Đáng chú ý là trong các công ƣớc hàng hải liên quan đế các vấn đề về
an toàn của tàu biển, bố trí thuyền bộ, điều kiện lao động, ngăn ngừa ô
nhiễ m. có một loại quy định gọi là “điều khoản không đối xử ưu ái hơn”.
Điều khoản này quy định các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm bảo
đảm rằng các quy định của công ƣớc cũng sẽ đƣợc áp dụng đối với tàu nƣớc
ngoài treo cờ quốc tịch của một nƣớc không phải là thành viên, tƣơng tự nhƣ
áp dụng đối với tàu treo cờ của quốc gia thành viên. Về mặt ý nghĩa pháp lý,
các công ƣớc đó không có giá trị ràng buộc đối với các nƣớc không phải là
thành viên. Nhƣng khi tàu biển treo cờ các nƣớc này đến cảng hoặc ở trên
lãnh hải của các quốc gia thành viên thì chúng phải chịu sự điều chỉnh theo
các tiêu chuẩn đã quy định trong công ƣớc.
Một đặc điểm đáng lƣu ý nữa là tính chất tự thực hiện của các công ƣớc
về hàng hải. Hầu hết quy định trong các công ƣớc quốc tế đều nhằm vào các
chính phủ, thể hiện qua việc yêu cầu chính phủ của các quốc gia thành viê n
công ƣớc phải có nghĩa vụ áp dụng các quy phạm này và thi hành các biệ n
pháp bảo đảm việc tuân thủ điều ƣớc. Nhƣng trong các công ƣớc về hàng hải,
nhiều quy định còn mang tính chất tự thực hiện, nghĩa là khi công ƣớc đã có
hiệu lực, thì nghĩa vụ thi hành công ƣớc là của các bên tƣ nhân (các công dân
và công ty) trong quốc gia thành viên đó. Đặc biệt, đối với các công ƣớc hàng
hải mang tính chất kỹ thuật thì các điều khoản của công ƣớc hoàn toàn mang
tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên và các bên tƣ nhân trong quốc
gia thành viên đó.
97 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường khả năng cạnh tranh của đội tàu buôn Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tàu này đều nhỏ, cũ, tình trạng kỹ thuật
lạc hậu, năng lực khai thác thấp. Sự phát triển đó không những không cải
thiện, không làm tăng năng lực cạnh tranh của đội tàu quốc gia mà còn làm
tăng sự mất cân đối trong cơ cấu đội tàu, tăng tuổi bình quân của đội tàu quốc
gia, tăng sự tụt hậu về kỹ thuật và công nghệ của đội tàu chung so với nƣớc
khác. Thực tế đã chứng minh, phần lớn các đội tàu này đến nay đã bị giải thể,
chuyển sang hoạt động kinh doanh khác hoặc phá sản.
Trong cơ chế thị trƣờng, các doanh nghiệp vận tải Việt Nam không
những đang phải cạnh tranh với các công ty hàng hải nƣớc ngoài mà còn phải
cạnh tranh đôi khi rất quyết liệt với các doanh nghiệp hoạt động trong nƣớc.
Cạnh tranh là rất cần thiết và là động lực cho sự phát triển của mỗi doanh
nghiệp, nhƣng sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp nhà nƣớc cùng
chung sự sở hữu là nhà nƣớc phải đƣợc xem xét và chế định đúng mức.
Trong cơ chế thị trƣờng, nếu một hoặc nhóm nhà tƣ bản đồng sở hữu
đầu tƣ và kiểm soát đồng thời nhiều doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực thì
các doanh nghiệp này phải có sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau chứ không thể có
cạnh tranh nội bộ. Trong cuộc cạnh tranh nội bộ giữa các doanh nghiệp nhà
nƣớc, nếu có một doanh nghiệp nào có lợi thì có nghĩa là có các doanh nghiệp
khác bị thiệt và ngƣời sở hữu là nhà nƣớc không đƣợc gì. Sự thiệt hại của nhà
nƣớc thƣờng lớn hơn nhiều vì trong điều kiện ngoại thƣơng Việt Nam, 90%
hàng xuất nhập khẩu bán FOB, mua CIF, sự cạnh tranh giảm cƣớc phí chỉ
66
mạng lại lợi ích chủ yếu cho các chủ hàng, chủ tàu và thƣơng nhân nƣớc
ngoài.
Các doanh nghiệp vận tải biển cũng trong tình trạng của các doanh
nghiệp nhà nƣớc nói chung, chịu sự quản lý và cơ chế giảm sát tài chính hiện
hành. Các cơ chế này đã đƣợc cải tiến nhiều nhƣng nhìn chung vẫn chƣa tạo
cho doanh nghiệp có đủ quyền tự chủ nhất định về tài chính nói chung trong
đó có quản lý và sử dụng vốn nói riêng. Đại diện chủ sở hữu của tài sản nhà
nƣớc tại doanh nghiệp là ai, cho đến nay vẫn không rõ, gây ra nhiều lúng
túng, khó khăn trong việc sử dụng tài sản đó. Những bất hợp lý về khoản thu
sử dụng vốn, về quản lý tiền lƣơng, về khấu hao tài sản nhanh, về hình thành
các quỹ... vẫn là những trở ngại cho các doanh nghiệp, chƣa khuyến khích các
doanh nghiệp vay vốn đầu tƣ mở rộng, sử dụng hiệu quả đồng vốn.
Thực hiện chủ trƣơng đa dạng hóa sở hữu trong đó có chủ trƣơng cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nƣớc, ngành Hàng hải đã chủ động triển khai
sớm. Tuy nhiên tỷ lệ các doanh nghiệp đã cổ phần hóa so với toàn bộ các
doanh nghiệp của toàn ngành còn rất thấp vì vậy hạn chế khả năng tăng vốn
để phát triển của ngành.
2.3.2.4. Các nguyên nhân khác:
Chúng ta đã phân tích những nguyên nhân gây tình trạng tụt hậu của
đội tàu buôn Việt Nam so với khu vực và thế giới. Ngoài ra còn nhiều yếu tố
khác, ở những mức độ khác nhau, ảnh hƣởng đến sự phát triển của đội tàu
buôn trong thời gian vừa qua:
- Về điều kiện tự nhiên
Với bờ biển dài 3.260km, lại nằm trên tuyến hàng hải quốc tế, Việt
Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh vận tải biển. Bên cạnh đó
cũng có những bất lợi của điều kiện tƣ nhiên nhƣ có ít cảng nƣớc sâu, cảng
trung chuyển, một tiền đề cho phát triển vận tải biển nhƣ vận tải container,
67
vận tải đa phƣơng thức. Những cảng lớn nhất của Việt Nam hiện nay nhƣ
cảng Sài Gòn, Hải Phòng chỉ có thể tiếp nhận tàu 15.000-20.000DWT (với
cảng Sài Gòn) và 7.000-10.000DWT (với cảng Hải Phòng) do những hạn chế
về độ sâu trƣớc bến và luồng lạch ra vào cảng.
- Về yếu tố con ngƣời:
So với các ngành kinh tế kỹ thuật khác, đội ngũ công nhân viên chức
của ngành hàng hải đã đƣợc tiếp cận với thế giới bên ngoài từ lâu nên nhìn
chung có trình độ chuyên mô, nghiệp vụ khá vững vàng. Tuy nhiên cũng còn
những nhƣợc điểm rất lớn. Đội ngũ hơn 2 vạn thuyền viên trong đó hơn 4
nghìn sỹ quan tàu biển của Việt nam hiện nay nhìn chung chƣa làm chủ đƣợc
những con tàu hiện đại, trọng tải lớn, chƣa đủ trình độ ngoại ngữ cần thiết và
thể lực yếu, đa số sỹ quan cấp trƣởng có trình độ cao đã lớn tuổi. Đối với cán
bộ quản lý, khả năng tiếp cận, mở rộng thị trƣờng, hiểu biết về pháp luật quốc
tế, các công nghệ hiện đại mới, trình độ ngoại ngữ... nói chung còn nhiều hạn
chế, nhất là đối với các cán bộ quản lý ở cấp địa phƣơng.
- Về khai thác nội lực:
Ngành vận tải biển có nhiều kinh nghiệm trong việc tận dụng khai thác
những yếu tố bên ngoài để phát triển (nhƣ việc vay mua, thuê mua, vay vốn
ngân hàng để phát triển đội tàu,...), nhƣng việc khai thác nội lực bên trong của
ngành để tạo đà phát triển còn chƣa đƣợc quan tâm đúng mức và khai thác
triệt để.
