cá nhân gia tăng hàng năm:
định mức cấp phép phương tiện trên cơ sở tính toán cân đối giữa kết cấu hạ tầng,
phương tiện vận tải hành khách công cộng và phương tiện giao thông cá nhân
3.2.2. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông đưòng
bộ
Để nâng cao hiệu quả QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB cần tăng cường
công tác tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB theo những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tổ chức và điều hành giao thông bảo đảm, hiệu quả, hiệu lực và
hợp lý.
Cần thực hiện một số biện pháp về tổ chức giao thông như sau: Phân luồng
giao thông từ xa và phân luồng xe tải ra vào các đô thị trong tỉnh; Thực hiện lại
việc phân làn, phân luồng giao thông để tách dòng phương tiện hỗn hợp. Tổ chức
lại hệ thống đường một chiều, mạng lưới đường bộ ra vào các đô thị; Tăng cường
điều hành và hướng dẫn giao thông của lực lượng Cảnh sát và Thanh tra giao thông
vào các giờ cao điểm, tại các điểm hay xảy ra ùn tắc giao thông và tại các điểm có
công trình thi công của các ngành cấp nước, thoát nước, điện, bưu chính viễn
thông...; Đặt camera, lắp đặt hệ thống loa từ xa để thông báo, nhắc nhở xe sắp đi
vào nơi hay có ùn tắc nhằm giảm số xe cộ bị đông kẹt. Thực hiện tốt chương trình
thông tin trực tiếp trên sóng phát thanh, kết nối với các phương tiện thông tin hiện
65
đại như mạng điện thoại di động, mạng internet, truyền hình online.. ..về tình trạng
ùn tắc giao thông trên địa bàn tỉnh và nghiên cứu thực hiện một số tuyến đường
không có xe 4 bánh và xe máy; sắp xếp lại phạm vi hoạt động của các loại phương
tiện trên địa bàn tỉnh; Hoàn chỉnh hệ thống biển báo và sơn vạch kẻ đường; Bố trí
lại tín hiệu giao thông cho phù hợp với lưu lượng của mỗi nút giao thông. Tăng
thời lượng hoạt động của đèn tín hiệu, vào các giờ cao điểm từ 7- 9 giờ và 17-19
giờ chu kỳ hoạt động của đèn thay đổi tuỳ theo cường độ của các tuyến đường trên
mỗi nút. Hoàn chỉnh, hiện đại hoá trung tâm điều khiển giao thông bằng đèn tín
hiệu của tỉnh; Quy định các tụ điểm xe ôm, xác định các nơi đỗ xe qua đêm; Cho
phép và quản lý tư nhân kinh doanh gara với mức thuế phù hợp để khuyến khích
xây dựng gara, chống đỗ xe tuỳ tiện trên đường, cản trở đi lại.
Đồng thời, phân làn là một biện pháp quan trọng trong điều kiện luồng giao
thông hỗn hợp mà xe máy chiếm chủ yếu của Kiên Giang. Luồng giao thông hỗn
hợp không chỉ hiệu quả thấp mà còn nguy hiểm do hoạt động điều khiển khác biệt
của các loại phương tiện. Do đó, cần tách phương tiện càng triệt để càng tốt nhằm
tăng hiệu quả và an toàn. Với quan điểm này, các giải pháp phân làn xe đã được
triển khai trên một số tuyến chính của Kiên Giang. Hiện tại, công tác cưỡng chế
phân làn chủ yếu thực hiện bằng các biện pháp mềm (biển báo và sơn kẻ). Không
lắp đặt các thiệt bị phân làn cứng. Do đó, tỷ lệ tuân thủ chưa đạt yêu cầu. Một vấn
đề khác liên quan đến phân làn là điều tiết xe máy tại nút giao. Hiện nay các loại
phương tiện hòa lẫn nhau tại nút giao và chỗ mở dải phân cách quay đầu khiến việc
rẽ trái và quay đầu xe rất nguy hiểm. Nếu phương tiện được phân làn tại các vị trí
trên thì hoạt động lưu thông sẽ hiệu quả và an toàn hơn.
Có 3 phương pháp phân làn cần nghiên cứu và áp dụng.
- Phân làn thông qua biển báo giao thông và sơn kẻ (đang thực hiện)
- Phân làn sử dụng phân cách cứng
- Phân làn khi phương tiện rẽ trái tại giao cắt
66
Phương pháp phân làn hiện nay sử dụng biển báo, sơn kẻ sẽ được áp dụng
cho một số đoạn tuyến đường khác. Chi phí triển khai phương pháp này không cao
do chỉ yêu cầu lắp đặt biển báo và sơn kẻ đường. Tuy nhiên hiệu quả còn hạn chế
do chủ yếu trông chờ vào ý thức người điều khiển phương tiện.
Phương pháp thứ hai sử dụng phân cách cứng, có thể đã có sẵn hoặc lắp đặt
mới, sẽ tách làn xe máy khỏi các phương tiện khác. Một số đoạn tuyến đường rộng
hiện đã có phân cách cứng. Làn trong sẽ dành cho xe máy và làn ngoài sẽ dành cho
ô tô. Chiều rộng của làn trong và làn ngoài cần đủ cho các phương tiện sử dụng.
Phương pháp này chỉ sử dụng trong đoạn tuyến mà thôi. Không thể sử dụng khi đã
gần nút giao khi xe máy rẽ. Do đó, cần nghiên cứu lập kế hoạch kỹ lưỡng.
Kế hoạch phân làn trong 5 năm sẽ bao gồm việc triển khai phân làn tại một
tuyến mới và duy trì công tác phân làn hiện nay. Thi công trên tuyến mới bao gồm
lắp đặt biển báo, bổ sung sơn kẻ. Nếu phân làn sử dụng phương pháp sử dụng phân
cách cứng, sẽ lắp đặt phân cách dọc đường để tách xe máy khỏi ô tô. Đối với tuyến
mới, cần tiến hành khảo sát điều kiện giao thông trước và sau triển khai để đánh giá
tính hiệu quả thực hiện. Với các tuyến đã triển khai phân làn, cần duy trì công tác
hàng năm như duy tu, sơn kẻ.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền QLNN
trong bảo đảm TTATGTĐB.
Mặc dù tại Điều 85 Luật GTĐB năm 2008 đã quy định cụ thể trách nhiệm
QLNN về giao thông đường bộ của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực
GTĐB. Tuy nhiên, trong thực tế quản lý hiện nay vẫn còn sự phối hợp chưa ăn
khớp, nhịp nhàng giữa các cơ quan. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tăng cường
sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB
để tránh đi tình trạng quản lý chồng chéo lên nhau hoặc đùn đẩy, né tránh làm giảm
hiệu quả của QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB. Hiện nay và trong những năm
tiếp theo cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB theo hướng:
67
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa Sở Giao thông vận tải và
Công an tỉnh trên các vấn đề như xây dựng công trình GTĐB phân luồng, phân
tuyến, xử lý vi phạm pháp luật về GTĐB; phân định rạch ròi thẩm quyền của Cảnh
sát giao thông và Thanh tra GTĐB.
