Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp khác, luôn gắn liền với rủi ro. Mặt khác, hoạt động kinh
doanh của NHTM liên quan đến ttất cả các hoạt động của nền kinh tế, xã hội, do vậy,
những biến động rủi ro của nền kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro cho các NHTM và ngược lại.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và rủi ro trong hoạt động tín
dụng là điều không thể tránh khỏi. Tuy vậy, chúng ta có thể nhận thức được RRTD, ngăn
ngừa và hạn chế ở mức thấp nhất.
100 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2436 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nông nghiệp & Phát triển nông thôn Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưu thế cho hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Quảng Nam trong thời gian tới.
Mặc dù chủ trương hoạt động đa năng, nhưng NHNo&PTNT Quảng Nam nên xác
định vai trò chủ lực của đầu tư vốn phát triển nông nghiệp, nông thôn với phương châm “
Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nông thôn là thị trường chủ yếu, nông dân là khách
hàng truyền thống”. NHNo&PTNT Quảng Nam cần xác định khách hàng chủ yếu trong
hoạt động kinh doanh của mình là nhóm khách hàng kinh tế hộ. Qua tổng kết 15 năm
hoạt động đầu tư phát triển kinh tế hộ của NHNo&PTNT Quảng Nam cho thấy, kinh tế
hộ là thị trường rộng lớn, đầu tư của Ngân hàng khá phân tán nên rủi ro không tập trung
và có khả năng thu hồi vốn cao. Mặt khác, tư cách người vay trong nhóm khách hàng
kinh tế hộ được đánh giá cao, họ có trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho
ngân hàng. Với lợi thế mạng lưới chi nhánh rộng khắp trong toàn tỉnh, NHNo&PTNT
Quảng Nam nên tận dụng các điều kiện ưu thế của mình để thực hiện tốt chiến lược
khách hàng này.
3.2.2 Xây dựng chiến lược về con người đáp ứng yêu cầu quản lý rủi ro tín
dụng trong điều kiện mới
Một chính sách khách hàng đúng đắn, một cơ chế kinh doanh phù hợp chỉ có thể
mang lại hiệu quả khi được một đội ngũ cán bộ có năng lực và trách nhiệm thực thi. Con
người là yếu tố quyết định hiệu quả trong mọi hoạt động kinh doanh. Vì vậy, việc tuyển
chọn, đào tạo và sử dụng được một đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao, có đạo đức
và tinh thần trách nhiệm tốt đối với công việc là một trong những giải pháp rất quan trọng
để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng ở NHNo&PTNT Quảng Nam.
3.2.2.1. Tuyển dụng, tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Tuyển dụng là khâu đầu tiên và hết sức quan trọng trong chiến lược về con người,
nếu tuyển dụng không đạt yêu cầu thì sẽ không có cán bộ giỏi hoặc phải mất nhiều thời
gian và chi phí cho công tác đào tạo. Tuyển dụng cán bộ ở NHNo&PTNT Quảng Nam
trong thời gian tới nhất thiết phải qua thi tuyển và phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Được đào tạo chính quy tại các trường đại học có uy tín: Đây là một tiêu chuẩn hết
sức quan trọng, các trường đại học có uy tín, học sinh vào trường giỏi hơn, được đào tạo
trong môi trường tốt hơn, chuyên sâu hơn,... sẽ hứa hẹn làm việc sẽ tốt hơn.
- Có khả năng nhất định về ngoại ngữ và tin học: Trong xu thế hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, giao tiếp quốc tế sẽ ngày càng mở rộng, công nghệ thông tin được ứng
dụng rộng rãi. Ngân hàng là lĩnh vực chịu nhiều áp lực cạnh tranh khi gia nhập WTO, vì
vậy cán bộ ngân hàng khi tiếp cận môi trường mới phải thành thạo ngoại ngữ và những
tiến bộ của công nghệ thông tin để thích ứng với cạnh tranh và hội nhập. Ngày nay, ngoại
ngữ là chìa khoá để chúng ta bước ra thế giới và bước vào tương lai.
- Có sức khoẻ và phẩm chất đạo đức tốt: Đây cũng là một tiêu chuẩn hết sức quan
trọng, đặc biệt là đối với cán bộ ngân hàng. Nếu không có phẩm chất đạo đức tốt thì mọi tiêu
chuẩn khác đều vô nghĩa, thậm chí cán bộ thoái hoá có trình độ còn có tác hại lớn hơn.
- Có hiểu biết về xã hội và khả năng giao tiếp. Nếu một cán bộ ngân hàng không có
kiến thức về xã hội và khả năng giao tiếp, khi thẩm định sẽ không xem xét đúng và đầy
đủ, chính xác các nội dung cần thẩm định và khả năng thu thập và xử lý thông tin cũng bị
hạn chế rất nhiều. Chính vì thế, Ngân hàng phải có kế hoạch thu hút các chuyên gia có
kiến thức xã hội và kỹ năng giao tiếp về làm việc cho mình.
3.2.2.2. Đổi mới công tác đào tạo cán bộ của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Quảng Nam
- Cần đẩy mạnh đào tạo theo chuyên đề: Trong thời gian tới, NHNo&PTNT Quảng Nam
nên chú trọng hơn đến công tác đào tạo. Ngân hàng nên thường xuyên cử cán bộ tham gia
các chương trình tập huấn, hội thảo do NHNo&PTNT Việt Nam và Trung tâm đào tạo
NHNo&PTNT Việt Nam khu vực miền Trung tổ chức... Tuy nhiên các chương trình này
chưa thể đáp ứng yêu cầu bồi dưỡng cán bộ của Ngân hàng do thời gian tập huấn ngắn và
nội dung đào tạo còn mang tính phổ cập, chưa thật chuyên sâu. Do đó, NHNo&PTNT
Quảng Nam cần tự tổ chức nhiều hơn các khoá bồi dưỡng chuyên đề chuyên sâu về tín
dụng, về kiểm soát cho cán bộ của mình.
- Xây dựng và triển khai hiệu quả các khoá đào tạo lại: Hiện nay, NHNo&PTNT
Quảng Nam mới chú trọng đào tạo nâng cao (đại học tại chức, cao học...) mà chưa quan
tâm đúng mức đến đào tạo lại. Phần lớn cán bộ của Ngân hàng hiện được đào tạo đã lâu,
các kiến thức đã học ở trường đã quá cũ và không phù hợp với thực tế, thậm chí nhiều
cán bộ được đào tạo thời kỳ bao cấp. Do vậy Ngân hàng cần phải xây dựng kế hoach đào
tạo lại một cách bài bản số cán bộ của mình theo nhiều hình thức khác nhau, tốt nhất là tổ
chức các khoá ngắn hạn tại chỗ.
- Cùng với việc tổ chức các hoạt động đào tạo cán bộ, Ngân hàng cần khuyến khích
cán bộ không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để trau dồi kiến thức năng lực.