68
CHƢƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA ĐỘI TÀU BUÔN VIỆT NAM TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
3.1. Định hƣớng phát triển của đội tàu buôn Việt Nam
3.1.1. Dự báo nhu cầu vận tải biển và thị trường vận tải
Theo số liệu dự báo tại Báo cáo của Bộ Giao thông Vận tải, khối lƣợng
hàng hóa vận tải bằng đƣờng biển của Việt Nam năm 2010 là 45 triệu tấn,
trong đó vận tải trong nƣớc là 16 triệu tấn, ngoài nƣớc là 29 triệu. Tỷ trọng
đảm nhiệm của ngành Vận tải biển so với toàn ngành vận tải tăng lên từ 10%
năm 1998 lên 14% năm 2005 và 16% năm 2010.
Tổng khối lƣợng hàng hóa ra vào Việt Nam bằng đƣờng biển dự kiến
sẽ là 96 triệu tấn năm 2010 và 192 triệu tấn năm 2020, trong đó đội tàu Việt
Nam đảm nhận là 29 triệu năm 2010 và 77 triệu tấn vào năm 2020 (tƣơng ứng
với tỷ lệ đảm nhận là 29% năm 2010, 40% năm 2020).
Vận tải ven biển có nhịp độ tăng trƣởng cao hơn nhịp độ tăng trƣởng
vận tải bằng tàu viễn dƣơng và sẽ là 22%/năm giai đoạn 2001-2010. Nguyên
nhân chủ yếu là phát sinh nhu cầu vận chuyển dầu thô, xăng dầu để phục vụ
nhà máy lọc dầu Dung Quất và Xi măng từ miền Bắc vận chuyển vào miền
Nam.
3.1.2. Định hướng phát triển đội tàu buôn Việt Nam đến năm 2020
Căn cứ vào thực trạng ngành vận tải biển và dự báo nhu cầu của thị
trƣờng, quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm 2010 và định
hƣớng đến năm 2020 đƣợc Chính phủ phê duyệt tại quyết định 1195/QĐ-TTg
ngày 04/11/2003. Trong đó nêu rõ quan điểm của Việt Nam phát triển đội tàu
theo hướng:
69
- Hiện đại hóa, trẻ hóa;
- Kết hợp một cách hợp lý giữa đa dạng hóa với chuyên môn hóa;
- Phát triển mạnh đội tàu chuyên dụng.
Từ quan điểm đó xác định mục tiêu phát triển là:
- Phát triển đội tàu đến năm 2010 có tổng trọng tải đạt 4.445.000DWT và
định hƣớng đến năm 2020 đạt 7.100.000DWT;
- Chú trọng phát triển đội tàu chuyên dụng, đặc biệt là tàu Container và
tàu dầu;
- Từng bƣớc nâng cao tỷ lệ đảm nhận vận chuyển hàng hóa xuất nhập
khẩu đến năm 2010 là 25%, định hƣớng đến năm 2020 là 35;
- Tỷ lệ đảm nhận hàng hóa vận tải biển nội địa đạt 100%;
- Nâng cao chất lƣợng dịch vụ vận tải bằng đƣờng biển.
3.2. Kinh nghiệm tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của một số nƣớc
trong khu vực ASEAN
Các nƣớc ASEAN rất chú trọng phát triển đội tàu biển quốc gia. Lào là
nƣớc không có biển cũng kinh doanh tàu biển. Campuchia, Lào và Brunei là
những nƣớc có đội tàu kém phát triển nhất trong các nƣớc ASEAN. Các nƣớc
khác đều phát triển và tăng cƣờng năng lực cạnh tranh cả về số lƣợng và
chủng loại tàu.
3.2.1. Tạo khuôn khổ pháp lý cho việc phát triển hàng hải
Các nƣớc ASEAN đều chú trọng xây dựng điều lệ điều chỉnh ngành
hàng hải nói chung và các dịch vụ vận tải nói riêng. Khuôn khổ pháp lý đó
góp phần bảo hộ ở các cấp độ khác nhau đối với các hoạt động quản lý và
kinh doanh tàu biển.
70
Các nƣớc ASEAN chú ý đến việc ký kết, gia nhập và thực hiện đầy đủ
các công ƣớc quốc tế IMO. Các nƣớc (trừ Lào không có biển) đã tham gia
Công ƣớc An toàn sinh mạng trên biển (SOLAS 74) và nghị đinh thƣ 78,
Công ƣớc Mớn nƣớc (Load lines 66), Công ƣớc đo dung tích biển (Tonnage
69), Công ƣớc tiêu chuẩn đào tạo, cấp bằng và đi ca của thuyền viên (STCW
78/95)...
Đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định hàng hải thƣơng mại với 13 nƣớc,
trong đó có 5 nƣớc ASEAN. Ngƣợc lại, các nƣớc ASEAN dựa chủ yếu và các
Công ƣớc quốc tế và các hợp đồng ký kết để điều chỉnh các quan hệ hàng hải
với nƣớc ngoài. Việc ký Hiệp định hàng hải ít đƣợc thực hiện.
3.2.2. Chính sách về đăng ký tàu biển quốc gia
Các nƣớc ASEAN chú trọng khuyến khích các chủ tàu nƣớc mình đăng
ký cờ tàu quốc gia và nhà nƣớc có những ƣu đãi rõ ràng. Đồng thời Chính phủ
các nƣớc ASEAN cũng khuyến khích tàu nƣớc ngoài đăng ký treo cờ nƣớc
mình với những ƣu đãi về thuế, về thủ tục đăng ký... Điển hình là Philippine.
Philippine chủ trƣơng phát triển một đội thƣơng thuyền mạn để hỗ trợ nền
kinh tế quốc gia phát triển vì tàu biển là phƣơng tiện vận tải chính cho quốc
gia đƣợc bao bọc bởi biển cả với hàng nghìn hòn đảo này. Chính phủ thƣờng
xuyên xem xét các chính sách hàng hải để đáp ứng yêu cầu toàn cầu hoá
thƣơng mại và tiến bộ của khoa học công nghệ hàng hải. Tham gia hợp tác
khu vực trên cơ sở hợp tác đa biên và song biên. Trên cơ sở chính sách rõ
ràng nhƣ vậy, Philippine đã thu hút việc thuê tàu trần (bare boat charter), treo
cờ Philippine với tổng trọng tải khoảng 1 triệu tấn DWT. Bằng cách này đã
góp phần tăng công ăn việc làm cho thuyền viên và thu lệ phí đăng ký cho
nhà nƣớc.
71
Thái Lan có đội tàu quốc gia nhỏ so với nhiều nƣớc ASEAN. Vì vậy
Thái Lan đã áp dụng các chính sách khuến khích chủ tàu Thái treo cờ Thái.
Tuy nhiên chính sách này trở nên kém hiệu quả kể từ khi thị trƣờng hàng hải
Thái đƣợc tự do hoá và đặc quyền về chính sách giành hàng cho tàu Thái
không còn hiệu lực vào cuối năm 1998. Các nhà kinh doanh khai thác tàu biển
Thái khi mua tàu ở nƣớc ngoài có thể đăng ký tàu ở trong nƣớc mà không cần
đƣa tàu về Thái Lan.
Malaysia đã có chính sách đăng ký tàu biển treo cờ Malaysia với các
điều kiện cụ thể:
- Chủ tàu phải là công dân Malaysia hay công ty đƣợc thành lập ở
Malaysia.
- Công dân Malaysia phải chiếm phần lớn trong Ban giám đốc Công ty
tàu.
- Trụ sở chính của Công ty phải ở Malaysia.
3.2.3. Chính sách giành hàng cho đội tàu biển quốc gia
Trong những năm 60-70, khi đội tàu còn non yếu và việc toàn cầu hóa
nền kinh tế chƣa phát triển nhƣ ngày nay, Chính phủ các nƣớc ASEAN đã áp
dụng chính sách bảo hộ cao cho đội tàu biển quốc gia. Các nƣớc chủ trƣơng
thành lập các đội tàu biển quốc gia để đóng vai trò chủ lực trong vận tải ngoại
thƣơng. Để tạo điều kiện cho đội tàu biển quốc gia phát triển, các nƣớc
ASEAN đã có nhiều biện pháp nâng đỡ và bảo hộ, trong đó có biện pháp
giành hàng ƣu tiên cho tàu treo cờ quốc gia. Điển hình là một số nƣớc nhƣ
Philipine, Malaysia tham gia công ƣớc về phân chia hàng hóa chuyên chở cho
tàu chợ (UNCTAD Liner Code), ký năm 1967.
