Mỗi dân tộc dù chiếm đa số hay chiếm thiểu số đều mang những giá trị
văn hóa độc đáo riêng của dân tộc mình mình. Các dân tộc thiểu số trên địa
bàn huyện Ba Vì cũng có những giá trị riêng biệt, độc đáo với nhiều phong
tục, tập quán tốt đẹp, đặc sắc được truyền qua bao thế hệ, để ngày nay mang
trong mình một sức sống lâu bền, mạnh mẽ. Trong những năm qua, các thế hệ
người dân tộc Dao, Mường cùng với người Kinh anh em ở huyện Ba Vì đã và
đang cùng nhau chung tay xây dựng bản làng, phát triển đời sống tinh thần,
cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đây là kết quả của những tiến bộ mọi
mặt về vật chất cũng như nhận thức của đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng thời, phản ánh những kết quả tích cực của hoạt động quản lý nhà nước
về văn hóa các dân tộc thiểu số của các cấp chính quyền huyện Ba Vì.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt được, hoạt động quản lý nhà
nước về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì vẫn còn bộc lộ
một số hạn chế, yêu kém như: khâu bảo tồn, lưu giữ văn hóa còn đơn giản,
thiếu tính hệ thống, khoa học; chưa có biện pháp kịp thời nhằm hạn chế quá
trình đồng nhất hóa các giá trị văn hóa thiểu số với đa số trong quá trình của
đời sống; chưa đảm bảo hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ bảo tồn, lưu giữ và
phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số; quá trình xây dựng các chương trình,
đề án bảo tồn, lưu giữ, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số chưa có
sự tham gia đáng kể của các chuyên gia và đối tượng thụ hưởng
Từ đó, yêu cầu đối với việc hoàn thiện quản lý nhà nước về văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì ngày càng trở nên cấp bách trong
giai đoạn hiện nay khi các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số tốt đẹp và giàu tính
nhân văn đang bị mai một dần. Hoàn thiện quản lý nhà nước về văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì cần được thực hiện trên cơ sở đảm91
bảo các quan điểm và định hướng phù hợp, đồng thời phải tổ chức thực hiện
đồng bộ các giải pháp khoa học xuất phát từ các nguyên nhân của những hạn
chế, yếu kém trong hoạt động quản lý. Theo đó, cần chú trọng đến một số giải
pháp như: Nhận thức có tính hệ thống và tính khoa học đối với các giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số cần được bảo tồn và phát huy; xây dựng và triển khai hệ
thống chính sách, pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số một cách cụ thể, phù hợp; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số; tăng cường
huy động các nguồn lực phục vụ quản lý nhà nước về văn hóa các dân tộc
thiểu số; phát huy văn hóa dân tộc thiểu số kết hợp với phát triển du lịch và
kinh tế làng nghề.
Như vậy, trong 3 chương của luận văn đã trình bày theo lô-gích hệ thống
từ lý luận đến thực tiễn và giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước
về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì trong giai đoạn hiện
nay
102 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 828 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và quy hoạch sản xuất, đáp ứng yêu cầu giao thông, phát triển kinh tế xã hội
vùng dân tộc thiểu số phục vụ có hiệu quả trong sản xuất và dân sinh. Phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi theo hƣớng bền
vững, gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ môi
trƣờng sinh thái; nâng cao đời sống nhân dân, từng bƣớc thu hẹp khoảng cách
phát triển giữa miền núi với đồng bằng và thành thị.
Nâng cao năng lực cán bộ, trang bị, bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán
bộ cơ sở và cộng đồng, năng lực quản lý và triển khai thực hiện các Chƣơng
trình, dự án, chính sách giảm nghèo; chỉ đạo hỗ trợ phát triển sản xuất, cán bộ
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngƣ; dịch vụ bảo vệ thực vật, thú y, vệ sinh
an toàn thực phẩm.
65
Thành phố phấn đấu đạt các mục tiêu cụ thể nhƣ: tăng trƣởng kinh tế
bình quân hàng năm trên 10%; Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm, phấn đấu cuối
năm 2020 tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2016-2020 còn dƣới 1,8%; tỷ lệ trƣờng đạt
chuẩn quốc gia về giáo dục đạt từ 80% trở lên; Tỷ lệ thanh niên trong độ tuổi
đạt trình độ THPT và tƣơng đƣơng đạt 85% trở lên; Giữ vững tỷ lệ 100% xã
đạt tiêu chí quốc gia về y té; Giữ vững chỉ tiêu giảm tỷ lệ sinh bình quân từ
0,01% đến 0,02% năm; Giữ vững tỷ lệ hộ dân dƣợc dùng nƣớc sinh hoạt đảm
bảo vệ sinh đạt 100%; Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo đạt 50%;
100% đƣờng giao thông liên xã, liên thôn, trục đƣờng thôn, bản đƣợc bê tông
hóa; 60% hệ thống thủy lợi, kênh mƣơng phục vụ sản xuất nông nghiệp đƣợc
cứng hóa, đáp ứng nhu cầu tƣới 100% diện tích đất nông nghiệp; Phấn đấu 08
xã đạt chuẩn NTM, 04 xã đạt từ 15-18 tiêu chí về xây dựng NTM (đã có 02 xã
đạt chuẩn NTM năm 2015); 100% các thôn, xã có nhà văn hóa phục vụ sinh
hoạt cộng đồng; phấn đấu đến hết năm 2018 không còn xã, thôn trong diện
đặc biệt khó khăn; trên 50% đảng bộ xã và 60% chi bộ thôn đạt danh hiệu
trong sạch, vững mạnh.
Nhƣ vậy, đây là một trong những văn bản quan trọng, có phạm vi tƣơng
đối rộng, không đề cập trực tiếp đến nội dung quản lý nhà nƣớc về văn hóa
các dân tộc thiểu số, song lại gián tiếp liên quan thông qua việc thiết lập các
mục tiêu tổng quát, gắn liền với từng lĩnh vực, từng giải pháp thực hiện cụ
thể.
Trƣớc đó, Ủy ban nhân dân huyện Ba Vì cũng đã ban hành đề án “Bảo
tồn, phôi phục và phát triển văn hóa dân tộc thiểu số huyện Ba Vì giai đoạn
2013 – 2015” là một chính sách cụ thể nhất, trực tiếp nhất về bảo tồn, phát
huy văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện.
66
Kết quả thực hiện đề án bƣớc đầu đã củng cố, hình thành hệ thống thiết
chế văn hóa - thể thao phong phú, đậm đà bản sắc truyền thống. Đó là việc
phục dựng lại lễ hội Tản Viên Sơn, sinh hoạt văn hóa cộng đồng thôn bản,
củng cố lại các đội cồng chiêng, tết Nhảy, múa Chuông, múa Rùa, bắn nỏ, hát
Ru. Nhiều nét văn hóa của dân tộc thiểu số bị mai một đang từng bƣớc đƣợc
khôi phục nhƣ tiếng nói, trang phục, hát sắc bùa, múa Mƣờng cổ, văn hóa
cồng chiêng của dân tộc Mƣờng, lễ cấp sắc của ngƣời Dao. Cùng với đó,
chính quyền địa phƣơng tích cực vận động đồng bào bỏ dần các hủ tục lạc
hậu, bài trừ tệ nạn, xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh...
