Điểm yếu trong việc thu hút FDI vàoViệt Nam là chưa có nguồn thông tin
chính xác đối với các nhà đầu tư. Việt Nam cũng không còn lợi thế mạnh mẽ nhờ
vào lực lượng lao động rẻ và dồi dào như trước, hiện các nhà đầu tư quan tâm nhiều
nhất đến vấn đề chất lượng lao động. Chất lượng lao động tại Việt Nam quá thấp
trong khi chỉ số giá tăng cao. Ngoài ra, theo ông Pedro Ortega, chuyên gia kinh tế
của UNDP nhận định rằng 'Luật lệ đầu tư của Việt Nam còn khắt khe, mức độ tự do
hóa thương mại chưa cao, cơ sở hạ tầng kém phát triển. khiến mất đi cơ hội hấp
dẫn các nhà đầu tư''. Để tăng tính cạnh tranh cho môi trường đầu tư Việt Nam, thế
độc quyền trong một số ngành kinh doanh cần phải xóa bỏ, Việt Nam cần phải tạo
ra một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư và tạo ra
được một môi trường kinh doanh tốt trong các lĩnh vực sử dụng đất, cấp phép, chính
sách tuyển dụng.
121 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2264 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động của việc trung quốc gia nhập WTO đối với khả năng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các nước Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước này đang tích cực chuyển đổi. Hơn
nữa trở thành một mắt xích trong phân công lao động của khu vực cũng là một
hướng tích cực cho việc thu hút vốn tại ASEAN trong bối cảnh hiện nay và trong
tương lai. Đối với nhóm nước chậm phát triển hơn, việc thu hút FDI trở nên thực sự
khó khăn vì cơ cấu ngành trùng lặp với Trung Quốc, hơn nữa hiệu suất lao động,
trình độ sản xuất còn khác biệt. Đối với các quốc gia này chuyên môn hóa vào các
sản phẩm đầu vào thấp cấp cho Trung Quốc có thể là một hy vọng cho việc tăng
FDI, tuy nhiên xu hướng ngày này cho thấy FDI ít được đầu tư vào các nhóm ngành
này, có chăng chỉ là con số rất nhỏ.
98
CHƢƠNG 3: TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG THU
HÚT FDI VÀO ASEAN SAU SỰ KIỆN TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO
3.1. Triển vọng và phƣơng hƣớng phát huy khả năng thu hút FDI của ASEAN
3.1.1. Khả năng tận dụng lợi thế phát triển của ASEAN
Trên quan điểm là một khối liên kết, ưu tiên hàng đầu của ASEAN là tăng
cường sức mạnh tổng hợp, vị thế cạnh tranh của cả khối với tư cách là một “chủ
thể- nhóm”, đồng thời là tăng cường sức mạnh và vị thế của từng thành viên. Báo
cáo của Mc Kinsey & Company đã đánh giá khá toàn diện, khách quan năng lực
cạnh tranh thức tế của ASEAN, và những lợi thế này chính là điểm hấp dẫn FDI vào
khu vực này. Có thể tổng kết ở 4 góc độ: Lợi thế về tự nhiên, lợi thế nhờ quy mô
kinh tế, cơ cấu công nghiệp năng động và khả năng tự do hóa, liên kết kinh tế [15]
ASEAN có tiềm năng và lợi thế phát triển tự nhiên không nhỏ, với nguồn
lực cơ bản dồi dào bao gồm dầu mỏ, gỗ, cây công nghiệp, lương thực và thủ sản. 7
thành viên ASEAN có các nguồn dầu khí, khí đốt dồi dào đặc biệt là Inđônêsia và
Brunei. ASEAN kiểm soát 40% tổng nguồn cung dầu lửa và khí đốt của khu vực
Châu Á- Thái Bình Dương, và đem lại cho khu vực này 40-50 tỷ USD mỗi năm. Là
nhà cung cấp gỗ và các sản phẩm từ gỗ lớn nhất thế giới, chiếm 19% thị phần thế
giới về gỗ tròn, 10% về gỗ nội thất...Với vị trí là đối tác lớn hàng đầu thế giới về
thủy sản, ASEAN đóng góp 10% sản lượng cá thế giới. Vị trí địa lý cũng là một lợi
thế tự nhiên của ASEAN, gắn với Thái Bình Dương và nối thông sang Ấn Độ
Dương, khu vực này có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng trong giao lộ vận tải,
hàng hải, hàng không lớn, có sức tăng trưởng nhanh bậc nhất thế giới. Đây là yếu tố
đặc biệt thuận lợi cho ASEAN, tạo cho nó sức hấp dẫn lớn về thương mại và đầu tư.
Cho đến nay, bất chấp hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm
1997, sức phát triển của ASEAN được gọi là “thần kỳ” so với nhiều khu vực khác,
đặc biệt là các nước ĐPT. Đó chủ yếu là sự nỗ lực của từng quốc gia riêng lẻ
(ASEAN-6) đã tạo dựng một hình ảnh khu vực kinh tế tăng trưởng nhanh, quy mô
thị trường lớn, có sức hấp dẫn đối với toàn thế giới. Các số liệu tổng quát cho thấy
quy mô kinh tế của ASEAN là khá lớn, với hơn 520 triệu người, sản xuất ra khối
lượng GDP không nhỏ (542,9 tỷ USD hoặc 1806,1 tỷ USD tính theo ngang giá sức
99
mua), thị trường tiêu dùng có dung lượng lên tới 320 tỷ USD mỗi năm (khoảng hơn
1000 tỷ USD nếu tính theo PPP) và tốc độ tăng trưởng nhanh là những chỉ số chứng
tỏ ASEAN có tiềm năng phát triển và sức hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư [15,
tr.32]
714.2
1806.1
2930
3193
5111.2
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
Quy mô GDP của ASEAN và một số nước 2002 (tỷ USD)
Series1 714.2 1806.1 2930 3193 5111.2
Hàn Quốc ASEAN Ấn Độ Nhật Bản Trung Quốc
Hình 3.1: Quy mô GDP của ASEAN với một số nước
Ghi chú: ASEAN không tính tới Myanmarr, Brunei và Đông Timo
Nguồn: UNDP. Báo cáo phát triển con người 2003
Xét về phương diện hấp dẫn đầu tư, thị trường tiêu dùng của ASEAN còn lớn hơn
cả Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, có quy mô xấp xỉ thị trường tiêu dùng của vùng
duyên hải Trung Quốc – vùng có độ năng động và sức tăng trưởng cao bậc nhất thế
giới, và về khối lượng chỉ thua kém thị trường toàn bộ của Trung Quốc. Như vậy,
nó đủ sức đảm bảo cho sự hình thành hệ thống phân công lao động và liên kết sản
xuất nội vùng, cho phép giảm chi phí sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Điều này, sẽ tạo cho ASEAN sức hấp dẫn to lớn đối với dòng FDI quốc tế. Nhưng
đáng tiếc rằng hiện nay, sự liên kết về kinh tế - tài chính – thương mại của khu vực
này chưa thật sự chặt chẽ và có hiệu quả.