72
Theo quy định của Công ƣớc, việc chuyên chở hàng bách hóa xuất
nhập khẩu đƣợc phân chia theo tỷ lệ 40/40/20. Trong đó hai nƣớc thành viên
có hàng chuyên chở 40% và nƣớc thứ ba đƣợc quyền chuyên chở 20% lƣợng
hàng.
Công ƣớc này ra đời nhằm giúp các nƣớc đang phát triển cạnh tranh với
các nƣớc phát triển có đội tàu chợ mạnh trong các công hội cƣớc phí vào
những năm đó. Các công hội cƣớc phí tàu chợ quyết định thị trƣờng vận tải
tàu chợ và các nhà xuất nhập khẩu phải thành lập hiệp hội ngƣời gửi hàng để
đối phó với các công hội này. Tuy nhiên, từ khi ký kết đến nay, công ƣớc đã
không mang lại tác dụng nhƣ ngƣời ta mong muốn và trên thực tế công ƣớc
đã bị lãng quên theo thời gian và các nƣớc tham gia cũng không quan tâm đến
việc phân chia hàng hóa. Thay vào đó các nƣớc đã ký Hiệp định song biên ƣu
tiên cho nhau trong việc chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai nƣớc.
Đặc điểm nổi bật trong chính sách bảo hộ đội tàu quốc gia của các nƣớc
ASEAN là việc giành hàng Chính phủ cho tàu trong nƣớc và giành hàng vận
tải nội địa cho tàu treo cờ quốc gia.
Cũng nhƣ nhiều nƣớc khác trên thế giới, việc vận tải nội địa hàng hóa
giữa các cảng biển trong nƣớc đƣợc Chính phủ các nƣớc ASEAN bảo hộ hoàn
toàn cho các tàu biển của mình. Cho đến nay, nhiều nƣớc đã mở cửa cho việc
vận tải quốc tế, nhƣng vẫn giành toàn bộ hàng vận tải nội địa cho tàu treo cờ
quốc gia. Duy chỉ có Malaysia có một quy định đặc biệt coi việc vận tải hàng
Container giữa các cảng biển Penang và cảng Port K’Lang của mình không
phải là vận tải hàng nội địa. Sở dĩ nhƣ vậy là vì Chính phủ Malaysia muốn
thúc đẩy việc phát triển cảng Port K’Lang thành một cảng biển trung tâm của
khu vực. Đó là sự linh hoạt, không cứng nhắc đáng chú ý của Malaysia.
73
Về hàng của Chính phủ, các nƣớc đều quy định cụ thể và coi đó là một
đặc quyền giành cho đội tàu trong nƣớc. Chỉ khi nào tàu trong nƣớc không
vận chuyển đƣợc mới giành cho tàu nƣớc ngoài vận chuyển. Singapore cũng
quy định khi bốn công ty tàu biển của Singapore đã đƣợc nhà nƣớc chỉ định
không có tàu phù hợp chuyên chở, thì tàu biển của các công ty khác và các
công ty nƣớc ngoài mới đƣợc chuyên chở hàng hóa của Chính phủ. Ở
Philippine, việc vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đƣờng biển giữa
Philippine và một số nƣớc khác mà cơ quan Chính phủ mua, ký hợp đồng
hoặc nhận đƣợc, kể cả các công ty do Chính phủ sở hữu, kiểm soát, hoặc hàng
hóa đó đƣợc thanh toán từ tiền của Chính phủ đều phải sử dụng tàu treo cờ
Philippine chuyên chở. Ngoài ra, khi hàng hóa xuất nhập khẩu hoặc việc vận
tải dùng tiền vay, tín dụng hoặc tiền do Chính phủ bảo lãnh thì việc vận tải
hàng hóa đó trƣớc tiên phải tận dụng tàu treo cờ Philippine.
Thái Lan cũng đã ký hợp đồng hàng hải với Trung Quốc và Việt Nam
(1979) quy định việc chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai bên ký kết
sẽ trên cơ sở phân chia 50/50. Nhƣng cách quy định này chỉ tồn tại trên văn
bản mà chƣa có hiệu lực và hiệu quả. Gần đây, Thái Lan và Việt Nam đã thỏa
thuận sẽ Nghị định thƣ thay đổi điều khoản này vì nó không thực tế và không
phù với cơ chế thị trƣờng hàng hải hiện nay.
Trong thực tế chính sách giành hàng cho tàu treo cờ quốc gia của các
nƣớc ASEAN chỉ còn có hiệu quả đối với vận tải nội địa và hàng hóa của
Chính phủ. Đó là do tính đến hiệu quả trong kinh doanh đối với cả việc xuất
nhập khẩu và vận tải. Thƣơng mại hóa dịch vụ vận tải và tính ƣu việt của tự
do cạnh tranh đã làm giảm giá thành vận tải qua đó tăng khả năng cạnh tranh
của hàng hóa xuất nhập khẩu.
74
Thay thế cho chính sách giành hàng, Chính phủ đã có các biện pháp ƣu
tiên, khuyến khích đội tàu quốc gia để làm tăng năng lực cạnh tranh của đội
tàu biển.
3.2.4. Chính sách xây dựng đội tàu biển do Nhà nước sở hữu
Các chính sách phát triển đội tàu biển quốc gia và giành hàng trên đây
ở giai đoạn đầu là phục vụ cho việc xây dựng đội tàu biển do Nhà nƣớc sở
hữu. Thời kỳ đầu trong chính sách bảo hộ, Chính phủ nhiều nƣớc đã tập trung
vốn xây dựng các công ty tàu biển quốc gia, sở hữu nhiều tàu làm ngƣời chủ
lực để vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu. Nhƣng do sự yếu kém trong kinh
doanh của các công ty này mà một phần là do ỷ lại vào sự bao cấp và bảo hộ
của Chính phủ cho nên các nƣớc dần tìm cách chuyển các công ty này thành
công ty cổ phần tƣ nhân. Nhà nƣớc chỉ nắm khoảng 20%-30% cổ phần mà
thôi. Xu hƣớng thƣơng mại hóa ngày càng tăng. Hiện nay Singapore không có
đội tàu do Nhà nƣớc sở hữu và kinh doanh khai thác. Công ty NOL trƣớc đây
là một công ty tàu biển Nhà nƣớc, nay Nhà nƣớc chỉ sở hữu từ 10-20% cổ
phần. Tại Thái Lan, Philippine còn có các công ty hàng hải Nhà nƣớc nhƣng
đã đƣợc cổ phần hóa. Tại Malaysia, Công ty hàng hải Nhà nƣớc là Công ty
mà Nhà nƣớc có cổ phần lớn nhƣ Malaysia International Shipping
Corporation (MISC), Perbadanan National Shipping Lines (PNSL) và Global
Marintime Sdn. Bhd.
3.2.5. Chính sách và biện pháp của Chính phủ hỗ trợ cho ngành hàng hải
Trong các chính sách và biện pháp hỗ trợ của Chính phủ cho ngành
hàng hải phát triển, nổi bật nhất là vấn đề thuế. Xin nêu thí dụ một số biện
pháp hỗ trợ của một vài nƣớc ASEAN:
Thái Lan đã từng có nhiều biện pháp hỗ trợ nhƣ:
75
- Chính phủ miễn thuế nhập khẩu đối với tàu biển có trọng tải trên
1000GRT và các phụ tùng, thiết bị của tàu biển. Cho dãn thuế thu nhập
trong việc kinh doanh tàu biển.
- Chính phủ đặc biệt khuyến khích các chủ tàu biển kinh doanh vận tải
biển quốc tế, với các chính sách cụ thể nhƣ: giảm thuế thu nhập đánh
vào thu nhập từ việc thuê tàu dùng cho vận tải quốc tế, miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp từ nguồn thu đƣợc qua bán tàu của công ty mà các
tàu này kinh doanh vận tải biển quốc tế nếu nguồn thu này phải dùng để
mua tàu thay thế trong vòng 1 năm, giảm thuế chuyển lợi nhuận cho
thu nhập từ thuê tàu dùng cho vận chuyển quốc tế mà phải trả cho
ngƣời nhận trong nƣớc, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho thu nhập
từ việc kinh doanh khai thác tàu treo cờ Thái...
3.2.6. Chính sách về thuyền viên
Các nƣớc ASEAN có quy định cụ thể để đảm bảo công ăn việc làm cho
thuyền viên của nƣớc mình.