- Sở Giao thông vận tải, Công an tỉnh phối hợp xây dựng, trình UBND tỉnh
Kiên Giang ban hành cơ chế phối hợp trong việc tổ chức giao thông, đẩy mạnh việc
phân cấp quản lý nhà nước về TTATGTĐB cho cấp huyện, cấp xã.
- Sở Công thương, Sở Giao thông vận tải phối hợp chặt chẽ trong việc quản
lý nhập khẩu phương tiện vận tải đường bộ, chủng loại phương tiện được nhập
khẩu trên cơ sở tiêu chuẩn, kỹ thuật và tình hình cầu đường hiện tại.
- Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch, Sở Giao thông vận tải, Sở Lao động - Thương binh xã hội, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Kiên Giang và các tổ chức thành viên phối hợp trong
việc đào tạo, dạy nghề, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về TTATGTĐB.
- Sở Tài chính, Công an tỉnh, Sở Giao thông vận tải phối hợp trong việc thu
tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, thống nhất phát hành và
quản lý biên lai, chứng từ thu tiền xử phạt vi phạm hành chính về GTĐB.
Tỉnh ủy tăng cường chỉ đạo các cấp ủy Đảng tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ
thị 22, tăng cường lãnh đạo, nâng cao trách nhiệm trong công tác bảo đảm trật tự
ATGT, nhất là trong công tác tuyên truyền, giáo dục cán bộ đảng viên gương mẫu
chấp hành và vận động người thân chấp hành, xây dựng văn hóa giao thông ở Kiên
Giang.
Việc xây dựng phong trào quần chúng thực hiện: ATGT lực lượng đông đảo,
to lớn, có mặt ở mọi nơi, mọi lúc trên địa bàn giao thông công cộng, chính sự tham
gia của quần chúng vào việc tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB sẽ giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB giải quyết các vấn đề về
GTĐB một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất, chẳng hạn như quần chúng phát hiện
có TNGT đường bộ, UTGT đường bộ xảy ra báo ngay cho lực lượng Cảnh sát giao
68
thông để lực lượng này kịp thời có mặt giải quyết. Cùng với sự phát triển kinh tế -
xã hội, nhu cầu GTĐB ngày càng tăng. Do đó, Nhà nước không thế không tăng
cường QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB. Hoạt động QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB tạo sự đảm bảo chắc chắn để GTĐB thông suốt, trật tự, an toàn, thuận
lợi, phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và vận chuyển hàng hóa.
GTĐB là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, cần
ưu tiên đầu tư phát triển đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững nhằm tạo
tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phục vụ sự
nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cần phải phát huy tối đa lợi thế về
vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của tỉnh Kiên Giang, đặc biệt là tiềm năng biển,
để phát triển hệ thống GTĐB hợp lý, tiết kiệm chi phí xã hội. Phát triển kết cấu hạ
tầng GTĐB một cách đồng bộ, hợp lý; kết hợp phát triển từng bước vững chắc với
những bước đột phá đi thẳng vào hiện đại tạo nên mạng lưới hoàn chỉnh, liên hoàn,
liên kết giữa các phương thức vận tải, giữa các vùng lãnh thổ, giữa đô thị và nông
thôn trên phạm vi toàn tỉnh và các khu vực lân cận, đồng thời coi trọng công tác
bảo trì, đảm bảo khai thác hiệu quả, bền vững kết cấu hạ tầng giao thông hiện có.
Đồng thời, phát triển vận tải đường bộ theo hướng hiện đại, chất lượng cao với chi
phí hợp lý, an toàn, hạn chế ô nhiễm môi trường và tiết kiệm năng lượng; ứng dụng
công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là vận tải đa phương thức và logic. Kết hợp
đầu tư mới với cải tạo, nâng cấp, đầu tư theo chiều sâu phát huy hiệu quả của các
cơ sở công nghiệp giao thông vận tải đường bộ hiện có, nhanh chóng đổi mới và
tiếp cận công nghệ hiện đại có tỷ lệ nội địa hóa cao, đặc biệt là trong lĩnh vực chế
tạo ô tô để sử dụng trong nước và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, phát triển hệ thống giao thông vận tải đường bộ đối ngoại gắn
kết chặt chẽ với hệ thống giao thông vận tải đường bộ trong nước để chủ động hợp
tác, hội nhập khu vực và quốc tế. Phát triển vận tải đường bộ theo hướng sử dụng
vận tải công cộng là chính, đảm bảo hiện đại, an toàn, tiện lợi; phát triển hệ thống
giao thông tĩnh và giao thông tiếp cận cho người khuyết tật; kiểm soát sự gia tăng
69
phương tiện vận tải cá nhân; giải quyết UTGT và bảo đảm TTATGTĐB trên địa
bàn tỉnh. Phát triển mạnh giao thông vận tải đường bộ tỉnh, đáp ứng được yêu cầu
công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn, gắn kết được mạng giao
thông vận tải đường bộ tỉnh với mạng giao thông vận tải quốc gia, tạo sự liên hoàn,
thông suốt và chi phí vận tải hợp lý, phù họp với đa số người dân.
Xã hội hóa việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng GTĐB. Huy động tối đa
mọi nguồn lực, coi trọng nguồn lực từ trong dân, để đầu tư phát triển GTĐB.
Người sử dụng kết cấu hạ tầng GTĐB có trách nhiệm đóng góp phí sử dụng để bảo
trì và tái đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB.
Dành quỹ đất hợp lý để phát triển kết cấu hạ tầng GTĐB và đảm bảo hành
lang ATGT. Quy hoạch đất sử dụng cho kết cấu hạ tầng GTĐB cần có sự thống
nhất và phối hợp chặt chẽ, thực hiện đồng bộ giữa các Sở, ngành và các cấp chính
quyền địa phương.
Định hướng phát triển giao thông vận tải đến năm 2020, hệ thống GTĐB
trên địa bàn tỉnh cơ bản đáp ứng nhu cầu vận tải đa dạng của xã hội với mức tăng
trưởng nhanh, đảm bảo chất lượng ngày càng cao, giá thành hợp lý; kiềm chế tiến
tới giảm sự gia tăng TNGT và hạn chế ô nhiễm môi trường, về tổng thể, hình thành
được một hệ thống giao thông vận tải đường bộ hợp lý giữa các phương thức vận
tải và các hành lang vận tải chủ yếu đối với các mặt hàng chính có khối lượng lớn.