3.2.2.3. Đổi mới công tác tổ chức bố trí cán bộ
Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, ban lãnh đạo ngân hàng cần cân nhắc khi
bố trí nhân sự để phát huy được thế mạnh và hạn chế được nhược điểm của mỗi cán bộ để
họ có thể cống hiến được nhiều nhất, đồng thời cũng góp phần giảm thiểu tổn hại do
RRTD bằng chính công việc có chất lượng cao của họ. Muốn vậy, Ban lãnh đạo Ngân
hàng phải thường xuyên theo dõi hoạt động của nhân viên để có thể đánh giá về họ được
chính xác. Ngoài ra, việc đề ra một chế độ đãi ngộ xứng đáng như về lương, thưởng để
động viên, khuyến khích kịp thời cán bộ, nhân viên không ngừng nâng cao tinh thần trách
nhiệm, kích thích họ nỗ lực phấn đấu trong công tác là hết sức cần thiết, nhất là đối với
số cán bộ tín dụng và cán bộ quản lý RRTD. Nên gắn chế độ đãi ngộ với nỗ lực cá nhân
của cán bộ trong hoạt động chuyên môn nói chung, trong quản lý RRTD nói riêng.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác thu thập, xử lý thông tin phục vụ công tác
dự báo và phòng ngừa rủi ro tín dụng
Hiện nay, do sự thiếu đồng bộ và tính hiệu lực của các văn bản pháp lý thấp nên các
thông tin mà doanh nghiệp và các cơ quan chức năng cung cấp hầu hết đều thiếu chính
xác, thậm chí còn giả tạo. Do vậy, yêu cầu trước mắt đối với NHNo&PTNT Quảng Nam
là nỗ lực đảm bảo sự trung thực, tính chính xác của thông tin, nhất là các thông tin liên
quan đến quyết định cho vay. Muốn vậy, phải áp dụng các giải pháp sau:
- Quán triệt trong lãnh đạo và cán bộ tầm quan trọng của công tác thu thập thông
tin, tránh thu thập một cách hình thức và đối phó.
- Khai thác từ nhiều kênh thông tin khác nhau. Hiện nay các cán bộ tín dụng có thể
lấy thông tin từ Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN. Những thông tin này tuy
còn ít và chưa thật kịp thời nhưng cũng rất quan trọng và cần thiết, cán bộ tín dụng cần
phải biết cách tra cứu, tìm tòi để tận dụng triệt để nguồn tin này. Đồng thời, Ngân hàng
cũng nên quy định chặt chẽ hơn trách nhiệm của các cán bộ tín dụng trong việc phải tự
mình đi thu thập thông tin từ khách hàng đến vay vốn, thông tin ngoài thị trường, thông
tin trên báo chí và các phương tiện truyền thông.
- Thu thập thông tin từ chính kinh nghiệm hoạt động tín dụng của cán bộ và Ngân
hàng để lập thành các bộ hồ sơ tư liệu về khách hàng qua nhiều năm. Những bộ hồ sơ này
là cơ sở để Ngân hàng xếp loại khách hàng và có chính sách phân biệt đối xử đúng đắn
nhằm hạn chế RRTD.
Sau khi đã thu thập được thông tin cần thiết, NHNo&PTNT Quảng Nam cần tổ
chức tốt hơn khâu lưu giữ, bảo quản và cung cấp thông tin hiệu quả. Các hướng hoàn
thiện trong lĩnh vực này là:
- Phân loại thông tin có hệ thống và lưu giữ khoa học: Hệ thống thông tin của Ngân
hàng phải được phân loại hợp lý thành: thông tin tài chính, thông tin phi tài chính của
doanh nghiệp, thông tin tài chính (gồm: khả năng tài chính, kết quả kinh doanh trong quá
khứ, công nợ, nhu cầu vốn hợp lý, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, khả năng
trả nợ, giá trị tài sản thế chấp...), thông tin phi tài chính (gồm: tư cách, uy tín, năng lực
quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội, gia đình, kinh tế... của người vay,
cung cầu, giá cả thị trường... của đối tượng được cấp tín dụng)
- Yêu cầu phân loại thông tin là phải đảm bảo cung cấp thông tin thuận tiện, chính
xác, đầy đủ, kịp thời. Trên cơ sở những thông tin thu thập được, cần phân tích cẩn thận
để có thể liên kết chúng theo hệ thống lô gích, có chia xẻ lẫn nhau giữa các ngân hàng
nhằm giúp người sử dụng tin có thể ra quyết định chính xác, tránh được các rủi ro do
khách hàng sử dụng các thủ đoạn lừa đảo, giả mạo hồ sơ vay vốn hay tận dụng các sơ hở
của luật pháp để dùng một tài sản thế chấp vay vốn nhiều ngân hàng khác nhau.
- Thông tin tín dụng phải được lưu trữ và sử dụng theo chế độ bảo mật. Chỉ có cán
bộ, bộ phận nghiệp vụ có trách nhiệm liên quan đến hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro
tín dụng của chi nhánh mới được truy cập, khai thác và sử dụng. Công tác lưu trữ phải có
khả năng cập nhật thông tin mới và loại bỏ thông tin lạc hậu nhằm mục đích giúp Ngân
hàng có lượng thông tin đầy đủ, kịp thời, đồng thời giảm chi phí trong công tác thu thập
và xử lý thông tin.
3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra nội bộ và giám sát khách hàng
3.2.4.1. Hoàn thiện công tác kiểm soát nội bộ
Hoạt động kiểm tra, kiểm soát là một hình thức quản lý tín dụng theo chiều sâu,
hoàn thiện công tác của cán bộ tín dụng góp phần ngăn ngừa, phát hiện và chấn chỉnh, xử
lý kịp thời những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ.
Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro tín
dụng, cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Bộ phận kiểm tra, kiểm toán chuyên trách thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm toán
định kỳ theo chương trình kế hoạch tháng, quí, năm. Đảm bảo ít nhất trong năm mỗi ngân
hàng cơ sở phải được kiểm tra 1 lần về công tác tín dụng, ngoài những đợt kiểm tra đột
xuất hay kiểm tra vụ việc.
- Bộ phân kiểm tra chuyên đề của phòng tín dụng, hàng tháng đều phải kiểm tra lại
việc làm của cán bộ mình một cách thường xuyên, liên tục. Kết quả kiểm tra hàng tháng,
quý gưỉ cho bộ phận kiểm tra, kiểm toán chuyên trách tổng hợp.
- Kiểm tra, kiểm soát phải gắn với việc sửa sai, sau mỗi lần kiểm tra, tự kiểm tra
phải có kế hoạch chỉnh sửa cụ thể, qui định rõ thời gian phải sửa sai, con người cụ thể có
trách nhiệm sửa sai. Đơn vị nào đã được kiểm tra phát hiện, kiến nghị chỉnh sửa mà
không sửa hoặc sửa chữa mang tính hình thức thì những cán bộ có liên quan và lãnh đạo
nơi đó phải chịu trách nhiệm kể cả xử lý hình thức kỷ luật.
- Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ làm công tác kiểm
tra, kiểm soát.
- Tăng cường những cán bộ có năng lực nghiệp vụ bổ sung cho tổ kiểm tra, kiểm
toán nội bộ.
3.2.4.2. Tăng cường giám sát khách hàng
Để giảm thiểu RRTD từ phía khách hàng, NHNo&PTNT Quảng Nam cần áp dụng
các giải pháp giám sát khách hàng hiệu quả. Cụ thể là:
- Quy định chặt chẽ yêu cầu cán bộ tín dụng phải tuân thủ đầy đủ qui trình kiểm tra
trước, trong và đặc biệt là sau khi cho vay, nhất là các khoản vay có khả năng xảy ra rủi
ro. Đặc biệt, Ngân hàng phải chú trọng giám sát hoạt động của khách hàng sau khi cho
vay, đảm bảo yêu cầu khách hàng sử dụng vốn trên thực tế đúng mục đích như phương
án, dự án đã đưa ra.
- Ngân hàng cần quản lý đầy đủ các nguồn thu từ đầu tư mang lại cho doanh nghiệp
để đảm bảo nguồn trả nợ cho Ngân hàng. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải theo dõi sát sao
việc thực hiện các điều khoản cụ thể đã thoả thuận trong hợp đồng của khách hàng, kịp
thời phát hiện những vi phạm để có những biện pháp xử lý phù hợp.
- Tăng cường việc viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động kinh doanh của
khách hàng để có những thông tin bổ ích về thực trạng tổ chức sản xuất kinh doanh, dự
trữ tồn kho, chất lượng tài sản đảm bảo cũng như sự duy trì ý muốn trả nợ của khách
hàng.