Philippine là một trong những nƣớc xuất khẩu thuyền viên lớn nhất thế
giới đã quy định: Thuyền viên nƣớc ngoài có thể đƣợc thuê làm việc trên các
tàu chuyên dụng của Philippine cho thời gian là 6 tháng và chỉ làm những
việc phụ thêm, còn tàu treo cờ Philippine nói chung là phải thuê thuyền viên
Philippine.
Malaysia cho phép tàu treo cờ Malaysia đƣợc thuê thuyền viên nƣớc
ngoài làm việc tối đa là 25% biên chế của thuyền bộ.
Tại Thái Lan, theo quy định tàu treo cờ Thái kinh doanh quốc tế phải
có ít nhất 50% thuyền viên quốc tịch Thái. Trong trƣờng hợp chủ tàu Thái
không thể đáp ứng yêu cầu này thì đƣợc phép có ít nhất là 10% số thủy thủ có
quố tịch Thái.
76
Ngoài ra một số nƣớc ASEAN có chính sách đặc biệt đối với thuyền
viên của nƣớc mình. Thái Lan cho miễn thuế thu nhập cho các nguồn thu của
thuyền viên khi làm việc trên tàu Thái kinh doanh quốc tế, trong đó bao gồm
cả thuyền viên Thái và thuyền viên nƣớc ngoài. Philippine cũng quy định
thuyền viên của Philippine không phải nộp thuế thu nhập cho Nhà nƣớc.
3.2.7. Chính sách sửa chữa và đóng mới tàu biển
Nói chung các nƣớc ASEAN đều khuyến khích các chủ tàu sửa chữa
tàu ở trong nƣớc thay vì sửa chữa ở nƣớc ngoài.
Philippine có ngành dịch vụ sửa chữa tàu biển phát triển cho nên họ tìm
mọi cách khuyến khích nƣớc ngoài đƣa tàu đến sửa chữa tại Philippine. Đồng
thời có quy định cụ thể việc sửa chữa, hoán cải tàu hoặc lên đà các tàu do
Philippine sở hữu hoặc đăng ký treo cờ Philippine phải đƣợc tiến hành tại các
đà sửa chữa tàu trong nƣớc đã đăng ký với cơ quan quản lý hàng hải Marina.
3.3. Các giải pháp nhằm tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của đội tàu
buôn Việt Nam
Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn Việt
Nam chính là các biện pháp nhằm tác động vào các yếu tố cấu thành và các
yếu tố ảnh hƣởng tới năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn. Trên cơ sở phân
tích thực trạng đội tàu buôn Việt Nam, các thuận lợi và khó khăn cũng nhƣ
học tập kinh nghiệm của các nƣớc trong khu vực, dƣới đây xin nêu ra một số
giải pháp vi mô từ phía doanh nghiệp và một số kiến nghị vĩ mô từ phía nhà
nƣớc.
3.3.1. Các giải pháp vĩ mô
Nhằm tận dụng tối đa lợi thế so sánh vốn có của đất nƣớc, tạo điều kiện
ổn định pháp luật và chính sách, cải thiện môi trƣờng kinh doanh của doanh
nghiệp từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao các chỉ tiêu cạnh tranh
77
giá cả, chất lƣợng phục vụ và thời gian phục vụ, từ phía Nhà nƣớc xin nêu ra
một số giải pháp tổng thể với mục tiêu:
- Đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nƣớc trong lĩnh vực vận tải
biển
- Cải cách thủ tục hành chính
- Chủ động và có lộ trình thích hợp để hội nhập quốc tế lĩnh vực vận tải
biển
3.3.1.1. Đổi mới và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực vận
tải biển
Nhƣ đã phân tích ở trên, các doanh nghiệp vận tải biển Việt Nam chủ
yếu thuộc sở hữu Nhà nƣớc. Vào thời điểm mới hình thành, việc tập trung đầu
mối sở hữu nhƣ vậy giúp đội tàu buôn Việt Nam có đủ lực để đầu tƣ phát
triển. Hiện nay, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết định về cải cách sắp xếp tổ
chức lại các doanh nghiệp. Đây là biện pháp tổ chức quan trọng nhằm tăng
năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp, từ đó tăng năng lực cạnh tranh
của đội tàu buôn. Cổ phần hóa các doanh nghiệp sẽ phát huy đƣợc nội lực của
từng con ngƣời, phát huy đƣợc nguồn vốn và nâng cao chất lƣợng phục vụ.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nƣớc hoạt động trong lĩnh vực
vận tải biển phải tiến hành theo hƣớng giảm đầu mối, tập trung chuyên môn
hóa để có các doanh nghiệp đủ sức cạnh tranh tại thị trƣờng trong nƣớc, đồng
thời có khả năng vƣơn ra nƣớc ngoài chia sẻ thị trƣờng khu vực. Đối với các
doanh nghiệp quan trọng, Nhà nƣớc cần nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc
biệt, đồng thời cho nƣớc ngoài mua một số cổ phần để giữa đầu vào và tạo
cầu nối cho việc đầu tƣ ra nƣớc ngoài.
Song song với việc cổ phần hóa, Nhà nƣớc cần đầu tƣ để củng cố và
phát triển các Tổng Công ty thành các tập đoàn kinh tế mạnh giữ vai trò chủ
đạo của doanh nghiệp Nhà nƣớc trong cơ chế thị trƣờng, đồng thời tạo điều
78
kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của các Tổng Công ty Nhà nƣớc trên thị
trƣờng trong nƣớc cũng nhƣ giúp các doanh nghiệp xâm nhập thị trƣờng khu
vực và thế giới. Hiện nay, Nhà nƣớc đang triển khai mô hình Công ty mẹ con.
Thông qua đó, Nhà nƣớc có thể đầu tƣ vốn vào những lĩnh vực quan trọng,
cần nắm giữ, đồng thời chủ động điều tiết vốn theo định hƣớng cần thiết.
3.3.1.2. Nâng cao hiệu quả của phương thức điều hành, tiếp tục cải cách thủ
tục hành chính
Chẳng còn bao lâu nữa các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải hội nhập
hoàn toàn với các tổ chức kinh doanh trong khu vực trong cùng một môi
trƣờng bình đẳng, không còn bảo hộ. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn một số
cơ quan quản lý và không ít doanh nghiệp vẫn rất yên tâm và hài lòng với
hiện tại của chính mình. Khi hội nhập thì bảo hộ sẽ không còn, cạnh tranh,
chất lƣợng sản phẩm và dịch vụ... là yếu tố quyết định. Vấn đề không chỉ
dừng lại ở mức đổi mới công nghệ, nâng cao chất lƣợng sản phẩm mà còn cần
phải thay đổi cách nhìn nhận, cách quản lý của từng doanh nghiệp. Vì vậy,
trƣớc hết các cơ quan chức năng cần phải tổ chức tốt và phổ biến rộng rãi nội
dung của các Hiệp định mà Việt Nam tham gia và những cam kết ban đầu của
các nƣớc về vận tải đƣờng biển cho các cơ quan quản lý và tất cả các doanh
nghiệp có liên quan biết. Trên cơ sở nắm vững nội dung của các cam kết và
lịch trình thực hiện các cam kết này, các doanh nghiệp của ta hoàn thiện năng
lực của mình, tận dụng thời cơ kinh doanh có hiệu quả ở trong nƣớc, đồng
thời tìm cách vƣơn ra thị trƣờng khu vực. Muốn vậy, Nhà nƣớc cần có những
biện pháp nâng cao hiệu quả của phƣơng pháp điều hành nhƣ:
- Thông tin về tình hình phát triển khoa học công nghệ giao thông vận tải
của thế giới và khu vực cho các cơ quan và doanh nghiệp trong ngành
biết.
79
- Thông báo đầy đủ cho các cơ quan có liên quan và các doanh nghiệp
giao thông vận tải về tiến trình hợp tác, hội nhập giao thông vận tải của
các nƣớc trong khu vực và trên thế giới cũng nhƣ cáccam kết cso liên
quan của Việt Nam.
- Đảm bảo tính minh bạch và rõ ràng trong các luật lệ và quy định về
hoạt động và kinh doanh giao thông vận tải. Giới thiệu đầy đủ và kịp
thời các Hiệp định và văn bản pháp lý về hợp tác giao thông vận tải tới
các doanh nghiệp giao thông vận tải của Việt Nam.
- Củng cố và nâng cao năng lực hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề
dịch vụ vận tải biển liên quan nhƣ: Hiệp hội Chủ tàu Việt Nam, Hiệp
hội Giao nhận vận tải Việt Nam, Hiệp hội Đại lý Việt Nam... để bảo vệ
quyền lợi của các hội viên và phối hợp hành động trong việc cung cấp
các dịch vụ trong nƣớc cũng nhƣ ở ngoài nƣớc trong hội nhập và hợp
tác với khu vực và thế giới.
