Những thành tựu trong công cuộc bảo vệ và phát triển Quyền con
người trong Hiến pháp năm 2013 là kết quả của việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ chủ nghĩa xã hội với truyền thống
nhân đạo, nhân văn của dân tộc Việt Nam, giữa chính sách nhất quán của Nhà
nước Việt Nam luôn đặt con người là trọng tâm của sự phát triển đất nước,
với việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ được quy định
trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia.
Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự là một trong những yêu cầu hàng đầu trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể phải được đề cao.
Mặc dù số trường hợp vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở Phú Yên không nhiều nhưng nó
có ảnh hưởng lớn đến uy tín của liên ngành tư pháp địa phương. Trong thời
gian tới đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục thực hiện tốt các quy
định liên quan đến việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 đã thể chế hóa các quy
định của Hiến pháp về quyền con người. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
thực thi và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự ở Phú Yên cũng như trên cả nước.
Trong khuôn khổ luận văn tác giả đã đánh giá được thực trạng áp dụng
các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự ở Phú Yên và qua đó đề ra một số giải pháp90
hoàn thiện pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật về quyền bất khả xâm
phạm về thân thể. Những hạn chế của Bộ luật Tố tụng năm 2003 đã được
khắc phục phần nào trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, hiện
tại Bộ luật tố tụng năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành. Thực tế, khi Bộ luật
này đi vào cuộc sống tất yếu sẽ có những hạn chế, ảnh hưởng đến quyền bất
khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự cần tiếp
tục hoàn thiện cho phù hợp./.
101 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 632 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự - Từ thực tiễn tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o điều
kiện kinh tế, chính trị và xã hội quyết định. Trước những biến đổi to lớn của
đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội thì
66
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa hoàn thiện là điều dễ hiểu bởi đó là
quy luật khách quan.
- Thêm vào đó, BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa tham gia
bào chưa từ khi có quyết định khởi tố bị cán hoặc người bị bắt khẩn cấp, quả
tang, truy nã, chưa có quy định về việc tham gia của người bào chữa trong
giai đoạn tiền khởi tố vụ án nên quyền con người trong giai đoạn này dễ bị
xâm phạm. Hạn chế trong quy định về thời điểm tham gia của người bào chữa
đã dẫn đến các sai phạm như trên.
- Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay hoạt động kiểm sát điều tra được đẩy
mạnh theo hướng gắn công tố với hoạt động điều tra, đảm bảo kiểm sát chặt
chẽ các hoạt động điều tra. Tuy nhiên, những hoạt động điều tra của cơ quan
điều tra tiến hành trước khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can không có sự tham gia
của Viện kiểm sát rất dễ xảy ra tình trạng xâm phạm quyền con người. Trong
vụ việc Ngô Thanh Kiều, vụ án chưa được khởi tố, anh Kiều chưa bị khởi tố
bị can nên Viện kiểm sát chưa chính thức tham gia vào các hoạt động điều tra
của cơ quan điều tra. Do đó, cần sửa đổi các quy định về kiểm sát hoạt động
điều tra trong giai đoạn tiền khởi tố vụ án.
- Nội dung chế định bắt, tạm giữ, tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 có một số điểm không phù hợp với thực tiễn, có ảnh hưởng đế việc
bảo đảm, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự ở nước ta nói chung và tại địa bàn tỉnh Phú Yên nói riêng:
Thứ nhất, vẫn còn những căn cứ được quy định chung chung, không
xác định, làm cho người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật một cách lúng
túng và suy đoán chủ quan dẫn đến vi phạm.
Thứ hai, đối tượng áp dụng biện pháp bắt người trong trường hợp phạm
tội quả tang hoặc đang truy nã khác nhau, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
cho 2 đối tượng này cũng khá khác nhau. Người bị bắt trong trường hợp bị
67
truy nã đã là bị can, bị cáo hoặc người bị kết án, người bị phạt tù bỏ trốn và bị
truy nã. Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang có thể bị
tạm giữ hoặc không bị tạm giữ. Còn người bị truy nã, sau khi bắt cơ quan điều
tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ.
Thứ ba, việc quy định người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp
ngăn chặn này thiếu chặt chẽ, chưa logic và chưa phù hợp với thực tiễn hoạt
động tố tụng hiện nay nên chưa đề cao trách nhiệm của cá nhân của những
người tiến hành tố tụng.
Thứ tư, thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam, thủ tục bắt người trong
những trường hợp khẩn cấp quy định chưa đầy đủ, chưa hợp lý nên dẫn đến
tình trạng vi phạm luật hoặc hợp thức hóa thủ tục bắt người trong những
trường hợp này, xâm phạm tới quyền tự do thân thể của công dân.
Hạn chế trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng
Trong quá trình thực hiện các quy định về bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự còn tồn tại, hạn
chế trong nội bộ các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Năng lực, trình độ của các cán bộ còn hạn chế: Đội ngũ cán bộ trong
cơ quan tiến hành tố tụng chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng và trình độ,
năng lực, trong đó có một số bộ phận suy giảm, đạo đức đi xuống.
- Trong hoạt động bắt người, tạm giam, tạm giữ, một số cán bộ nhận
thức không đầy đủ về tính chất, vai trò và tầm quan trọng của những hoạt
động này do đó vận dụng thiếu chính xác các quy định của pháp luật về trình
tự, thủ tục.
Ngoài ra, hiện tượng “quá tải” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Nước ta bước vào hội nhập, mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội,... Bên
cạnh những điểm tích cực mang lại thì tiêu cực cũng không phải ít. Các tội
phạm gia tăng không ngừng. Trong khi đó, cơ quan tiến hành tố tụng phần do
68
hạn chế về số lượng, phần do hạn chế về chất lượng mà không đáp ứng đủ
yêu cầu dẫn đến hiện tượng “quá tải” trong tố tụng.