Hệ thống GTĐB trên địa bàn tỉnh phải được đưa vào đúng cấp kỹ thuật; mở rộng
và xây dựng mới các quốc lộ có nhu cầu vận tải lớn; xây dựng hệ thống đường bộ
cao tốc. Các tuyến đường bộ đối ngoại đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của đường bộ khu
vực. Thành lập Quỹ bảo trì đường bộ để đáp ứng nhu cầu nguồn vốn cho công tác
bảo trì hệ thống kết cấu hạ tầng GTĐB. Đồng thời, phát triển hợp lý hệ thống kết
cấu hạ tầng giao thông đô thị và vận tải công cộng; đảm bảo quỹ đất dành cho giao
thông đô thị từ 15 - 25% và phát triển mạnh hệ thống xe buýt; phát triển đường
giao thông nông thôn cho phương tiện giao thông cơ giới tới tất cả trung tâm xã,
70
phường, thị trấn hoặc cụm xã, đảm bảo thông suốt quanh năm. Tỷ lệ mặt đường
cứng, rải nhựa đạt 60 - 80%.
Tầm nhìn đến năm 2030, trên địa bàn tỉnh sẽ cơ bản hoàn thiện mạng lưới
giao thông vận tải đường bộ cũng như các hành lang giao thông đối ngoại. Chất
lượng vận tải giao thông đường bộ đảm bảo đạt tiêu chuẩn quốc tế: "êm thuận,
nhanh chóng và an toàn” và kết nối hợp lý giữa các phương thức vận tải, nhất là
các điểm chuyển tải hành khách đường dài với vận tải hành khách trên địa bàn tỉnh.
Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Kiên Giang cần ký
Nghị quyết liên tịch với Ủy ban An toàn giao thông tỉnh vận động: “Toàn dân tham
gia bảo đảm trật tự ATGT”; Ủy ban ATGT tỉnh và Tỉnh đoàn cần ký Nghị quyết
liên tịch về vận động thanh thiếu niên tham gia bảo đảm trật tự ATGT nhằm mục
đích nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành luật ATGT cho thanh thiếu niên, qua
đó tác động đến các tầng lớp khác trong xã hội. Bên cạnh đó, Công an tỉnh và Tỉnh
đoàn cũng cần phối hợp thực hiện những chương trình về giữ gìn trật tự ATGT và
phòng chống đua xe trái phép. Để các cuộc vận động này mang lại nhiều hiệu quả
tích cực, trong thời gian tới cần đẩy mạnh thực hiện các việc sau:
- Thành lập “Ban tự quản ATGT” ở xã, phường, thị trấn, tại các khu dân cư
thành lập tổ tự quản ATGT do Trưởng ban công tác Mặt trận làm tổ trưởng tổ tự
quản; Trưởng ấp, Tổ trưởng Tổ dân phố làm tổ phó, thêm một số tổ viên gồm công
an viên, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và một số người có uy tín.
- Tiến hành điều tra tình hình người tham gia giao thông; phương tiện giao
thông hiện có; tình hình TNGT, v.v.. ở từng khu dân cư, khu phố, thôn, xã,
phường, thị trấn.
- Xây dựng chương trình hành động vận động “Toàn dân tham gia bảo đảm
trật tự ATGT” của khu dân cư, lấy phương châm “ATGT là hạnh phúc cho mọi
nhà” với mục tiêu xây dựng “Khu dân cư bảo đảm trật tự ATGT” và cần bổ sung
vào quy ước, hương ước của cơ quan, trường học, khu dân cư các nội dung như:
tuyên truyền, giáo dục trong các cơ quan, trường học, trạm xá, các đoàn thể và
71
nhân dân ở khu dân cư về pháp luật nói chung, pháp luật GTĐB nói riêng; nâng
cao ý thức trách nhiệm của quần chúng để cùng Nhà nước bảo vệ kết cấu hạ tầng
giao thông; tố giác, phát hiện những hành vi của tập thể và cá nhân vi phạm những
quy định về TTATGTĐB.
- Mỗi khu dân cư, cơ quan, trường học xây dựng “Câu lạc bộ tìm hiểu pháp
luật” để mọi người được sinh hoạt, tìm hiểu về pháp luật trong đó có pháp luật
GTĐB.
- Ở các khu dân cư trọng điểm giao thông của tỉnh cần phối họp với Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cơ sở thành lập “Đội thanh niên tình nguyện”
tham gia đảm bảo trật tự ATGT ở những nút giao thông thường xuyên gây UTGT,
đội này gồm những đoàn viên thanh niên ở khu dân cư, trường học, cơ quan. Riêng
ở mỗi trường học thành lập “Đội thiếu niên bảo vệ trật tự ATGT cổng trường và
đường đi học”.
- Mở rộng các hình thức tự quản ở khu dân cư như “Đoạn đường tự quản an
toàn”, “Bến xe tự quản an toàn”.
- Trưởng ấp, Tổ trưởng Tổ dân phố, Tổ trưởng tổ nhân dân tự quản tổ chức
cho các hộ gia đình ký cam kết. Nội dung cam kết gồm thực hiện quy ước, hương
ước, tham gia học tập để hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật GTĐB nói riêng,
không vi phạm hành lang ATGT, v.v.. với mục tiêu xây dựng “Khu dân cư đảm
bảo ATGT”, “Hộ gia đình văn hóa”, “Khu dân cư tiên tiến và khu dân cư xuất sắc”
trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân
cư”.
- Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư căn cứ vào chương trình hành động
tháng cao điểm ATGT để phối hợp với các lực lượng ở khu dân cư tổ chức phát
động hưởng ứng thực hiện (lưu ý các nút giao thông thường xảy ra tai nạn như:
chợ, bến xe, cổng trường, đường ngang, v.v..). Xây dựng “Hòm thư tố giác vi phạm
ATGT” ở khu dân cư.
72
- Sơ kết ba tháng, sáu tháng, tháng cao điểm ATGT và tổng kết một năm bảo
đảm ATGT, từ đó đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn
chế, để qua đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm thực hiện thắng lợi phong
trào “Nhân dân tham gia bảo đảm trật tự ATGT”.
Phát triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng GTĐB là một nhu cầu quan trọng và tất
yếu được các Sở, ban ngành chức năng và các cấp chính quyền của tỉnh Kiên
Giang rất quan tâm, tập trung chỉ đạo. Kết cấu hạ tầng GTĐB trên địa bàn tỉnh đã
có nhiều thay đổi, tuy nhiên so với các nước trong khu vực và thế giới thì kết cấu
hạ tầng GTĐB nước ta còn nhiều hạn chế. Do hệ thống đường bộ nước ta còn hẹp
nên chưa tách được các dòng giao thông cơ giới và dòng giao thông thô sơ trên các
tuyến quốc lộ, đường chính. Các điểm giao cắt chủ yếu vẫn trong tình trạng giao
cắt đồng mức. Dân cư sống dọc các tuyến đường, kể cả những tuyến đường mới
xây dựng phát triển đến đâu thì nhà dân lại lan ra đến đó. Việc sử dụng đường,
hành lang an toàn đường bộ theo quy định vẫn còn là vấn đề nan giải, v.v..
Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong việc nâng cao chất lượng cơ
sở hạ tầng GTĐB trên địa bàn tỉnh hiện nay là: Hệ thống biển báo, thông tin, tín
hiệu chỉ dẫn, hệ thống gương hình cầu cần được lắp đặt theo quy định ở những nơi
cần thiết; Xây dựng và lắp đặt các thiết bị phòng hộ, bảo vệ; Các biện pháp kiểm
soát đường ngang và đường chính; Quan tâm bảo vệ người đi bộ, đi xe thô sơ bằng
việc dùng các đường gom, cầu vượt, đường hầm; Tổ chức chỉ huy, điều hòa giao
thông hợp lý trên các tuyến đường; Ngoài ra, các trang thiết bị trên các tuyến
đường như điện thoại, cứu thương, v.v.. cũng cần được quan tâm đúng mức.
Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về kiểm định ATGT đối với các
đường cải tạo, nâng cấp, làm mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc kiểm định
an toàn đường bộ là một thủ tục chính thức cho việc đánh giá khả năng hoạt động
an toàn trong những dự án đường bộ mới, cải tạo và nâng cấp. Mục đích của hoạt
động kiểm định an toàn đường bộ là giảm thiểu sự rủi ro, giảm mức độ nghiêm
trọng của tai nạn có thể xảy ra đã được dự liệu trước, nhờ đó mà giảm chi phí lâu
73
dài của dự án. Công tác này từ trước đến nay chưa thực sự được quan tâm, vì vậy
nhiều tuyến đường được xây dựng mới, được nâng cấp, cải tạo thì nguy cơ xảy ra
tai nạn cũng tăng lên. Do đó, phải coi kiểm định an toàn đường bộ là một phần
chiến lược của công tác an toàn GTĐB, góp phần vào nâng cao hiệu quả QLNN
trong bảo đảm TTATGTĐB. Để thực hiện tốt nội dung này, cần có những quy định
bắt buộc từ giai đoạn thiết kế khả thi, thiết kế sơ bộ đến trước khi thông xe và đội
ngũ chuyên gia làm kiểm định; Bên cạnh đó, cần thống kê tình hình giao thông
theo khu vực và theo chiều dài tuyến đường để xác định các “điểm đen”, từ đó
phân tích nguyên nhân tai nạn do con đường ở mỗi đoạn, mỗi khu vực để có hướng
khắc phục.
Trên cơ sở quy hoạch chi tiết mạng giao thông của tỉnh Kiên Giang, cần ưu
tiên đầu tư để thực hiện chương trình cải tạo, xây dựng những kết cấu hạ tầng giao
thông có nhu cầu cấp bách, cụ thể là:
- Tại những nơi thường hay xảy ra chen chúc và ùn tắc giao thông, cần tích
cực cải tạo và nâng cấp mạng lưới đường hiện có, mở rộng và tăng thêm các tuyến
đường mới, nâng cao tỷ suất sử dụng và năng lực thông hành của mạng lưới đường
đô thị. Để từng bước hoàn thiện hệ thống đường đô thị, trước mắt cần đặt trọng
điểm của đầu tư và xây dựng vào việc cải tạo và xây dựng hệ thống các tuyến
đường trục đô thị, tăng mật độ mạng lưới đường trục và tỷ lệ diện tích đường xá,
bước đầu hoàn thành hệ thống đường trục đô thị nối liền các tuyến đường chủ yếu
của đô thị thành một mạng lưới.
- Khu vực phát triển mới: khu vực này có đặc điểm là tốc độ đô thị hoá rất
nhanh, trong một thời gian ngắn nhiều khu dân cư, đô thị mới được hình thành (bao
gồm cả theo quy hoạch và tự phát) trong khi cơ sở hạ tầng giao thông được xây
dựng rất ít do vậy cần tập trung tạo ra mạng lưới đường liên kết các khu đô thị mới,
các khu vực dân cư đã và đang hình thành trong địa bàn. Từ đó tạo ra sự phát triển
đồng bộ giữa các khu đô thị mới và mạng lưới đường của tỉnh và khu vực, góp
phần giảm tải cho các khu trung tâm đô thị trong toàn tỉnh.
74
- Đầu tư xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới nút giao thông trong các đô thị trên
cơ sở phân loại nút giao thông. Kinh nghiệm ở hầu hết các thành phố trên thế giới
cho thấy rằng, muốn đáp ứng nhu cầu đi lại, ngăn chặn tình trạng ách tắc giao
thông thì một trong các yếu tố quan trọng là mạng lưới giao thông phải được xây
dựng trên cơ sở giảm tối đa các giao cắt và phải phân tách các thành phần giao
thông có tốc độ khác nhau như cơ giới và thô sơ, có động cơ và không có động cơ
hay giữa các loại hình như tàu điện, ô tô, xe máy, xe đạp... Muốn vậy, giải pháp
cần thiết là tổ chức và xây dựng mạng lưới giao thông khác tốt bao gồm đường và
nút giao thông, đặc biệt đối với các tuyến có lưu lượng lớn, đảm nhận chức năng
đường chính đô thị, các tuyến vành đai.
Điều kiện kết cấu hạ tầng giao thông vận tải có ảnh hưởng lớn tới vấn đề an
toàn giao thông - Nút giao được thiết kế phù hợp về hình dạng và các thiết bị điều
khiển giao thông không chỉ tăng khả năng thông qua nút mà còn cải thiện an toàn
giao thông dẫn tới giảm số vụ tai nạn. Kỹ thuật hạ tầng giao thông đóng vai trò
quan trọng trong công tác cải thiện kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và an toàn
giao thông. Trên cơ sở điều kiện giao thông đường bộ và kết cấu hạ tầng đường bộ
hiện nay, cần xác định 4 lĩnh vực trọng tâm đưa vào chương trình 5 năm tới đối với
Kiên Giang là:
+ Cải tạo nút giao;
+ Xử lý các điểm có nguy cơ tai nạn;
+ Cải thiện hạ tầng cho người đi bộ;
+ Kết cấu hạ tầng vận tải hành khách công cộng.