3.2.5. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư bằng vốn vay
Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi
ro có thể xảy ra, NHNo&PTNT Quảng Nam phải có đội ngũ cán bộ thẩm định tinh thông
nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật, nhất là nắm vững những văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan đến việc cho vay như Luật kế toán năm 2003; Luật Doanh nghiệp nhà nước
năm 2003, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2005; Luật đất đai năm 2003; Luật dân sự
năm 2005; Luật các tổ chức tín dụng năm 1997; Luật sửa đổi,bổ sung một số điều của
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Vì các
văn bản luật liên tục được thay đổi, bổ sung theo từng thời điểm nhất định nên Ngân hàng
phải có kế hoạch tập huấn cho cán bộ thẩm định để họ khi tiến hành thẩm định nắm vững
các văn bản có liên quan.
- NHNo&PTNT Quảng Nam cần nâng cao công tác thẩm định bằng cách đòi hỏi
cán bộ thẩm định phải am hiểu kế toán doanh nghiệp, nắm chắc kết cấu và nội dung báo
cáo tài chính của doanh nghiệp và biết cách phân tích sâu sắc thực trạng tài chính của đơn
vị thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo.
- Đối với các dự án trung dài hạn, NHNo&PTNT Quảng Nam càng phải chú trọng
nhiều hơn công tác thẩm định, bởi vì chúng có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
phòng ngừa RRTD. Vì công tác thẩm định đòi hỏi phải có cán bộ thẩm định chuyên
trách, có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực mà dự án đầu tư, mà hiện nay, cán bộ thẩm
định của NHNo&PTNT Quảng Nam đa phần là những cán bộ trưởng thành từ công tác
tín dụng, nên, để đảm bảo chất lượng thẩm định, Ngân hàng cần được thuê tổ chức tư vấn
thẩm định. Tránh hiện tượng khi thẩm định chủ yếu căn cứ vào luận chứng kinh tế được
duyệt, Ngân hàng không có khả năng kiểm chứng. Khi hoạt động kinh doanh phát triển
đến mức cần thiết, phải tuyển dụng cán bộ thẩm định chuyên trách, có đủ trình độ phân
tích, đánh giá chuyên ngành và am hiểu các kiến thức kinh tế, xã hội liên quan.
- Ngân hàng cần tạo điều kiện cho cán bộ thẩm định nắm bắt thông tin về nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương trong từng thời kỳ, các thông tin
dự báo, thông tin công nghệ, thị trường… để có thể đưa ra những nhận xét, đánh giá của
mình về việc cho vay hay không cho vay, giúp lãnh đạo trong việc quyết định cho vay.
- Ngân hàng cần phát huy vai trò của hội đồng tư vấn tín dụng để nâng cao chất
lượng thẩm định dự án trước khi giải quyết cho vay và để đề ra các biện pháp trong việc
xử lý các khoản vay có vấn đề.
3.2.6. Đa dạng hóa phương thức cho vay nhằm san sẻ rủi ro
Để phù hợp với sự đa dạng về nhu cầu vốn của khách hàng, qui mô cho vay, đối
tượng vay vốn và khả năng kiểm soát của ngân hàng, đồng thời hỗ trợ cho việc quản lý
rủi ro, Chi nhánh ngân hàng Quảng Nam cần áp dụng nhiều phương thức cho vay. Cụ thể
là:
- Tiếp tục duy trì phương thức cho vay từng lần: Cho vay từng lần là phương thức
áp dụng cho khách hàng vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần vay vốn khách hàng và
ngân hàng đều làm thủ tục vay vốn cần thiết, lập giấy nhận nợ. Phương thức này chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng dư nợ của chi nhánh Quảng Nam trong thời gian qua và đối tượng
khách hàng chính là cá nhân và kinh tế hộ. Thời gian tới, Chi nhánh cần tiếp tục duy trì
quy mô cho vay từn lần đã đạt được vì các khoản vay này có độ an toàn cao và số lượng
vay trên địa bàn Quảng Nam khá lớn.
- Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng: Phương thức này nên áp dụng cho
khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên, có uy tín trong quan hệ với ngân hàng.
Ngân hàng cần căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ của khách hàng
để xác định hạn mức tín dụng. Đồng thời, Ngân hàng nên tăng cường kiểm soát việc sử
dụng vốn vay trong phạm vi hạn mức và các điều khoản đã ghi trong hợp đồngtín dụng.
Phương thức này phù hợp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là những doanh nghiệp
chiếm số lớn ở Quảng Nam. Ngân hàng cũng cần thận trọng khi sử dụng phương thức
này vì nó đặt ngân hàng vào vị thế rất khó giám sát được việc sử dụng vốn vay của khách
hàng và dễ xuất hiện rủi ro.
- Phương thức cho vay theo dự án đầu tư: Đây là hình thức cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. Ngân
hàng cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả
thời gian đầu tư của dự án, phân định các kỳ hạn trả nợ. Nguồn vốn cho vay được giải
ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Hình thức này dễ kiểm soát việc sử dụng vốn, nên có
thể hạn chế rủi ro.
- Cho vay đồng tài trợ: Trong thời gian tới số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn mà
một ngân hàng không thể đáp ứng được sẽ có xu hướng tăng lên. Việc cho vay các dự án
loại này thường khó khăn do nhu cầu vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, khó xác định
mức độ rủi ro có thể xảy ra. Trong trường hợp này, NHNo&PTNT Quảng Nam nên phối
hợp với các ngân hàng khác để cùng nhau liên kết trong thẩm định dự án, hợp vốn cho
vay, chia sẻ lợi nhuận và rủi ro có thể xảy ra.
Trước đây, NHNo&PTNT Quảng Nam đã thực hiện đồng tài trợ với các Ngân hàng
Công thương Thừa Thiên - Huế, Ngân hàng Ngoại thương Đà Nẵng, Ngân hàng Đầu tư
và phát triển Đà Nẵng để đầu tư cho dự án thuỷ điện A Vương. Sắp đến NHNo&PTNT
Quảng Nam nên đẩy mạnh hoạt động này hơn nữa, trước mắt là đồng tài trợ cho dự án
thuỷ điện Đắc Mil 4 của Tổng công ty đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp, thuỷ
điện Sông Tranh 2 do Tổng Công ty Điện lực làm chủ đầu tư.
3.2.7. Thực hiện các biện pháp phân tán rủi ro
Để hạn chế đến mức tối thiểu những rủi ro có thể xảy ra, đồng thời đạt được mục
tiêu đã định trước, trong thời gian tới, NHNo&PTNT Quảng Nam cần tích cực phân tán
rủi ro. Phân tán rủi ro chính là việc thực hiện nguyên tắc kinh điển trong kinh doanh tài
chính: “Không nên bỏ tất cả trứng vào một rổ”. NHNo&PTNT Quảng Nam nên chú trọng
các giải phấp phân tán RRTD sau:
3.2.7.1 Đa dạng hoá đối tượng đầu tư
Đa dạng hoá đối tượng đầu tư là biện pháp tốt nhất, chủ động nhất để
NHNo&PTNT Quảng Nam phân tán rủi ro. Ngân hàng nên chia nguồn tiền của mình vào
nhiều loại hình đầu tư, nhiều ngành nghề khác nhau cũng như nhiều khách hàng ở những
địa bàn khác nhau. Cách làm này vừa mở rộng được phạm vi hoạt động tín dụng của
ngân hàng, vừa đạt được mục đích phân tán rủi ro. Để thực hiện đa dạng hoá đối tượng
đầu tư, chiến lược kinh doanh của &PTNT Quảng Nam cần được xây dựng theo hướng:
- Đầu tư vào nhiều ngành kinh tế khác nhau, để tránh sự cạnh tranh của các tổ chức
tín dụng khác trong việc giành giật thị phần trong phạm vi hẹp của một số ngành đang
phát triển cũng như tránh gặp phải rủi ro do những chính sách của Nhà nưóc với mục
đích hạn chế hoạt động của một số ngành nghề nhất định trong kế hoạch cơ cấu lại nền
kinh tế.