Bên cạnh đó, kinh phí và trang thiết bị còn thiếu thốn cùng với việc
chưa xử lý nghiêm những cán bộ làm sai cũng là nguyên nhân gây ra thực
trạng trên.
Tóm lại, quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm trong hoạt động
điều tra các vụ án hình sự đã có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn. Tuy
nhiên, quá trình áp dụng luật phát sinh những vướng mắc nhất định cần phải có
sự sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn công tác điều tra tội phạm.
Trong thực tiễn thi hành pháp luật tại địa phương, việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đã phát huy hiệu quả và có tác dụng trọng việc đấu tranh
phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
không đúng hoặc lạm dụng dễ dẫn đến oan sai, xâm phạm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Những hạn chế, sai phạm trong hoạt động điều tra dẫn đến xâm phạm
quyền bất khả xâm phạm về thân thể ở Phú Yên không phải là phổ biến
nhưng nó có ảnh hưởng lớn đến uy tín của ngành tư pháp và gây bất xúc trong
xã hội. Những vụ việc như Ngô Thanh Kiều sẽ là bài học đắt giá cho cơ quan
có thẩm quyền khi tiến hành các hoạt động nghiệp vụ giải quyết tốt vấn đề
đấu tranh với tội phạm và tôn trọng bảo vệ quyền con người trong đó có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
69
Chương 3:
CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUYỀN BẤT KHẢ XÂM PHẠM
THÂN THỂ TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH PHÚ YÊN
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm
thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
3.1.1. Xuất phát từ yêu cầu của công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân
Bảo đảm thực hiện quyền con người được đặt ra trước hết xuất phát
từ mục tiêu, bản chất của chế độ, đó cũng là một trong những nội dung và
đặc trưng cơ bản, quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đồng thời, trong xu thế dân chủ hóa, hội nhập ngày càng tăng đòi hỏi
quyền con người và các quyền tự do cơ bản của công dân phải được tôn
trọng và tăng cường.
Nhà nước pháp quyền là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước trong
đó nhà nước đề cao dân chủ, coi trọng pháp luật và phân công thực hiện
quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp) trong Nhà nước.
Đặc biệt, trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người luôn luôn được coi
trọng; pháp luật quy định đầy đủ về quyền con người và được bảo đảm thực
hiện trong thực tế.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) Đảng
ta đã đặt ra vấn đề “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân, vì dân”. Như vậy, cùng với việc thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
các mặt đời sống xã hội, Đảng ta đã khẳng định việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở nước ta. Đó là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Nhà nước pháp quyền chung nhưng cũng mang những nét đặc trưng riêng của
kiểu Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
70
Hoàn thiện các quy định về quyền con người nói chung và quyền bất
khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự nói
riêng nhằm khẳng định vị trí, tầm quan trọng của vấn đề quyền con người
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Bảo đảm quyền con người là giá trị của mọi giá trị trong tư tưởng về nhà nước
pháp quyền mà tư duy nhân loại đã đạt đến.
Quan điểm trên của Đảng đã được thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà
nước ta. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung tại mục 2 điều 1
Nghị quyết số: 51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992).
Với sự ra đời của Hiến pháp và lý thuyết về nhà nước pháp quyền, lần
đầu tiên trong lịch sử, con người đã bước từ địa vị nô lệ trong xã hội thần dân
sang địa vị công dân trong xã hội công dân. Công dân trong mối quan hệ với
nhà nước pháp quyền là con người mà các quyền cơ bản, thiêng liêng nhất
như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng
được nhà nước bảo đảm [4, tr 48 – 49].
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, quyền con người và
quyền công dân phải được xác lập về mặt pháp lý. Pháp luật phải là pháp luật
của công lý, của lý trí và phải bảo vệ quyền tự nhiên của con người.
Việc hoàn thiện các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự cũng nhằm ghi nhận, cụ thể hóa
quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về quyền con người, quyền công
dân. Văn kiện Đại hội X của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ “Xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con
người”. Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng
tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến
71
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
3.1.2. Xuất phát từ yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
và cải cách tư pháp
Hoạt động điều tra các vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo đảm xây dựng một nhà nước
dân chủ, văn minh, an toàn. Bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người
trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một yêu cầu quan trọng để
làm tốt công tác phòng chống tội phạm đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng
của con người, của công dân.
Quyền con người trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự được thể hiện
cụ thể ở những quy định về quyền và nghĩa vụ tố tụng do Bộ luật tố tụng hình sự
ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, xác định sự
thật vụ án, bảo đảm quyền bào chữa và các nguyên tắc khác trong tố tụng hình
sự thì người bị buộc tội chưa phải là người có tội. Các biện pháp ngăn chặn như
bắt người, tạm giữ, tạm giam có tác động tiếp đến quyền bất khả xâm phạm về
thân thể được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ. Do đó, sự hoàn thiện các quy định
tố tụng hình sự liên quan đến quyền con người trong đó có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra là cần thiết.
Hoạt động tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người. Hoạt động tố tụng hình sự là nơi các
biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất, là nơi quyền con
người của các chủ thể tố tụng, đặc biệt là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, có
nguy cơ dễ bị xâm hại nhất. Đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong tố tụng hình sự là yêu cầu bức thiết trong quá trình cải cách tư pháp,
hướng tới một nền tư pháp dân chủ, nhân văn, vì con người ở nước ta hiện
nay cũng như trước thực trạng xâm hại các quyền cơ bản này của con người
72
từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng gây bức xúc dư luận thời gian qua.
Chính vì vậy, hoàn thiện luật tố tụng hình sự, các văn bản hướng dẫn cũng
như nâng cao trình độ nghiệp vụ, đạo đức công vụ của người tiến hành tố
tụng hình sự từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất
quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa nói chung, trong công cuộc cải cách tư pháp nói riêng ở nước
ta, là giải pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
con người trên thực tế.