Quy trình cải tạo cho tất cả các lĩnh vực trên là tương tự nhau. Bắt đầu bằng
việc xác định các vị trí có vấn đề dựa trên dữ liệu ùn tắc và tai nạn giao thông. Sau
đó sẽ tiến hành phân tích nguyên nhân vấn đề. Tiếp theo là xác định các biện pháp
giải quyết hoặc cải thiện vấn đề, đồng thời xây dựng kế hoạch hành động mỗi năm
trên cơ sở mức độ ưu tiên và khả năng ngân sách cấp cho dự án. Các biện pháp này
sẽ được triển khai trong kế hoạch hàng năm. Cuối cùng, cần tiến hành rà soát và
75
đánh giá các kết quả của biện pháp thực hiện. Song song, sẽ liên tục tiến hành công
tác tăng cường năng lực cho cán bộ các cơ quan, đơn vị chịu trách nhiệm về quản
lý kết cấu hạ tầng mới xây dựng thông qua tổ chức tập huấn và tổ chức hội thảo
trong suốt thời gian chương trình 5 năm. Để đảm bảo an toàn hoạt động GTĐB,
ngoài việc đề nghị Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận tải có chiến
lược phát triển GTĐB, xem xét hạn chế nhập về số lượng, chủng loại phương tiện
giao thông, nhất là những phương tiện trên thực tế không hoặc chưa phù hợp với
tình hình đường xá và hoạt động giao thông hiện nay. Trong những năm tới, để
nâng cao chất lượng an toàn phương tiện GTĐB cần thực hiện tốt các quy định sau
đây: Tổ chức tổng kiểm tra phương tiện cơ giới; quản lý chặt chẽ hơn phương tiện,
thiết bị vận tải; nghiêm cấm các loại phương tiện không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ
thuật an toàn tham gia GTĐB; tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định Chính
phủ quy định về niên hạn sử dụng của ôtô tải và ôtô chở người; cần đặc biệt coi
trọng công tác kiểm định phương tiện. Cùng với việc tăng cường cơ sở vật chất cho
các trạm đăng kiểm, cần tiếp tục đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ theo chiều
sâu, tăng cường các hạng mục kiểm tra bằng thiết bị, giảm dần và loại bỏ việc kiểm
tra, đánh giá bằng cảm quan, kinh nghiệm thuần túy; cần coi trọng “chiến lược con
người” nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đăng kiểm tinh thông nghiệp
vụ bằng cách đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp cho đăng kiểm viên. Đồng thời, tiến hành đổi mới
công tác quản lý, cải cách thủ tục hành chính, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý,
kiên quyết chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác đăng kiểm. Ngoài ra, cần
quy định chặt chẽ về thời gian sử dụng phương tiện giao thông đường bộ và kiểm
tra thực hiện nghiêm túc những quy định này.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn
pháp luật về trật tự, an toàn giao thông đường bộ
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTATGTĐB,
việc phổ biến, giáo dục pháp luật một cách thường xuyên, sâu rộng trong các tầng
76
lớp nhân dân, để mọi người nắm được và nghiêm chỉnh chấp hành phải được hết
sức coi trọng. Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu nhằm từng bước góp phần nâng cao dân trí pháp lý, nâng cao năng
lực thực hiện đúng đắn, nghiêm chỉnh pháp luật, xác lập kỷ cương, phát huy dân
chủ, ổn định chính trị - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền. Nâng cao công tác
tuyên truyền vận động quần chúng tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông
đường bộ một cách thiết thực. Đẩy mạnh hơn nữa việc đưa Luật giao thông đường
bộ vào giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, trung cấp, cao đẳng và đại học
thành chương trình chính khoá. Sử dụng các loại phương tiện thông tin đại chúng
như đài phát thanh, truyền hình, báo chí ... phổ biến luật, quy tắc, tín hiệu có liên
quan đến trật tự an toàn giao thông để mọi người biết và thực hiện. Thông tin kịp
thời các vi phạm về trật tự an toàn giao thông dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về
tính mạng và tài sản để mọi người biết và làm bài học kinh nghiệm, từ đó mọi
người nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ.
Có thể nói, những năm vừa qua, các Sở, ban, ngành chức năng, các cấp
chính quyền của tỉnh đã chú ý duy trì công tác giáo dục, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về TTATGTĐB. Ý thức pháp luật của một bộ phận người tham gia giao
thông đã được nâng lên đáng kể, song nhìn chung ý thức chấp hành pháp luật về
giao thông đường bộ còn hạn chế, tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông còn
nhiều, một số người vi phạm do không hiểu biết pháp luật, nhưng cũng không ít
người có hiểu biết nhưng ý thức chấp hành kém, cố tình vi phạm các quy định về
đảm bảo trật tự an toàn giao thông. Qua phân tích các trường hợp vi phạm trật tự an
toàn giao thông đã được kiểm tra phát hiện và các lỗi gây TNGT những năm qua
thì do người tham gia giao thông chiếm tỷ lệ đến 80%, thường do lái xe vi phạm
tốc độ, tránh vượt, uống rượu, bia vẫn điều khiển phương tiện. Trong nguyên nhân
do người tham gia giao thông gây TNGT thì lỗi do người điều khiển phương tiện
chiếm phần lớn và là nguyên nhân trực tiếp.
77
Trước tình hình đó, một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu là phải
thường xuyên tuyên truyền, phổ biến pháp luật an toàn giao thông. Giải pháp này
đóng vai trò hết sức quan trọng, góp phần nâng cao dân trí và ý thức chấp hành
pháp luật về trật tự an toàn giao thông nhằm kiềm chế mức độ gia tăng số người
chết vì TNGT. Khi trình độ dân trí được nâng cao, kết cấu hạ tầng giao thông được
hoàn thiện, tốc độ gia tăng phương tiện giảm, sẽ đạt được mục tiêu giảm TNGT.
Tuy nhiên, do nhận thức, thói quen, lối sống của người dân, nên để việc thực hiện
pháp luật về trật tự an toàn giao thông, có văn hóa giao thông trở thành nếp sống
của từng người dân đòi hỏi phải có thời gian. Điều này đòi hỏi biện pháp này phải
được thực hiện kiên trì, thường xuyên và lâu dài.
Hiện nay và trong vòng 5 năm tới, mục tiêu của công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật về giao thông đường bộ là nâng cao sự hiểu biết những quy định về
trật tự an toàn giao thông đối với từng khu dân cư trên địa bàn tỉnh và toàn thể cộng
đồng. Định hướng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, nếu kiên trì giáo dục
pháp luật nói chung, pháp luật về TTATGTĐB nói riêng, tỉnh Kiên Giang sẽ có
một thế hệ đạt được những yêu cầu trên và dẫn tới hình thành văn hóa giao thông,
thói quen tôn trọng pháp luật giao thông đường bộ.
Để đạt được những mục tiêu trên, cần nghiên cứu về hình thức và phương
pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật trật tự an toàn giao thông cho phù họp với
từng đối tượng, cần tập trung vào các nhóm đối tượng học sinh, thiếu niên, thanh
niên, người sử dụng xe môtô, xe máy; người điều khiển xe thô sơ; người lái xe ôtô;
cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ở các cơ quan, tổ chức và doanh
nghiệp, mọi tầng lớp nhân dân v.v... sinh sống trên địa bàn tỉnh. cần có nội dung,
hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú và thiết thực.
Những nội dung, hình thức tuyên truyền sau đây đã và đang mang lại hiệu
quả rõ rệt cần được tiếp tục đẩy mạnh trong thời gian tới, cụ thể là: tuyên truyền
miệng; phát động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật về TTATGTĐB; tuyên truyền
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo viết, đài truyền hình, đài
78
phát thanh; xây dựng, tổ chức triển lãm tranh, ảnh; tuyên truyền bằng khẩu hiệu;
hội thảo chuyên đề; phát động, xây dựng và duy trì các phong trào thi đua đảm bảo
trật tự ATGT, v.v...