Bên cạnh việc nâng cao năng lực điều hành, việc cải cách thủ tục hành
chính cũng rất quan trọng. Yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải đơn giản hóa thủ
tục hải quan, cải tiến thủ tục quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với
thông lệ, các công ƣớc quốc tế góp phần thúc đẩy giao lƣu kinh tế và văn hóa,
giảm bớt những thách thức và nguy cơ tụt hậu so với các nƣớc trong khu vực
và trên thế giới. Cần tiếp tục hoàn thiện và đổi mới các công cụ nhƣ thuế nhập
khẩu, thủ tục hải quan, hạn ngạch xuất nhập khẩu, quản lý ngoại tệ, chính
sách tỷ giá hối đoái.
3.3.1.3. Chủ động và có lộ trình thích hợp để hội nhập quốc tế lĩnh vực vận
tải biển
Từ năm 2006, chúng ta dần phải mở cửa thị trƣờng cho tới khi hội nhập
hoàn toàn. Các doanh nghiệp trong nƣớc phải tự thân vận động kết hợp với sự
hỗ trợ của Nhà nƣớc để tự vƣơn lên trong thị trƣờng.
80
Trong những năm tới, bản thân các doanh nghiệp phải tự khẳng định
mình bằng cách nâng cao chất lƣợng phục vụ, hạ giá cƣớc... Tự do hóa hoàn
toàn lĩnh vực vận tải biển là một xu thế tất yếu của thời đại. Song để có đủ
thời gian cho các doanh nghiệp nƣớc ta vƣơn lên, đủ sức hòa nhập trƣớc khi
các công ty nƣớc ngoài đƣợc phép vào làm ăn tại thị trƣờng nội địa, Việt Nam
vẫn cần giữ độc quyền trong một số lĩnh vực kinh doanh vận tải biển đến thời
điểm cuối cùng phải tự do hóa hoàn toàn.
Trong các chính sách khuyến khích phát triển vận tải biển nên chú ý
kinh nghiệm của một số nƣớc ASEAN là khuyến khích nhằm vào phục vụ
đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa, chính là thị trƣờng của đội tàu buôn.
Từng bƣớc tự do hóa vận tải biển theo phƣơng châm đi dần từng bƣớc vững
chắc trên cơ sở năng lực của Việt Nam.
Từ những phân tích trên và căn cứ vào chính sách hàng hải của các
nƣớc ASEAN chúng ta có thể đề ra một số lộ trình hội nhập nhƣ sau:
* Giai đoạn từ nay đến năm 2010:
- Chỉ cho phép thành lập các văn phòng đại diện của chủ tàu.
- Đẩy mạnh liên doanh ở nƣớc ngoài với công ty chủ tàu nƣớc ngoài với
vốn góp Việt Nam không dƣới 30%.
- Khuyến khích các công ty tƣ nhân tham gia vận tải biển quốc tế.
* Giai đoạn từ 2011-2020:
- Không còn tỷ lệ giành cho đội tàu trong nƣớc mà theo thị trƣờng cạnh
tranh.
- Công ty con của chủ tàu đƣợc phép hoạt động.
Song song với quá trình hội nhập, ta phải chủ động gia nhập các công
ƣớc quốc tế. Một trong những nguồn quan trọng nhất của Luật quốc tế là các
điều ƣớc quốc tế. Điều này đặc biệt chính xác đối với Luật Hàng hải quốc tế.
Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là điều ƣớc quốc tế, khi có hiệu lực sẽ trở
81
nên ràng buộc đối với các bên tham gia. Nhiều nguyên tắc và quy phạm pháp
lý quan trọng trong Luật Hàng hải đã đƣợc đề ra, hoàn chỉnh tại các diễn đàn
quốc tế và đƣợc thể hiện thành các công ƣớc quốc tế.
Đáng chú ý là trong các công ƣớc hàng hải liên quan đế các vấn đề về
an toàn của tàu biển, bố trí thuyền bộ, điều kiện lao động, ngăn ngừa ô
nhiễm... có một loại quy định gọi là “điều khoản không đối xử ưu ái hơn”.
Điều khoản này quy định các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm bảo
đảm rằng các quy định của công ƣớc cũng sẽ đƣợc áp dụng đối với tàu nƣớc
ngoài treo cờ quốc tịch của một nƣớc không phải là thành viên, tƣơng tự nhƣ
áp dụng đối với tàu treo cờ của quốc gia thành viên. Về mặt ý nghĩa pháp lý,
các công ƣớc đó không có giá trị ràng buộc đối với các nƣớc không phải là
thành viên. Nhƣng khi tàu biển treo cờ các nƣớc này đến cảng hoặc ở trên
lãnh hải của các quốc gia thành viên thì chúng phải chịu sự điều chỉnh theo
các tiêu chuẩn đã quy định trong công ƣớc.
Một đặc điểm đáng lƣu ý nữa là tính chất tự thực hiện của các công ƣớc
về hàng hải. Hầu hết quy định trong các công ƣớc quốc tế đều nhằm vào các
chính phủ, thể hiện qua việc yêu cầu chính phủ của các quốc gia thành viên
công ƣớc phải có nghĩa vụ áp dụng các quy phạm này và thi hành các biện
pháp bảo đảm việc tuân thủ điều ƣớc. Nhƣng trong các công ƣớc về hàng hải,
nhiều quy định còn mang tính chất tự thực hiện, nghĩa là khi công ƣớc đã có
hiệu lực, thì nghĩa vụ thi hành công ƣớc là của các bên tƣ nhân (các công dân
và công ty) trong quốc gia thành viên đó. Đặc biệt, đối với các công ƣớc hàng
hải mang tính chất kỹ thuật thì các điều khoản của công ƣớc hoàn toàn mang
tính bắt buộc đối với các quốc gia thành viên và các bên tƣ nhân trong quốc
gia thành viên đó.
Cho đến năm 2005, Việt Nam đã tham gia 8 công ƣớc quốc tế về hàng
hải và Công ƣớc quốc tế của Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển
82
(UNCLOS 1982). Có thể nói, Việt Nam đã thực hiện tốt các điều ƣớc quốc tế
về hàng hải đã gia nhập, trong đó đáng chú ý là Công ƣớc quốc tế của Tổ
chức Hàng hải Quốc tế IMO về tiêu chuẩn đào tạo, cấp chứng chỉ và đi ca của
thuyền viên; Thỏa thuận Tokyo về kiểm soát Nhà nƣớc tại cảng (Tokyo
MOU); Các Hiệp định của ASEAN về vận tải và dịch vụ....
Tuy nhiên trong quá trình chủ động vƣơn ra hội nhập kinh tế quốc tế,
để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành Hàng hải nói chung, đội
tàu buôn nói riêng, trong một khung pháp lý chuyên ngành ngày càng hoàn
chỉnh, vừa bảo vệ đƣợc quyền lợi quốc gia, vừa phù hợp với tập quán và pháp
luật quốc tế, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu và nhanh chóng tham gia các
công ƣớc quốc tế có liên quan.
Bảng 3.1: Một số công ƣớc quốc tế về hàng hải Việt Nam đã tham gia
I. Công ƣớc về an toàn sinh mạng con ngƣời trên biển năm 1974,
sửa đổi bổ sung năm 1978
Công ƣớc về an toàn sinh mạng con ngƣời trên biển năm 1974
Ngày có hiệu lực: 25-5-1980
Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam: 18-3-1991
II. Công ƣớc quốc tế về Đƣờng mớn nƣớc năm 1966. (Load line 66)
- Nghị định thƣ sửa đổi, bổ sung năm 1988 (Load line Protocol 88)
- Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam: 03-02-2000
III. Công ƣớc về ngăn ngừa ô nhiễm dầu từ tàu biển năm 1973, sửa
đổi bổ sung năm 1978
- Ngày có hiệu lực: 2-10-1980
- Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam: 18 – 03 - 1991 (chỉ tham gia
Phụ lục Iⅈ đang đề xuất tham gia các phụ lục III, IV, V, VI)
83
IV. Công ƣớc về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm
dầu năm 1969, sửa đổi, bổ sung năm 1992
- Ngày Việt Nam gia nhập: 8-5-2003
- Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam: 17-6-2004
V. Công ƣớc về tạo thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế
năm 1965
- Ngày có hiệu lực: 05 - 03- 1967
- Ngày có hiệu lực đối với Việt Nam: 24 - 03 – 2006
(Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam – Tháng 3/2006)
3.3.2. Các giải pháp vi mô
3.3.2.1. Các giải pháp phát triển đội tàu
Năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng
kỹ thuật của đội tàu. Nhƣ trên đã nhận định, đội tàu Việt Nam không thiếu,
nhƣng chủ yếu là thiếu chất lƣợng. Do vậy, bên cạnh việc khai thác hiệu quả
các con tàu cũ nhằm vào thị trƣờng hàng trung bình, tập trung vốn và đổi mới
công nghệ để phát triển đội tàu theo hƣớng hiện đại hóa, trẻ hóa; kết hợp một
cách hợp lý giữa đa hạng hoá với chuyên môn hoá là một biện pháp nhằm
tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn trong dài hạn.