3.1.3. Xuất phát từ yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế
Hoàn thiện các quy định về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự góp phần thực hiện các cam kết quốc tế
của Việt Nam về quyền con người. Quyền con người là thành quả của sự
nghiệp đấu tranh của cả nhân loại, là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất
trong nền văn hóa nhân loại. Những giá trị này được hình thành với sự đóng
góp của cả nhân loại thông qua các điều ước quốc tế, các văn kiện pháp lý
quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã gia nhập hầu hết các công ước nhân
quyền quốc tế cơ bản. Là thành viên của các điều ước quốc tế về quyền con
người, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết quốc tế: tôn trọng, bảo
đảm, bảo vệ, và thúc đẩy quyền con người.
Việt Nam cần thể hiện mạnh mẽ sự tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người bằng cơ chế Hiến pháp: gia nhập, khẳng định
trong Hiến pháp quyền con người; nội luật hóa các điều ước quốc tế về
quyền con người vào các văn bản pháp luật liên quan đến quyền con người
trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự.
73
3.2. Giải pháp hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự
Xây dựng và hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự phải đáp ứng yêu
cầu bảo đảm những nguyên tắc, quy định của pháp luật quốc tế về tôn trọng
quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chống tra tấn, bức
cung, dùng nhục hình
Các quy phạm pháp luật về quyền con người nói chung và quyền bất
khả xâm phạm về thân thể nói riêng phải phù hợp với tiêu chuẩn chung của
quốc tế nhất là những quy định quốc tế mang tính nhân văn và tiến bộ mà
Việt Nam là thành viên.
Mục tiêu quan trọng nhất của Hiến pháp là bảo đảm quyền con người.
Hiến pháp là văn kiện pháp lý quan trọng ghi nhận quyền con người. Hoàn thiện
các quy định pháp luật hình sự, tố tụng hình sự có liên quan đến hoạt động điều
tra cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các chủ thể tố tụng
phải trên cơ sở Hiến pháp năm 2013. Phải tiêu chuẩn hóa các chức danh tố tụng
của người có thẩm quyền liên quan đến sức khỏe, tính mạng con người. Hệ
thống pháp luật phải nhân đạo, đề cao tính hướng thiện của người phạm tội,
không vì bức xúc mà bắt giam tràn lan – xem xét chặt chẽ các căn cứ, bắt, giam
giữ, không cần bắt giam thì nhất thiết không bắt giam [8, tr 131-132].
Hiến pháp năm 2013 đã tạo nên một bước phát triển mới về quyền con
người như PGS.TS. Tường Duy Kiên đã phát biểu “Hiến pháp năm 2013 đã
tiếp cận những chuẩn mực quốc tế về quyền con người” [17].
Vì vậy, trên tinh thần thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 cũng như từng
bước cải cách tư pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự nên sửa đổi, tiếp thu những
74
chuẩn mực này trong việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong
hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền bất khả
xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự phải xuất
phát từ đặc tính, bản chất của loại quyền này. Quyền bất khả xâm phạm về
thân thể là quyền dân sự - chính trị quan trọng thể hiện mức độ tự do, dân chủ
của cá nhân, công dân trong một nhà nước nên phải ưu tiên vì đó là quyền có
thể thực hiện ngay và ít phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân
thể phải làm rõ mối quan hệ giữa cá nhân, công dân và Nhà nước. Nhà nước
là chủ thể mang quyền lực được ủy quyền từ nhân dân, do đó xác định cụ thể
các quyền của công dân và nghĩa vụ của Nhà nước là tôn trọng, bảo đảm thực
hiện. Đồng thời xác định rõ nghĩa vụ của công dân và quyền của Nhà nước
theo hướng công dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân
thể phải phù hợp với các điều kiện của Việt Nam, mức độ đảm bảo thực hiện
quyền con người. Vận dụng một số điều khoản của Công ước của Liên Hiệp
quốc về nhân quyền 1948.
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực
hiện quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Sự tiếp thu và vận dụng
những nội dung của Tuyên ngôn nhân quyền là tất yếu trong quá trình hoàn
thiện các quy định pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến quyền bất khả xâm
phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự.
Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 với hơn 60 năm tồn tại.
Tầm quan trọng của nó đối với phạm vi một quốc gia và quan hệ quốc tế đã
mở rộng tới các lĩnh vực lịch sử, đạo đức, chính trị và pháp luật. Sức mạnh
của sự dung hòa, bao dung và hiểu biết mà bản tuyên ngôn đưa ra có thể được
75
xem như một trong những bước tiến vĩ đại nhất trong quá trình văn minh hóa
toàn cầu. Chưa bao giờ trong lịch sử mà việc đòi quyền con người lại có tầm
ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ đến thế. Dân chủ đã trở thành một nguyên tắc
cai trị căn bản của các nước và gắn liền với nó là quyền con người cần được
thể chế hóa, cụ thể hóa và tôn trọng thực hiện [32, tr.158].
Hiến pháp là đạo luật gốc, là văn bản có tính khái quát cao. Nhiều nội
dung của Hiến pháp đòi hỏi phải được cụ thể hóa trong văn bản pháp luật
khác. Sự cụ thể hóa các quy định Hiến pháp năm 2013 về quyền con người
trong các văn bản pháp lý khác là tiền đề hiện thực hóa quyền con người trong
thực tiễn.
Những quyền và nguyên tắc hiến định là những căn cứ pháp lý quan
trọng chi phối mọi hành xử của tất cả cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức
và quản trị đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói
riêng. Hiến pháp năm 2013 đã có hiệu lực pháp luật đòi hỏi hệ thống pháp
luật nước ta, trong đó có pháp luật về hình sự cần được sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thể chế hóa đầy đủ các chủ trương
cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi
phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời,
chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội; tiếp tục kế thừa những
quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra
qua thực tiễn.