Ngoài ra, có thể áp dụng nhiều hình thức tuyên truyền khác như tổ chức các
câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin cổ động về TTATGTĐB; phổ biến pháp luật
ATGT thông qua lễ hội truyền thống, sinh hoạt văn hóa; in phát các tờ rơi, tờ gấp,
thông báo trên các bản tin của thôn, của tổ dân phố; phát động thi sáng tác tranh,
ảnh, truyện ngắn, phóng sự, ký, bài hát có chủ đề về trật tự ATGT để tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng; biên soạn các quy định về ATGT để mọi
tầng lớp nhân dân cam kết chấp hành, v.v...
Một nội dung hết sức quan trọng trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật trật
tự ATGT là đưa chương trình ATGT vào giảng dạy chính khóa ở các bậc học từ
mầm non đến trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và
các trường dạy nghề. Đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy về đạo đức, giáo dục công
dân, pháp luật ở các trường cũng chính là những tuyên truyền viên pháp luật có khả
năng và cần được huy động.
Mặt khác, các cơ quan chức năng cần phối hợp với các cấp chính quyền
thường xuyên phát động phong trào thi đua, lôi kéo mọi ngành, mọi cấp, mọi tầng
lớp nhân dân tham gia giữ gìn trật tự ATGT; động viên, tuyên truyền nêu gương
những lái xe giỏi, an toàn, những người tham gia giao thông có ý thức cao. Tổ chức
các hội thi, hội nghị để tôn vinh những tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc
trong việc tham gia bảo đảm TTATGTĐB, ngăn ngừa TNGT xảy ra. Đây cũng là
những biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật về trật tự ATGT mang lại hiệu
quả cao, cần được quan tâm duy trì thường xuyên và nhân rộng ra ở tất cả các cơ
quan, đơn vị.
Những hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trên đây muốn
đạt hiệu quả cao phải kết hợp giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối
tượng; kết hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội; kết hợp giáo dục với
79
cưỡng chế thực hiện; phải tiến hành thường xuyên liên tục, có chương trình kế
hoạch cụ thể, phải xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên có đủ nhiệt huyết, đủ trình
độ hiểu biết pháp luật GTĐB, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật GTĐB
3.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác kiểm tra, hướng dẫn là vấn đề không thể thiếu trong các hoạt động
quản lý xã hội của nhà nước, không có kiểm tra hướng dẫn thì coi như không có tổ
chức thực hiện. Đối với công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông
đường bộ thì vấn đề kiểm tra, hướng dẫn lại có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt,
nó có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu quả của cả quá trình công tác. Vì
vậy đi đôi với việc tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia, lực
lượng Công an các cấp vẫn cần phải tiến hành kiểm tra và xử lý các trường hợp vi
phạm trong quá trình đảm bảo an toàn giao thông đường bộ. Việc kiểm tra hướng
dẫn không phải chỉ tiến hành có tính chất định kỳ, hình thức mà phải được tiến
hành một cách thường xuyên có hệ thống. Thông qua việc kiểm tra giúp cho các bộ
phận liên quan nắm vững số liệu trong địa bàn quản lý, nắm chắc tình hình thực
hiện, việc chấp hành các quy định về giao thông đường bộ trong địa bàn.
Qua khảo sát thực tế tại tỉnh Kiên Giang cho thấy một trong những nguyên
nhân dẫn đến hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn giao thông
đường bộ của lực lượng chức năng chưa đạt được như mong muốn là do công tác
kiểm tra chưa được tiến hành thường xuyên và đúng mức, đặc biệt là đối với các
địa bàn tập trung đông dân cư. Thực tế khi nào có đợt kiểm mới tập trung cập nhật
thông tin còn lúc bình thường thì không cập nhật để quản lý. Do đó, để không
ngừng nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông
đường bộ, các lực lượng chức năng cần phải không ngừng tăng cường kiểm tra việc
thực hiện các quy định về an toàn giao thông đường bộ.
Mặt khác, kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục với xử lý nghiêm minh trong
việc giải quyết các trường hợp vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ có ý
nghĩa rất quan trọng trong phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Trong quá
80
trình xử lý các trường hợp vi phạm phải đi đôi với giáo dục, thuyết phục đối tượng.
Có như vậy đối tượng mới nhận thức được lỗi lầm của mình, hiểu được chính sách,
pháp luật từ đó thực hiện tốt các nội quy, quy định và sẽ không tái phạm. Do vậy,
sự kết hợp giữa giáo dục, thuyết phục và xử lý nghiêm minh là rất quan trọng và
cần thiết.
* Nội dung của giải pháp:
- Một là, phải tăng cường công tác kiểm tra đột xuất và định kỳ là một trong
những phương pháp chủ yếu để đảm bảo trật tự, an toan giao thông đường bộ. Về
hình thức kiểm tra cần phải kết hợp một cách hợp lý giữa kiểm tra định kỳ với kiểm
tra đột xuất. Cần chú trọng đến công tác kiểm tra định kỳ nhằm phát hiện những
thiếu sót, vi phạm để kịp thời uốn nắn, khắc phục, đồng thời việc kiểm tra định kỳ
cũng nhằm tác động tích cực đến ý thức chấp hành các quy định về an toàn giao
thông của cả cán bộ Công an và nhân dân. Đối với những dịp lễ, tết cần tăng
cường công tác kiểm tra một cách toàn diện.
- Hai là, thông qua công tác kiểm tra cần phải kịp thời phát hiện những bất
hợp lý trong công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ để
kiến nghị các biện pháp giải quyết.
- Ba là, việc kiểm tra phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị nghiệp vụ
của Công an, giữa cơ quan Công an với các đơn vị có liên quan.
- Bốn là, về việc giáo dục, thuyết phục: lực lượng Công an phải dùng lý lẽ,
tình cảm phân tích hành vi vi phạm của đối tượng, khuyên răn họ thực hiện tốt các
quy định của pháp luật về giữ gìn an ninh trật tự nói chung và trật tự, an toàn giao
thông đường bộ nói riêng. Từ đó để họ tự giác chấp hành các quy định đã đề ra.
Việc giáo dục, thuyết phục thường được áp dụng trong các tầng lớp người lao động
tự do, công nhân, viên chức nhà nước với những vi phạm không phải do cố
ýViệc giáo dục này phải được tiến hành thường xuyên. Ngoài ra, không chỉ giáo
dục mà còn phải giao đối tượng cho các cơ quan, tổ chức, các lực lượng Công an
81
cấp xã phối hợp giáo dục, quản lý tiếp sau đó. Vận động gia đình đối tượng tham
gia vào việc giáo dục này.
- Năm là, về việc xử lý nghiêm minh: Đảm bảo xử lý đối tượng đúng chính
sách pháp luật của nhà nước, đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được phân
công. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm pháp luật mà tiến hành các
biện pháp xử lý đảm bảo đúng người, đúng hành vi vi phạm.
Để đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật GTĐB không những chỉ làm công
tác giáo dục, mà phải coi những biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật là hết sức
quan trọng, đặc biệt có hiệu quả khi ý thức chấp hành pháp luật GTĐB của người
tham gia GTĐB hiện nay có nhiều hạn chế.