* Phát triển đội tàu theo hướng hiện đại hoá, trẻ hoá:
Nhƣ trên đã trình bày, tuy đã đƣợc trẻ hóa một phần nhƣng tuổi bình
quân của đội tàu buôn Việt Nam nói chung còn cao. Thêm vào đó phần lớn
các con tàu của Việt Nam đều đƣợc đóng với công nghệ lạc hậu, tính năng kỹ
thuật kém, chƣa phù hợp với điều kiện, tuyến đƣờng khai thác... dẫn đến
không thể chạy trên những tuyến vận chuyển xa và trung bình, chủ yếu chỉ có
thể chạy trên những tuyến hành hải gần, điều kiện thời tiết tốt hoặc chạy ven
biển. Từ những số liệu trên đây, chúng ta phải nhìn nhận một thức tế khách
quan là: khả năng cạnh tranh của đội tàu Việt Nam hiện nay là yếu. Vì thế
84
muốn tăng năng lực cạnh tranh của đội tàu Việt Nam về lâu dài thì điều trƣớc
tiên là phải đầu tƣ trẻ hóa đội tàu, mua những con tàu mới hơn, có đặc tính kỹ
thuật hiện đại hơn, kết cấu hợp lý và phù hợp với từng loại hàng hóa cần
chuyên chở, có khả năng hành hải trên những tuyến đƣờng có điều kiện thời
tiết khắc nghiệt... để đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng khắt khe hơn trong việc
lựa chọn tàu để đảm bảo an toàn cho hàng hóa của họ cũng nhƣ an toan chung
cho môi trƣờng, con ngƣời... Ví dụ: Với yêu cầu của chủ hàng thuê tàu tối đa
là 20 tuổi, chủ tàu phải chịu chi phí tàu già từ trên 15 tuổi đến 20 tuổi. Ngoài
ra chủ tàu còn phải xuất trình giấy chứng nhận tuân thủ (D.O.C) đối với bộ
máy quản lý và chứng chỉ quản lý an toàn (S.M.C) đối với con tàu theo quy
định của Bộ Luật Quản lý an toàn quốc tế.
* Phát triển đội tàu chuyên dụng:
Đội tàu của Việt Nam còn thiếu những con tàu chuyên dụng với công
nghệ đóng tàu tiên tiến, hiện đại nhƣ tàu chở dầu hai vỏ, tàu chở ga hóa lỏng,
hóa chất, tàu chở xi măng rời... Thực tế khai thác những con tàu chuyên dụng
có khả năng mang lại hiệu quả cao với hệ số sử dụng khả năng chuyên chở
lớn, giải phóng tàu nhanh chóng do các công đoạn khác trong khai thác tàu đã
đƣợc chuyên môn hóa cao nhƣ: thiết bị xếp dỡ, hệ thống kho bãi, phƣơng tiện
vận tải và tiếp nhận tại hai đầu bến... Vì vậy, trên cơ sở khả năng thực tế về
tài chính, năng lực quản lý, thị trƣờng hoạt động, trình độ sỹ quan thuyền
viên, đội tàu chuyên dụng phải đƣợc phát triển theo hƣớng chuyên môn hóa
phù hợp với cơ cấu hàng hóa và với xu thế chuyên dụng hóa đội tàu thế giới.
Chỉ khi đó đội tàu Việt Nam mới đủ khả năng tham gia bình đẳng vào thị
trƣờng vận tải thế giới và khu vực.
Hiện tại, Việt Nam rất thiếu các đội tàu chuyên dụng. Đội tàu dầu chƣa
đáp ứng đƣợc nhu cầu vận tải trong nƣớc. Tàu chở khí hóa lỏng mới chỉ vừa
đƣợc đầu tƣ còn yếu kém cả về mặt kỹ thuật cũng nhƣ kỹ năng khai thác. Ta
85
xác định rõ phát triển mạnh đội tàu chuyên dụng, đến năm 2010 bổ sung thêm
1.113.447DWT tàu dầu, 470.236DWT tàu Container và 1.647.653 DWT tàu
hàng khô.
Một câu hỏi đặt ra là làm thế nào để trẻ hóa và chuyên môn hóa đội tàu
trong khi ngành đóng tàu của Việt Nam và năng lực của các doanh nghiệp vận
tải Việt Nam còn rất hạn chế, nguồn vốn để tái đầu tƣ tài sản cố định rất ít.
Chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng vay vốn ngân hàng để đầu tƣ mua
phƣơng tiện mới, khai thác và trả nợ ngân hàng. Phần lớn các doanh nghiệp
khác đều không có đƣợc những dự án khả thi để vay mua và khai thác tàu. Lý
do là những doanh nghiệp này không có nguồn vốn tự có hoặc quá ít nên
muốn đầu tƣ phải vay ngân hàng toàn bộ, thời gian trả nợ lâu, lãi vay lớn... và
với lãi suất kinh doanh vận tải biển thấp thì không đủ khả năng trả vốn và lãi
cho ngân hàng. Để giải quyết vấn đề này, xin đề xuất một số giải pháp cụ thể
sau:
- Phát triển đội tàu viễn dƣơng nhất là tàu chở Container, tàu chở dầu và
tàu chở hàng khô loại lớn nhằm tăng nhanh đội thƣơng thuyền cả nƣớc.
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển đội tàu viễn dƣơng với các hình thức
thuê (thuê định hạn, thuê tàu trần, thuê tàu dài hạn) nhằm tăng nhanh
thị phần chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu kết hợp với việc chở thuê
cho nƣớc ngoài nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và chiếm lĩnh thị
trƣờng khu vực.
- Tiếp tục đề nghị Nhà nƣớc và Chính phủ có biện pháp hỗ trợ nhƣ:
+ Kiên quyết chấn chỉnh những doanh nghiệp đã và đang làm ăn thua
lỗ, các doanh nghiệp đang quản lý những con tàu quá cũ hết khấu hao từ lâu.
Việc khai thác đội tàu cũ này rất mất an toàn cho con ngƣời, hàng hóa vận
chuyển trên tàu cũng nhƣ cho môi trƣờng biển. Mặt khác, việc tiếp tục sử
dụng những con tàu quá cũ dẫn đến cung vƣợt cầu, một số chủ tàu sẽ không
86
có cơ hội để phát triển, trẻ hóa vì những tàu mới mua về với giá thành, khấu
hao cao hơn sẽ khó có thể cạnh tranh đƣợc.
+ Đơn giản hóa các thủ tục để giải bản đối với những con tàu quá cũ và
không cấp giấy phép chạy tuyến nƣớc ngoài cho tàu quá cũ. Sau khi đã quá
tuổi khai thác, có thể tận dung nhƣng chỉ đƣợc khai thác tuyến nội địa và thời
gian khai thác cũng không quá 5 năm.
* Tập trung phát triển đội tàu cỡ nhỏ và vừa, kết hợp hợp lý giữa khai
thác tàu cũ và mới:
Hiện nay, các hãng tàu lớn đều tập trung khai thác những con tàu có
sức chở lớn, kinh doanh tuyến dài tạo ra thị trƣờng tàu nhỏ, tuyến khai thác
ngắn cho đội tàu Việt Nam tiếp cận.
Các đơn hàng đóng mới của các hãng tàu quốc tế chủ yếu tập trung vào
loại tàu dầu cỡ lớn trên 100.000 tấn (Anframax), tàu Container cỡ 4-5000 tấn.