- Đầu tư vào nhiều đối tượng sản xuất kinh doanh nhiều loại hàng hoá khác nhau,
tránh tập trung cho vay sản xuất một số loại sản phẩm đặc biệt là những loại sản phẩm
không thiết yếu mà Nhà nước không khuyến khích hay những sản phẩm đã xuất hiện quá
nhiều trên thị trường.
- Tránh cho vay quá nhiều đối với một khách hàng, luôn đảm bảo một tỷ lệ cho vay
nhất định trong tổng số vốn hoạt động của khách hàng để tránh sự ỷ lại và rủi ro bất ngờ
của khách hàng đó.
- Cho vay với nhiều loại thời hạn khác nhau bảo đảm sự cân đối giữa số vốn cho
vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đảm bảo sự phát triển vững chắc và tránh rủi ro tín
dụng do sự thay đổi lãi suất thị trường.
- Tạo lập một tỷ lệ thích hợp giữa cho vay bằng VND và cho vay bằng ngoại tệ đảm
bảo đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng tránh đựoc rủi ro tín dụng do sự thay
đổi tỷ giá hối đoái.
3.2.7.2. Bảo hiểm tín dụng
Bảo hiểm tín dụng là biện pháp quan trọng nhằm san sẻ rủi ro. Trong thời gian tới,
NHNo&PTNT Quảng Nam nên thực hiện bảo hiểm tín dụng dưới các hình thức sau:
- Khuyến nghị khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành,
nghề mà họ kinh doanh, coi các khách hàng đã mua bảo hiểm là khách hàng được ưu tiên
hơn khách hàng không mua bảo hiểm.
- Yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay, coi đó như điều kiện
để được vay tín dụng.
3.2.8. Thực hiện biện pháp đảm bảo tiền vay
NHNo&PTNT Quảng Nam nên xử lý linh hoạt vấn đề đảm bảo tiền vay. Mặc dù
mục đích của đảm bảo tiền vay là nhằm nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết của
người vay, phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của người vay không thực
hiện được hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước, nhưng Ngân hàng không nên lạm
dụng hình thức này để giảm bớt khó khăn cho người vay. Theo Luật các tổ chức tín dụng;
theo quy định của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư số
06/2000/TT-NHNN1 ngày 04/04/2000 của Ngân hàng Nhà nước về bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng, ngân hàng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm
bằng tài sản hay cho vay không có bảo đảm theo quy định và chịu trách nhiệm về quyết
định của mình. Chính vì thế, cần phân biệt các trường hợp cần bảo đảm và không cần bảo
đảm theo quan điểm quản lý RRTD dựa vào khả năng trả nợ. Cụ thể là:
-Trường hợp khách hàng có đủ điều kiện được vay không có bảo đảm bằng tài sản
là các trường hợp dự án được thẩm định là có hiệu quả cao, khách hàng có uy tín, khách
hàng có tiềm lực tài chính trong tương lai để trả nợ. Trong trường hợp này, ngân hàng có
thể quyết định cho vay nhưng cần lưu ý một số điểm sau:
+ Phải xác định được những tài sản có khả năng bảo đảm để trong trường hợp khách
hàng không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng sẽ buộc họ thực
hiện các biện pháp bảo đảm.
+ Có biện pháp thu nợ trước hạn nếu khách hàng không thực hiện được các biện
pháp bảo đảm tài sản trong trường hợp trên.
- Trường hợp vay vốn có bảo đảm bằng tài sản: Nếu tiền vay được bảo đảm bằng tài
sản hình thành từ vốn vay, ngân hàng cần có những biện pháp quản lý như sau:
+ Xác định rõ quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản hình thành từ vốn vay của
người vay.
+ Kiểm tra, giám sát tiến độ hình thành tài sản bảo đảm tiền vay đúng như mục đích
vay vốn và giám sát quá trình sử dụng tài sản đó để có biện pháp xử lý thích hợp khi cần
thiết.
Nếu tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của khách hàng hoặc của bên thứ ba, ngân
hàng cần chú ý các điểm sau:
+ Kiểm tra rõ tính hợp pháp của tài sản đảm bảo thuộc quyền sở hữu của người vay
hoặc của bên bảo lãnh.
+ Đối với các tài sản khó tiêu thụ trên thị trường, tài sản dễ hao mòn, mất giá thì
không nhận làm tài sản thế chấp, cầm cố.
+ Đối với các tài sản không bắt buộc có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu như vàng
bạc, đá quý thì phải dùng biện pháp cầm cố.
+ Đối với các tài sản mà pháp luật qui định phải mua bảo hiểm thì khách hàng phải
xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn đảm bảo tiền vay. Ngân hàng nên thoả
thuận với khách hàng về việc chuyển tên người được hưởng trong hợp đồng bảo hiểm là
ngân hàng trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
+ Thu thập thông tin về tài sản đảm bảo tránh trường hợp khách hàng giả mạo giấy
tờ, lập nhiều hồ sơ vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau.
+ Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả việc đánh giá tài sản bảo đảm, tránh tình trạng
định giá quá cao giá trị tài sản thế chấp, cầm cố khiến cho khi gặp phải rủi ro, việc phát
mại tài sản không đủ bù đắp số vốn đã cho vay.
3.2.9. Thiết lập giải pháp quản lý nghiêm ngặt các khoản vay có vấn đề và biện
pháp xử lý nợ khó đòi
3.2.9.1. Đối với các khoản vay có vấn đề
NHNo&PTNT Quảng Nam cần tổ chức các chuyến thăm khách hàng thường xuyên
để phát hiện nhanh những khoản vay có vấn đề thông qua quan sát thái độ của khách
hàng và phân tích các báo cáo kế toán, qua quan sát tổ chức sản xuất, kinh doanh. Ngay
khi phát hiện khoản vay có vấn đề, cán bộ tín dụng phải kiểm tra hồ sơ khoản vay, kiểm
tra hồ sơ đảm bảo để đảm bảo rằng tất cả hồ sơ ngân hàng lưu giữ đều hợp pháp, hợp lệ,
tìm kiếm cơ hội để bổ sung tài sản đảm bảo. Sau đó, Ngân hàng nên gặp gỡ khách hàng
để tìm kiếm giải pháp và tư vấn cho khách hàng tháo gỡ khó khăn để phục hồi sản xuất,
ngăn chặn tình trạng có thể dẫn đến phá sản. Kết quả cuối cùng của chuyến viếng thăm là
phải loại bỏ được những khó khăn từ phía khách hàng để giảm thiểu rủi ro tín dụng.
3.2.9.2. Xử lý nợ khó đòi
Đối với các khoản nợ khó đòi, NHNo&PTNT Quảng Nam cần tích cực xử lý theo
các hướng sau:
- Xử lý các tài sản đảm bảo tiền vay: Khi khách hàng không có khả năng trả nợ như
dự kiến, Ngân hàng cần tiến hành bán tài sản đảm bảo nợ vay hoặc nhận chính tài sản
đảm bảo nợ vay để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm. Trong trường hợp
bên thứ ba có nghĩa vụ trả tiền hoặc bán tài sản để trả nợ cho khách hàng vay, Ngân hàng
cần nhận trực tiếp các khoản tiền hoặc tài sản từ bên thứ ba.