Huyện Ba Vì cũng từng bƣớc quan tâm xây dựng làng văn hóa các dân
tộc thiểu số gắn với nghề thủ công truyền thống, các hoạt động bảo tồn bản
sắc văn hóa và du lịch cộng đồng, tăng cƣờng đầu tƣ về nhân lực và tổ chức,
xã hội hóa công tác bảo tồn, góp phần phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ, có cơ
chế ƣu tiên cho hoạt động bảo tồn, khôi phục và phát triển văn hóa truyền
thống.
2.2.3. Tổ chức hoạt động tuyên truyền, quảng bá sản phẩm văn hóa
các dân tộc thiểu số
Công tác tuyên truyền, phổ biến, quảng bá sản phẩm văn hóa các dân tộc
thiểu số luôn đƣợc Phòng Văn hóa và Thông tin, Phòng Dân tộc, các cơ quan
liên quan, Ủy ban nhân dân của 7 xã có ngƣời dân tộc thiểu số quan tâm phối
hợp, cung cấp thông tin về các giá trị văn hóa đặc trƣng, cả về văn hóa vật thể
và phi vật thể của ngƣời Mƣờng, ngƣời Dao trên địa bàn.
Hình thức tuyên truyền, quảng bá văn hóa các dân tộc thiểu số huyện Ba
Vì đƣợc thực hiện tƣơng đối phong phú và đa dạng bao gồm việc tuyên truyền
qua hệ thống phát thanh cơ sở, hệ thống băng rôn, biểu ngữ, áp phích, khẩu
67
hiệu, báo chí, mạng xã hội, các hội thảo, tọa đàm, các chƣơng trình xúc tiến
du lịch, các hội chợ, triển lãm các sản phẩm văn hóa dân tộc thiểu số. Theo
kết quả báo cáo trong 5 năm từ 2011 – 2015, các cấp chính quyền huyện Ba
Vì đã phối hợp tổ chức 4 hội thảo có sự tham gia của các nhà nghiên cứu, nhà
quản lý và các nhóm đối tƣợng là thanh niên liên quan đến vấn đề nghiên cứu,
bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số. Đồng thời, Phòng Văn
hóa và Thông tin huyện phối hợp với Sở Văn hóa và Thể thao thành phố Hà
Nội đã tuyển chọn và cho đăng 31 bài báo có nội dung quảng bá du lịch,
quảng bá văn hóa truyền thống của huyện Ba Vì trong đó đề cập đến văn hóa
cồng chiêng của ngƣời Mƣờng, quá trình phục dựng các nghi lễ truyền thống
của ngƣời Dao, đặc biệt là lễ Cấp Sắc, các bài viết về quá trình sƣu tầm, lƣu
giữ và truyền đời các bài thuốc đa dạng của ngƣời Dao dƣới chân núi Ba Vì.
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá sản phẩm văn hóa các dân tộc thiểu số
huyện Ba Vì đã giúp cho quá trình tiếp cận các đặc điểm văn hóa đến tiếp xúc
trực tiếp đối với các nghi lễ, các lễ hội của ngƣời Mƣờng, Dao trên thực địa
diễn ra một cách tƣơng đối hiệu quả. Các công cụ báo chí, phát thanh và
truyền hình đóng góp tích cực trong quá trình tuyên truyền, quảng bá văn hóa
vƣợt ra khỏi phạm vi một tỉnh, thành phố đến phạm vi khu vực rộng lớn.
Bên cạnh đó, để thực hiện đề án “Bảo tồn, khôi phục và phát triển văn
hóa dân tộc thiểu số” có hiệu quả, huyện Ba Vì quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh
công tác tuyên truyền, đa dạng hóa các hình thức bảo tồn và tổ chức các hoạt
động tập huấn, truyền dạy về tiếng nói, chữ viết cho đồng bào, trang phục và
các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, đề cao phong trào tự học,
tự truyền dạy cho nhau trong cộng đồng, thông qua các hoạt động liên hoan
văn hóa văn nghệ dân tộc thiểu số, thi đấu thể thao và trò chơi dân gian truyền
thống.
68
Điều này đồng thời cũng giúp cho đồng bào dân tộc Mƣờng và đồng bào
dân tộc Dao ở các địa phƣơng khác trong cả nƣớc có điều kiện tìm hiểu, tiếp
xúc và trao đổi với ngƣời Mƣờng, ngƣơi Dao Ba Vì về những nét đặc sắc văn
hóa của dân tộc mình, gắn liền với sinh hoạt đời sống.
2.2.4. Huy động các nguồn lực xã hội tham gia vào việc bảo tồn, phát
huy văn hóa các dân tộc thiểu số
Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là một trong những
nội dung đƣợc đẩy mạnh xã hội hóa với chủ trƣơng huy động tối đa các
nguồn lực xã hội theo phƣơng châm Nhà nƣớc và nhân dân cùng làm. Trong
đó, nhà nƣớc với tính cách chủ yếu là hỗ trợ, tạo lực đẩy, khuyến khích sự đầu
tƣ, đóng góp của các chủ thể tƣ nhân. Do đó, hoạt động này bƣớc đầu đã thu
đƣợc nhiều kết quả tích cực.
Giai đoạn 2008 – 2015, huyện Ba Vì đã triển khai nhiều giải pháp nhằm
bảo tồn các tín ngƣỡng, lễ hội truyền thống của dân tộc thiểu số, tổ chức sƣu
tầm và quyên tặng các bảo vật vật thể nhƣ cồng chiêng ngƣời Mƣờng hay hỗ
trợ các dụng cụ, y cụ cho ngƣời Dao trong việc sƣu tầm, chế biến, lƣu giữ các
bài thuốc dân gian, các phƣơng thuốc bí truyền. Tổng số kinh phí huy động
đƣợc là 23.110.000.000 đồng, trong đó vốn ngân sách chiếm 27,1% và vốn
huy động từ khu vực tƣ nhâm chiếm 76,89%; UBND huyện Ba Vì cũng đầu
tƣ trên 100.000.000 đồng để khôi phục và tặng các bộ cồng chiêng cho đồng
bào ngƣời Mƣờng tại xã Ba Trại.
Việc huy động các nguồn lực xã hội đƣợc đƣa vào các kế hoạch, chƣơng
trình hành động cụ thể của chính quyền huyện, đƣợc coi là một trong những
giải pháp không chỉ nhằm bảo tồn, lƣu giữ, phát huy các giá trị văn hóa dân
69
tộc thiểu số mà còn là kênh tuyên truyền, quảng bá và hỗ trợ tích cực cho hoạt
động du lịch của huyện Ba Vì.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, công tác huy động các
nguồn lực xã hội tham gia vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số huyện Ba Vì vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém nhƣ việc đầu chƣa
đúng tầm, chƣa đủ mức so với yêu cầu thực tiễn đặt ra làm cho nhiều giá trị
văn hóa tiếp tục bị mai một; việc bố trí các nguồn lực cho từng chƣơng trình,
từng nhóm đối tƣợng chƣa đảm bảo sự cân đối, hài hòa, chƣa đáp ứng đƣợc
nhu cầu tối thiểu trong việc bảo tồn, phát huy, khó có khả năng đạt đƣợc các
mục tiêu trong quản lý nhà nƣớc; sự phân công, phối hợp giữa các ban ngành,
tổ chức, đơn vị còn trùng lặp, chồng chéo, thiếu khoa học hợp lý, minh bạch,
cụ thể; các biện pháp quản lý mang tính chất ứng phó thụ động hơn là chủ
động thích ứng một cách linh hoạt trƣớc thực tiễn quản lý.