Trên cơ sở điều tra và nghiên cứu công phu của McKinsey & Company nhận
định rằng “ASEAN hội tụ được các ngành công nghiệp hấp dẫn nhất (có nhu cầu
cao và bền vững) trên thế giới”. Sau 30 năm phát triển, ngoài một số ngành sơ cấp
như khai thác tiềm năng tự nhiên (dầu thô, dầu cọ, gạo...), ASEAN đã tạo dựng
được một cơ cấu công nghiệp khá mạnh, có vị trí chắc chắn trong các ngành có tốc
100
độ phát triển hấp dẫn nhất trên thế giới. “...Ví dụ, trong ngành điện tử, các nước
thành viên phát triển hơn như Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore là
những nhà sản xuất có tầm cỡ toàn cầu về chất bán dẫn và một số loại linh kiện
công nghệ cao khác. Đồng thời, các nước thành viên kém phát triển hơn Indonesia,
và các nước mới gia nhập ASEAN, Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam đang
phát triển công nghiệp sản xuất các linh kiện và thành phẩm khác như loa, đài, thiết
bị ngắt điện và máy biến thế cũng như thiết lập các trang thiết bị lắp ráp và thử
nghiệm...điều này sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực trong ASEAN: chuyển giao tri
thức, thúc đẩy sự kết nối các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển các sản phẩm sáng
tạo và các quá trình tạo lập các lợi thế cạnh tranh bền vững” [15, tr.35]. Nếu đo độ
hấp dẫn các ngành bằng tỷ trọng (ngắn hạn) và xu hướng tỷ trọng (dài hạn) của nó
trong GDP, cơ cấu công nghiệp ASEAN đang dịch chuyển sang các ngành có độ
hấp dẫn cao. Đó là những ngành có sức tăng trưởng cao, tiềm năng thị trường lớn
như chất bán dẫn, máy tính điện tử, linh kiện, ô tô...Những ngành tiếp tục có sức
hấp dẫn là du lịch – khách sạn – nhà hàng, chế biến thủy sản, cao su, giấy và các sản
phẩm từ giấy, sợi dệt, sắt thép...Điều này chứng tỏ về mặt xu hướng, quá trình phát
triển cơ cấu ngành của ASEAN khá sát với xu hướng chung của thế giới, chứng tỏ
tính triển vọng của cơ cấu công nghiệp ASEAN. Tuy nhiên, như đã phân tích, đối
với những ngành công nghệ cao, sản phẩm của ASEAN chưa thể cạnh tranh với các
nước phát triển (với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, phần nào với Trung Quốc),
đồng thời với những ngành công nghiệp truyền thống mà ASEAN vốn có thế mạnh,
Trung Quốc đang tỏ rõ sự lấn ướt vượt trội như dệt may, điện tử gia dụng, ô tô, xe
máy... đang đẩy các sản phẩm cùng loại của ASEAN ra khỏi thị trường thế giới.
Bên cạnh những lợi thế kể trên, ASEAN cũng đã đạt được bước tiến đáng kể
trong quá trình hội nhập và hợp tác. Việc thực hiện các cam kết Khu vực thương
mại tự do (AFTA), khu vực đầu tư (AIA), Hiệp định khung về dịch vụ (AFAS) đã
thể hiện mức độ hợp tác ngày càng cao của ASEAN. Thông qua CEPT, AFTA đã
thành công trong việc giảm mức thuế quan trung bình từ 11,44% (1993) xuống
2,89% (2002) đối với ASEAN-6, năm 2003 mức này có thể giảm xuống còn 2,39%.
Mức thuế trung bình của toàn khu vực vào năm 2003, theo lộ trình CEPT là 3,33%
101
[15, tr.38]. AIA được thành lập năm 1998 là khung pháp lý thúc đẩy FDI vào khu
vực, Hiệp định này buộc các nền kinh tế thành viên phải từng bước xóa bỏ các rào
cản đối với đầu tư, tự do hóa các luật lệ và chính sách đầu tư, dành chế độ đối xử
quốc gia và mở cửa các lĩnh vực sản xuất đối với các nhà đầu tư ASEAN vào 2010
và tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Nếu AIA được thực hiện toàn diện và đúng
như lộ trình, thì đây chính là lợi thế của ASEAN trong việc thu hút FDI không chỉ
trong nội khối mà còn trên toàn thế giới.
Xét riêng biệt, từng nền kinh tế ASEAN đã tận dụng khá hiệu quả năng lực
và lợi thế phát triển của mình để phục vụ quá trình tăng trưởng và phát triển trong
mấy thập niên. Tuy nhiên đối với toàn bộ ASEAN với tư cách là một khối liên kết,
với nhiều tiềm năng to lớn nhưng ASEAN hầu như chưa sử dụng hiệu quả được các
lợi thế kinh tế tiềm năng để phục vụ việc phát triển kinh tế chung của khu vực, cũng
như thu hút FDI với tư cách là toàn bộ khối liên kết. Điều này đã làm cho sức hấp
dẫn và năng lực cạnh tranh phát triển của ASEAN giảm sút, trong bối cảnh sức hấp
dẫn của nền kinh tế Trung Quốc ngày càng mạnh mẽ sau khi gia nhập WTO.
3.1.2. Triển vọng hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc – ASEAN
ASEAN và Trung Quốc đã đẩy mạnh các mối quan hệ thương mại và đầu tư
với nhau trong thập kỷ qua, nhờ sự tăng trưởng năng động tại cả hai khu vực trước
khi khủng hoảng tài chính diễn ra, nhờ các biện pháp tự do hóa mà các nước thực
hiện và cả sự gần gũi về địa lý. Khu vực ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ 5
của Trung Quốc, sau Mỹ, Nhật Bản, EU và Hồng Kông (Trung Quốc). Thị trường
Trung Quốc chiếm thị phần khá quan trọng trong xuất khẩu của ASEAN, 9,9% năm
2000 và hiện nay là bạn hàng lớn thứ tư của ASEAN so với vị trí thứ 6 trong những
năm cuối 1990 [10, tr.72]. Sau hai năm Trung Quốc gia nhập WTO, kim ngạch
thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã tăng nhanh hơn với trước khi Trung
Quốc gia nhập WTO. Trong thời kỳ 1991-2000, thương mại giữa Trung Quốc và
ASEAN tăng với tốc độ 20,4% /năm. Năm 2001, chỉ số tăng trưởng kim ngạch
buôn bán của ASEAN và Trung Quốc đã tăng lên 41,6%. Năm 2002, tốc độ này tiếp
tục được duy trì đạt 31,6% năm 2001 tương đương với 55 tỷ USD. Riêng trong 6
tháng đầu năm 2003, kim ngạch buôn bán giữa hai bạn hàng lớn đã đạt 34 tỷ USD
102
Mỹ, tăng 45,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong quan hệ buôn bán ASEAN-
Trung Quốc luôn đạt thặng dư thương mại. Năm 2002, thặng dư thương mại của
ASEAN với Trung Quốc đạt 7,6 tỷ USD, riêng 7 tháng đầu năm 2003, con số thặng
dư của ASEAN đã tăng lên 8 tỷ USD. Hệ quả của việc Trung Quốc phải mở rộng
thị trường nội địa cho ASEAN khi trở thành thành viên của WTO sẽ mang đến cho
ASEAN nhiều cơ hội xuất khẩu vào Trung Quốc, đặc biệt là trong nông nghiệp và
những lĩnh vực một số thành viên ASEAN tham gia liên kết sâu vào mạng lưới sản
xuất nội vùng với Trung Quốc. Do đó, những lĩnh vực này có thể trở nên hấp dẫn
hơn, và thu hút thêm nhiều FDI (FDI theo chiều dọc).
Quan hệ đầu tư giữa ASEAN và Trung Quốc hơn. Cho đến
nay, mức đầu tư ASEAN vào Trung Quốc là thấp, chủ yếu là phần đầu tư của các
nhà tư bản gốc Hoa. Singapore là nước đầu tiên trong khối, đầu tư vào Trung Quốc
từ những năm 70. Do đó, khi Trung Quốc gia nhập WTO, có thể cơ hội cho các nhà
đầu tư ASEAN xâm nhập vào thị trường Trung Quốc sẽ được mở rộng hơn, nhất là
những lĩnh vực bổ sung công nghệ và cung ứng các mặt hàng có lợi thế so sánh từ
ASEAN. Cuối năm 2001, Singapore đã trở thành nhà đầu tư lớn thứ năm tại Trung
Quốc, với tổng đầu tư thực hiện đạt 16.8 tỷ USD [10, tr.72]. Hiện nay, đầu tư của
Trung Quốc vào ASEAN chỉ chiếm khoảng 62,8 triệu USD năm 1999, và trong suốt
cả giai đoạn 1995-2003 con số này chưa đạt tới 1% của tổng dòng FDI vào ASEAN
[24, tr.150, tr.173]. Trung Quốc đã nhận ra cơ hội ở thị trường ASEAN với 500
triệu dân và rất giàu tài nguyên thiên nhiên. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền
tệ 1997, Bắc Kinh đã chú trọng phát triển thương mại và đầu tư với các nước láng
giềng Đông Nam Á, nhằm tạo ra một vòng xuất - nhập khẩu liên hoàn, để đẩy mạnh
việc sử dụng đồng nhân dân tệ trong giao dịch. Đồng thời, hiện nay chính phủ
Trung Quốc cũng đang đưa ra nhiều biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp
Trung Quốc đầu tư ra nước ngoài nhằm giúp các doanh nghiệp Trung Quốc tiếp xúc
với thông lệ kinh doanh quốc tế, cũng như bảo đảm an ninh tài nguyên về khoáng
sản, dầu khí cho nền kinh tế Trung Quốc đang tăng trưởng cao. ASEAN hoàn toàn
có thể thu hút FDI từ Trung Quốc nhờ lợi thế tự nhiên của mình. Tuy vậy, do sự
phát triển kinh tế chậm chạp của hầu hết các thành viên trong khu vực trong những
103
năm gần đây, khiến ASEAN chưa phải là điểm đầu tư hấp dẫn của Trung Quốc so
với Châu Mỹ La tinh, Mỹ, và châu Âu, đến nay ASEAN chiếm 20% tổng đầu tư của
Trung Quốc ra bên ngoài.