- Bán nợ: Ngân hàng nên cố gắng tìm kiếm khách hàng để bán lại các khoản nợ có
vấn đề với một tỉ lệ thích hợp. Có thể bán cho Công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính, bán
cho Công ty tư vấn của Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản của NHNo&PTNT Việt
Nam, hoặc bán cho bất kỳ tổ chức nào có chức năng mua nợ khác.
- Khởi kiện: Ngân hàng nên chủ động tiến hành các thủ tục khởi kiện ra toà đối với
các khoản vay khó đòi, các khoản nợ tồn đọng sau khi đã áp dụng các biện pháp tổ chức
khai thác, xử lý tài sản thế chấp nhưng không thu hồi được nợ, nhất là đối với các trường
hợp khách hàng có dấu hiệu lừa đảo, cố ý chây lỳ trong việc trả nợ ngân hàng. Việc khởi
kiện dù có tốn kém, thậm chí chi phí theo kiện có thể lớn hơn khoản thu về cũng cần kiên
trì theo kiện. Có kiên quyết như vậy thì các khách hàng khác mới e sợ để không cố tình
chây lười hoặc lừa dối.
- Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro của ngân hàng: Đây là biện pháp cuối cùng trong
quá trình xử lý nợ của ngân hàng. Trong trường hợp cần thiết, NHNo&PTNT Quảng
Nam phải chủ động dùng nguồn của chính mình để bù đắp rủi ro trong hoạt động kinh
doanh, sao cho quá trình kinh doanh mới được diễn ra trên mặt bằng có lợi. Việc xử lý rủi
ro nên được thực hiện mỗi quí một lần. Việc xem xét đối tượng và hồ sơ xử lý rủi ro cần
được thực hiện nghiêm chỉnh theo qui định của NHNo&PTNT Việt Nam.
3.2.10. Trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro
Hiện nay NHNo&PTNT Quảng Nam mới chỉ căn cứ vào các nhóm nợ được phản
ánh trên bảng cân đối tài khoản để trích lập dự phòng rủi ro và việc phân loại nợ hiện nay
cũng chưa phản ánh hết những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra. Chi nhánh chưa thực hiện
việc phân loại nợ theo phương pháp định lượng kết hợp phương pháp định tính. Để đánh
giá đúng chất lượng tín dụng, trong thời gian tới, NHNo&PTNT Quảng Nam cần phân
loại nợ vào các nhóm thích hợp và việc này phải được được thực hiện ở mọi thời điểm
phát sinh trạng thái nợ một cách tự động. Những khoản nợ đã rõ sẽ có rủi ro cần được
trích dự phòng hợp lý.
Chi nhánh cần tăng cường chỉ đạo cán bộ tín dụng phát hiện sớm các khoản nợ có
vấn đề, đánh giá đúng mức độ rủi ro của các khoản nợ có thể chuyển sang nợ xấu làm cơ
sở cho việc trích dự phòng và xử lý rủi ro. Để thực hiện được công việc này Ngân hàng
cần tích cực sử dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và nhanh chóng triển khai chương
trình hiện đại hoá ngân hàng, nhất là khâu kế toán ngân hàng.
Việc xử lý rủi ro cũng cần được quản lý chặt chẽ trên cơ sở phân tích kỹ rủi ro mà
khoản vay gặp phải trước khi xử lý, tránh tình trạng ỷ vào nguồn dự phòng mà cho vay
tràn lan, không tính toán đầy đủ hiệu quả cuối cùng trước khi cho vay. Đồng thời cán bộ
tín dụng cũng phải xác định rõ, các khoản nợ sau khi xử lý rủi ro vẫn thuộc trách nhiệm
cán bộ cho vay phải thu hồi. Ngân hàng cần có cơ chế đánh giá những cán bộ cho vay có
nhiều khoản vay phải xử lý để áp dụng các chế tài cần thiết.
3.3. Kiến nghị các điều kiện hỗ trợ ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Quảng Nam quản lý tốt rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh
3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Để thực hiện đề án tái cơ cấu NHNo&PTNT Việt Nam giai đoạn 2001-2010 theo
Quyết định của Thủ Tướng Chính Phủ cùng các cam kết quốc tế và khuyến nghị của
kiểm toán quốc tế, NHNo&PTNT Việt Nam cần xây dựng các chính sách và qui tắc quản
trị chung cho công tác quản lý tín dụng, quản lý rủi ro trong toàn hệ thống đáp ứng yêu
cầu quản lý mới, bảo đảm an toàn vốn, hạn chế rủi ro. Các chính sách phải đảm bảo việc
chỉ đạo và kiểm soát tập trung thống nhất của Giám đốc chi nhánh; vai trò kiểm soát trực
tuyến của Trung tâm điều hành; cho phép xác định mức rủi ro tín dụng phù hợp, có thể
chấp nhận được trong từng giai đoạn; đủ chặt chẽ để duy trì một qui trình giám sát và đo
lường RRTD hợp lý. Cụ thể, NHNo&PTNT Việt Nam nên tạo điều kiện cho các chi
nhánh bằng cách thực hiện một số kiến nghị sau:
* Xây dựng qui trình tổng thể quản lý rủi ro tín dụng ấp dụng trong hệ thống
NHNo&PTNT Việt Nam đáp ứng các yêu cầu sau:
- Xây dựng một quy trình tổng thể quản lý rủi ro theo các qui tắc và chuẩn mực của
NHTM hiện đại: Trong những năm gần đây, NHNo&PTNT Việt Nam mới tập trung giải
quyết các khoản nợ tồn đọng để lành mạnh hoá tình hình tài chính và chuẩn bị điều kiện
phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, mà
chưa chú trọng đúng mức đến xây dựng quy trình tổng thể quản lý RRTD trong cả hệ
thống. Hơn nữa, từ khi thành lập đến nay, NHNo&PTNT Việt Nam mới chỉ thực hiện
quản lý RRTD trong từng nghiệp vụ riêng lẻ, hiệu quả thực tế không cao. Đã đến lúc
NHNo&PTNT Vịêt Nam cần xây dựng một quy trình tổng thể quản lý rủi ro theo các qui
tắc và chuẩn mực của NHTM hiện đại. Qui trình quản lý rủi ro này phải xác định được
phương thức quản lý cho cả những rủi ro hiện tại lẫn rủi ro tương lai trong các sản phẩm
tín dụng, các kênh tín dụng, các nhóm khách hàng, các đối tượng vay nói chung, theo các
yếu tố tạo nên RRTD.
- Xây dựng và thực hiện các chính sách tín dụng rõ ràng, thống nhất với các quy định “
thận trọng” trong kinh doanh ngân hàng (Basel I), với các qui định của nhà nước và phù hợp
với điều kiện hoạt động của NHNo&PTNT Việt Nam.
- Đề ra quy trình giám sát từng khoản vay một cách thường xuyên nhằm phát hiện
“dấu hiệu cảnh báo sớm” để có biện pháp khắc phục kịp thời. Xây dựng quy trình giám
sát và phân tích tổng thể danh mục tín dụng, phát hiện tín dụng có thể dẫn đến rủi ro.
- Thực hiện thống nhất hệ thống chấm điểm và xếp hạng khách hàng để đánh giá
rủi ro tiềm ẩn của từng khoản tín dụng. Hệ thống tính điểm cần được sử dụng đầy đủ cả
thông tin định tính và định lượng liên quan tới các khách hàng vay vốn để tính điểm tổng
hợp.
*Tăng cường hiệu lực, hiệu quả và tính độc lập trong hoạt động của bộ máy kiểm
tra, kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban Kiểm soát: Một hệ thống kiểm soát nội bộ hợp lý sẽ
đảm bảo cho việc đánh giá một cách thường xuyên và hợp lý về bản chất và phạm vi của
những rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Để nâng cao hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ
cần đảm bảo có sự phân quyền phù hợp; đảm bảo cán bộ ngân hàng không được giao
những trách nhiệm mâu thuẫn về quyền lợi với nhau; có qui trình kiểm tra, kiểm soát
thống nhất trong toàn hệ thống.