Các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng tăng cường hơn
nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục để người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế
tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
76
Quyền con người đã được hiến định nhưng để quyền con người được thực
thi cần phải thể chế hóa các quyền trong các văn bản luật khác nhau và hình thành
cơ chế đảm bảo tính khả thi, tạo điều kiện để mọi người có thể thực hiện và thực
hiện được.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục được những hạn chế
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về các quy định liên quan đến quyền
bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Tuy
nhiên, hiện nay Bộ luật này chưa có hiệu lực thi hành nên chưa được “kiểm
chứng” trong thực tiễn. Thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật sẽ phát sinh
những vướng mắc cần tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi. Để bảo vệ quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân tác giả đề xuất
một số giải pháp sau:
Cần nhận thức và quy định thống nhất về nguyên tắc suy đoán vô tội.
Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án của Tòa án
kết tội có hiệu lực pháp luật. Mục đích của nguyên tắc này là thừa nhận và tôn
trọng giá trị cao cả của con người, làm tăng vai trò, trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như những người tiến hành tố tụng, hạn chế oan,
sai đối với người bị buộc tội.
Bị can, bị cáo có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng
và người tiến hành tố tụng. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc
phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ
quan tiến hành tố tụng và người buộc tội. Mọi hoài nghi về lỗi của bị can, bị
cáo cần được giải thích theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Trong thực tiễn
của các cơ quan tố tụng, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ
của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến lỗi của bị can, bị cáo mà
cả quá trình tố tụng và các nỗ lực của có cơ quan tố tụng đã không thể làm
rõ, dẫn đến hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các
77
cơ quan đó không thể khắc phục được. Những hoài nghi đó nhất thiết phải
được giải quyết theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Đây là một nội dung
quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất
nhân đạo của Tố tụng hình sự dân chủ và pháp quyền.
Theo nguyên tắc suy đoán vô tội, người bị buộc tội khi chưa được chứng
minh theo trình tự pháp luật và có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp
luật thì phải được coi là người vô tội, tức là vẫn được hưởng những quyền cơ
bản của con người, của công dân. Thậm chí ngay cả khi họ bị xác định là người
phạm tội, bị tước quyền công dân nhưng một số quyền con người vẫn được
đảm bảo. Chính vì vậy, luật tố tụng hình sự Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu
để mở rộng một số quyền cơ bản của con người trong điều kiện cho phép. Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 đã sửa đổi khoản 2 điều 88 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 quy định “Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang
nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà
nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam”, để đảm bảo tính nhân văn, vì con người
của luật pháp, nên nghiên cứu bổ sung thêm trường hợp bị can, bị cáo là người
đang phải nuôi, chăm sóc người thân của mình là người tàn tật nặng, ốm nặng
hoặc sắp chết (gia đình neo đơn, nếu thiếu sự chăm sóc của bị can, bị cáo thì
những người này không thể tự mình sinh sống được) thì có thể áp dụng biện
pháp ngăn chặn khác (chẳng hạn: cấm đi khỏi nơi cư trú), trừ những trường
hợp bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp
dụng các biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản
trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo xâm phạm an
ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ
gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Quy định mới của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 nêu trên đã góp phần mở rộng quyền con người trong hoạt động tố
tụng hình sự và cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
78
Đối với việc phòng chống tra tấn, đây là định hướng quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người, vì các sai phạm có liên quan đến lĩnh vực này
thường có tính chất nghiêm trọng và có “độ ẩn” cao. Do tính chất đặc biệt
nghiêm trọng của hành vi tra tấn nên hành vi này được công đồng quốc tế
quan tâm và được quy định trong rất nhiều văn kiện quốc tế từ trước đến nay.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái
pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động
tố tụng khác. Nội dung này được quy định tại Điều 7, Điều 10 của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015. Nhưng nếu so với nội dung vừa
trình bày ở đây thì điều khoản này chưa đầy đủ bởi chỉ quy định nghiên
cấm mọi hình thức bức cung, nhục hình mà không chỉ rõ trong những trường
hợp nào của quá trình tố tụng và không xác định việc nghiêm cấm các hành vi
tố tụng bất hợp pháp khác.
Đảm bảo quyền bào chữa của người bị bắt, tạm giam, tạm giữ, bị can
cũng là một giải pháp để hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự. Thực tế việc lấy lời khai hiện nay
chỉ diễn ra giữa điều tra viên và bị can, không có người chứng kiến, không có
băng ghi âm, ghi hành, thậm chí nếu điều tra viên dùng thủ đoạn tinh vi thì
cũng rất khó tìm ra dấu vết thương tích trên thân thể nạn nhân. Cho nên nhiều
vụ việc chỉ bị phát hiện khi nghi can chết (như vụ năm công an ở thành phố
Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên) hoặc bị oan (như vụ ông Chấn ở Bắc Giang)Do
đó, để ngăn chặn tình trạng này ngay từ giai đoạn tiền khởi tố, cần tăng
quyền và đảm bảo các điều kiện để quyền bào bào chữa của người bị bắt,
tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo được thực hiện ngay trên thực tế. Nếu người
bào chữa của họ như luật sư được tham gia và có mặt trong các cuộc hỏi cung
thì sẽ hạn chế việc xâm phạm thân thể của người bị bị buộc tội, buộc điều tra
viên phải thận trọng, thực hiện đúng pháp luật, không thể truy bức, nhục hình.