3.2. Các giải pháp nâng cao khả năng thu hút FDI vào ASEAN
Đối với nền kinh tế của các nước ASEAN, FDI là nguồn động lực mạnh mẽ
và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia này.
Bất kỳ một tác động nào đến sự thu hút vốn FDI của khu vực cũng có thể ảnh
hưởng lớn tới tình hình kinh tế của các thành viên và khu vực.
Sau khi gia nhập WTO, khả năng cạnh tranh của Trung Quốc tăng lên rõ rệt,
thể hiện ở khả năng chiếm hữu thị phần tại thị trường nội bộ ASEAN và thị trường
các nước thứ ba, dẫn đến sự lo ngại ở hầu hết các nước ĐPT ở Châu Á rằng FDI sẽ
chuyển dòng chảy vào Trung Quốc thay vì vào các nước này. Mức độ cạnh tranh
tăng lên đã tác động lên nhiều ngành dùng lao động như dệt may, giày dép, đồ chơi,
thiết bị điện tử, vốn là ngành thu hút được nhiều FDI và quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội của các nước ASEAN. Trung Quốc hấp dẫn các nhà đầu tư nước
ngoài nhờ tốc độ tăng trường cao và bền vững, sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân, môi trường đầu tư thuận lợi, và thị phần tại hầu hết các nước trên thế giới…
Con số thông kê của UNCTAD, vào những năm 90, FDI vào Trung Quốc chỉ chiếm
18% tổng FDI vào các nước ĐPT ở Châu Á, so với 30% ở ASEAN, thì đến năm
2000 thị phần của Trung Quốc đã tăng lên 30% trong khi của ASEAN giảm xuống
còn 10%. Đến năm 2002, sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ để
trở thành quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới với mức 50 tỷ USD, con số này
tiếp tục tăng, bất chấp tình hình FDI toàn cầu có xu hướng giảm sút, bất chấp những
bất ổn về chính trị trên thế giới, và dịch bệnh SARS tại quốc gia này. Mặc dù, thời
gian 2 năm Trung Quốc gia nhập WTO còn quá ngắn để kết luận những tác động
mang tính dài hạn đối với nền kinh tế ASEAN nói chung và với việc thu hút vốn
FDI nói riêng. Nhưng rõ ràng, với các nước ASEAN phải có những hành động và
nỗ lực cụ thể nhanh chóng để làm giảm bớt những nguy cơ tác động tiêu cực đến sự
phát triển kinh tế của mình, tránh sự chệch hướng của dòng FDI. Đồng thời đối với
ASEAN, bài toán thách thức nhất trong việc thu hút vốn FDI đối với các nước
104
ASEAN trong bối cạnh Trung Quốc gia nhập WTO là phải tăng cường năng lực
cạnh tranh của các nước trong khối này trên thị trường thế giới.
Hơn nữa, nguyên nhân của sự chệch hướng dòng FDI ra khỏi ASEAN vào
Trung Quốc không chỉ do việc Trung Quốc gia nhập WTO, mà một phần rất quan
trọng do các yếu kém về cơ cấu của nền kinh tế ASEAN đã được bộc lộ ra trong
cuộc khủng hoảng châu Á năm 1997-1998. Mặc dù hầu hết các quốc gia đã khắc
phục được tác động của khủng hoảng, nhưng nhiều vấn đề vẫn còn tồn tại trong
ASEAN như sự giảm sút về môi trường đầu tư, hợp tác lỏng lẻo, thị trường chưa
rộng mở… Bởi vậy, ASEAN cần phải có những hành động vì lợi ích của cả nhóm.
Các nỗ lực xúc tiến xây dựng cộng đồng, thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN
(AFTA), khu vực đầu tư ASEAN (AIA), xúc tiến hợp tác trong khu vực ASEAN-
Trung Quốc, tăng cường hợp tác Đông Á là những hành động theo hướng đó. Các
nỗ lực chung của cả nhóm đặc biệt quan trọng đối với việc chống lại sự chệch
hướng của các dòng FDI ra khỏi khu vực mình. Chính vì thế, mục tiêu trước mắt
của ASEAN là phải tạo ra được một môi trường kinh doanh tốt, đảm bảo tính minh
bạch và cơ chế một cửa trong việc xin cấp phép đầu tư. Họ cần tiếp tục đưa ra các
sáng kiến củng cố ASEAN như một địa chỉ đầu tư hấp dẫn.
Mặc dù sự tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO tới khả năng thu hút
vốn FDI của các nước ASEAN là rất phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố,
Tuy nhiên để tận dụng được những lợi thế và tác động tích cực của sự việc và giảm
những tác động tiêu cực, căn cứ vào các phân tích và nghiên cứu ở trên, có thể nhận
thấy một số giải pháp có tính chất định hướng cho việc tăng cường tính cạnh tranh
của việc thu hút FDI tại ASEAN cụ thể là như sau:
3.2.1. Cải thiện môi trường đầu tư ASEAN
Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ, môi trường đầu tư của các nước ASEAN
có phần giảm sút không đáp ứng được những yêu cầu mới của dòng FDI. Để nâng
cao năng lực cạnh tranh trong việc thu hút vốn FDI, không có việc gì quan trọng
hơn là các quốc gia này hoàn thiện môi trường đầu tư. ASEAN cần tạo dựng niềm
tin về một môi trường đầu tư ổn định và bền vững cho các nhà đầu tư nhanh chóng
ổn định các vấn đề kinh tế- xã hội. Môi trường đầu tư ổn định thể hiện ở sự ổn định
105
về chính trị và an ninh, minh bạch hóa các chính sách kinh tế vĩ mô. Hiện nay một
số nước của ASEAN như Philipines, Indonesia thậm chí Thái Lan đang có rất nhiều
vấn đề xoay quanh sự bất ổn về an ninh chính trị, điều này đã dẫn đến sự lo ngại của
rât nhiều các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực.
ASEAN cần tạo động lực cho các nhà đầu tư bằng việc mở rộng thị trường
nội khối, tăng cường mở cửa các lĩnh vực như tài chính ngân hàng, dịch vụ, có các
chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài về hình thức đầu tư, thuế..., phát triển nguồn
nhân lực kỹ thuật cao. Kinh nghiệm cho thấy, hiện nay các nhà đầu tư không còn
quá quan tâm tới các chi phí nhân công rẻ, mà chú trọng tới chất lượng người lao
động. Ngoài ra, tốc độ phát triển kinh tế bền vững cũng là một lực hấp dẫn các nhà
đầu tư. Được hưởng lượng FDI lớn nhất trong hai thập kỷ qua, đã tham gia vào
WTO, Trung Quốc hiện có ba lợi thế kinh tế rất mạnh so với ASEAN: thị trường
nội địa khổng lồ, cơ cấu giá thành rẻ và khả năng chế biến, sản xuất ngày càng hiện
đại với tiềm năng chất xám lớn.