Hạn chế trong hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ của NHNo&PTNT Việt Nam
hiện nay là Tổng Giám đốc (Giám đốc) và Ban điều hành vừa là chủ quản của bộ máy
kiểm tra, kiểm toán nội bộ, vừa là thành viên của hệ thống điều hành (cũng là đối tượng
của kiểm soát nội bộ) nên dẫn đến không độc lập, khách quan trong việc đánh giá hiệu
quả hoạt động của hệ thống điều hành. Mặt khác, do chưa phân biệt rõ khái niệm kiểm
tra, kiểm toán, kiểm soát nội bộ, chưa cụ thể hoá nhiệm vụ, vị trí, quyền hạn của kiểm tra,
kiểm toán nội bộ trong hệ thống, nên sự ra đời của tổ kiểm tra, kiểm toán nội bộ tại các
chi nhánh thành viên chứa đựng mâu thuẫn giữa chức năng giám sát- kiểm tra là một
khâu trong qui trình hoạt động của ngân hàng với chức năng kiểm toán nội bộ hoàn toàn
độc lập với các qui trình nghiệp vụ và hệ thống điều hành của ngân hàng.
Để hoạt động kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, bên cạnh các giải pháp về cơ chế,
chính sách, về trình độ, kỹ năng của cán bộ cần xây dựng hệ thống kiểm tra, kiểm soát
nội bộ độc lập với Ban điều hành và trực thuộc Ban kiểm soát - Hội đồng quản trị để tiếp
cận một cách có hệ thống và tổng thể định hướng vào nhiệm vụ phát hiện rủi ro trong các
qui trình nghiệp vụ và tư vấn chiến lược cho ban lãnh đạo.
* Cho phép các chi nhánh thành lập bộ phận quản lý RRTD chuyên biệt: Với tốc độ
phát triển trong những năm gần đây và yêu cầu tăng trưởng tín dụng của những năm tới,
mô hình quản lý tín dụng hiện nay khó có thể đảm bảo an toàn vốn, khó hạn chế được rủi
ro do chưa thật sự khách quan, độc lập trong việc thẩm định, đề xuất và quyết định cho
vay.
Theo qui định hiện hành, những dự án có mức vốn vay và đối tượng đầu tư không
phải qua phòng thẩm định thì cán bộ tín dụng vừa là người tiếp cận khách hàng, cùng
khách hàng lập các hồ sơ theo qui trình cho vay, xếp hạng khách hàng, thẩm định khách
hàng, thẩm định dự án vay vốn và đề xuất lãnh đạo cho vay.
Đối với những dự án qui định phải được tái thẩm định của phòng Thẩm định thì bộ
phận thẩm định thực hiện đánh giá lại khả năng tài chính của doanh nghiệp, kết quả sản
xuất kinh doanh năm trước, hiệu quả, khả năng thực hiện phương án và đưa ra kiến nghị
về thủ tục cho vay, trách nhiệm quản lý món vay.
Với mô hình quản lý trên, quản lý rủi ro chưa được quan tâm đúng mức, cán bộ tín
dụng dễ nảy sinh tư tưởng chủ quan trong đánh giá của mình, bộ phận thẩm định không
có trách nhiệm rõ ràng trong thực hiện việc theo dõi và phòng ngừa rủi ro. Để khắc phục
tình trạng trên, trong bộ máy quản lý tín dụng của hệ thống và các chi nhánh thành viên
cần thành lập bộ phận quản lý rủi ro tín dụng với các nhiệm vụ:
- Trực tiếp tham gia, theo dõi và đánh giá việc thực hiện chiến lược và chính sách
quản lý rủi ro trong chi nhánh.
- Rà soát các đề xuất của cán bộ tín dụng đảm bảo tuân thủ các qui định và qui trình
tín dụng, lập báo cáo thẩm định rủi ro tín dụng.
- Hỗ trợ cho cán bộ tín dụng trong việc phát hiện và kiểm soát các dấu hiệu rủi ro.
- Phân loại các khoản tín dụng theo mức độ rủi ro và khả năng sinh lợi.
- Thực hiện xử lý rủi ro theo qui định.
* Nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm phòng ngừa rủi ro thuộc
NHNo&PTNT Việt Nam: Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro thuộc NHNo&PTNT
Việt Nam được thành lập theo quyết định số 235 ngày 01 tháng 06 năm 2001 của Chủ
tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam. Qua một thời gian hoạt động, Trung tâm
đã phát huy được nhiệm vụ theo dõi việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro của các chi nhánh
thành viên và quản lý quỹ dự phòng theo qui định của Ngân hàng Nhà nước và
NHNo&PTNT Việt Nam. Tuy nhiên, thế là chưa đủ. Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi
ro cần làm tốt hơn nhiệm vụ tổng hợp, phân tích, theo dõi thông tin rủi ro trong kinh
doanh và có những biện pháp phòng ngừa rủi ro trước mắt và lâu dài trong hệ thống cũng
như của từng chi nhánh thành viên để đưa ra cảnh báo kịp thời.
* Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản thực sự là công cụ hữu hiệu trong vấn đề
xử lý nợ xấu: Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản hiện có tư cách pháp nhân, hạch
toán độc lập, hoạt động trong lĩnh vực quản lý nợ và khai thác tài sản bảo đảm nợ vay
trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Những tài sản đảm bảo nợ vay của các chi
nhánh bàn giao, công ty có thể sử dụng nguồn vốn của Công ty để sửa chữa, cải tạo, nâng
cấp tài sản để cho thuê, khai thác kinh doanh hoặc chủ động bán qua các hình thức bán
công khai trên thị trường, bán qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản hay bán qua
công ty mua, bán nợ của nhà nước để đẩy mạnh xử lý, thu hồi vốn cho các chi nhánh của
NHNo&PTNT Việt Nam.
* Đẩy mạnh hoạt động công nghệ thông tin: Trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới, hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam cần phải hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng, đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, tạo tiền đề cho việc
phát triển, mở rộng hoạt động kinh doanh và các kênh phân phối sản phẩm.
Hoạt động tín dụng cần được ứng dụng đầy đủ và đồng bộ công nghệ thông tin hiện
đại, sử dụng thông tin đa dạng, trực tuyến và tập trung. Với hệ thống công nghệ xử lý tập
trung sẽ giúp cho các cấp lãnh đạo kiểm soát được chất lượng và hiệu quả trong đầu tư tín
dụng cũng như chấp hành các định hướng và mục tiêu tín dụng được đề ra trong từng thời
kỳ của từng chi nhánh và toàn hệ thống. Ngoài ra, cũng giúp đội ngũ cán bộ tín dụng có
đủ thông tin để tham mưu trong việc ra quyết định cho vay như thông tin khách hàng,
thông tin rủi ro và cạnh tranh ngành, rủi ro về thị trường.
* Chỉnh sửa qui chế trả lương trong toàn hệ thống: NHNo&PTNT Việt Nam đã
xây dựng và thực hiện quy chế trả lương cho cán bộ viên chức trong toàn hệ thống áp
dụng từ đầu năm 2006. Qua thời gian ngắn thực hiện đã bộc lộ sự bất cập trong việc chi
trả lương cho cán bộ tín dụng. Là bộ phận trực tiếp tạo ra thu nhập lớn nhất cho NHTM
nhưng thu nhập của cán bộ tín dụng thường thấp hơn các cán bộ nghiệp vụ khác. Đề nghị
NHNo&PTNT Việt Nam điều chỉnh các hệ số tính điểm, bổ sung hệ số trách nhiệm cho
cán bộ tín dụng để dánh giá đúng đóng góp của bộ phận nghiệp vụ này trong hoạt động
của ngân hàng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
- Nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin tại Trung tâm thông tin tín dụng của
NHNN nhằm đáp ứng yêu cầu thông tin đầy đủ, cập nhật về khách hàng. NHNN cần có
cơ chế khuyến khích và kiểm soát các NHTM trong việc cung cấp đầy đủ thông tin về
khách hàng. Trung tâm cần nâng cao trách nhiệm và được đáp ứng quyền lợi trong việc
cung cấp và khai thác thông tin trong hoạt động tín dụng.