79
Quyền bào chữa là một quyền rất cần thiết của người bị bắt, tạm giam,
tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm tạo cơ chế để họ tự bảo vệ các quyền hợp pháp
của mình khỏi sự xâm hại của các cơ quan tiến hành tố tụng. Với yêu cầu mở
rộng quyền bào chữa không chỉ cho bị can, bị cáo mà cả người bị bắt, bị
tạm giam, tạm giữ theo Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 đã có sửa đổi bằng việc quy định đầy đủ các quyền và xây dựng cơ chế
đảm bảo thực hiện quyền của người bị buộc tội. Để có thể tự bào chữa, người
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo cần biết lý do của những biện pháp
ngăn chặn, khởi tố, truy tố, xét xử này. Thực tế, luật tố tụng hình sự Việt
Nam hiện hành cũng đã quy định điều này. Khoản 3 điều 86 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003 và khoản 2 Điều 117 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy
định “quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và
phải giao cho người bị tạm giữ một bản”. Tuy nhiên, trong trường hợp người
bị tạm giữ là người nước ngoài, người dân tộc không biết chữ quốc ngữ, trình
độ học vấn thấp, thị lực kém không đọc được quyết định này thì việc giao cho
người bị tạm giữ sẽ không có ý nghĩa. Vì vậy luật cần bổ sung quy định điều
tra viên phải có nghĩa vụ đọc cho người bị tạm giữ nghe hoặc cho phiên dịch
ra ngôn ngữ mà người bị tạm giữ biết. Người bị tạm giữ có quyền được giải
thích về quyền và nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 điều 86 nhưng chưa
quy định cụ thể điều tra viên giải thích quyền, nghĩa vụ như thế nào nên
không ít trường hợp điều tra viên đọc những quy định của pháp luật về
quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ mà không giải thích, người bị tạm
giữ trình độ thấp hoặc không trang bị kiến thức pháp lý nên không hiểu rõ
quyền của mình, do đó cũng không thực hiện được quyền tự bào chữa. Vì
vậy, luật tố tụng hình sự Việt Nam cần quy định rõ về điều này.
Ngoài việc hoàn thiện các quy định và các cơ chế để đảm bảo và mở
rộng quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam bị can, bị cáo thì
80
luật tố tụng hình sự cần quy định cụ thể, minh bạch các thủ tục bào chữa trong
từng giai đoạn tố tụng, đồng thời cải cách các thủ tục hành chính tư pháp để
người bào chữa nhanh chóng tiếp cận với quá trình giải quyết vụ án. Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào
chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi
nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều
kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo
người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo
người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng. Quy định này
nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng. Sự thay đổi này
trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thể hiện sự cụ thể hóa Hiến pháp
năm 2013 về đảm bảo quyền con người.
3.2.2. Quy định chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công
chức trong việc bảo vệ các quyền con người trong điều tra vụ án hình sự
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về
thân thể phụ thuộc rất nhiều vào sự hoàn thiện của các quy định pháp luật và
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, dù pháp luật có quy định
cụ thể đến đâu thì hiệu quả của nó phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm, nhận
thức của người áp dụng pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Đặc biệt,
trong Bộ luật tố tụng hình sự nhiều quy định được áp dụng hay không lại tùy
thuộc vào đánh giá chủ quan của người có thẩm quyền. Ví dụ: căn cứ để áp
dụng biện pháp tạm giam theo điểm b khoản 1 điều 88, khoản 2 điều 228
BLTTHS phụ thuộc vào đánh giá chủ quan (trên cơ sở các tình tiết khách
quan) của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng, Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án về khả năng bỏ
trốn, khả năng tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo.
81
Việc áp dụng các quy định pháp luật mang tính cưỡng chế cũng phụ
thuộc nhiều vào quan điểm, cách nhìn nhận của người có thẩm quyền áp dụng.
Mặc dù luật có quy định về căn cứ để tạm giam cho từng loại tội nhưng việc có
áp dụng biện pháp tạm giam hay không trong từng trường hợp cụ thể lại phụ
thuộc vào quan điểm chủ quan của người có thẩm quyền.
Trong hoạt động tố tụng, nhiều hành vi tố tụng (kỹ năng điều tra, kỹ năng
kiểm sát, điều khiển phiên tòa, văn hóa xét xử) lại chưa được BLTTHS quy
định; các hành vi tố tụng đó được thực hiện tốt hay không, bảo đảm tôn trọng
quyền con người hay không phụ thuộc vào khả năng, kinh nghiệm của từng
người tiến hành tố tụng.
Vì vậy, có thể nói tăng cường nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ văn hóa ứng xử cho những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
là giải pháp quan trọng đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đáp
ứng yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Bức cung, nhục hình hoặc tiến hành các hành vi vi phạm pháp luật
khác đối với người tạm giữ, bị can, bị cáo được thực hiện bởi những người
tiến hành tố tụng, cho nên để ngăn chặn hành vi này, trước hết cần thay đổi
nhận thức của họ về bức cung, nhục hình. Người tiến hành tố tụng cần xóa
bỏ ngay suy nghĩa lệch lạc như “không đánh thì không khai”, tuân thủ
nguyên tắc “trọng chứng hơn trọng cung” trong hoạt động điều tra. Đồng
thời cần nhận thức rằng việc sử dụng bạo lực trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử, không những không đề cao quyền lực của họ mà chỉ thể hiện sự
bất lực của những người được pháp luật “trao quyền” trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức
và công dân.
82
Việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là một đòi hỏi quan
trọng trong nhà nước pháp quyền như Chủ tịch Ủy ban Cảnh sát hình sự quốc
tế, ông Florent Louvage đã từng nói cách đây 50 năm:
Nhất định phải thành công với bất cứ giá nào là một khẩu hiệu cần phải
dẹp đi. Lắm khi một cuộc điều tra thất bại còn hơn thu được kết quả bằng
những phương pháp đáng ngờ. Một xã hội văn minh thường cảm thấy bị xúc
phạm khi phẩm giá con người bị chà đạp hơn là lỡ để một kẻ phạm tội trốn
thoát [12].
Vì vậy, để đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể phải chú ý bồi
dưỡng kiến thức về chính trị, văn hóa pháp lý, tâm lý, đạo đức nghề nghiệp để
luôn vững vàng, kiềm chế cảm xúc, phải thể hiện được bản chất nhân văn của
pháp luật, tôn trọng quyền con người của những người tiến hành tố tụng,
giúp họ nhận thức đầy đủ hơn nguyên tắc đảm bảo quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự.