Mặc dù, kinh tế ASEAN phát triển không đồng đều song với dân số 500 triệu
người, diện tích 4,5 triệu km2 và GDP 868,276 tỉ USD; tổng doanh số ngoại thương
là 789,71 tỉ USD và tổng số vốn FDI vào ASEAN là 326,4 tỉ USD (2003), thì đây là
lực lượng đang lên, đứng ở "trung tâm" cầu nối, cân bằng với các nước lớn, và là
một thị trường hứa hẹn nhiều tiềm năng với các nhà đầu tư. Do vậy, hoàn thiện môi
trường đầu tư là yếu tố quan trọng trong việc giảm nguy cơ chệch hướng dòng FDI.
3.2.2. Khai thác lợi thế so sánh, ưu tiên hội nhập các ngành có giá trị gia tăng và
hàm lượng công nghệ cao của ASEAN.
Sự cạnh tranh tại thị trường thứ 3 và cạnh tranh giành vốn FDI vào khu vực
xuất phát từ sự tương đồng về cơ cấu ngành nghề giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc
biệt là các mặt hàng có hàm lượng lao động nhiều. Với ưu thế, thị trường nội địa lớn
(FDI theo chiều ngang), nền kinh tế ổn định, chính sách mở cửa tích cực và đã gia
nhập WTO, rõ ràng Trung Quốc đang tạo cho mình một lợi thế vững chắc trong
việc thu hút FDI và làm chệch hướng dòng FDI vào khu vực ASEAN. Trong các
phân tích ở trên đều nhận định rằng, dệt may và hàng hóa nhiều lao động đang của
ASEAN đang chịu sự cạnh tranh mạnh của Trung Quốc, trong khi đó các ngành có
106
hàm lượng công nghệ cao hơn, giá trị gia tăng cao như linh kiện điện tử, đồ gia
dụng, linh kiện ô tô, sản phẩm hóa chất… lại ít bị cạnh tranh hơn trên thị trường thứ
3 và ngay bản thân trong thị trường nội bộ Trung Quốc. Mặc dù, Trung Quốc cũng
đang mạnh mẽ chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế theo hướng ưu tiên các ngành này,
nhưng đối với các nước ASEAN-5 đã có ưu thế hơn về cơ sở hạ tầng và lao động
lành nghề do họ đã hoàn thành tiến trình công nghiệp hoá với nền tảng công nghệ,
hạ tầng, kỹ năng quản lý.... thích ứng với việc tiếp nhận các dự án đầu tư có hàm
lượng công nghệ cao và tri thức cao. Trong sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu
hiện nay, Trung Quốc cũng như một số thành viên ASEAN mới chủ yếu tập trung
vào các phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, ASEAN-5 cần
chủ động kêu gọi FDI vào những ngành công nghiệp chế tạo và dịch vụ dựa trên kỹ
thuật mới. Xuất phát từ thực tế khu vực, việc lựa chọn các ngành ưu tiên phải đảm
bảo 3 tiêu chí: là ngành đóng góp nhiều cho GDP của khu vực, ngành có tiềm năng
tăng trưởng xuất khẩu cao và có sức thu hút FDI, là ngành đang cần có sự thay đổi
cấp bách để ngăn chặn sự suy giảm năng lực cạnh tranh quốc tế. Trên cơ sở hai
ngành truyền thống, sản xuất hàng tiêu dùng và điện tử, là lĩnh vực then chốt đóng
góp vào GDP và xuất khẩu, song hiện nay đang chịu áp lực cạnh tranh rất mạnh từ
Trung Quốc. ASEAN cần mở rộng quá trình hội nhập sang 3 ngành khác như du
lịch, chế tạo ô tô, công nghệ sinh học. Đây là những ngành phục vụ lợi ích cho
ASEAN, có tác động mạnh đến GDP, đồng thời có tiềm năng thu hút FDI vào khu
vực.
Hơn nữa, các nước ASEAN-5 đã xây dựng cho mình một mạng lưới hệ
thống sản xuất và phân công lao động khá hoàn chỉnh về các ngành chế biến linh
kiện điện tử, máy móc và ô tô ở khu vực và thế giới, đã tìm được chỗ đứng và sự tin
cậy trên thế giới. Với lợi thế này, các nỗ lực của Trung Quốc tham gia vào thị
trường về các mặt hàng càng khó khăn hơn. Do vậy tập trung nỗ lực sang việc
chuyển đổi sang ngành nghề mang nhiều hàm lượng công nghệ hơn có thể là chìa
khóa giúp cho ASEAN lách khỏi cuộc cạnh tranh khốc liệt về đầu tư FDI theo chiều
dọc vào khu vực và giảm bớt sự cạnh tranh xuất khẩu trên các thị trường thứ ba.
107
Do vậy, những nước như Singapore, Malaysia và Thái Lan cần phải tiếp tục
điều chỉnh cơ cấu kinh tế lên các ngành có giá trị gia tăng cao hơn, thoát dần khỏi
những ngành có giá trị gia tăng thấp và đang chịu áp lực cạnh tranh từ phía Trung
Quốc. Để làm được điều này, ngoài các chính sách công nghiệp ra, các nước phải
tập trung nỗ lực vào đầu tư và phát triển khả năng khoa học - kỹ thuật - công nghệ.
Hiện nay, các nước đã có những chiến lược và quan điểm rõ ràng để chuyển nền
kinh tế tăng trưởng dựa trên tri thức ví dụ như Singapore đang cố găng trở thành
trung tâm giáo dục thu hút tài năng của khu vực, Malaysia đưa ra chiến lược nhằm
nuôi dưỡng khả năng công nghệ trong nước thông qua hỗ trợ về tài chính khuyến
khích triển khai thương mại hóa, Thái Lan đưa ra kế hoạch phát triển công nghệ và
kỹ năng hoạch định. Theo đó, cần phải có nhiều động cơ khuyến khích thu hút đầu
tư vào khu vực sử dụng công nghệ cao và lao động có kỹ năng, thu hút FDI vào
những lợi thế mới.
3.2.3. Tăng cường liên kết ASEAN
Theo đánh giá, nội lực liên kết và hội nhập kinh tế của ASEAN còn yếu, thiếu
đầu tàu đủ mạnh và đủ năng lực hấp dẫn trong tiến trình hội nhập [15, tr 58] do
chênh lệch phát triển khá xa và trình độ phát triển chung tương đối thấp (Singapore
có tốc độ GDP/1 người tương đối cao, song quy mô kinh tế của nước này khá nhỏ,
nước lớn nhất ASEAN là Indonesia có dân số gần ½ ASEAN thì lại có trình độ phát
triển thấp, đang lâm vào khủng hoảng kinh tế- chính trị và xã hội). ASEAN cần phải
khắc phục được những bất cập để đẩy nhanh tiến trình liên kết chặt chẽ và dứt khoát
hơn vì mục tiêu: i) tự bảo vệ trước áp lực cạnh tranh từ bên ngoài ii) tạo lợi thế bên
trong để tận dụng lợi thế do bên ngoài mang lại. Đây cũng chính là mục tiêu nhằm
nâng cao thế thương lượng cạnh tranh với Trung Quốc về thu hút FDI.
“ASEAN vẫn là một thể chế lỏng lẻo, gần như một Hiệp hội chứ không phải
là một tổ chức dù ASEAN đã và đang thay đổi dần dần để trở thành khu vực và có
cơ cấu tổ chức chặt chẽ dựa vào luật lệ...” [19, tr.63]. Chỉ đơn cử 3 nguyên tắc vận
hành của ASEAN là: tự nguyện, đồng thuận và không can thiệp, tinh thần chung là
rất phù hợp, song đặt trong bối cảnh văn hóa-lịch sử phương Đông và những đặc
thù của khu vực, việc thừa nhận những nguyên tắc này tuyệt đối, vô điều kiện có thể
108
cản trở nỗ lực đẩy nhanh quá trình liên kết kinh tế khu vực. Hầu như ASEAN không
đặt ra bất kỳ một ràng buộc pháp lý đối với các cam kết hành động, không có chế tài
đủ hiệu lực đối với các quốc gia trong việc thực hiện những mục tiêu chung của khu
vực. Chẳng hạn, việc thực hiện lộ trình CEPT là định hướng chiến lược nhằm tạo
cho ASEAN trở thành một thị trường khu vực tự do thống nhất cho các sản phẩm
hàng hóa (AFTA), tuy nhiên việc thực hiện chương trình này theo đúng lộ trình còn
là tham vọng với toàn khu vực, nhất là đối với nhóm nước CLMV, nhóm nước có
trình độ phát triển thấp hơn và khả năng thực hiện cam kết còn yếu.