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA
VÌ
2.3.1. Những kết quả đạt đƣợc
Qua trình bày và phân tích thực trạng QLNN về văn hóa các dân tộc
thiểu số của huyện Ba Vì có thể thấy nhiều kết quả tác động tích cực đến sự
phát triển của cộng đồng trên địa bàn huyện. Trƣớc hết là việc đảm bảo tính
nhất quán về mặt chủ trƣơng trong thực hiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các
dân tộc thiểu số. Đây là kết quả có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển tải
các mục tiêu về quản lý nhà nƣớc về văn hóa nói chung, quản lý nhà nƣớc về
văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng trong phạm vi cả nƣớc.
70
Thứ đến huyện cũng đã có bộ máy thực hiện chức năng quản lý đảm bảo
tuân thủ quy định của pháp luật, đồng thời tƣơng đối phù hợp điều kiện thực
tiễn địa phƣơng. Việc tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với quy định của pháp
luật và theo thực tiễn là một yêu cầu thiết thực và tƣơng đối phức tạp. Đảm
bảo đƣợc yêu cầu này là đảm bảo tính hợp pháp lẫn tính hợp lý của các hoạt
động quản lý cụ thể.
Một điều đáng nói nữa là đã có sự quan tâm nhất định trong việc bảo tồn,
lƣu giữ và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số của đội ngũ cán bộ, công
chức trên địa bàn quản lý. Sự quan tâm này đƣợc thể hiện trong các cuộc họp,
hội nghị, các văn bản cụ thể của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân huyện
Ba Vì nhằm vừa lƣu giữ các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số truyền thống, vừa
phát huy đƣợc các đặc trƣng đó trong việc phục vụ các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội địa phƣơng.
Cũng không thể không nói đến những thành tựu trong hoạt động tuyên
truyền, quảng bá sản phẩm văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số thu đƣợc
nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là quảng bá các văn hóa phẩm hữu hình nhƣ
các bài thuốc dân gian gia truyền của ngƣời Dao Ba Vì.
2.3.2. Những hạn chế
Bên cạnh những kết quả đã nêu trên, vẫn còn khá nhiều bất cập, hạn chế
trong QLNN về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì. Việc
chỉ rõ và phân tich những hạn chế là căn cứ để xây dựng, đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý trên lĩnh vực này.
Một là, khâu bảo tồn, lƣu giữ văn hóa còn đơn giản, thiếu tính hệ thống,
khoa học. Đây là một hạn chế tƣơng đối lớn, tác động mang tính tiêu cực
trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa, đặc biệt là các giá trị văn hóa đặc sắc,
71
vừa không đảm bảo đƣợc các mục tiêu bảo tồn, vừa gây nên những lãng phí
trong quá trình tổ chức thực hiện.
Hai là, chƣa có biện pháp kịp thời nhằm hạn chế quá trình đồng nhất hóa
các giá trị văn hóa thiểu số với đa số trong quá trình của đời sống. Hạn chế
này đã tạo nên một thực trạng dù biết nhƣng không thể ngăn chặn đó là sự
tuyệt nhiên không còn các đặc trƣng văn hóa dân tộc để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác.
Ba là, chƣa đảm bảo hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ bảo tồn, lƣu giữ và
phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Thiếu đi hệ thống cơ sở hạ tầng này,
các giá trị văn hóa, sản phẩm văn hóa chủ yếu đƣợc bảo tồn, lƣu giữ trong
cộng đồng nên khả năng mai một là rất lớn.
Bốn là, quá trình xây dựng các chƣơng trình, đề án bảo tồn, lƣu giữ, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số chƣa có sự tham gia đáng kể của các
chuyên gia và đối tƣợng thụ hƣởng. Điều này khiến cho các nội dung chính
sách chƣa thực sự gắn với thực tiễn, quá trình tổ chức triển khai thực hiện các
giải pháp chính sách gặp nhiều khó khăn, bất khả thi.
2.3.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Những hạn chế và vấn đề đặt ra trong QLNN về văn hóa các dân tộc
thiểu số đều gắn với nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về nguyên nhân chủ quan, có thể thấy, mặc dù đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng
nhƣng trình độ của cán bộ quản lý văn hóa vẫn còn thấp so với yêu cầu thực
tiễn đặt ra. Đây là nguyên nhân tạo nên cản trở lớn trong quá trình thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số.
Nhiều cán bộ quản lý tuy đƣợc đào tạo bài bản nhƣng lại thiếu kinh nghiệm
thực tiễn. Trong khi đó, những cán bộ có kinh nghiệm thì thƣờng chủ quan,
72
chậm cập nhật các tri thức mới nên trong nhiều trƣờng hợp không thể phát
huy đƣợc các kinh nghiệm đã tích lũy, thậm chí kinh nghiệm của hàng chục
năm trƣớc vẫn còn đƣợc áp dụng một cách tƣơng đối máy móc, rập khuôn,
thiếu linh hoạt và phù hợp với điều kiện hiện tại.
Bên cạnh đó, các nguồn lực đầu tƣ và hỗ trợ phục vụ công tác quản lý
nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số còn hạn chế, đặc biệt là nguồn lực
tài chính. Thiếu thốn về các nguồn lực, trong đó có tài chính là một trong
những tác động tiêu cực đến hiệu quản quản lý nói chung, bảo tồn và phát huy
văn hóa các dân tộc thiểu số huyện Ba Vì nói riêng
Về khách quan, hệ thống các chính sách, đề án liên quan đến bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số còn mang tính phổ quát cao, khó
vận dụng trên một địa bàn cụ thể và có nhiều nét đặc thù nhƣ huyện Ba Vì.
Hầu hết các chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa
bàn huyện Ba Vì ở tầm vĩ mô, các nội dung tƣơng đối ít, lồng ghép với các
nội dung chính sách khác trong các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội tổng
thể. Đề án cụ thể đƣợc áp dụng mới chỉ mang tính chất ngắn hạn, thử nghiệm
và chƣa có đánh giá tổng kết để tiếp tục hoàn thiện, ban hành và tổ chức thực
hiện trong giai đoạn mới.
Mặt khác, quá trình hội nhập, giao lƣu văn hóa của các dân tộc khiến cho
nhiều giá trị bị mai một, biến dạng. Đây là nguyên nhân có tính khách quan,
diễn ra ngoài ý muốn chủ quan của chủ thể quản lý. Song, việc đề xuất các
giải pháp khắc phục còn chậm nên hệ quả cũng có tính chất nghiêm trọng
hơn.
73
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Ba Vì là một huyện miền núi có tƣơng đối đông ngƣời dân tộc thiểu số
Dao và Mƣờng tập trung ở một số xã vùng quanh chân núi Tản với truyền
thống và lịch sử tƣơng đối lâu dài. Với vị thế là một bộ phận của Thủ đô Hà
Nội, hoạt động quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Ba Vì có những nét đặc thù rất khác biệt so với các địa phƣơng khác
trên cả nƣớc.
Nội dung quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Ba Vì bao gồm tổ chức bộ máy thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý;
xây dựng, ban hành chính sách cụ thể về quản lý văn hóa dân tộc thiểu số;
tuyên truyền, quảng bá sản phẩm văn hóa dân tộc thiểu số; huy động các
nguồn lực xã hội phục vụ công tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc thiểu số. Việc thực hiện các nội dung trên trong nhiều năm qua đã đạt
đƣợc nhiều kết quả tích cực, song cũng còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần
khắc phục, giải quyết.