Một nguyên nhân dẫn đến việc dùng nhục hình là do hạn chế về nghiệp
vụ của điều tra viên khiến họ có xu hướng dùng nhục hình thay vì các biện
pháp nghiệp vụ hợp pháp khác. Chính vì vậy, cần phải tăng cường đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ cho người tiến hành tố tụng, điều tra viên, nâng cao
nhận thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức của người tiến hành tố
tụng, đặc biệt là các điều tra viên. Đối với cơ quan công an nói chung và các
điều tra viên nói riêng, cần phải thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, ý thức chính trị, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật; nắm chắc
các quy định của pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam; hiểu rõ tính chất, mục
đích của các biện pháp tạm giữ tạm giam...
Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, cần quy định
chặt chẽ hơn nữa về một số vấn đề như đề cao trách nhiệm cá nhân của người
ra lệnh bắt, người thi hành lệnh bắt để bắt đúng người phạm tội để tránh oan
83
sai, bên cạnh đó cũng cần tôn trọng và bảo đảm những quyền và lợi ích chính
đáng của người bị bắt.
Đồng thời với việc nâng cao trình độ, năng lực của người tiến hành tố
tụng, Nhà nước ta cũng cần có các biện pháp tăng cường đội ngũ luật sư về tổ
chức, số lượng cũng như chất lượng, nâng cao vị thế luật sư trong tố tụng hình
sự, bảo đảm vai trò quan trọng của luật sư trong bảo vệ quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
3.2.3. Bảo đảm thực hiện dân chủ, cơ chế giám sát trong hoạt động điều tra các
vụ án hình sự, hoàn thiện chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng
Bảo đảm quyền con người nói chung và quyền bất khả xâm phạm về
thân thể đòi hỏi phải có cơ chế giám sát chặt chẽ việc áp dụng biện pháp bắt
bị can, bị cáo để tạm giam nhằm đảm bảo bắt đúng người đúng đối tượng,
tránh tình trạng bắt tràn lan, không cần thiết, bắt để tạm giam nhưng không đủ
điều kiện cần thiết để tạm giam.
Điều 84 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Biên bản về việc bắt người
và Điều 114 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 Biên bản về việc giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, biên bản bắt người quy định: Người thi hành lệnh
giữ người trong trường hợp khẩn cấp; lệnh hoặc quyết định bắt trong mọi
trường hợp đều phải lập biên bản...Tuy vậy đây mới chỉ là điều kiện cần mà
còn thiếu điều kiện đủ; Luật mới chỉ đề ra các quy định nhìn từ góc độ bảo
đảm các quyền của Nhà nước mà chưa xem xét từ góc độ bảo đảm quyền của
người bị bắt. Do vậy biên bản về việc bắt người cần bổ sung thêm “biên bản
cần được lập làm hai bản và người bị bắt phải được giao một bản” để nhằm
tránh sự thất lạc, mất mát sai soát, tùy tiện của chủ thể tiến hành tố tụng và thể
hiện sự tôn trọng người bị bắt.
Tăng cường vai trò giám sát của kiểm sát viên cũng như thủ trưởng cơ
quan điều tra, giám sát xã hội. Về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực
84
tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế
hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật để bảo vệ các giá trị nhân
văn của con người. Đối với Viện kiểm sát chỉ phê chuẩn lệnh bắt khi đã xác
định rõ căn cứ chứng tỏ bị can bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động tố tụng.
Pháp luật đã quy định viện kiểm sát và các kiểm sát viên có nhiệm
vụ giám sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng và Thủ trưởng các cơ quan điều tra phải giám sát hoạt động của
các điều tra viên. Tuy nhiên, từ thực tế các vụ dùng nhục hình đã xét xử
chúng ta thường thấy sự thiếu kiểm tra, giám sát hiệu quả của kiểm sát viên,
thủ trưởng cơ quan điều tra, “khoán trắng” cho điều tra viên là nguyên nhân
chủ yếu. Chính vì vậy, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của cơ chế giám sát
này, luật cần quy định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan
điều tra và các kiểm sát viên được phân công kiểm sát điều tra nếu để xảy ra
sai phạm. Kiểm sát viên phải theo sát hoạt động điều tra của Điều tra viên,
gắn công tố với hoạt động điều tra, sai lầm của Điều tra viên cũng có phần
trách nhiệm của Kiểm sát viên kiểm sát điều tra vụ án.
Pháp luật tố tụng hình sự cần sửa đổi theo hướng bổ sung các cơ chế để
giám sát mọi hoạt động của cơ quan tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong mỗi hệ thống và cơ chế giám sát từ
ngoài hệ thống, bổ sung quy định về sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai
đoạn tiền khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Bổ sung các quy định về quyền và
trách nhiệm để Viện kiểm sát thực hiện tốt hơn chức năng giám sát hoạt động
tư pháp. Đồng thời, hoàn thiện các quy định để mở rộng khả năng giám sát
của xã hội đối với quá trình giải quyết vụ án.
Khoản 2 Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; khoản 2 Điều 118
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về thời hạn tạm giữ: “trong trường
hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng
85
không quá 03 ngày; trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có
thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá ba ngày”; Vậy những trường
hợp nào được coi là “cần thiết”, trường hợp nào là “đặc biệt”? Do vậy để đảm
bảo tính chặt chẽ, đảm bảo được nguyên tắc pháp chế, luật phải quy định cụ
thể từng trường hợp; không nên dùng văn bản dưới luật để quy định hoặc
hướng dẫn vì dễ tạo ra sự tùy tiện và áp dụng không thống nhất.
3.2.4. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của công dân trong hoạt động tố tụng
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những biện pháp quan
trọng để phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm trong hoạt động của
người cũng như cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là biện pháp hữu hiệu để
công dân, cơ quan, tổ chức sử dụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình
trong tố tụng hình sự.