Trong khi đó, việc thúc đẩy AFTA và khu vực đầu tư ASEAN chính là vũ
khí giúp các nước ASEAN hạn chế được tình trạng luồng vốn FDI chảy quá mạnh
vào Trung Quốc. Mục tiêu quan trọng nhất của AFTA (dự kiến hoàn tất vào năm
2015) là tăng cường thu hút FDI vào khu vực, ASEAN đã giành các ưu đãi CEPT
cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một thị trường nào đó trong ASEAN
sẽ được bán sản phẩm của mình trên toàn bộ thị trường ASEAN . Cũng tương tự
như vậy, với ý tưởng cơ bản của AIA là thu hút FDI vào khu vực ASEAN từ các
nguồn trong và ngoài ASEAN bằng cách tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn,
thông thoáng, nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiệp định này buộc các thành viên
phải loại dần các hàng rào đối với đầu tư, thực hiện chế độ tự do hoá các chính sách
và quy định đầu tư, đối xử quốc gia không phân biệt và mở cửa các ngành công
nghiệp cho các nhà đầu tư... Tuy nhiên, AIA hiện mới chỉ bao gồm ngành sản xuất,
cần được mở rộng thêm cho lĩnh vực khác như dịch vụ (giao thông, điện, viễn
thông, ngân hàng...) và nông nghiệp, vì đây là những đầu vào cho sản xuất, sự thiếu
hiệu quả của ngành này sẽ giảm sức cạnh tranh, dẫn đến chi phí sản xuất cao, và
ảnh hưởng tiêu cực tới thu hút FDI. Thực hiện AIA sẽ góp phần tạo ra dòng lưu
chuyển đầu tư tự do vào khu vực ASEAN năm 2020. Do vậy, việc thực hiện nghiêm
túc, đúng hạn các tiến trình này là điều kiện tiên quyết tạo sự hấp dẫn kinh tế và
động lực phát triển của ASEAN, chắc chắn sẽ thúc đẩy tự do hóa mạnh mẽ hơn
trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư, có ý nghĩa đáng kể cho ASEAN trong việc
đối phó với nguy cơ giảm sút FDI vào khu vực do việc Trung Quốc gia nhập WTO..
109
Hiện nay, các thành viên ASEAN đang tích cực xem xét hoàn thiện thể chế
mới cho phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay, về phương pháp hành động trong
ASEAN, không có sự ràng buộc theo kiểu trói buộc, cản trở của khu vực với nhóm
nhỏ các quốc gia thành viên, không cho phép họ vượt lên tiến trình chung đã được
“lập trình chung” cho cả khu vực, những nước đi nhanh hơn, nếu có điều kiện và cơ
hội, có thể đi trước trong việc liên kết phát triển kinh tế ở trình độ cao hơn với các
đối tác khác. Đây là một thay đổi thể chế liên kết căn bản cho thấy ASEAN đang
chuyển biến mạnh mẽ tư duy hội nhập, và nhận diện sát thực hơn các vấn đề thời
đại, đang đi những bước đầu tiên để đấy tiến trình liên kết lên tầm cao mới.
Như vậy, việc tăng cường liên kết trong ASEAN nhằm phát huy toàn bộ tiềm
năng của khu vực với tư cách là một khối, giảm mức độ cạnh tranh gay gắt lẫn nhau
giữa các thành viên trong việc thu hút FDI, thị trường khu vực sẽ không còn bị chia
cắt, mở rộng cơ hội và tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư hoạt động xuất khẩu khi
thuế quan trong khu vực ASEAN bằng 0 đối với sản phẩm có xuất xứ từ nước thành
viên. Đồng thời, với tư cách là một khối, vị thế của ASEAN sẽ được củng cố là một
đối trọng đáng kể trên bàn đàm phán quốc tế với các đối tác thương mại và đầu tư.
3.2.4. Lấy Trung Quốc làm động lực phát triển bên ngoài cho cả khu vực ASEAN
Sự hiện diện của lực lượng sản xuất hiện đại và sự phát triển của quan hệ
thương mại và đầu tư quốc tế kéo theo sự hình thành hệ thống thương mại và tài
chính quốc tế toàn cầu. Nền sản xuất thế giới được cấu trúc theo chuỗi, việc một
chủ thể kinh tế (nhà kinh doanh, nền kinh tế quốc gia, nền kinh tế khu vực) đứng ở
vị trí nào đó trong chuỗi toàn cầu sẽ quyết định vị thế cạnh tranh và triển vọng phát
triển của nó trong mạng sản xuất toàn cầu. Như đã phân tích, FDI tạo ra mối liên kết
dọc ngang giữa các nước trong khu vực, tính cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau giữa
các nước sản xuất thành phẩm cuối cùng và các nước tham gia vào các công đoạn
khác nhau của một quy trình sản xuất. Sự trỗi dậy của Trung Quốc với nhịp độ tăng
trưởng cao, ngay cả thời điểm chịu tác động tiêu cực mạnh nhất của cuộc khủng
hoảng. Trung Quốc đang chứng tỏ là chỗ dựa cho cả khu vực châu Á, một trụ cột ổn
định, và được chấp nhận là trung tâm liên kết cho cả khu vực. Điều này sẽ tạo ra
động lực tập trung đầu tư vào những nước thuộc mạng lưới sản xuất trên toàn khu
110
vực, mà trong đó Trung Quốc đóng vai trò trọng tâm. Bản thân Trung Quốc cũng có
nhu cầu nội tại thúc đẩy liên kết trong khu vực, và ASEAN được nhìn nhận là một
đối tác số một [15, tr.131]. Các nước có trình độ công nghệ và kỹ thuật cao như
Singapore, Malaysia, Thái Lan và thậm chí Philipinnes, hoàn toàn có thể tận dụng
những tác động tích cực của việc Trung Quốc gia nhập WTO, để thu hút FDI vào
các lĩnh vực chế tạo máy móc thiết bị, linh kiện điện tử, thiết bị xử lý dữ liệu...khi
tham gia liên kết sâu vào mạng lưới sản xuất nội vùng. Tuy nhiên để trở thành nhà
cung cấp cho thị trường Trung Quốc và cạnh tranh thành công với Trung Quốc tại
chính thị trường ASEAN, thị trường xuất khẩu, trong lĩnh vực thu hút đầu tư (chủ
yếu là FDI), các nước thành viên ASEAN cần phải tiên liệu và chuẩn bị những thay
đổi cơ cấu sẽ diễn ra tại Trung Quốc. Các công ty trong ASEAN cần phải tập trung
chuyên môn hóa và tạo sự khác biệt cho sản phẩm, trong đó có việc tăng cường chất
lượng [15, tr.91].