Cưỡng chế thi hành pháp luật là biện pháp quan trọng của Nhà nước pháp
quyền bởi vì các quy phạm pháp luật của Nhà nước ban hành và được bảo đảm thi
hành bằng các biện pháp cưỡng chế. Hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lý vi
phạm pháp luật GTĐB hiện nay có nhiều lực lượng tham gia như lực lượng Công
an (mà chủ yếu là lực lượng Cảnh sát giao thông), lực lượng Thanh tra GTĐB và
chính quyền các cấp. Để không chồng chéo, đùn đẩy hoặc né tránh dẫn đến bỏ trốn
việc tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB trước hết cần xem xét lại
chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này, xem có chức năng nhiệm vụ nào trùng
lắp lên nhau thì loại bỏ. Đối với lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao
thông, công tác tuần tra, kiếm soát giao thông là một trong những biện pháp nghiệp
vụ cơ bản để thực hiện chức năng QLNN, kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật GTĐB, tham gia đấu tranh phòng ngừa các hành vi vi phạm pháp luật GTĐB
đã cấu thành tội phạm hoạt động trên các tuyến đường giao thông, nhằm góp phần
đảm bảo GTĐB trật tự, an toàn và thông suốt, đồng thời phòng ngừa, hạn chế tai
nạn GTĐB xảy ra. Để tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát và nâng cao hiệu quả
của công tác này cần xây dựng lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông
trong sạch, vững mạnh. Trước mắt, cần tiếp tục tập trung chỉ đạo, củng cố và tổ
chức lại lực lượng tuần tra, kiểm soát giao thông từ tỉnh tới cấp cơ sở cho phù hợp
82
với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đảm bảo việc tuần tra, kiểm soát phải
khép kín địa bàn và thời gian, không để địa bàn không có lực lượng Cảnh sát giao
thông, Thanh tra giao thông phụ trách, cũng như tránh sự chồng chéo; không ngừng
nâng cao trình độ, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của những người thi hành công
vụ, đảm bảo phát hiện kịp thời mọi vi phạm pháp luật GTĐB và xử lý nghiêm
minh, triệt để, để giáo dục, răn đe và phòng ngừa, đồng thời tránh được các biểu
hiện tiêu cực. Nếu mọi hành vi vi phạm pháp luật GTĐB đều bị xử lý nghiêm
minh, triệt để, công bằng, không có hiện tượng tiêu cực thì chắc chắn hiệu lực
QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB sẽ được nâng cao, các hành vi vi phạm pháp
luật GTĐB sẽ giảm đáng kể và nó là yếu tố quan trọng để giảm TNGT đường bộ.
Mặt khác, trong công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB
cũng phải thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm các chuyên đề, các đợt cao điểm
để đề ra các biện pháp phát huy kết quả đạt được và khắc phục những thiếu sót
trong quá trình thực hiện. Lực lượng Cảnh sát giao thông, Thanh tra giao thông làm
nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật GTĐB phải chấp hành
nghiêm chỉnh quy trình tuần tra kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực TTATGTĐB. Đồng thời, cũng cần nghiên cứu bổ sung kịp thời các quy trình
có liên quan đến công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB cho
phù hợp với yêu cầu thực tế nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc
thực hiện như quy định chỉ được dừng phương tiện khi có dấu hiệu vi phạm hoặc
vấn đề trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng cưỡng chế thi hành pháp luật
GTĐB mà trước hết là lực lượng Cảnh sát giao thông cần được quan tâm đúng mức
và đáp ứng đầy đủ các phương tiện, thiết bị dụng cụ như máy đo nồng độ cồn, cân
tải trọng, máy đo tốc độ, camera kiểm tra, phương tiện tuần tra, nhiên liệu để làm
nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát.
Tệ nạn đua xe trái phép, tổ chức đua xe trái phép đang còn diễn biến hết sức
phức tạp. Vì vậy, lực lượng Công an phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng có
phương án để phòng ngừa và đấu tranh chống đua xe trái phép có hiệu quả.
83
Trước hết, lực lượng Cảnh sát phải làm tốt công tác nghiệp vụ cơ bản, lên
danh sách các đối tượng có biểu hiện, có khả năng đua xe hoặc tổ chức đua xe trái
phép. Từ đó, phối hợp chặt chẽ với gia đình, trường học và chính quyền địa
phương, các tổ chức đoàn thể để phòng ngừa không để xảy ra đua xe trái phép. Cần
củng cố hệ thống cơ quan trực ban hình sự, trực ban giao thông để tiếp nhận thông
tin qua số điện thoại 113 về tố giác tội phạm và đua xe trái phép. Các lực lượng
làm công tác phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn đua xe trái phép và tổ chức đua
xe trái phép cần được trang bị các phương tiện hỗ trợ hiện đại phù hợp với thực
tiễn công tác, kịp thời ngăn chặn và bắt giữ những người tham gia đua xe trái phép,
gây rối trật tự công cộng. UBND tỉnh cần giao trách nhiệm cụ thể cho cấp huyện và
cấp xã phối hợp với các ngành thực hiện chức năng của mình để phòng ngừa và
đấu tranh chống nạn đua xe trái phép, gây rối trật tự công cộng. Hình thành thế trận
nhân dân phát hiện đối tượng có dấu hiệu đua xe trái phép, tụ tập cổ vũ, gây rối trật
tự công cộng. Thực hiện công tác phòng, chống đua xe là của toàn xã hội bởi vì
mọi đối tượng đua xe trái phép không qua được tai mắt nhân dân.
Các đơn vị làm nhiệm vụ chống đua xe trái phép làm công tác điều tra cơ
bản, khảo sát cần nắm chắc địa bàn, tuyến đường thường xuyên có biểu hiện tụ tập,
đua xe, cổ vũ, lên danh sách các đối tượng đã có tiền án, tiền sự về đua xe trái
phép; nắm chắc những tụ điểm các đối tượng tụ tập trước khi tổ chức đua xe trái
phép như nhà hàng, vũ trường, quán cà phê, v.v.. để tìm ra những quy luật, chủ
động có kế hoạch tăng cường tuần tra kiểm soát ở những tuyến trọng điểm, phòng
ngừa, ngăn chặn ngay từ khi chưa xảy ra.
Khi có vụ đua xe trái phép xảy ra, ngoài các biện pháp khẩn trương giải tán
đám đua, lực lượng Cảnh sát giao thông cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng Cảnh
sát điều tra để thu thập tài liệu chứng cứ. Khi xử lý hành chính phải đảm bảo tính
pháp chế chặt chẽ. Thông qua công tác điều tra tai nạn GTĐB để phát hiện những
nguyên nhân, điều kiện xảy ra tai nạn từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa.
84
Lực lượng làm nhiệm vụ điều tra, xử lý tai nạn giao thông, đặc biệt là cấp
huyện phải được tập huấn nghiệp vụ và trang bị những phương tiện kỹ thuật phục
vụ cho công tác điều tra, xử lý tai nạn giao thông như máy ảnh, camera, đèn chiếu
sáng, v.v.. Khi xử lý phải căn cứ vào mức lỗi của người vi phạm, không phân biệt
đối tượng là người đi bộ, người điều khiển phương tiện thô sơ hay cơ giới, mà mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, sẽ góp phần tạo ra sự tôn trọng
pháp luật từ phía người điều khiển phương tiện, pháp chế trong lĩnh lực GTĐB
được đảm bảo vững chắc.