Tình trạng xâm phạm danh dự, nhân phẩm, sức khỏe của người bị
bắt, tạm giam, tạm giữ, bị can, bị cáo còn do những khiếu nại, tố cáo của
họ chưa được các cơ quan chức năng coi trọng. Nhiều bị cáo ra tòa phản
cung rằng mình bị oan do bị ép cung, đánh đập nhưng các tòa án chưa xem
xét kỹ lời khai của các bị cáo tại tòa. Tòa luôn bắt họ phải chứng minh thì
làm sao họ có chứng cứ khi lúc đó chỉ có một mình họ với điều tra viên.
Chính vì vậy, Viện kiểm sát nên chủ động kiểm sát việc tiếp nhận và giải
quyết các đơn thư, thông tin tố giác và tin báo về tội phạm của các cơ quan
điều tra. Khi nhận được đơn thư, thông tin tố giác, cần trực tiếp xác minh
xem điều tra viên có áp dụng các biện pháp bất hợp pháp không đồng thời
tiến hành hỏi cung bị can, kiểm tra lại toàn bộ lời khai của bị can có phù
hợp với các chứng cứ khác của vụ án đã được thu thập hay không. Chỉ có
như vậy thì những hành động xâm hại danh dự, nhân phẩm, tính mạng và
sức khỏe của người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo mới được sớm
ngăn chặn.
86
Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định:
- Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều
tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải
được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
- Việc hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có
âm thanh theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Quy định trên sẽ góp phần hạn chế tiến tới loại bỏ được
tình trạng bức cung, dùng nhục trong hoạt động điều tra. Tuy nhiên, hiện tại
cơ sở vật chất tại các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát chưa đáp ứng yêu cầu
của quy định này. Do đó, Nhà nước cần có sự quan tâm, hỗ trợ để hiện thực
hóa quy định này một cách kịp thời, hiệu quả.
3.2.5. Xử lý vi phạm quyền con người trong điều tra vụ án hình sự
Nâng cao mức hình phạt và đảm bảo xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm và sức khỏe, tính
mạng của công dân
Quy định những hình phạt tương xứng đối với những người tiến hành
tố tụng xâm hại danh dự, nhân phẩm, tính mạng, sức khỏe của công dân và
đảm bảo mọi hành vi này đều bị xử phạt nghiêm minh chính là hình thức răn
đe buộc những cá nhân này phải cân nhắc trước khi hành động. Vì vậy, cần
phải có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về tội dùng nhục hình và tội bức cung
và đảm bảo tòa phải xử đúng tội danh và mức án cũng là giải pháp hữu hiệu
để ngăn chặn những hành vi này.
Từng bước hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong trường
hợp oan, sai trong tố tụng hình sự. Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước năm 2009 đã quy định tương đối chi tiết các trường hợp Nhà nước
có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động tố tụng hình sự. Điều 27
của Luật quy định những trường hợp không được bồi thường. Đó là một bước
87
tiến rất lớn về mặt lập pháp so với Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH. Hiến pháp
năm 2013 đã có những sửa đổi quan trọng về quyền con người, quyền công
dân. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với việc sửa đổi các quy định về bồi thường
thiệt hại trong trường hợp oan sai trong tố tụng hình sự là cấp thiết.
Tuy nhiên, từ góc độ bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, theo tác giả vấn đề này cần được nghiên cứu
tiếp theo hướng Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại không chỉ trong
trường hợp oan, mà cả trong trường hợp điều tra, truy tố, xét xử sai gây thiệt
hại cho công dân. Bởi vì, trong thực tế có trường hợp điều tra, truy tố, xét xử
sai có thể gây ra thiệt hại lớn hơn, gây hậu quả nghiêm trọng hơn trường hợp
bị oan. Hơn nữa, quy định bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại do cơ
quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra là một trong những
nguyên tắc của tố tụng hình sự;
Hoàn thiện chế độ kỷ luật đối với hành vi xâm phạm quyền con người
trong tố tụng hình sự. Những hành vi của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
xâm phạm quyền con người trong đó có quyền bất khả xâm phạm về thân thể
chưa đến mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự thì tùy tính chất, mức độ phải
được xử lý kỷ luật một cách hợp lý; phải được đánh giá để bãi miễn hoặc không
tái bổ nhiệm các chức danh chuyên môn như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án, Phó
Chánh án Tòa án, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm. Đặc biệt
là những người không đủ năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động
tư pháp, đã có những vi phạm nghiêm trọng quyền con người thì không nên giao
tiếp tục thực hiện các trách nhiệm, quyền hạn tố tụng nặng nề đặt ra.
Tăng cường công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tư pháp, nhất là
khiếu nại giám đốc thẩm, tái thẩm. Do vậy cần kịp thời bổ sung, nâng chất,
kiện toàn tổ chức, biên chế đội ngũ cán bộ làm các công tác trên.
88
Ngoài ra, cần trang bị các trang thiết bị cần thiết cho hoạt động tiến
hành tố tụng, đặc biệt là trong công tác điều tra.
Cùng với việc hoàn thiện pháp luật, xây dựng các thiết chế bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, cần tổ chức tốt việc tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục về quyền con người. Định hình nhận thức của nhân dân về định nghĩa
quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Một trong những điều kiện cần
thiết để thực thi quyền con người ở nước ta là người dân cần phải hiểu biết về
quyền con người, quyền công dân.
Trên cơ sở sự hiểu biết, nhận thức về quyền con người, quyền công
dân, người dân sẽ có những đòi hỏi đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội thực hiện, bảo đảm và bảo vệ các quyền hiến định của họ.
Tóm lại, hiến định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 là cơ sở
bảo vệ và bảo đảm thực hiện quyền con người trong thực tiễn. Nhưng cũng
cần có quan điểm toàn diện, cụ thể khi nhìn quyền con người trong điều kiện
thực tiễn khách quan của Việt Nam. Hoàn thiện quyền bất khả xâm phạm về
thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự cũng như các quy định về
quyền con người trong tố tụng hình sự là một yêu cầu tất yếu góp phần hiện
thực hóa nhân quyền trong Hiến pháp sửa đổi. Hiện thực hóa các quy định về
quyền con người trong Hiến pháp là phù hợp với sự lựa chọn định hướng phát
triển, phù hợp bản chất, mục tiêu của chế độ chính trị -xã hội của Việt Nam,
tạo nền tảng pháp lý cao nhất bảo đảm nhân quyền, quyền con người được
thực hiện luôn là nội dung, mục tiêu, động lực cho phát triển toàn diện nước
Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" trong bối
cảnh và yêu cầu mới.