3.2.5. Thúc đẩy nhanh khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc
Sau khi gia nhập WTO (tháng 11/2001), Trung Quốc tỏ ra hăng hái nhất
trong việc phát triển quan hệ láng giềng hợp tác hữu nghị với các nước xung quanh
và đẩy mạnh chính sách ngoại giao kinh tế, chủ động đề xuất các sáng kiến thiết lập
FTA với ASEAN (ký kết tháng 11/2002, có hiệu lực từ ngày 1/7/2003). Động cơ
đưa ra sau sáng kiến này là tận dụng tính bổ sung và phát huy các thế mạnh hiện có
để đưa cả khu vực trở nên hiệu quả, cạnh tranh hơn nhằm thu hút đầu tư. Với thị
trường 1,7 tỷ dân và dòng thương mại hai chiều ước đạt 1,2 nghìn tỷ USD/năm,
tổng GDP là 2 nghìn tỷ USD. Đây sẽ là khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Hiệp định thương mại tự do ACFTA sẽ xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan
đối với hàng hóa và dịch vụ, nhưng cũng có quy định đặc biệt linh hoạt với những
nước mới gia nhập ASEAN (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam). Trong đó,
Trung Quốc và 6 nước ASEAN cũ (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore và Thái Lan) sẽ thực hiện quy định về khu vực thương mại tự do từ năm
2010. Những nước kém phát triển hơn (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) sẽ
tham gia từ năm 2015. Theo ước tính, ACFTA sẽ đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP
của Trung Quốc thêm 0,3% và ASEAN thêm 0,9%. ACFTA cũng sẽ đẩy mạnh xuất
111
khẩu từ ASEAN vào Trung Quốc và Trung Quốc vào ASEAN lần lượt là 48% và
55%. Khu vực thương mại tự do được thiết lập, nhằm xoa dịu mối lo ngại bị đẩy ra
bên lề của các nước Đông Nam Á vì Trung Quốc đã gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) từ cuối năm 2001. Mối quan hệ gần gũi giữa các nước thành viên
ASEAN, với Trung Quốc sau khi khu vực này được thực hiện, sẽ tạo cơ hội cho
phép các thành viên ASEAN, đặc biệt là Việt Nam học hỏi kinh nghiệm của Trung
Quốc về cải cách kinh tế, kinh nghiệm trong việc duy trì và cải thiện môi trường
đâu tư thuận lợi để thu hút FDI. Với các nước chưa gia nhập WTO như Việt Nam
và Lào, còn có thể học tập Trung Quốc trong việc đàm phán gia nhập WTO. Đây
cũng là con đường giúp các quốc gia này tăng cường mở rộng hợp tác với thế giới,
cơ hội đàm phán với nhiều quốc gia nhằm tiếp cận thu hút FDI. Ngoài ra, khi
ACFTA được thực hiện, ASEAN sẽ mở rộng cánh cửa thị trường cho các doanh
nghiệp Trung Quốc trên cơ sở thực hiện MFN, như vậy sẽ kích thích Trung Quốc
đầu tư vào ASEAN nhiều hơn, trong bối cảnh Trung Quốc đang ồ ạt đầu tư ra nước
ngoài [10].
3.2.6. Phát huy tính năng động của ASEAN trong các chương trình hợp tác song
phương và đa phương
Có thể nhận thấy tiến trình hội nhập kinh tế của ASEAN nói chung diễn ra
chậm, không đáp ứng được yêu cầu đưa khu vực này thoát khỏi các áp lực cạnh
tranh và phát triển đang tăng lên rất nhanh [15, tr.149]. Nhận thức được vấn đề này
các quốc gia ASEAN đang tiến hành cải tổ lại hệ thống tổ chức của mình để tăng
cường tiến hành liên kết kinh tế giữa các nước. Hiện nay, một cơ chế mới đã được
hình thành cho phép các quốc gia ASEAN có thể tự chủ hơn trong việc ký kết các
hiệp định song phương FTA theo phương thức “10-X”, chỉ cần 2 thành viên đồng ý,
thay cho cơ chế “+10”, yêu cầu tất cả các thành viên phải đồng ý [15]. Việc các
quốc gia đẩy mạnh hợp tác song phương có ý nghĩa rất quan trọng với luồng đầu tư
FDI vì khi đẩy mạnh quan hệ thương mại trao đổi giữa hai quốc gia cũng là trực
tiếp tác động lên viêc gia tăng sản xuất trong nước và gián tiếp tác động lên khả
năng thu hút vốn FDI của khu vực. Đặc biệt tăng cường quan hệ song phương với
các quốc gia đang có thương mại và nguồn đầu tư trực tiếp lớn vào ASEAN sẽ tạo
112
môi trường thuận lợi cho tiêu thụ hàng hóa và di chuyển các yếu tố nguồn lực sản
xuất, tích cực góp phần cải thiện môi trường đầu tư cho các quốc gia có vốn đầu tư
vào ASEAN. Quan hệ song phương cũng thiết thực giải quyết các vấn đề vướng
mắc trong thương mại và đầu tư thông qua đối thoại và trao đổi trực tiếp, dẫn đến
việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc. Do vậy, tăng cường hơn nữa hợp tác song
phương theo các nguyên tắc cơ bản của ASEAN cũng sẽ mang lại những hiệu quả
tích cực trong việc thu hút vốn đầu tư FDI.
ASEAN cũng nên phát triển các quan hệ hợp tác đa phương như tham gia
tích cực vào diễn đàn APEC và ARF, chủ động gắn kết các khối ASEAN + 3,
ASEAN + X. Thông qua các diễn đàn hợp tác đa phương, đối thoại đa phương,
ASEAN có thể thương lượng và đối thoại với các quốc gia tham gia thương mại và
đầu tư của mình, từ đó có thể có những thông tin phản hồi về môi trường đầu tư về
tình hình thương mại và thị trường, và qua đó cũng có thể thương lượng các quan hệ
thương mại và đầu tư phù hợp với chiến lược chung của khu vực. Trên thực tế,
ASEAN đang tham gia xây dựng các mối liên hệ chặt chẽ ở hai khu vực Đông Á và
Châu Á – Thái Bình Dương. Trong các cấu trúc liên kết này, ASEAN đang nỗ lực
trở thành một “trục quay” kết nối các nền kinh tế lớn của thế giới và khu vực.
Thông qua các hợp tác này các nước lớn cũng đang muốn tranh thủ sự ủng hộ của
ASEAN để thực hiện chiến lược của mình, dẫn đến ASEAN dễ dàng có thể đóng
vai trò trung tâm của cuộc đưa tranh và liên kết kinh tế ở cấp độ lớn [15, tr.152]
Qua các diễn đàn này ASEAN cũng có thể điều chỉnh cơ cấu kinh tế của mình sao
cho phù hợp hơn nữa với sự phân công lao động quốc tế, tìm những tiếng nói đồng
thuận tránh những cạnh tranh trực tiếp với các nước trong khu vực tại các thị trường
quan trọng, bảo vệ khu vực khỏi những áp lực cạnh tranh không lành mạnh từ bên
ngoài. Hoạt động tích cực trên các diên đàn đa phương cũng là hình thức và là cơ
hội để ASEAN quảng bá cơ hội đầu tư trên khối của mình, bày tỏ cam kết những
thay đổi mang tính chất chính thức nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho phát triển
thương mại và đầu tư, từ đó là cơ sở và căn cứ cho các quốc gia có vốn FDI có thể
hiểu rõ hơn về môi trường và cơ hội đầu tư trên các quốc gia ASEAN.
113
3.3. Một số kiến nghị đối với Việt Nam
Theo đánh giá chung, FDI là một trong những động lực tăng trưởng quan
trọng của Việt Nam trong những năm đổi mới. FDI không những là nguồn bổ sung
vốn mà còn góp phần chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý, tăng cường xuất
khẩu, đồng thời tạo việc làm cho nhiều lao động. Một trong những đóng góp quan
trọng nhất của FDI cho nền kinh tế Việt Nam là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (bảng
3.1)
Bảng 3.1: Đóng góp của FDI vào GDP của Việt Nam (1996-2003)
ĐVT: %
1996 1999 2000 2003
GDP 100.0 100.0 100.0 100.0
Khu vực Nhà nƣớc 39.9 38.7 38.5 38.3
Khu vực tƣ nhân 52.7 49.1 48.2 47.7
FDI 7.4 12.2 13.3 14.0
Nguồn: Viện Kinh tế và Quản lý Trung ương
Xét về cơ cấu đầu tư, châu Á chiếm 70% đầu tư vào Việt Nam, còn châu Âu
chiếm 25,7%, trong các nước châu Á, các nước NICs là những nước đầu tư lớn nhất
chiếm 42%, bản thân các nước ASEAN chiếm 26,2 % đầu tư vào Việt Nam, đứng
đầu là Singapore với gần 7 tỷ USD vốn đăng ký. Cơ cấu FDI vào Việt Nam có tỷ
trọng FDI theo chiều ngang khá cao do duy trì mức bảo hộ cao ở một số ngành thay
thế nhập khẩu. Trong giai đoạn 1988-1996, khoảng 72% FDI đổ vào các ngành có
mức bảo hộ từ 10% trở lên, việc thực hiện cam kết giảm mức thuế nhập khẩu rõ
ràng sẽ có tác dụng tiêu cực đến lượng FDI theo chiều ngang đổ vào các ngành
hưởng mức bảo hộ cao, nhưng bù lại người tiêu dùng lại có lợi do mức giá giảm.