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, bất cập trong quản lý nhà nƣớc
về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì xuất phát từ hạn chế
về trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác của đội ngũ cán bộ, quản lý; thiếu
các chính sách cụ thể hơn về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu
số; thiếu các nguồn lực cần thiết phục vụ cho công tác bảo tồn, phát huy văn
hóa dân tộc thiểu số; quá trình hội nhập nói chung, quà trình giao lƣu văn hóa
giữa các dân tộc nói riêng diễn ra nhanh chóng khiến cho nhiều giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số bị mai một.
74
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ
3.1. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ
Xác định vai trò và tầm quan trọng của văn hóa nói chung, văn hóa các
dân tộc thiểu số nói riêng, Đảng và Nhà nƣớc đã định hƣớng mang tầm chiến
lƣợc cho sự phát triển trên lĩnh vực này. Cụ thể, trong văn kiện các kì Đại hội
của Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định: hoàn thiện thể chế quản lý văn
hóa. Thể chế hành quản lý nhà nƣớc về văn hóa là toàn bộ các quy định, quy
tắc do nhà nƣớc ban hành để điều chỉnh các hoạt động quản lý nhà nƣớc, tạo
nên hành lang pháp lý cho tất cả các hoạt động của các cơ quan quản lý và các
cán bộ, công chức có thẩm quyền trong lĩnh vực văn hóa. Thể chế quản lý văn
hóa là hệ thống khung khổ xác định các phạm vi hoạt động của các bên liên
quan. Do đó, thể chế quản lý văn hóa có vị trí và vai trò hết sức quan trọng,
đặc biệt trong giai đoạn xây dựng nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta. Tuy nhiên,
thực trạng công tác quản lý trong những năm vừa qua cho thấy còn nhiều bất
cập, hạn chế mà một trong những nguyên nhân chủ yếu là xuất phát từ thể chế
quản lý văn hóa còn nhiều yếu kém. Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế cần đảm
bảo xác định thực hiện theo các định hƣớng về tính khoa học, tính hệ thống,
tính đồng bộ, gắn liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc và của
từng địa phƣơng. Đồng thời, cần thực hiện có hiệu quả việc phân cấp, phân
quyền trong hoạch định, xây dựng và ban hành thể chế quản lý văn hóa giữa
các cơ quan theo chiều ngang và giữa các cấp ngành với nhau nhằm trực tiếp
75
góp phần vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc theo định hƣớng của Đảng.
Gắn với đó là yêu cầu hoàn thiện cơ chế quản lý văn hóa. Trong đó, cơ
chế quản lý văn hóa đƣợc coi là cách thức, là phƣơng thức hoạt động chủ yếu
của chủ thể quản lý văn hóa đặt trong mối liên hệ với đối tƣợng quản lý văn
hóa sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật và điều kiện thực tiễn cụ
thể. Nói cách khác, cơ chế quản lý văn hóa chính là phƣơng pháp vận hành bộ
máy quản lý văn hóa theo hệ thống pháp luật liên quan trong lĩnh vực văn hóa
– xã hội. Cơ chế quản lý văn hóa, khác với thể chế quản lý văn hóa, chính là
biểu hiện của tính linh hoạt trong quá trình vận dụng các quy định có tính ổn
định vào thực tiễn quản lý. Cơ chế quản lý văn hóa là thành tố quan trọng bậc
nhất trong việc tạo ra các kết quả quản lý theo các mục tiêu xác định, gắn liền
với đó là yếu tố chất lƣợng của công tác quản lý.
Trong bối cảnh hiện nay, các phƣơng hƣớng chính để hoàn thiện cơ chế
quản lý văn hóa phải đảm bảo tạo ra tính linh hoạt, thích nghi với các thay đổi
của môi trƣờng quản lý; các thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý văn hóa
phải đƣợc thu gọn, nhằm tạo sự thuận tiện cho cả chủ thể lẫn đối tƣợng quản
lý, giảm bớt chi phí về thời gian và tài chính cho các bên; đồng thời nghiên
cứu và đề xuất các phƣơng án, giải pháp loại trừ yếu tố tiêu cực nảy sinh từ cơ
chế “xin – cho” trong quản lý văn hóa.
Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý văn hóa cũng là một định
hƣớng quan trọng đƣợc quan tâm. Đây là một trong những định hƣớng có tính
chất thời đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới, gắn
liền với mục tiêu hiện đại hóa nền hành chính quốc gia ở nƣớc ta hiện nay. Để
đạt đƣợc mục tiêu đó, trƣớc tiên cần tiến hành rà soát, đồng bộ hóa các quy
định pháp luật về văn hóa, quản lý văn hóa nhằm tạo ra sự thống nhất, khoa
76
học về mặt thể chế, tạo cơ sở vững chắc cho việc nâng cao hiệu lực quản lý.
Đồng thời, cần nghiên cứu, vận dụng các phƣơng pháp mới, cách làm mới
trong quá trình thực hiện quản lý nhằm tạo ra những kết quả mong đợi với
mức chi phí các nguồn lực tối thiểu, giảm thiểu các đầu mối quản lý, xây
dựng bộ máy quản lý tinh gọn, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực vật
chất, đặc biệt là nguồn ngân sách nhà nƣớc và kinh phí xã hội hóa phục vụ
cho hoạt động quản lý văn hóa.
Xác định yếu tố then chột trong giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc là con ngƣời, định hƣớng chiến lƣợc coi việc tiếp tục nâng cao chất lƣợng
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa. Trƣớc hết, cần có
nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vai trò quyết định chủ yếu của đội ngũ cán
bộ, công chức trong quản lý văn hóa. Đây chính là đội ngũ trực tiếp đƣa các
mục tiêu, giải pháp về quản lý văn hóa đi vào thực tiễn đời sống xã hội, đồng
thời là đội ngũ có khả năng phát hiện những mặt tích cực lẫn tiêu cực của hệ
thống thể chế và các cơ chế quản lý nhà nƣớc về văn hóa. Bởi vậy, cần tiếp
tục nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn
hóa trong đó gồm tổng thể các tiêu chí, tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ,
năng lực công tác. Việc nâng cao chất lƣợng cán bộ, công chức phải đƣợc
quán triệt sâu sắc và đƣợc coi là một nhiệm vụ thƣờng xuyên, liên tục trong
bối cảnh hội nhập quốc tế.
Cuối cùng là sự nhấn mạnh việc tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra trong lĩnh
vực văn hóa. Công tác thanh tra kiểm tra không chỉ nhằm phát hiện các sai
phạm, các biểu hiện tiêu cực trong quá trình quản lý mà còn là công cụ nhằm
phát hiện những mặt ƣu điểm, những kết quả tích cực để kịp thời nghiên cứu
phổ biến, mở rộng trong phạm vi lớn, tác động tích cực đến kết quả, hiệu quả
quản lý nhà nƣớc về văn hóa. Công tác thanh tra, kiểm tra, do đó, cũng là một
77
nhiệm vụ có tính chất thƣờng xuyên, song cần phải tiến hành một cách khoa
học, không rƣờm rà phức tạp mà vẫn đảm bảo thực hiện đƣợc mục tiêu đã xác
định trƣớc đó. Các chủ thể tiến hành hoạt động thanh tra, kiểm tra cần chủ
động tham mƣu, tƣ vấn cho thủ trƣởng, ngƣời đứng đầu các cơ quan, đơn vị,
ban ngành kế hoạch, chƣơng trình thanh tra, kiểm tra cụ thể trên cơ sở tạo ra
những đóng góp tích cực trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý.