89
KẾT LUẬN
Những thành tựu trong công cuộc bảo vệ và phát triển Quyền con
người trong Hiến pháp năm 2013 là kết quả của việc kết hợp nhuần nhuyễn
giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ chủ nghĩa xã hội với truyền thống
nhân đạo, nhân văn của dân tộc Việt Nam, giữa chính sách nhất quán của Nhà
nước Việt Nam luôn đặt con người là trọng tâm của sự phát triển đất nước,
với việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ được quy định
trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia.
Bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra
các vụ án hình sự là một trong những yêu cầu hàng đầu trong công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho
đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự,
quyền bất khả xâm phạm về thân thể phải được đề cao.
Mặc dù số trường hợp vi phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể
trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự ở Phú Yên không nhiều nhưng nó
có ảnh hưởng lớn đến uy tín của liên ngành tư pháp địa phương. Trong thời
gian tới đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục thực hiện tốt các quy
định liên quan đến việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và năm 2015 đã thể chế hóa các quy
định của Hiến pháp về quyền con người. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
thực thi và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều
tra các vụ án hình sự ở Phú Yên cũng như trên cả nước.
Trong khuôn khổ luận văn tác giả đã đánh giá được thực trạng áp dụng
các quy định pháp luật về quyền bất khả xâm phạm về thân thể trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự ở Phú Yên và qua đó đề ra một số giải pháp
90
hoàn thiện pháp luật cũng như việc thực thi pháp luật về quyền bất khả xâm
phạm về thân thể. Những hạn chế của Bộ luật Tố tụng năm 2003 đã được
khắc phục phần nào trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, hiện
tại Bộ luật tố tụng năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành. Thực tế, khi Bộ luật
này đi vào cuộc sống tất yếu sẽ có những hạn chế, ảnh hưởng đến quyền bất
khả xâm phạm về thân thể trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự cần tiếp
tục hoàn thiện cho phù hợp./.
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020.
2. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966.
3. Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Khổng Hà, Trần Minh Hưởng (2000), Tìm hiểu
Luật Tố tụng hình sự , Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
4. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2008), Hiến pháp trong Nhà nước pháp
quyền, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
5. Nguyễn Đăng Dung – Trương Đắc Linh – Nguyễn Mạnh Hình – Lưu Đức
– Quang – Nguyễn Văn Trí (2011), Xây dựng và bảo vệ Hiến pháp –
Kinh nghiệm thế giới và Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011).
7. Nguyễn Ngọc Điệp (2001), Những điều cần biết về thủ tục khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, Nxb Công an nhân dân, TP. Hồ Chí
Minh.
8. Đỗ Văn Đương, Lê Hữu Thể và Nguyễn Thị Thủy (2013), Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Trần Ngọc Đường (2004), Quyền con người, quyền công dân trong Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
10. Nguyễn Hữu Hậu (2015), Bảo đảm quyền con người của người bị buộc
tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát, Tạp chí kiểm
sát số 12 (tháng 6/2015).
92
11. Nguyễn Viết Hoạt (2007), Bản chất của hoạt động điều tra trong tố tụng
hình sự Tạp chí khoa học pháp lý số 03(40)/2007.
12. Nguyễn Quốc Hưng (1957), Hình sự Tố tụng, Nhà sách Khai Trí Sài
Gòn.
13. Tưởng Duy Kiên (2004), Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với
việc bảo đảm quyền con người, Nghề luật(8).
14. Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp
luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
15. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực Nhà nước và quyền con người, Nxb Tư
pháp, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh (1980), Tuyển tập, Tập 1, NXB Sự thật, Hà Nội.
17. Nguyên Minh (2013). Hiến pháp mới đã tiếp cận căn bản các chuẩn mực
quốc tế về quyền con người. Lược ghi phát biểu của PGS.TS Tưởng Duy
Kiên<
binh/hien-phap-moi-da-tiep-can-can-ban-cac-chuan-muc-quoc-te-ve-
quyen-con-nguoi/277791.html>.
18. PGS.TS Trần Đình Nhã, Về chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật Tố
tụng hình sự, - Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội,
19. Trần Đình Nhã (1995), Về đổi mới tổ chức cơ quan điều tra – Những vấn
đề lý luận và thực tiễn cấp bách của tố tụng hình sự Việt Nam,Viện khoa
học kiểm sát - VKSND tối cao, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ.
20. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hà Nội.
21. Quốc hội (1957), Luật số 103/SL-L-005 ngày 20-5-1957 bảo đảm quyền
tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín
của nhân dân.
22. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hà Nội.
93
23. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
24. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
25. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2002), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 (sửa đổi) (2002), Hà Nội.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Hà Nội.
28. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
29. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự. Hà Nội.
31. Quốc hội (2015), Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Hà Nội.
32. Trương Vĩnh Xuân (2014), Hiến định quyền con người và luận bàn về
tính khả thi ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp năm 2013 và vấn đề
đổi mới tố tụng hình sự ở Việt Nam.
33. PGS.TS. Nguyễn Huy Thuật, TS. Nguyễn Văn Nhật (2005), Sổ tay điều
tra Hình sự, NXB. Công an nhân dân.
34. Tờ trình số 194/TTr-UBDTSĐHP của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992 ban hành ngày 19/10/2012.
35. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948.
36. Từ điển Luật học (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
38.
keu-oan-duoc-giam-3-nam-tu-651989.html.
94
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quyen_bat_kha_xam_pham_ve_than_the_trong_hoat_dong.pdf