Như vậy, nhân tố bên trong ASEAN là việc thực hiện AFTA có thể có ảnh hưởng
tiêu cực đến dòng FDI vào Việt Nam. Đồng thời nhân tố bên ngoài có tác động
mạnh đến dòng FDI vào Việt Nam nói riêng, và ASEAN nói chung là việc Trung
Quốc gia nhập WTO, nước này sẽ tăng lợi thế xuất khẩu trên các thị trường thứ ba,
sẽ làm giảm tương đối lợi thế cạnh tranh xuất khẩu của ASEAN và Việt Nam trên
các thị trường này, điều này sẽ ảnh hưởng tới FDI theo chiều dọc vào Việt Nam.
114
Việc mất thị phần của Việt Nam trên các thị trường thế giới như Mỹ và EU đối với
các mặt hàng dệt may, đồng nghĩa với việc mất FDI.
Theo đánh giá của UNCTAD, năm 2003, Việt Nam được xếp vào danh sách
các nước thực hiện FDI tương đối tốt, đứng thứ 45/140 quốc gia, nhưng tiềm năng
thu hút đầu tư lại rất thấp, chỉ xếp hạng 75. Theo điều tra của UNDP, Việt Nam lọt
được vào trong số 10 nước hàng đầu khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhận được
nhiều FDI nhất trong thời gian 2001-2002. Tổng vốn FDI thực hiện tại Việt Nam
năm 2002 đạt 2,5 tỷ USD, cao hơn so với mức 2,3 tỷ USD của năm 2001. Qua 8
tháng đầu năm 2003, tổng vốn FDI đã được cam kết là khoảng 1,6 tỷ USD, cao hơn
cùng kỳ 2002. Trong đó, 554 triệu thuộc dự án từ các năm trước và 1 tỷ USD là số
vốn được đăng ký mới của 389 dự án. Bình Dương và Đồng Nai, TP.HCM chiếm
54% số vốn đăng ký. Tuy nhiên, FDI vào Việt Nam thiếu tính bền vững, cụ thể là
năm 2002, Việt Nam đã phải chứng kiến sự suy giảm FDI từ 1.3 tỷ USD của năm
2001 xuống 1.2 tỷ USD, còn năm 2003 FDI chỉ tăng nhẹ khoảng 1,45 tỷ USD.
Trong khi đó, ở Đông Nam Á, FDI giảm từ 19 tỷ USD trong năm 2001 xuống còn
14 tỷ USD trong năm 2002, Brunei, Malaysia và Philippines lại tiếp tục thu hút
được nguồn vốn FDI nhiều hơn so với năm 2001 [28].
Hình 3.2: Tình hình biến động vốn FDI đăng ký vào Việt Nam (1998-2004)
Nguồn: www.vietpartners.com
115
Điểm yếu trong việc thu hút FDI vàoViệt Nam là chưa có nguồn thông tin
chính xác đối với các nhà đầu tư. Việt Nam cũng không còn lợi thế mạnh mẽ nhờ
vào lực lượng lao động rẻ và dồi dào như trước, hiện các nhà đầu tư quan tâm nhiều
nhất đến vấn đề chất lượng lao động. Chất lượng lao động tại Việt Nam quá thấp
trong khi chỉ số giá tăng cao. Ngoài ra, theo ông Pedro Ortega, chuyên gia kinh tế
của UNDP nhận định rằng 'Luật lệ đầu tư của Việt Nam còn khắt khe, mức độ tự do
hóa thương mại chưa cao, cơ sở hạ tầng kém phát triển... khiến mất đi cơ hội hấp
dẫn các nhà đầu tư''. Để tăng tính cạnh tranh cho môi trường đầu tư Việt Nam, thế
độc quyền trong một số ngành kinh doanh cần phải xóa bỏ, Việt Nam cần phải tạo
ra một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư và tạo ra
được một môi trường kinh doanh tốt trong các lĩnh vực sử dụng đất, cấp phép, chính
sách tuyển dụng...
Để tiếp tục thu hút vốn FDI trong thời gian tới, Việt Nam cần hoàn thiện hệ
thống văn bản chính sách theo hướng xoá bỏ phân biệt đối xử và minh bạch hoá,
điều chỉnh mở rộng các lĩnh vực đầu tư và đa dạng hoá các hình thức đầu tư, thực
hiện các sáng kiến chung Việt - Nhật và VN - Singapore nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh. Tốc độ tăng trưởng GDP ở Việt Nam hiện nay xấp xỉ 8%, tốc độ tăng
trưởng vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, xuất khẩu phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt,
nhập siêu ở mức cao, triển khai vốn chậm...
Cạnh tranh thu hút vốn đầu tư cũng đang diễn ra quyết liệt giữa Việt Nam
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, nhất là các nước khu vực Đông và
Nam Âu, khu vực Đông Nam Á. Trên thế giới, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư rất
khốc liệt và cần phải nhìn nhận rằng môi trường đầu tư của Việt Nam chưa hấp dẫn.
Khi hàng rào thuế quan bị bãi bỏ, MNCs sẽ tập trung sản xuất tại những nước có
phí tổn thấp nhất trong khu vực AFTA. Thách thức của VN là làm sao giữ chân các
cơ sở hiện có của MNCs và tạo cơ hội để MNCs đầu tư vào Việt Nam Thực vậy
nguồn vốn FDI vào VN đang có xu hướng chựng lại. Giai đoạn 1991-1995 vốn đầu
tư nước ngoài chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, giai đoạn 1996-2000
chiếm 24%, 2 năm 2001-2002 chỉ chiếm hơn 18%.
116
Mặc dù Việt Nam có nhiều lợi thế tự nhiên như vị trí địa lý, tài nguyên và lao
động, đặc biệt là môi trường kinh tế chính trị ổn định, nên là thị trường có tiềm
năng thu hút vốn FDI. Nhưng thực tế, tài nguyên dồi dào và lao động rẻ không phải
là yếu tố quyết định thu hút FDI trong dài hạn. Những tồn tại trong việc thu hút FDI
vào Việt Nam cần phải được khắc phục:
Một là, thiếu tính định hướng và quy hoạch FDI nên hiện nay, FDI tập trung
quá nhiều vào ngành chế biến lương thực- thực phẩm: rượu bia, nước giải khát và
sản xuất hàng tiêu dùng, nên chưa hề có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư
liệu sản xuất, chưa có tiềm năng tham gia vào liên kết sâu sản xuất nội vùng.
Hai là, tư tưởng bảo hộ còn khá cao, thể hiện ở những quy định chặt chẽ
trong chính sách nội địa hóa. Các DNNN tiến hành lắp ráp ôtô, xe máy ở Việt Nam
xem tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc là một loại hàng rào bảo hộ phi thuế quan, vì nội địa
hóa bắt buộc họ phải sản xuất linh kiện và phụ từng tại Việt Nam với những điều
kiện bất lợi hơn các nước khác, do vậy làm giảm sút lợi nhuận, tăng giá thành sản
phẩm. Vì vậy chỉ nên có chính sách khuyến khích, chứ không nên bắt buộc.
Ba là, còn có nhiều điểm làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư thể
hiện ở chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào VN còn quá cao, làm giảm
khả năng cạnh tranh của sản phẩm VN, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO
Nhật bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện.. hiện nay
tại VN quá cao. Cước điện thoại quốc tế của VN cao gấp khoảng 7 lần so với
Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakarta, khoảng 3 lần so với
Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng
container thì cao gần gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala
Lumpur, khoảng 2 lần Jakarta, Thượng Hải....giá điện cao hơn 50%, giá nước cao
hơn 71% so với ASEAN và Trung Quốc [14]. Chi phí cho đất đai ngày càng tăng.
Từ năm 1996 trở lại đây thị trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá
cao. Giá đất lớn, giá đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành
phố Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP.HCM gấp 4-
6 lần Trung Quốc, 6 lần Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút FDI.