Tiếp tục tăng cƣờng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, tổ chức,
ban ngành trong lĩnh vực văn hóa. Thực tiễn công tác quản lý nói chung, quản
lý văn hóa nói riêng trong nhiều năm qua cho thấy việc phối hợp hoạt động,
công tác giữa các ban ngành, đơn vị còn nhiều hạn chế, bất cập, chƣa tạo
đƣợc tính thống nhất, nhất quán, còn nhiều quy định và hoạt động chồng
chéo, trùng lắp vừa làm giảm hiệu lực quản lý, vừa gây lãng phí nguồn lực
phục vụ cho hoạt động quản lý. Tăng cƣờng cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan, đơn vị, ban ngành trong lĩnh vực quản lý văn hóa nhằm mục đích ngăn
ngừa, khắc phục các bất cập trên, thúc đẩy hiệu lực, hiệu quả quản lý.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BA
VÌ
3.2.1. Nhận thức có tính hệ thống và tính khoa học đối với các giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số cần đƣợc bảo tồn và phát huy
Nhận thức thiếu khoa học, thiếu đầy đủ về văn hóa nói chung, văn hóa
các dân tộc thiểu số nói riêng là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất
dẫn đến những lệch lạc, thậm chí ngộ nhận của cả phía chủ thể quản lý lẫn đối
tƣợng quản lý. Từ đó làm xuất hiện tình trạng biến tƣớng trong văn hóa nói
chung, văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung.
78
Do vậy, một trong những giải pháp cần thiết và cấp bách trong giai đoạn
hiện nay là trang bị nhận thức đầy đủ, đúng đắn hay nói cách khác là nhận
thức có tính hệ thống và tính khoa học về các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
cần đƣợc bảo tồn và phát huy cho cả đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
quản lý văn hóa lẫn các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng đồng
bào dân tộc thiểu số. Đây là giải pháp đòi hỏi cần có sự tham gia của đội ngũ
các chuyên gia, nhà nghiên cứu về các ngành, các bộ môn văn hóa học nhằm
xác định đúng và đủ hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số tiến bộ, phù
hợp cần đƣợc bảo tồn, phát huy.
Các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số cần đƣợc bảo tồn và phát huy là
các giá trị văn hóa thỏa mãn một số tiêu chí cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đó phải là các giá trị văn hóa nội sinh của dân tộc đó. Mỗi dân
tộc thiểu số hay đa số khi đƣợc hình thành và phát triển đều xuất phát từ
những yếu tố nội sinh ban đầu có tác dụng nhƣ động lực chủ yếu trong đó bao
gồm các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc đó. Yếu tố nội sinh của các giá trị
văn hóa là cơ sở để xác định “chủ nhân” thực sự của nó là dân tộc nào bởi
trong suốt hàng trăm thậm chí hàng nghìn năm lịch sử có thể giá trị văn hóa
đó đã trở thành giá trị chung của nhiều dân tộc khác nữa.
Thứ hai, đó phải là các giá trị văn hóa riêng có, độc đáo của dân tộc đó.
Tính độc đáo, riêng có của các giá trị văn hóa nhằm để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác trong quá trình phát triển. Nếu không có đặc tính này, các
dân tộc sẽ bị trộn lẫn nhau về mặt văn hóa, nói khác đi chính là sự đồng hóa
lẫn nhau về văn hóa giữa các nhóm dân tộc.
Thứ ba, đó phải là các giá trị văn hóa song hành cùng với sự phát triển
của dân tộc đó. Các giá trị văn hóa song hành, đồng hành cùng với quá trình
79
hình thành và phát triển của mỗi dân tộc thể hiện tính nhân văn, tính chuẩn
mực của nó trong từng cộng đồng của các dân tộc khác nhau. Trái lại, một giá
trị văn hóa nội sinh nhƣng không phù hợp đối với quá trình phát triển của mỗi
dân tộc thì cũng nhanh chóng lạc hậu và bị thay thế bởi các giá trị khác thích
hợp hơn.
Thứ tư, đó phải là giá trị văn hóa tiến bộ, phù hợp với giá trị truyền
thống chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đặc tính văn hóa này là
nền tảng cho sự cố kết các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam để
tạo nên tính thống nhất về mặt văn hóa. Giá trị văn hóa tiến bộ phải là giá trị
văn hóa có đầy đủ tính nhân văn sâu sắc, hƣớng đến chân – thiện – mỹ và
“phản ly khai” khỏi cộng đồng dân tộc-quốc gia.
Cùng với việc nhận thức về hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số,
cần trang bị cho chủ thể quản lý các quy định của pháp luật về quản lý văn
hóa nói chung, quản lý văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng; hệ thống các tri
thức, hiểu biết, hệ thống các phƣơng pháp quản lý khoa học, hợp lý trong thực
tiễn quản lý.
Bên cạnh đó, cần sử dụng các phƣơng pháp, hình thức tuyên truyền, phổ
biến kiến thức, tri thức, hiểu biết cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là nhân
dân các dân tộc thiểu số nắm rõ chủ trƣơng, chính sách, pháp luật liên quan
đến văn hóa các dân tộc thiểu số, khuyến khích nhân dân tham gia bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp, đồng thời hạn chế, loại bỏ dần các tập tục
lạc hậu, phản văn hóa hƣớng đến xây dựng cộng đồng các dân tộc văn minh.
80
3.2.2. Xây dựng và triển khai hệ thống chính sách, pháp luật về bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số một cách cụ thể, phù
hợp
Hệ thống chính sách, pháp luật về văn hóa nói chung, về bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số nói riêng là cơ sở, nền tảng cho hoạt
động quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số. Thiếu đi hệ thống
này, hoạt động quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số sẽ có khả
năng mất tính định hƣớng, thiếu khuôn khổ hoạt động dẫn đến tình trạng thiếu
kiểm soát, lãng phí các nguồn lực xã hội.
Việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật về bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số thuộc thẩm quyền của nhiều cấp từ trung ƣơng
đến địa phƣơng theo nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quản lý song cần
đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất. Cơ chế xây dựng chính sách pháp luật này
nhằm đảm bảo sự nhất quán trong quản lý về mục tiêu và những yêu cầu cơ
bản, đồng thời tạo tiền đề cho sự vận dụng, áp dụng sáng tạo, linh hoạt vào
từng điều kiện thực tiễn của mỗi địa phƣơng trong cả nƣớc.
Bên cạnh đó, quá trình triển khai hệ thống chính sách, pháp luật về bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số cũng cần đảm bảo tuân thủ
định hƣớng, mục tiêu, kế hoạch, chƣơng trình đã xây dựng.
Cả hai hoạt động, hai quá trình này cần thể hiện một cách cụ thể, tránh
tình trạng chung chung, khái quát cao nhƣ hiện nay để tránh dẫn đến việc gây
lúng túng cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức thực hiện.
81
3.2.3. Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số
Đào tạo, bồi dƣỡng đƣợc hiểu là một quá trình có kế hoạch làm biến đổi
thái độ, kiến thức hoặc kỹ năng thông qua việc học tập rèn luyện để làm việc
có hiệu quả trong một hoạt động hay trong một loạt các hoạt động nào đó.
Mục đích của nó, xét theo tình hình công tác ở tổ chức, là phát triển nâng cao
năng lực cá nhân và đáp ứng nhu cầu nhân lực hiện tại và tƣơng lai của cơ
quan.