Trong tƣơng lai các con tàu này chỉ tập trung khai thác trên các tuyến xa và
cập cảng tại những cảng lớn. Phù hợp với năng lực hiện có, Việt Nam tập
trung vào phần thị trƣờng đang dần đƣợc bỏ ngỏ đó là các tuyến đƣờng gần và
kinh doanh khai thác các tàu nhỏ. Trƣớc mắt, ta nên đầu tƣ đội tàu hàng cỡ 30
– 50 vạn tấn (tàu Handymax), tàu Container cỡ 1000TEU, tàu dầu đến
100.000 tấn. Các con tàu trên có thể vừa phục vụ nhu cầu vận tải hàng hoá
xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nƣớc vừa phục vụ nhu cầu vận tải
nội địa. Hiện nay, nhu cầu vận chuyển hàng hoá phục vụ các khu công nghiệp
và khu kinh tế mới nhƣ cụm kinh tế miền Trung Dung Quất là một thị trƣờng
tiềm năng cho các con tàu này. Nhắm vào thị trƣờng tiềm năng cũng là một
biện pháp tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của đội tàu buôn Việt Nam.
Song song với việc phát triển đội tàu, cũng cần khai thác hợp lý giữa
tàu cũ và tàu mới. Các con tàu cũ có ƣu điểm rất lớn là khấu hao thấp, tạo ra
khả năng cạnh tranh giá cho đội tàu.
87
3.3.2.2. Các giải pháp đào tạo con người
Năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn phụ thuộc nhiều vào yếu tố cơ sở
vật chất của đội tàu, nhƣng việc sử dụng có hiệu quả cở sở vật chất đó lại là
yếu tố con ngƣời. Có một nghịch lý là hiện nay ngƣời của chúng ta đông
nhƣng tay nghề lại chƣa cao, còn thua kém nhiều nƣớc trong khu vực. Do vậy
trong những năm tới, việc đào tạo, thu hút chất xám là rất cần thiết. Ngƣời
làm vận tải phải vừa có trình độ kiến thức vận tải biển, ngoại thƣơng... lại vừa
phải có trình độ ngoại ngữ. Hầu hết các chuyên gia kinh tế đều nhận xét trình
độ ngoại ngữ, đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam chƣa cao, hiểu biết
về luật lệ quốc tế còn hạn chế, tài liệu và các thông tin có liên quan còn thiếu
và nắm bắt chƣa kịp thời. Vì vậy để có thể cạnh tranh thắng lợi, ngay từ bây
giờ ngoài việc củng cố về tổ chức và đầu tƣ nâng cấp cơ sở vật chất, chúng ta
phải tìm cách bồi dƣỡng, đào tạo và nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực
chuyên môn của đội ngũ thuyền viên cũng nhƣ cán bộ làm công tác điều hành
và khai thác. Cần có các trung tâm đào tạo và tạo điều kiện để các cơ sở đào
tạo học tập kinh nghiệm của các cơ sở hàng hải của các nƣớc có truyền thống,
giàu kinh nghiệm. Các cơ sở đào tạo cần thiết phải cải tiến nội dung chƣơng
trình cho phù hợp, cập nhật thành tựu công nghệ mới, nâng cao trình độ và
chất lƣợng đào tạo.
Ngoài việc đào tạo trong nƣớc, cần tổ chức và khuyến khích cho nhân
viên đƣợc đi học và thực tập tại nƣớc ngoài để có thể lĩnh hội đƣợc những
kiến thức cập nhật nhất của thế giới. Đồng thời, tranh thủ việc đào tạo của các
tổ chức mà ta gia nhập và các hợp đồng, dự án hợp tác để gửi cán bộ đi đào
tạo, tăng cƣờng quan hệ với các tổ chức có liên quan.
Cũng nên xem xét để thực hiện chế độ tuyển dụng, bổ nhiệm gắn quyền
lợi và nghĩa vụ của một số chức danh với kết quả hoạt hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
88
Đối với đội tàu buôn, đội ngũ sỹ quan thuyên viên là yếu tố con ngƣời
quan trọng để tăng tính cạnh tranh của đội tàu Việt Nam. Cũng nhƣ tình trạng
đội ngũ cán bộ trên bờ, đội ngũ sỹ quan thuyền viên của Việt Nam tƣơng đối
nhiều nhƣng trình độ chuyên môn cũng nhƣ trình độ ngoại ngữ phần lớn chƣa
đáp ứng đƣợc yêu cầu công việc. Bộ luật Quản lý an toàn Quốc tế đã chỉ ra:
Các tai nạn xảy ra trong lĩnh vực hàng hải đến 80% là do yếu tố con ngƣời
gây ra, trong đó trình độ, kinh nghiệm từng trải của các sỹ quan quản lý mà
Thuyền trƣởng và Máy trƣởng đóng vai trò hết sức quan trọng.
Hiện nay việc đào tạo, tái đào tạo và nâng cao trình độ của sỹ quan
thuyền viên đều do các chủ tàu tự làm theo quan điểm và khả năng của từng
công ty mà chƣa có sự điều tra, khảo sát, cân đối lập kế hoạch cho toàn bộ đội
tàu. Do đó, việc đào tạo đội ngũ sỹ quan thuyền viên cần đƣợc tiến hành trên
cơ sở:
- Theo kế hoạch đƣợc lập, căn cứ theo nhu cầu của cả đội tàu, cơ cấu đội
tàu cũng nhƣ nhu cầu phát triển dịch vụ xuất nhập khẩu thuyền viên.
- Chú trọng đặc biệt đào tạo ngoại ngữ nhằm tăng khả năng giao tiếp,
ứng xử cho độ ngũ sỹ quan quản lý khi đến các cảng nƣớc ngoài, đồng
thời tạo điều kiện thiết thực để mở rộng và đẩy mạnh việc cho thuê
thuyền viên đi làm việc trên các tàu nƣớc ngoài.
- Cần lƣu ý nâng cao hiểu biết về thƣơng vụ cho các sỹ quan quản lý
khối boong để học chủ động giải quyết các công việc một cách có hiệu
quả nhất trong quá trình khai thác tàu.
Để nâng cao chất lƣợng con ngƣời, ngoài việc đào tạo nâng cao nghiệp
vụ còn có thể đƣa ra một số biện pháp khuyến khích ngƣời lao động hăng say
làm việc. Ví dụ:
- Có chính sách trả lƣơng căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của tàu đối với
sỹ quan và thuyền viên làm việc trên các tuyến hàng hải quốc tế. Ngoài
89
ra nên có các chính sách phụ cấp và khuyến khích tài chính cao hơn
nữa đối với các sỹ quan, thuyền viên nhƣ phụ cấp độc hại đối với tàu
chở dầu, phụ cấp khó khăn nguy hiểm, phụ cấp đắt đỏ...
- Có chế độ thƣởng cho các thuyền viên tự sửa chữa đƣợc những hƣ
hỏng trên tàu với giá rẻ hơn giá sửa chữa tại khu vực.
- Các đơn vị vận tải đƣa thuyền viên đi làm thuê trên tàu nƣớc ngoài có
thể trích ngoại tệ trả trực tiếp cho thuyền viên.
3.3.2.3. Các giải pháp về thị trường
Trƣớc xu thế hội nhập tất yếu, các biện pháp hỗ trợ về mặt thị trƣờng
của Nhà nƣớc nhƣ giành hàng cho đội tàu quốc gia sẽ dẫn bị bãi bỏ. Các
chính sách khuyến khích chủ hàng xuất nhập khẩu sử dụng đội tàu quốc gia
đem lại hiệu quả cũng rất hạn chế. Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi cách
nghĩ, các biện pháp hỗ trợ, ƣu đãi hay bảo hộ nếu có đƣợc thì đây là những
yếu tố mang tính nội bộ trong mỗi quốc gia và cũng chỉ tồn tại trogn một thời
gian ngắn nữa. Chúng không giúp đƣợc đội tàu cạnh tranh tranh trong trƣờng
hợp chở thuê giữa các cảng nƣớc ngoài cũng nhƣ khi Việt Nam hội nhập hoàn
toàn.
Để đội tàu buôn Việt Nam thực sự ngang tầm và đủ sức hội nhập quốc
tếm tiếp tục giữ đƣợc và tăng dần thị phần vận tải chuyên chở hàng xuất nhập
khẩu của Việt Nam cũng nhƣ chở thuê cho nƣớc ngoài, dƣới đây xin nêu một
số giải pháp:
- Tiếp tục tìm các nguồn vốn đầu tƣ để đầu tƣ cơ cấu lại đội tàu, đẩy
mạnh trẻ hóa, hiện đại hóa, chuyên môn hóa các loại tàu phù hợp với
nhu cầu của thị trƣờng và đòi hỏi của khách hàng.