117
Tóm lại, nguyên nhân khiến cho thu hút FDI vào Việt Nam thiếu tính bền
vững xuất phát chủ yếu từ yếu tố nội tại, đó là môi trường đầu tư còn có nhiều bất
cập chưa đủ tính cạnh tranh, quản lý nhà nước còn chưa hoàn thiện. Đồng thời sự
giảm sút FDI vào Việt Nam trong trung và dài hạn cũng chịu tác động của nhân tố
bên ngoài như việc Trung Quốc gia nhập WTO. Bên cạnh đó, việc Việt Nam chưa
phải là thành viên của WTO nên cũng phải chịu rất nhiều thiệt thòi trong thương
mại và đầu tư. Hàng xuất khẩu của Việt Nam vào các nước thành viên của WTO
phải chịu một hàng rào bảo hộ khá cao, khó có thể cạnh tranh được. Bằng chứng cụ
thể là, sản phẩm dệt may của Việt Nam không thể cạnh tranh được với Trung Quốc,
khi các rào cản về hạn chế số lượng đối với hàng dệt may Trung Quốc trên thị
trường EU, Mỹ được dỡ bỏ vào năm 2005. Đồng thời, vì đứng ngoài WTO, Việt
Nam có thể phải chịu những bất lợi rõ rệt trong quan hệ thương mại quốc tế với các
thành viên của WTO, do không được đối xử công bằng và không có những thông
tin cần thiết về tình hình thương mại toàn cầu để thích ứng.
Trong bối cảnh cạnh tranh mạnh mẽ về thu hút FDI của khu vực, việc Việt Nam
khắc phục những tồn tại trên sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với việc thu hút FDI trong
tương lai. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, một số giải pháp có thể giúp Việt Nam
tăng khả năng cạnh tranh thu hút FDI như sau:
Thứ nhất, cần phải nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư. Trong đó, cần đổi
mới nhận thức chính sách vì tư tưởng bảo hộ còn tồn tại dưới nhiều hình thức đang
cản trở tính hấp dẫn thu hút FDI và trái với nguyên tắc thị trường. Chẳng hạn, quy
định tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc khá cao cho các DNNN nhất là lĩnh vực lắp ráp ô tô,
xe máy; tư tưởng bảo hộ cao nhất thể hiện trong sự quá ưu ái đối với khu vực doanh
nghiệp Nhà nước như cho phép độc quyền kinh doanh, quy định hạn ngạch nhập
khẩu.... Ngoài ra, cần tháo gỡ những thiên kiến và phân biệt đối xử với khu vực tư
nhân và khu vực Nhà nước, tập trung xây dựng và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cho
đầu tư, sớm xây dựng các vùng cảng biển nước sâu ở mức hiện đại trước hết ở 3
vùng kinh tế trọng điểm, hiện đại hóa hệ thống bưu chính viễn thông, giảm bớt các
chi phí đầu tư đầu vào như nhiên liệu (điện, nước, thuê đất, thuê văn phòng) vì hầu
118
hết các ngành này đều do các doanh nghiệp Nhà nước nắm, bằng việc ngăn chặn
việc biến độc quyền Nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp.
Thứ hai, phải ổn định kinh các chính sách kinh tế vĩ mô, và điều chỉnh hệ
thống pháp lý theo hướng minh bạch hóa và thống nhất. Nhanh chóng xây dựng các
thể chế và nguyên tắc cơ bản của hệ thống kinh tế thị trường tích cực tạo dựng một
sân chơi bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài cụ thể là: luật hóa thị trường đất
đai, nhanh chóng thông qua và áp dụng luật cạnh tranh, nhanh chóng ban hành luật
Doanh nghiệp và luật Đầu tư thống nhất…Đồng thời, cải cách hệ thống luật pháp,
lấy yêu cầu hội nhập làm chuẩn để đặt mục tiêu, căn cứ vào logic của hệ thống luật
pháp để thiết kế lộ trình cải cách
Thứ ba, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao nhằm nâng cao lợi
thế cạnh tranh về lao động có kỹ năng song có chi phí thấp tương đối so với các
vùng khác và xây dựng cơ cấu sản phẩm hợp lý, đó là các ngành phải tự sản xuất
các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, cần có chiến lược qui hoạch đầu tư, tránh lãng phí và nâng cao
hiệu quả đầu tư. Trong đó, cần chú trọng tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, đầu tư
có trọng điểm, ưu đãi đối với những lĩnh vực công nghệ cao, những lĩnh vực sản
xuất tư liệu sản xuất đồng thời vẫn cần chú trọng phát triển và thu hút FDI vào các
ngành sử dụng nhiều lao động.
Thứ năm, chủ động mở cửa thị trường trong nước đặc biệt là thị trường dịch
vụ, việc này sẽ mang lại lợi ích to lớn, có lợi cho cả người tiêu dùng cá nhân và
người tiêu dùng sản xuất do thuế nhập khẩu giảm, đồng thời thu hút thêm các nguồn
vốn và công nghệ bên ngoài...Việc mở cửa thị trường phải có lộ trình cụ thể và tích
cực giảm hàng rào bảo hộ..., giảm những hạn chế của nhà đầu tư nước ngoài khi đầu
tư vào ngân hàng, viễn thông..Mặc dù, đây là những lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối
với một nền kinh tế ĐPT, nhưng hiện nay, FDI trên thế giới đang chuyển hướng
mạnh sang lĩnh vực dịch vụ [30], Việt Nam cần phải có những biện pháp tích cực để
đi tắt đón đầu trào lưu này, nhằm thu hút thêm FDI cho Việt Nam.
Thứ sáu, tích cực hội nhập, đa phương hóa các quan hệ kinh tế quốc tế, đặc
biệt là tăng cường liên kết chặt chẽ với ASEAN, nhanh chóng gia nhập WTO, thúc
119
đẩy quá trình đi tới FTA song phương với một số nền kinh tế lớn và phát triển cao
như Mỹ, Nhật Bản và EU. Đây chính là cách thức tiếp cận với FDI hiệu quả nhất,
quảng bá các cơ hội đầu tư, thu thập thông tin về các đối tác thương mại và đầu tư,
đồng thời bảo vệ quyền lợi của Việt Nam trên các điễn đàn quốc tế.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác song phương với Trung Quốc trên cơ sở phát
huy những lợi ích do ACFTA mang lại. Việt Nam có thể tham gia vào mạng lưới
sản xuất nội vùng với Trung Quốc, ở những lĩnh vực phù hợp với khả năng của
mình, như dệt may, chế tạo linh kiện điện tử, linh kiện ôtô, xe máy đồng thời tạo sự
phân công lao động trong khu vực để tránh đối đầu trực tiếp với Trung Quốc.
Việc Trung Quốc gia nhập WTO cùng một số nước khác gia nhập WTO
trong những năm vừa qua đã làm cho số nước đứng ngoài WTO sẽ ngày càng giảm,
vị thế của một số ít nước đứng ngoài WTO trong đó có Việt Nam sẽ ngày càng bất
lợi hơn. Lợi thế của Trung Quốc trước khi gia nhập WTO đã hơn hẳn Việt Nam, thì
đến nay lợi thế này ngày càng tăng do tiềm năng vào thị trường thế giới của Trung
Quốc ngày càng mở rộng hơn, nguyên nhân do hàng rào bảo hộ của các quốc gia đã
giảm đối với Trung Quốc, trong khi ở Việt Nam chưa có thay đổi đáng kể. Ngoài ra,
các thể chế kinh tế của Trung Quốc đã được hoàn thiện theo các cam kết với WTO
phù hợp với thông lệ quốc tế hơn, vì vậy sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài hơn.
Kinh tế Trung Quốc phát triển, gia tăng xuất nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam
xuất khẩu hàng hóa bổ sung cho thị trường Trung Quốc, đó là các loại hàng nguyên
vật liệu, nông sản, thủy hải sản và hàng chế biến khác. Việt Nam đã được Trung
Quốc cho hưởng quy chế tối huệ quốc, đó là một thuận lợi cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam vào Trung Quốc. Đồng thời, quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc
đã và đang được mở rộng bởi quy chế tối huệ quốc, quy chế này sẽ tạo sức hấp dẫn
mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam xuất khẩu sang
Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách kinh tế, thể chế của Trung Quốc khi gia nhập
WTO cũng là bài học lớn đối với Việt Nam khi gia nhập WTO, trong bối cảnh nước
này đã đệ đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, cho đến nay thời gian đàm phán đã
kéo dài tới 10 năm./
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3043_0958.pdf