- Tăng cuờng vai trò quản lý của NHNN đối với hoạt động tín dụng và quản lý
RRTD của các NHTM, tăng cường hiệu quả thanh tra, kiểm soát nhằm hạn chế, phòng
ngừa RRTD mang tính hệ thống trong các NHTM.
- Hiện nay, mỗi NHTM xây dựng riêng cho mình một hệ thống chấm điểm tín dụng
và xếp loại khách hàng riêng. Điều này sẽ làm cho thông tin của Trung tâm phòng ngừa
rủi ro NHNN cung cấp sẽ không nhất quán. Các tiêu chí khác nhau sẽ dẫn đến kết quả
xếp loại khác nhau. Hạng khách hàng được Trung tâm cung cấp không phù hợp với hạng
của ngân hàng hỏi tin. Vì vậy, để khai thác tin có hiệu quả, đánh giá khách hàng chính
xác, NHNN cần xây dựng hệ thống tính điểm và xếp hạng khách hàng thống nhất trong
toàn ngành. Việc tham khảo tin của các ngân hàng sẽ thuận lợi hơn.
3.3.3. Kiến nghị với Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam
- Uỷ ban nhân dân tỉnh có biện pháp xử lý dứt điểm tình trạng nợ đọng trong xây
dựng cơ bản đối với các công trình do địa phương làm chủ đầu tư, kiên quyêt xử lý các
trường hợp chưa có vốn đầu tư đã gọi thầu xây dựng, chậm thanh toán vốn cho đơn vị thi
công khi công trình đã nghiệm thu đưa vào sử dụng.
- Trong quá trình đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước cần kiên quyết
loại bỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kiên quyết xử lý về trách nhiệm và tài sản
đối với người đứng đầu doanh nghiệp về tình trạng làm ăn thua lỗ kéo dài mà không có
những đề xuất để cơ quan chức năng có biện pháp xử lý kịp thời.
- Đối với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá mà có các khoản nợ xấu tại các
NHTM và tình hình tài chính không được công khai minh bạch, đề nghị Uỷ ban nhân dân
tỉnh cho tiến hành kiểm toán nhà nước làm rõ trách nhiệm lãnh đạo, điều hành đối với các
cá nhân trong công ty và gắn trách nhiệm trả nợ vay cho ngân hàng với quá trình làm
lành mạnh tình hình tài chính trước khi cổ phần hoá.
- Đối với các khoản nợ đã có bản án, đề nghị Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo cơ quan
thi hành án áp dụng các biện pháp cưỡng chế như phong toả tài khoản, kê biên tài sản
đảm bảo nợ vay để thi hành án. Hiện nay, NHNo&PTNT Quảng Nam còn tồn đọng nhiều
tài sản chưa thanh lý được do nhiều bản án đã tuyên, nhưng chưa được thi hành. UBND
cần chỉ đạo sát sao nhằm nâng cao hiệu lực thi hành án, đảm bảo kỷ cương, tính nghiêm
minh của luật pháp trên địa bàn.
3.3.4. Kiến nghị với Chính phủ
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo ra cơ sở pháp lý sự đồng bộ, nhất quán
trong việc dùng tài sản để bảo đảm nợ vay theo Luật Đất đai, Luật nhà ở, Luật Dân sự.
Cần sửa đổi một số quy định chưa có sự thống nhất giữa các bộ luật như:
+ Theo qui định của Luật Đất đai năm 2006( Điều 61,106,107) và Nghị định
191/NĐ-CP ngày 29.10.2004 của Chính phủ( Điều 153,154) thì có biện pháp bảo lãnh
bằng quyền sử dụng đất; Theo hướng dẫn của Bộ Tư pháp thì không còn biện pháp bảo
lãnh bằng quyền sử dụng đất nữa, nếu người thứ ba dùng tài sản là quyền sử dụng đất để
bảo lãnh thì áp dụng biện pháp thế chấp bằng quyền sử dụng đất của bên thứ ba; Điều
324 của Luật Dân sự qui định các bên được thoả thuận về việc dùng tài sản để đảm bảo
thực hiện nhiều nghĩa vụ tại một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, với một hoặc nhiều chủ đầu
tư khác nhau; Theo Luật nhà ở, Điều 114 qui định chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở
để đảm bảo thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp tại một tổ chức
tín dụng....
- Nâng cao tính minh bạch thông tin của tất cả các tổ chức kinh tế thông qua ứng
dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế. áp dụng chế độ kiểm toán bắt buộc đối với các tổ
chức kinh tế.
- Để đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiền, các NHTM đã tham gia bảo hiểm tiền
gửi tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Thiết nghĩ, Chính phủ cũng cần hướng hoạt động
của các tổ chức bảo hiểm cho dịch vụ bảo hiểm tín dụng để chia sẻ rủi ro cùng các
NHTM. Đồng thời, Chính phủ chỉ đạo Bảo Việt - Tổng công ty nhà nước kinh doanh
trong lĩnh vực này, triển khai thí điểm, tiến tới mở rộng bảo hiểm cho một số cây công
nghiệp chiến lược, một số vật nuôi quan trọng. Ngân sách nhà nước có cơ chế xử lý về
bảo hiểm khi xảy ra thiên tai gây thiệt hại nghiêm trọng đối với loại cây con được bảo
hiểm.
- Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về cho vay vốn ưu đãi khắc phục hậu quả lũ
lụt năm 1998,1999 NHNo&PTNT Quảng Nam đã cho vay theo danh sách Uỷ ban nhân
dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị phê duyệt. Tổng số vốn giải ngân là 123 tỉ
đồng. Nguồn vốn đã góp phần khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân vùng lũ
nhưng việc thu hồi vốn của các NHTM quá chậm và gặp nhiều khó khăn. Đến cuối năm
2005, NHNo&PTNT Quảng Nam mới thu hồi được 106 tỉ và phải xử lý rủi ro hơn 17 tỉ
đồng nợ gốc bằng nguồn vay quỹ dự phòng của toàn hệ thống. Để giúp Ngân hàng vượt
qua khó khăn, với các khoản cho vay theo chỉ định, các khoản nợ được Nhà nước cho
khoanh, xoá, đề nghị Chính phủ cấp bù vốn để Ngân hàng đủ khả năng tài chính cạnh
tranh trên thị trường.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của NHTM cũng như hoạt động
kinh doanh của các doanh nghiệp khác, luôn gắn liền với rủi ro. Mặt khác, hoạt động kinh
doanh của NHTM liên quan đến ttất cả các hoạt động của nền kinh tế, xã hội, do vậy,
những biến động rủi ro của nền kinh tế sẽ dẫn đến rủi ro cho các NHTM và ngược lại.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và rủi ro trong hoạt động tín
dụng là điều không thể tránh khỏi. Tuy vậy, chúng ta có thể nhận thức được RRTD, ngăn
ngừa và hạn chế ở mức thấp nhất.