Đào tạo, bồi dƣỡng chính là việc tổ chức những cơ hội cho ngƣời ta học
tập, nhằm giúp tổ chức đạt đƣợc mục tiêu của mình bằng việc tăng cƣờng
năng lực, làm gia tăng giá trị của nguồn lực cơ bản quan trọng nhất là con
ngƣời, là cán bộ, công chức làm việc trong tổ chức. Đào tạo, bồi dƣỡng tác
động đến con ngƣời trong tổ chức, làm cho họ có thể làm việc tốt hơn, cho
phép họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm năng vốn có của họ, phát huy hết
năng lực làm việc của họ. Với quan niệm nhƣ vậy thì đào tạo, bồi dƣỡng cán
bộ, công chức nhằm tới các mục đích sau:
Phát triển năng lực làm việc của cán bộ, công chức và nâng cao khả
năng thực hiện công việc thực tế của họ.
Giúp cán bộ, công chức luôn phát triển để có thể đáp ứng đƣợc nhu
cầu nhân lực trong tƣơng lai của tổ chức.
Giảm thời gian học tập, làm quen với công việc mới của cán bộ, công
chức do thuyên chuyển, đề bạt, thay đổi nhiệm vụ và đảm bảo cho họ có đầy
đủ khả năng làm việc một cách nhanh chóng và tiết kiệm.
Nhìn chung, đào tạo, bồi dƣỡng là hoạt động nhằm:
82
Trang bị, bổ sung, nâng cao kiến thức, kỹ năng liên quan đến công
việc;
Thay đổi thái độ và hành vi;
Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc;
Hoàn thành những mục tiêu của cá nhân và của tổ chức.
Trong thời gian tới, để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu định hƣớng về
nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa
nói chung, quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng, cần thực hiện theo
một số giải pháp cụ thể sau:
- Đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức phải gắn với kế hoạch,
quy hoạch cán bộ. Để đổi mới công tác đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức,
đáp ứng nhu cầu nhân lực đảm bảo số lƣợng và chất lƣợng cung cấp cho quá
trình cải cách hành chính nhà nƣớc nói chung, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng. Thƣờng xuyên tiến hành khảo
sát, thống kê, lƣu trữ các tài liệu liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác quản lý văn hóa hiện hành để rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán
bộ, công chức một cách toàn diện cả về số lƣợng và chất lƣợng, qua đó so
sánh đối chiếu thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức đã qua đào tạo, bồi
dƣỡng với các yêu cầu, tiêu chuẩn chức danh, vị trí.
- Xây dựng, hoàn thiện chƣơng trình, giáo trình, tài liệu theo hƣớng tăng
cƣờng trang bị kỹ năng nghề nghiệp, sát với yêu cầu thực tiễn. Chƣơng trình
đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa cần đƣợc
tiếp tục hoàn thiện. Nội dung chƣơng trình phải căn cứ vào yêu cầu thực tiễn,
tiêu chuẩn các chức danh công chức, trong đó quán triệt phƣơng châm lý luận
phải gắn với thực tiễn, học đi đôi với hành đảm bảo hiệu quả, thiết thực.
83
Chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng phải kết hợp trang bị kiến thức chuyên môn
với việc nâng cao nhận thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng nghiệp
vụ. Kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ trang bị cần toàn diện, đồng bộ, có
trọng tâm trọng điểm tránh dàn trải. Trƣớc mắt, cần bổ sung thêm các nội
dung liên quan đến vị trí, vai trò và một số kỹ năng cơ bản của cán bộ, công
chức trong thực tiễn hoạt động quản lý.
Trên cơ sở chƣơng trình đào tạo khung, cần tổ chức chỉnh lý, bổ sung
hoặc biên soạn lại giáo trình, tài liệu tham khảo, hồ sơ tình huống cho phù
hợp. Trong thời gian tới, cần đƣa vào chƣơng trình đào tạo bộ môn đạo đức
nghề nghiệp cho học viên. Giảm thời lƣợng cập nhật văn bản pháp luật mới,
pháp luật nội dung. Tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ, kinh
nghiệm và tác nghiệp cụ thể. Chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ, công
chức làm công tác quản lý văn hóa phải đảm bảo thống nhất với chƣơng trình
đào tạo, bồi dƣỡng các chức danh tƣ cán bộ, công chức trong các lĩnh vực
công tác khác; chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng phải đảm bảo tính thiết thực,
hiện đại và có cơ cấu hợp lý.
- Tăng cƣờng phối hợp giữa các cơ quan quản lý văn hóa với các cơ sở
giáo dục, đào tạo cán bộ quản lý, cơ sở giáo dục, đào tạo chuyên môn từng
chuyên ngành trong lĩnh vực vực văn hóa. Nhằm tăng cƣờng hơn nữa sự phối
hợp công tác đào tạo, bồi dƣỡng các chức danh cán bộ, công chức, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch và Ủy ban Dân tộc cần phối hợp ban hành văn bản
liên tịch về công tác đào tạo, bồi dƣỡng nhằm tạo cơ chế phối hợp chặt chẽ,
hiệu quả trong tất cả các khâu: xây dựng chƣơng trình, chuẩn bị chƣơng trình,
tài liệu; tuyển sinh; quản lý học viên; tổ chức thực tập; đánh giá điều kiện tốt
nghiệp; điều động giảng viên tham gia giảng dạy.
84
3.2.4. Tăng cƣờng huy động các nguồn lực phục vụ quản lý nhà
nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số
Nguồn lực phục vụ hoạt động quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc
thiểu số là một trong những yếu tố hết sức quan trọng, góp phần trực tiếp đến
mục tiêu, kế hoạch hoạt động. Các nguồn lực này bao gồm nguồn lực hình và
vô hình, vật chất và phi vật chất, cụ thể là nguồn lực con ngƣời, nguồn lực về
tài chính, nguồn lực về tổ chức bộ máy Để đảm bảo tăng cƣờng huy động
các nguồn lực, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động và cung cấp
thông tin về xã hội hóa các nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực tài chính: triển
khai sâu rộng trên các phƣơng tiện thông tin đại chúng để cán bộ, công chức,
nhân dân và các thành phần kinh tế nâng cao nhận thức, quán triệt đƣờng lối
chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về xã hội hóa các nguồn lực phục vụ hoạt
động quản lý.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định về liên thông giải quyết thủ
tục hành chính của các cấp, các ngành để giải quyết nhanh nhất các công việc
liên quan; Tạo môi trƣờng thông thoáng công khai minh bạch, chuẩn hóa các
quy trình, thủ tục để huy động tối đa các nguồn lực thực hiện công tác xã hội
hóa trong phạm vi quản lý của mỗi ngành, mỗi cấp.
Trong thời gian tới, nhằm tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ cho các hoạt động
quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu tập trung
vào việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn
huyện Ba Vì, cần tập trung chú trọng một số giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lƣợng quy hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tƣ và
chính sách bảo tồn, phát triển đồng bộ với quản lý. Cần tiến hành rà soát lại
quy hoạch vè du lịch và văn hóa, điều chỉnh cho phù hợp với các quy hoạch
85
của thành phố Hà Nội. Tăng cƣờng kỷ cƣơng trong đầu tƣ công. Bố trí nguồn
lực trên cơ sở nguyên tắc, tiêu chí đã duyệt và đúng đối tƣợng đã xác định;
Khắc phục tình trạng phân bổ nguồn lực dàn trải, sai đối tƣợng.
