Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực
GTĐB với những vấn đề như đưa ra khái niệm quản lý, quản lý xã hội, QLNN từ đó
xây dựng khái niệm QLNN bằng pháp luật. Đặc biệt luận văn đã đi sâu phân tích khái
niệm, đặc điểm, nội dung QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Nội dung
QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB được phân tích trên ba khâu có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Đó là xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB; tổ chức thực hiện
pháp luật GTĐB; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB. Trên cơ sở phân tích nội dung
QLNN bằng pháp luật, luận văn đã nêu bật vai trò của QLNN bằng pháp luật trong
lĩnh vực GTĐB nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội; trật tự an toàn xã hội, củng
cố quốc phòng an ninh và thúc đẩy giao lưu hội nhập khu vực và quốc tế.
102 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3325 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uật về xe cơ giới năm 1979; Luật về xe không có động cơ.
Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần làm tốt công tác tổ chức, hướng dẫn
nhân dân đóng góp nhiều ý kiến góp phần bổ sung, hoàn thiện pháp luật GTĐB. Pháp
luật GTĐB có liên quan đến mọi tầng lớp nhân dân, liên quan mật thiết đến sự phát triển
kinh tế xã hội, đến tâm tư, tình cảm của mỗi người. Vì vậy, việc ban hành pháp luật
GTĐB cần phải có sự đóng góp ý kiến của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội
thì hiệu quả của pháp luật GTĐB mới được phát huy cao nhất trong đời sống xã hội.
Một vấn đề cần đặc biệt chú ý nữa là khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật
GTĐB phải đảm bảo được tính đồng bộ. Bởi lẽ, để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực GTĐB cần rất nhiều quy phạm đồng bộ của nhiều ngành luật như
Luật Hiến pháp (quy định tổ chức, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước
trong lĩnh vực GTĐB) Luật hành chính (phần lớn các văn bản QPPL GTĐB thuộc
Luật hành chính), Luật hình sự (quy định tội phạm và hình phạt trong lĩnh vực GTĐB
); Luật đất đai (quy định quản lý đất dành cho đường bộ, công trình đường bộ)… Do
đó, cùng với việc cụ thể hoá Luật Giao thông đường bộ thì cần chú ý sửa đổi bổ sung,
hoàn thiện các QPPL có liên quan đến lĩnh vực GTĐB ở các ngành luật khác nhau. Có
như thế mới phát huy được vai trò của pháp luật GTĐB trong hoạt động QLNN trong
lĩnh vực GTĐB.
Xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB, ngoài việc đảm bảo chất lượng nội dung
cần phải đúng tiến độ và đúng quy trình và thể hiện qua kỹ thuật lập pháp cao; không
để xảy ra trình trạng thiếu vắng QPPL GTĐB trong khi quan hệ xã hội phát sinh trong
lĩnh vực GTĐB đòi hỏi phải có QPPL điều chỉnh. Trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật GTĐB phải xác định chính xác, khoa học những căn cứ để xây dựng và
hoàn thiện pháp luật GTĐB. Thực tế cho rằng: khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật
GTĐB phải bám sát vào đường lối; chủ trương chính sách của Đảng về xây dựng kiện
toàn tổ chức bộ máy nhà nước, hoàn thiện khung pháp luật nói chung, chính sách,
chiến lược phát triển giao thông vận tải trong đó có GTĐB; căn cứ vào những quy
định của Hiến pháp, kinh nghiệm xây dựng pháp luật của nước ta trong thời gian qua
(trong đó có kinh nghiệm xây dựng pháp luật GTĐB); học tập kinh nghiệm của các
nước, dựa vào các công ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực GTĐB để đảm bảo tính
phù hợp với thông lệ quốc tế về GTĐB.
Ngoài ra, trong quá trình xây dựng và hoàn pháp luật GTĐB cần quán triệt sâu
sắc các nguyên tắc có tính chỉ đạo cho hoạt động lập pháp, lập quy nói chung. Đó là
các nguyên tắc khoa học, nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc phù
hợp giữa luật quốc gia và luật quốc tế… Những nguyên tắc này cũng phải được tôn
trọng và vận dụng trong hoạt đông xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB. Song
song đó, khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB cần quan tâm đến các nguyên
tắc chỉ đạo xây dựng nội dung, nguyên tắc có tính kỹ thuật, pháp lý chuyên môn. Mặt
khác, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng cần có sự phối hợp nhịp
nhàng của nhiều cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB. Bởi lẽ, quản lý lĩnh
vực GTĐB có rất nhiều cơ quan, mỗi cơ quan đảm trách một số công việc khác nhau,
công việc nào cơ quan đó đảm trách thì chính cơ quan đó thấu hiểu nhiều nhất. Vì vậy,
nếu có cơ chế phối hợp nhịp nhàng để họ cùng đóng góp ý kiến, cùng soạn thảo thì
chất lượng văn bản QPPL sẽ được đảm bảo hơn. Ví dụ khi soạn thảo những quy định
về tuần tra, kiểm soát GTĐB thì phải có sự phối hợp nhịp nhàng giữa Bộ Giao thông
vận tải và Bộ Công an.