Trong phạm vi, đối tượng đã được giới hạn, luận văn đã đạt được những kết quả
sau:
Luận văn đã hệ thống hoá, khái quát hoá các vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng, rủi
ro trong hoạt động ngân hàng. Trong đó, đi sâu nghiên cứu RRTD; khái niệm, dấu hiệu
nhận biết RRTD và hậu quả của RRTD đối với bản thân NHTM và đối với nền kinh tế,
xã hôi.
Luận văn đã đánh giá toàn diện thực trạng và những rủi ro trong hoạt động kinh
doanh tín dụng ( hoạt động cho vay) tại NHNo&PTNT Quảng Nam. Trên cơ sở đó, phân
tích nguyên nhân dẫn đến RRTD, tìm hiểu những giải pháp chi nhánh đang áp dụng để
phòng ngừa và hạn chế RRTD, đánh giá cụ thể và khoa học những kết quả, tồn tại của các
giải pháp chi nhánh đang áp dụng.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra các giải pháp cụ thể với chi nhánh
NHNo&PTNT Quảng Nam và các kiến nghị cơ bản đối với NHNo&PTNT Việt Nam,
NHNN Việt Nam, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, Chính phủ nhằm hoàn thiện môi
trường pháp lý, ổn định môi trường kinh tế; đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ; xây dựng các qui trình có liên quan đến hoạt động cho vay; tập trung đổi mới công
nghệ ngân hàng, góp phần hoàn thiện hoạt động quản lý, phòng ngừa và hạn chế RRTD
tại chi nhánh NHNo&PTNT Quảng Nam. Trong các giải pháp đưa ra, theo tôi, giải pháp
“ Chiến lược con người” là bao trùm nhất, quan trọng nhất vì con người là yếu tố quyết
định và liên quan đến các yếu tố khác, các giải pháp khác. Hay nói cách khác, dù RRTD
được phân tích do các nguyên nhân khác nhau ngân hàng nói chung và cán bộ ngân hàng
nói riêng vẫn phải chịu một phần của RRTD đó. Đội ngũ cán bộ phải nhanh chóng thích
ứng yêu cầu quản lý trong môi trường hoạt động mới. Luôn tự rèn luyện nâng cao trình
độ và năng lực chuyên môn để sớm nhận biết những rủi ro khi hoạt động trong cơ chế thị
trường.
Ngoài ra, giải pháp thành lập bộ phận quản lý rủi ro chuyên biệt trong qui trình cho
vay là điều hết sức cần thiết. Thẩm định dự án, thẩm định khách hàng là những công việc
đòi hỏi phải hết sức thận trọng. Bộ phận quản lý rủi ro với nhiệm vụ đặc thù sẽ soi rọi một
cách kỹ lưỡng để phát hiện ra những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra mà bộ phận tín dụng và thẩm
định không nhận biết.
Trong các kiến nghị với các cơ quan chức năng, kiến nghị hoàn thiện môi trường
pháp lý và nâng cao hiệu lực của hệ thống pháp luật hết sức quan trọng bởi vì, môi
trường pháp lý tác động tới hoạt động kinh doanh của tất cả các chủ thể kinh tế và các
khâu trong hoạt động tín dụng. Đặc biệt, có vai trò hết sức quan trọng trong xử lý nợ quá
hạn, nợ khó đòi của các NHTM.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Đặng Thanh Bình - (chủ nhiệm) (2004), áp dụng luật phá sản doanh nghiệp để xử lý
phá sản tổ chức tín dụng và những điều chỉnh, bổ sung cần có, Kỷ yếu các công
trình nghiên cứu khoa học ngành ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. David Cox (1999), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. TS Hồ Diệu - ( chủ biên) (2003), Tín dụng ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
4. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn- (chủ biên) (2003), Tín dụng- Ngân hàng, Nxb Thống kê-
Hà Nội.
5. PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn - ( chủ nhiệm)( 2004), Những giải pháp chủ yếu đê xây
dựng hệ thống ngân hàng vững mạnh đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH ở Việt Nam
hiện nay, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh,
6. TS. Nguyễn Duệ - (Chủ biên) (2001), Quản trị ngân hàng, Học viện ngân hàng - Hà
Nội.
7. Kiều Hữu Dũng(2004),”Nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTMCP trong quá trình
hội nhập và phát triển” Tạp chí Ngân hàng, (8), trang 15-17.
8. Đại học Kinh tế quốc dân ( 2001), Quản trị NHTM, Nxb Tài chính, Hà Nội.
9. Trần Đình Định - ( chủ biên )( 2006), Những qui định của pháp luật về hoạt động tín
dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội
10. Th.S Nguyễn Hữu Đương(2005), “Thông tin tín dụng trong quản trị rủi ro tín dụng tại
các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (10), trang 1-6.
11. TS. Phí Trọng Hiển (2005), “ Quản trị rủi ro ngân hàng Cơ sở lý thuyết, thách thức
thực tiễn và giải pháp cho hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí
Ngân hàng,(Số chuyên đề) trang 8-13.
12. TS Lê Thị Tuyết Hoa- (chủ biên) (2004), Tiền tệ- Ngân hàng, Đại học NH TP Hồ Chí
Minh.
13. TS Trần Huy Hoàng(2004),”Hạn chế nguy cơ rủi ro hoạt động tín dụng của các
NHTM Việt Nam”, Phát triển kinh tế, (12), trang 37-39.
14. Nguyễn Văn Huân- (chủ biên) ( 2004), Các nguyên lý Tiền tệ-Ngân hàng và thị
trường tài chính, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
15. TS. Nguyễn Đại Lai ( 2005),” Kinh nghiệm về xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng
của một số nước trong khu vực” Tạp chí ngân hàng,(Số chuyên đề), trang 41-45.
16. Vũ Cẩm Linh(2002), “Nên sử dụng nguồn nhân lực như thế nào”, Tạp chí ngân hàng,
(3), trang 15-16.
17 Luật NHNN, ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2003)(2005), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
18. Luật các TCTD, (đã được sửa đổi bổ sung năm 2004), (2004), Nxb TP Hồ Chí Minh.
19. Hà Thị Kim Nga ( 2005) “ Các loại rủi ro và quản lý rủi ro trong hoạt động ngân
hàng”, Tạp chí Ngân hàng,( Số chuyên đề), trang 18-24.
20. NHNo&PTNT Việt Nam, (2002), Cẩm nang tín dụng, Lưu hành nội bộ.
21. NHNo&PTNT Việt Nam, (2006), Đầu tư phát triển kinh tế hộ, Nxb Lao động, Hà
Nội.
22. NHNo&PTNT tỉnh Quảng Nam, Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2001, 2002,
2003, 2004, 2005
23. NHNN Quảng Nam (3-2006) Báo cáo tình hình hoạt động của các TCTD trên địa
bàn về vấn đề “ Chất lượng tín dụng và an toàn của hệ thống ngân hàng”, Tài
liệu phục vụ chương trình giám sát của Quốc hội.
24. TS. Lê Xuân Nghĩa - (chủ nhiệm) ( 2004), Thiết lập các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt
động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa
học ngành ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội.
25. Vũ Ngọc Nhung (2003), Những vấn đề Tiền tệ và ngân hàng, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
26. Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Việt Nam( 2004), Sổ tay tín dụng.
27. Peter S. Rose ( 2001), Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội.
28. Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Nam (2005), Kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp.
29. PGS.TS Nguyễn văn Tiến ( 2002) Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng, Học viện NH,Nxb Thống kê, Hà Nội.
30. Tỉnh ủy Quảng Nam( 2005), Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIX..
31. GS.TS Lê Văn Tư ( 2005) Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội.
32. PGS, TS. Nguyễn Đình Tự (2005),” Tiếp cận để giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
của ngân hàng thương mại”, Tạp chí ngân hàng (Số chuyên đề), trang 2-3.
33. Từ điển Bách khoa Việt Nam, (2003), tập 3, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quảng Nam.pdf