- Thực sự tuân thủ đầy đủ Bộ Luật Quản lý an toàn quốc tế và các công
ƣớc, các luật lệ quốc tế.
90
- Có kế hoạch phát triển hệ thống môi giới hàng hải chuyên nghiệp để
mở rộng tìm hàng cho độ tàu chuyên chở. Trƣớc hết nhằm vào các chủ
hàng xuất nhập khẩu trong nƣớc, sau đó tham gia từng bƣớc vào hệ
thống môi giới quốc tế để tìm hàng cho đội tàu hoạt động ở bất cứ
tuyến nào, khu vực nào mang lại lợi nhuận cao.
- Đội tàu trƣớc mắt tập trung khai thác các tàu chở dầu thô từ 6 đến 9 vạn
tấn vận chuyển cho nhà máy lọc dầu Dung Quất. Trên tuyến quốc tế,
tập trung khai thác thị trƣờng Châu Á là tuyến trung bình; từ đó học tập
kinh nghiệm và tích lỹ vốn để mở tuyến xa hơn đi Châu Âu và Châu
Mỹ.
3.3.2.4. Các giải pháp về mặt tổ chức
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một
giải pháp về mặt tổ chức đó là cổ phần hóa các doanh nghiệp.
Nhƣ đã trình bày, phần lớn các doanh nghiệp kinh doanh khai thác tàu
buôn là thuộc sở hữu Nhà nƣớc, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp vận tải biển, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của đội tàu
buôn Việt Nam cần tổ chức triển khai chƣơng trình cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nƣớc.
Thông qua cổ phần hóa cũng nâng cao đƣợc nguồn vốn tự có của doanh
nghiệp. Thực hiện việc cho phép doanh nghiệp nƣớc ngoài đƣợc mua cổ phần
không quá 30%.
Đối với doanh nghiệp cổ phần mới thành lập có thể để thành phần nƣớc
ngoài tham gia cổ phần tỳƣ 10-20% để thực hiện việc kinh doanh xen kẽ, phát
triển và giữ thị trƣờng.
Tóm lại, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nƣớc đang từng
bƣớc thực hiện tự do hóa và thƣơng mại hóa các lĩnh vực trong đó có vận tải
91
biển, tìm cách nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế
quốc tế.
Để đội tàu buôn Việt Nam có thể hội nhập, tham gia hoạt động kinh
doanh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp trong khu vực, ngoài những
chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc, bản thân mỗi doanh nghiệp phải nắm thời cơ
của giai đoạn chuyển đổi để nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất kinh
doanh, nâng cao hiệu quả cạnh tranh trong hợp tác, không ỷ lại vào chính sách
bảo hộ tạm thời của Nhà nƣớc.
92
KẾT LUẬN
Nâng cao năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn Việt Nam là một tất yếu
khách quan cũng nhƣ là một đòi hỏi bức xúc trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên sức cạnh tranh của đội tàu buôn Việt Nam
trên cả thị trƣờng trong nƣớc và quốc tế còn thấp. Vì vậy luận văn này đƣợc
hoàn thành nhằm mục đích tạo lập những cơ sở lý luận và cập nhật thực tiễn
cho việc đề xuất các giả pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của đội tàu buôn
Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế.
Luận văn đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh,
sức cạnh tranh của đội tàu buôn trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế; làm rõ
khái niệm và đặc điểm của kinh doanh khai thác độ tàu, từ đó nêu bật sự cần
thiết khách quan phải nâng cao năng lực cạnh tranh của đội tàu buôn; đƣa ra
các yếu tố cấu thành cũng nhƣ một hệ thống các nhân tố ảnh hƣởng đến sức
cạnh tranh của đội tàu buôn.
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích các số liệu từ nhiều nguồn tài liệu khác
nhau, tác giả phân tích hệ thống và toàn diện thực trạng sức cạnh tranh của
đội tàu buôn Việt Nam. Qua đó cho thấy, đội tàu buôn Việt Nam phát triển
trong những năm qua nhƣng còn lạc hậu, chƣa có khả năng tự tái đầu tƣ, còn
phụ thuộc rất lớn vào tình hình tài trợ vốn của ngân hàng và các tổ chức tín
dụng. Sức cạnh tranh của đội tàu buôn còn thấp, mất thị phần trên chính sân
nhà, chỉ đảm nhận đƣợc 18% nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất nhập khẩu
của nƣớc nhà.
Song song với việc phân tích thực trạng đội tàu buôn, tác giả nêu lên
một số bài học kinh nghiệm của một số nƣớc trong khu vực, từ đó đƣa ra quan
điểm, mục đích phát triển đội tàu buôn Việt Nam. Tác giả đã liệt kê các giải
93
pháp và kiến nghị có chọn lọc nhằm nâng cao năng lực của đội tàu buôn Việt
Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, một điều cần khẳng định là hội nhập là con đƣờng phát triển
tất yếu nhƣng không bằng phẳng. Để có thể thành công trong quá trình mở
cửa, các doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp vận tải cần phải chuẩn bị tốt
về mọi mặt. Bên cạnh đó những cố gắng của doanh nghiệp chỉ mang lại kết
quả mong muốn khi môi trƣờng kinh doanh đƣợc cải thiện, Nhà nƣớc có các
chính sách hỗ trợ hữu hiệu trên cơ sở một lộ trình hội nhập hoàn chỉnh và toàn
diện.
94
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1 Adam J.H (1993), Từ điển rút gọn về kinh doanh, NXB Longman York
Press
2 Báo Giao thông vận tải online (2005), Làm gì để tăng thị phần vận tải
3 Báo Giao thông vận tải online (2005), Nỗi lo tàu nhỏ ra biển lớn
4 Báo VISABATIMES, Số 79/80 Tháng 2/2006
5 Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ (1999), Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội
6 Bộ Thƣơng mại, Báo cáo kim ngạch XNK theo mặt hàng và thị trường
các năm từ 2000 - 2005
7 Các Mác (1978), Mác - ĂngGhen toàn tập, NXB Sự Thật, Hà Nội
8 Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đại hội Đảng IX, NXB
Chính trị Quốc gia
9 Đăng kiểm Việt Nam (2006), Báo cáo thống kê tàu biển năm 2005-
2006
10 Hiệp hội chủ tàu (2005), Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp
vận tải biển
11 Luật Hàng hải Việt Nam 2005, Bản điện tử
12 Nguyễn Bách Khoa (2004), Phương pháp luận xác định năng lực cạnh
tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp, Tạp chí Khoa học
thƣơng mại số 4+5, Hà Nội
13 Nguyễn Vĩnh Thanh (2005), Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp thơng mại thơng mại Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
14 Peters. G.H. (1995), Khả năng cạnh tranh của nông nghiệp: Lực lượng
thị trường và lựa chọn chính sách, NXB Darmouth
95
15 Phạm Mạnh Hiền (2005), Nghiệp vụ giao nhận vận tải và bảo hiểm
trong ngoại thương, NXB Thống kê
16 Quyết định số 1195/QĐ-TTg (01/11/2003) của Thủ tƣớng chính phủ,
Phê duyệt quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020
17 Quyết định số 149/2003/QĐ-TTg (21/07/2003) của Thủ tớng chính
phủ, Một số chính sách và cơ chế khuyến khích phát triển đội tàu biển
Việt Nam
18 Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp
tàu thủy Việt Nam số 6,14
19 Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (2001), Báo cáo tóm tắt định hướng
phát triển đến năm 2010
20 Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam (2002), Nghiên cứu các giải pháp
tăng năng lực cạnh tranh của ngành hàng hải Việt Nam, Đề tài cấp
Nhà nƣớc
21 Trƣờng ĐH Ngoại Thƣơng (2005), Giáo trình Vận tải và giao nhận
trong ngoại thương, NXB Lý luận chính trị
22 Từ điển Bách Khoa (1995), NXB Từ điển Bách Khoa, Hà Nội
23 Viện ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt
24 Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ƣơng và Chƣơng trình phát
triển Liên Hợp Quốc (2002), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia,
NXB Giao Thông Vận tải, Hà Nội
Tiếng Anh
25 Guidline Instrusments on Equitaisation in Vietnam - Vietnam Chamber
of Commerce and Industry
26 IMO Library Services (2005), Shipping: A save and frendly business -
96
Facts and fingures
27 International Journal of Transport Economic - 4 issues - University of
Roma - "La Sapienza"
28 Tạp chí Fairplay các số năm 2005-2006
29 Tạp chí Trade Wind các số năm 2005-2006
30 UNCTAD (2001), Review of marinetime transport 2001
Trang web
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3084_1466.pdf