85
KẾT LUẬN
Quá trình đổi mới đất nước theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của dân, do dân, vì dân đã và đang đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi phải đổi
mới tổ chức và phương thức hoạt động, năng lực và hiệu quả của bộ máy nhà nước
từ Trung ương đến cấp cơ sở. Một trong những vấn đề cốt lõi đặt lên hàng đầu là
làm thế nào để nâng cao hiệu quả QLNN đối với các ngành, lĩnh vực, trong đó lĩnh
vực TTATGTĐB đã được xác định cần đi trước một bước. Những năm vừa qua,
tình hình TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang có những diễn biến hết sức
phức tạp. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công an, Bộ
Giao thông vận tải, Tỉnh ủy và UBND tỉnh, hiệu quả QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đã từng bước được cải thiện và nâng
cao.
- Dưới góc độ nghiên cứu Quản lý hành chính công, luận văn đã nghiên cứu
cơ sở lý luận về QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
thông qua việc làm rõ khái niệm QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB là toàn bộ
hoạt động có tổ chức, có định hướng, mang tính quyền lực của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhằm xác lập cơ sở pháp lý cho quản lý, tổ chức thực hiện và
xử lý vi phạm các quy định về QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB, thiết lập và duy
trì TTATGTĐB, bảo đảm giao thông đường bộ thông suốt, an toàn và thúc đẩy
phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Trên cơ
sở đó, luận văn đi sâu phân tích, chỉ ra những đặc điểm, nội dung và vai trò của
QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB.
- Trải qua những giai đoạn lịch sử, hiệu quả của QLNN trong bảo đảm
TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang ngày càng được nâng cao, đáp ứng kịp
thời yêu cầu quản lý trong tình hình mới. Bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đạt
được, do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau dẫn đến thực
trạng QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang còn bộc lộ
86
những yếu kém, bất cập về thể chế; tổ chức bộ máy; đội ngũ cán bộ, công chức; tài
chính công và những điều kiện đảm bảo.
- Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và tỉnh Kiên
Giang nói riêng, của hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, việc tăng cường QLNN nói chung, về
bảo đảm TTATGTĐB trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng càng trở lên bức thiết
và tất yếu. Muốn vậy, trong thời gian tới QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang cần bám sát các phương hướng như: Tăng cường QLNN
trong lĩnh vực giao thông đường bộ; Tăng cường quản lý nhà nước trong bảo đảm
TTATGTĐB hướng đến phục vụ và đáp ứng tốt nhất nhu cầu xã hội về giao thông
đường bộ; Tăng cường QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB hướng tới khắc phục
những hạn chế, yếu kém trong giao thông đường bộ đặc biệt là tình trạng ùn tắc và
tai nạn giao thông đường bộ. Đồng thời, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải
pháp sau: Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật giao thông đường
bộ và các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan; Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về TTATGTĐB; Tăng cường công
tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông đường bộ; Nâng cao hiệu quả an toàn
của kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Hoàn thiện các chính sách, biện pháp hỗ
trợ và hạn chế; Nâng cao chất lượng an toàn phương tiện giao thông đường bộ;
Tăng cường quản lý chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện giao thông
cơ giới đường bộ; Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát; xử lý kịp thời, nghiêm
minh và triệt để mọi vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ.
Về cơ bản luận văn đã hoàn thành mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. Tuy
nhiên, QLNN trong bảo đảm TTATGTĐB là một vấn đề có nội dung rộng lớn và
phức tạp. Vì vậy, khó có thể giải quyết một cách thật đầy đủ và toàn diện vấn đề.
Chắc chắn luận văn không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế cần được chỉnh lý.
Tác giả rất mong nhận được sự bình luận, góp ý của các nhà khoa học và đồng
nghiệp để bổ sung, sửa chữa cho luận văn được hoàn thiện hơn.
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Khắc Ánh (2013), Quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở, Nxb.
Chính trị-Hành chính, Hà Nội.
2. Ban an toàn giao thông tỉnh Kiên Giang (2012), Báo cáo Tổng kết 05 năm
công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và Sơ kết 04 năm thực hiện
Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ về tăng cường thực hiện các giải
pháp trọng tâm bảo đảm trật tự, an toàn giao thông.
3. Bộ Công an - Viện Nghiên cứu Chiến lược và Khoa học Công an (2005),
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam , Nxb. Công an nhân dân.
4. Bộ Giao thông vận tải (2003), Chiến lược bảo đảm trật tự an toàn giao
thông đường bộ quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.
5. C.Mác (1960), Tư bản, quyển 1, tập 2, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
6. Chính phủ (2007), Nghị định số 146/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, Nxb.Giao thông vận
tải, Hà Nội
8. Công an tỉnh Kiên Giang (2010), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an toàn
giao thông năm 2010.
9. Công an tỉnh Kiên Giang (2011), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an toàn
giao thông năm 2011.
10. Công an tỉnh Kiên Giang (2012), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an
toàn giao thông năm 2012.
11. Công an tỉnh Kiên Giang (2013), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an
toàn giao thông năm 2013.
88
12. Công an tỉnh Kiên Giang (2014), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an
toàn giao thông năm 2014.
13. Công an tỉnh Kiên Giang (2015), Báo cáo tổng kết công tác trật tự an
toàn giao thông năm 2015.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Học viện Cảnh sát nhân dân (2003), Giáo trình một số lí luận cơ bản về
hoạt động nghiệp vụ của lực lượng cảnh sát quản lí hành chính, Hà Nội.
20. Học viện Cảnh sát nhân dân (2007), Giáo trình quản lí nhà nước về an
ninh trật tự, Hà Nội.
21. Học viện Chính trị quốc gia (2005), Giáo trình quản lý hành chính nhà
nước đối với ngành, lĩnh vực (chương trình chuyên viên chính), Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.
22. Học viện Hành Chính (2006), Tài liệu tham khảo quản lí hành chính nhà
nước về văn hoá - xã hội, giáo dục - y tế, an ninh - quốc phòng, Hà Nội.
23. Học viện hành chính quốc gia(1998), Giáo trình quản lý hành chính nhà
nước, tập II, Nxb. Lao động, Hà Nội.
24. Nguyễn Duy Lãm (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
89
25. Nguyễn Lân (2003), Từ điển Từ và Ngữ Hán - Việt, Nxb. Văn học, Hà
Nội 2003.
26. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
30. Quốc hội (2005), Luật Công an nhân dân Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
31. Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1994), Giáo trình Luật hành chính
Việt Nam, Hà Nội.
32. Đoàn Trọng Truyến (1997), Hành chính học đại cương, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_trat_tu_an_toan_giao_thong_duon.pdf