Thứ hai, ngân sách nhà nƣớc (Trung ƣơng, thành phố, huyện) cần nhất
quán trong việc bố trí cơ bản đảm bảo đủ nguồn lực để thực hiện bảo tồn, phát
huy văn hóa dân tộc thiểu số theo đề án đã đƣợc phê duyệt, nguồn vốn cũng
cần đƣợc cấp đúng thời gian để bảo đảm tiến độ về đích của các xã theo lộ
trình.
Thứ ba, cần có sự phối hợp, thống nhất chặt chẽ giữa các ngành và địa
phƣơng để việc lồng ghép các nguồn vốn phải đƣợc thực hiện từ khâu lập, phê
duyệt dự án, phân bổ, giao dự toán ngân sách và kế hoạch đầu tƣ phát triển, tổ
chức thực hiện, giám sát và đánh giá kết quả; bảo đảm hiệu quả sử dụng các
loại nguồn vốn cho các dự án, góp phần làm tăng hiệu suất đầu tƣ so với khi
chƣa lồng ghép.
Thứ tƣ, cần mở rộng các hình thức hợp tác công tƣ trong bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, kết hợp với và xây dựng hạ tầng kinh
tế - xã hội nông thôn. Cải thiện môi trƣờng đầu tƣ cho văn hóa ở huyện Ba Vì
thông qua tăng đầu tƣ từ ngân sách nhà nƣớc cho phát triển kết cấu hạ tầng,
đặc biệt là hạ tầng giao thông ở các xã khó khăn.
Thứ năm, tăng cƣờng nguồn thu cho ngân sách địa phƣơng thông qua
việc xác định lại nguồn thu phân cấp cho các địa phƣơng trên cơ sở Luật
Ngân sách nhà nƣớc. Đồng thời tăng nguồn thu cho ngân sách địa phƣơng từ
cấp quyền sử dụng đất thông qua rà soát xác định quỹ đất, tạo quỹ đất sạch để
thực hiện đấu giá với mục đích sử dụng đất vào mục đích phát triển du lịch
86
văn hóa, sử dụng vốn có đƣợc qua đấu giá để trở lại phục vụ cho nhu cầu bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số huyện Ba Vì.
Thứ sáu, tăng cƣờng huy động nguồn vốn qua kênh tín dụng, về nhận
thức cần làm rõ cho các cấp, các ngành và đồng bào các dân tộc trong huyện
thấy rõ hơn tín dụng là kênh vốn chủ yếu để phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, phục vụ cho bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số
nói riêng.
Thứ bảy, cần thúc đẩy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong huy động
nguồn lực bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số thông qua
phong trào thi đua cụ thể, thiết thực.
Thứ tám, tập trung hoàn thiện cơ chế chính sách hỗ trợ và quản lý nguồn
lực, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho đội ngũ
cán bộ các cấp trong việc quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; tăng
cƣờng kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện xử lý nghiêm các hiện tƣợng tiêu
cực làm thất thoát, lãng phí các nguồn lực trong bảo tồn, phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số huyện Ba Vì.
3.2.5. Phát huy văn hóa dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch,
phát triển kinh tế làng nghề
Ba Vì là một trong những địa phƣơng của Hà Nội đƣợc chú trọng ƣu tiên
phát triển du lịch sinh thái, một loại hình du lịch thân thiện với môi trƣờng,
gắn liền giữa du lịch với bảo vệ môi trƣờng, các cảnh quan thiên nhiên. Tuy
nhiên, để đạt đƣợc các mục tiêu đó trên thực tế lại không hề dễ dàng. Để thực
hiện các chính sách về phát triển du lịch cần đảm bảo xây dựng đồng bộ hệ
thống cơ sở vật chất đi kèm nhƣng điều đó lại chính là một trong những
87
nguyên nhân tác động rất lớn đến việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số.
Ở khía cạnh tích cực, phát triển hạ tầng du lịch sẽ giúp quảng bá các giá
trị văn hóa dân tộc thiểu số, giúp tăng cƣờng nhận thức sâu rộng cho nhiều
đối tƣợng nhân dân, trong đó có đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Ba Vì
trong việc gìn giữ, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu
số nhằm làm phong phú nền văn hóa Việt Nam. Đồng thời, khi các giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số đƣợc quảng bá rộng rãi cũng tạo điều kiện nhằm thu hút,
huy động sự đóng góp các nguồn lực xã hội cho việc bảo tồn, phát huy văn
hóa dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, trên thực tế, các tác động tiêu cực của phát triển hạ tầng du
lịch đối với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số ở các địa
phƣơng trong cả nƣớc nói chung, trên địa bàn huyện Ba Vì nói riêng lại rất
lớn. Quá trình phát triển du lịch, phát triển cơ sở hạ tầng diễn ra tƣơng đối
đồng thời với quá trình “đồng hóa” hay “phổ thông hóa” các giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số với văn hóa dân tộc đại chúng, làm mai một các giá trị văn
hóa của các dân tộc thiểu số nhƣ giá trị về trang phục, về kiến trúc, về tín
ngƣỡng – tâm linh, về ngôn ngữ riêng của các dân tộc thiểu số
Do vậy, một trong những giải pháp quan trọng đối với chính quyền và
nhân dân huyện Ba Vì trong hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân
tộc thiểu số là phải kết hợp đƣợc nội dung bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số với phát triển du lịch và kinh tế làng nghề. Trong đó, du
lịch cần phải đặt mục tiêu bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số,
nâng cao thu nhập tại chỗ cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Đồng thời, bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số phải đảm bảo tạo tiền đề, cơ
sở, tạo ra những nét đặc trƣng thu hút du lịch.
88
Một trong những điều kiện thuận lợi trong việc kết hợp việc bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số với kết hợp phát triển du lịch trên
địa bàn huyện Ba Vì là các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số tƣơng đối phù hợp
với đặc thù phát triển du lịch, kinh tế làng nghề thân thiện với môi trƣờng
thiên nhiên, cảnh quan sinh thái, đặc biệt là các giá trị về kiến trúc và tâm
linh. Do đó, cần phải chú trọng vào việc bảo tồn các kiến trúc về nhà ở, kiến
trúc của các công trình tín ngƣỡng của đồng bào các dân tộc thiểu số nhằm
tăng cƣờng thu hút du lịch.
Một trong những nội dung quan trọng khác là cần gắn liền bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số với phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế
làng nghề, coi kinh tế là nền tảng để bảo tồn văn hóa, phục vụ cho chính sách
bảo tồn văn hóa; đồng thời, phải coi bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số là một phƣơng tiện thúc đẩy phát triển kinh tế làng nghề. Ba Vì cần
chú trọng vào hai loại hình kinh tế làng nghề có khả năng kết hợp với bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số là làng du lịch và nghề làm thuốc
nam của đồng bào ngƣời Dao. Chính quyền các cấp ở huyện Ba Vì cần nhận
thức đƣợc tiềm năng, thế mạnh của địa phƣơng để từ đó có các kế hoạch cụ
thể nhằm phát huy một cách tối đa các lợi thế có đƣợc để vừa phát triển kinh
tế, cải thiện đời sống vật chất của đồng bào các dân tộc, vừa bảo vệ môi
trƣờng cảnh quan sinh thái thân thiện với con ngƣời, vừa bảo tồn, phát huy
đƣợc các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống tinh thần cho
nhân dân địa phƣơng và du khách đến với Ba Vì. Từ đó, nâng cao mọi mặt
đời sống của nhân dân địa phƣơng, đạt đƣợc tất cả các mục tiêu của phát triển
kinh tế - xã hội một cách bền vững.
89
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số là một
trong những yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay khi mà tình trạng biến
tƣớng văn hóa xảy ra ngày càng nhiều, đồng thời với đó là các giá trị văn hóa
tốt đẹp bị mai một, hoặc bị biến mất nhanh chóng trong quá trình hội nhập.
Việc hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số cần đảm
bảo tiến hành theo một số phƣơng hƣớng cụ thể là: Thứ nhất, hoàn thiện thể
chế quản lý văn hóa. Thứ hai, hoàn thiện cơ chế quản lý văn hóa; Thứ ba, đổi
mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý văn hóa; Thứ tƣ, tiếp tục nâng cao
chất lƣợng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa; Thứ
năm, tăng cƣờng thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực văn hóa; Thứ sáu, tăng
cƣờng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, tổ chức, ban ngành trong
lĩnh vực văn hóa.
Đồng thời, thực hiện tốt một số giải pháp sau đây: Một là, nhận thức có
tính hệ thống và tính khoa học đối với các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số cần
đƣợc bảo tồn và phát huy; hai là, xây dựng và triển khai hệ thống chính sách,
pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số một cách cụ
thể, phù hợp; ba là, tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán bộ, công chức
làm công tác quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số; bốn là, tăng cƣờng huy
động các nguồn lực phục vụ quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu
số; năm là, phát huy văn hóa dân tộc thiểu số kết hợp với phát triển du lịch và
kinh tế làng nghề.
90
KẾT LUẬN
Mỗi dân tộc dù chiếm đa số hay chiếm thiểu số đều mang những giá trị
văn hóa độc đáo riêng của dân tộc mình mình. Các dân tộc thiểu số trên địa
bàn huyện Ba Vì cũng có những giá trị riêng biệt, độc đáo với nhiều phong
tục, tập quán tốt đẹp, đặc sắc đƣợc truyền qua bao thế hệ, để ngày nay mang
trong mình một sức sống lâu bền, mạnh mẽ. Trong những năm qua, các thế hệ
ngƣời dân tộc Dao, Mƣờng cùng với ngƣời Kinh anh em ở huyện Ba Vì đã và
đang cùng nhau chung tay xây dựng bản làng, phát triển đời sống tinh thần,
cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc. Đây là kết quả của những tiến bộ mọi
mặt về vật chất cũng nhƣ nhận thức của đông đảo đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng thời, phản ánh những kết quả tích cực của hoạt động quản lý nhà nƣớc
về văn hóa các dân tộc thiểu số của các cấp chính quyền huyện Ba Vì.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đạt đƣợc, hoạt động quản lý nhà
nƣớc về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì vẫn còn bộc lộ
một số hạn chế, yêu kém nhƣ: khâu bảo tồn, lƣu giữ văn hóa còn đơn giản,
thiếu tính hệ thống, khoa học; chƣa có biện pháp kịp thời nhằm hạn chế quá
trình đồng nhất hóa các giá trị văn hóa thiểu số với đa số trong quá trình của
đời sống; chƣa đảm bảo hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ bảo tồn, lƣu giữ và
phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số; quá trình xây dựng các chƣơng trình,
đề án bảo tồn, lƣu giữ, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số chƣa có
sự tham gia đáng kể của các chuyên gia và đối tƣợng thụ hƣởng
Từ đó, yêu cầu đối với việc hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì ngày càng trở nên cấp bách trong
giai đoạn hiện nay khi các giá trị văn hóa dân tộc thiểu số tốt đẹp và giàu tính
nhân văn đang bị mai một dần. Hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về văn hóa các
dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì cần đƣợc thực hiện trên cơ sở đảm
91
bảo các quan điểm và định hƣớng phù hợp, đồng thời phải tổ chức thực hiện
đồng bộ các giải pháp khoa học xuất phát từ các nguyên nhân của những hạn
chế, yếu kém trong hoạt động quản lý. Theo đó, cần chú trọng đến một số giải
pháp nhƣ: Nhận thức có tính hệ thống và tính khoa học đối với các giá trị văn
hóa dân tộc thiểu số cần đƣợc bảo tồn và phát huy; xây dựng và triển khai hệ
thống chính sách, pháp luật về bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số một cách cụ thể, phù hợp; tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác quản lý văn hóa các dân tộc thiểu số; tăng cƣờng
huy động các nguồn lực phục vụ quản lý nhà nƣớc về văn hóa các dân tộc
thiểu số; phát huy văn hóa dân tộc thiểu số kết hợp với phát triển du lịch và
kinh tế làng nghề.
Nhƣ vậy, trong 3 chƣơng của luận văn đã trình bày theo lô-gích hệ thống
từ lý luận đến thực tiễn và giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nƣớc
về văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Ba Vì trong giai đoạn hiện
nay.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thái An (2012), Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu
số trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sĩ chính sách công, Học viện
Khoa học và Xã hội;
2. Ngô Trọng Báu (2012), Phong tục tập quán và lễ hội của người Việt,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội;
3. Trần Ngọc Bình (2008), Văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Thanh
niên, Hà Nội;
4. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa, tộc người,
Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội;
5. Chính phủ (2011) Nghị định số 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 về
công tác dân tộc;
6. Đoàn Văn Chúc (1997), Xã hội học văn hóa, NXB Văn hóa, Hà Nội;
7. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn
cầu hóa, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;
8. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, Nxb.
Khoa học xã hội;
9. Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Văn hóa học đại cương và cơ sở văn
hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
10. Hoàng Việt Hà (2015), Quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa trên địa bàn huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sĩ
quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội;
11. Nguyễn Văn Huy (1998), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội;
93
12. Nguyễn Văn Huyên (1995), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tập 1;
13. Vũ Ngọc Khánh (2007), Giáo trình Văn hóa dân gian người Việt,
Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội;
14. Nguyễn Đình Khoa (1983), Các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội;
15. Vũ Ngọc Lan (2014), Quản lý nhà nước về bảo tồn, phát triển văn
hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ quản
lý công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội;
16. Trƣờng Lƣu (2003), Toàn cầu hóa về vấn đề bảo tồn văn hóa dân
tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
17. Hồ Chí Minh(1990),Toàn tập,NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 3;
18. Hoàng Phê (Ch.b) (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng;
19. Lê Ngọc Thắng, Lê Bá Nam (1994), Bản sắc văn hóa các dân tộc ở
Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội;
20. Trần Ngọc Thêm (1996), Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội;
21. Trần Ngọc Thêm (1999), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb.
Văn hóa, Hà Nội;
22. Thủ tƣớng Chính phủ (2014), Chỉ thị số 28/CT-TTg ngày 10/9/2014
về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác dân tộc;
23. Thủ tƣớng Chính phủ (2011), Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày
27/7/2011 Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số
Việt Nam đến năm 2020”;
94
24. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc (UNESCO)
(1982), Tuyên bố về những chính sách văn hoá, NXB Văn hóa - thông tin, Hà
Nội;
25. Nguyễn Khắc Viện (Ch.b) (1991), Từ điển tâm lý, Xb. Trung tâm
nghiên cứu tâm lý trẻ em, Hà Nội;
26. Hoàng Vinh (2007), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản
văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội;
27. Trần Quốc Vƣợng (2010), Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội;
28. Nguyễn Nhƣ Ý (Ch.b) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội;
29. Các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX (2001), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội;
30. Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 – Những vấn đề
phương pháp luận (2009), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_van_hoa_cac_dan_toc_thieu_so_tr.pdf