Một vấn đề nữa cần lưu ý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB là vấn
đề xây dựng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác soạn thảo văn bản QLNN trong lĩnh
vực GTĐB. Ngoài phẩm chất chính trị, đạo đức, họ còn phải đủ năng lực chuyên môn.
Năng lực chuyên môn ở đây tức là họ phải có sự am tường, hiểu biết sâu sắc về lĩnh
vực GTĐB và phải có trình độ pháp lý nhất định. Tránh tình trạng các cán bộ soạn
thảo chỉ có trình độ chuyên môn về lĩnh vực đó mà lại thiếu trình độ pháp lý dẫn đến
những sai sót vế kỹ năng soạn thảo, non kém về kiến thức pháp lý; nhưng cũng tránh
tình trạng cán bộ soạn thảo chỉ có trình độ pháp lý mà lại hụt hẫng trình độ chuyên
môn về lĩnh vực cần được QPPL điều chỉnh nên dễ dẫn đến văn bản soạn thảo thiếu
tính khoa học, tính thực tiễn.
3.2.2. Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật giao thông đường
bộ
Để tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB, cần phải thực hiện
các công việc sau đây:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục hướng dẫn pháp
luật GTĐB.
Cùng với việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB, việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật GTĐB một cách thường xuyên, sâu rộng trong các tầng lớp
nhân dân, để mọi người nắm được và chấp hành nghiêm chỉnh phải được hết sức coi
trọng. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ hàng
đầu nhằm từng bước nâng cao dân trí pháp lý, nâng cao năng lực thực hiện đúng đắn,
nghiêm chỉnh pháp luật, xác lập kỷ cương, phát huy dân chủ, ổn định chính trị xã hội,
xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Trong những năm qua, chúng ta đã chú ý duy trì công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật GTĐB. Có thể nói ý thức pháp luật của một số người tham gia GTĐB
đã được nâng lên đáng kể, song nhìn chung ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế, tình trạng
vi phạm pháp luật GTĐB còn nhiều, một số người vi phạm do không hiểu biết pháp luật
GTĐB, nhưng không ít người có hiểu biết nhưng ý thức chấp hành kém, cố tình vi phạm
các quy định về đảm bảo trật tự an toàn GTĐB. Qua phân tích các trường hợp vi phạm
pháp luật GTĐB đã được kiểm tra, phát hiện và các lỗi gây tai nạn GTĐB trong những
năm qua thì do người tham gia GTĐB chiếm tỷ lệ đến 80%, thường do lái xe vi phạm tốc
độ, tránh vượt, sử dụng rượu bia. Trong những nguyên nhân do người tham gia giao thông
gây tai nạn thì lỗi do người điều khiển phương tiện chiếm phần lớn và là nguyên nhân trực
tiếp.
Vì vậy, một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu là thường xuyên tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật GTĐB. Điều này đóng vai trò hết sức quan trọng,
góp phần nâng cao dân trí và ý thức chấp hành pháp luật GTĐB nhằm kiềm chế mức
độ gia tăng số người chết vì tai nạn GTĐB. Khi trình độ dân trí đã được nâng cao, kết
cấu hạ tầng GTĐB đã được hoàn thiện, phương tiện tham gia giao thông giảm thì sẽ
đạt được mục tiêu giảm tai nạn GTĐB. Tuy nhiên, do nhận thức, thói quen, lối sống
của người dân, nên để việc thực hiện pháp luật GTĐB trở thành nếp sống của từng
người dân đòi hỏi phải có thời gian, nhiều khi có kết quả ở những thế hệ sau. Điều này
có ý nghĩa đây là biện pháp phải thực hiện hết sức kiên trì, thường xuyên và lâu dài.
Mục đích của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật GTĐB sẽ có
những mức độ khác nhau, có thể chia ra trình độ:
Trình độ đầu là:
- Nâng cao sự am hiểu pháp luật GTĐB.
- Hình thành lòng tin vào sự cần thiết đối với pháp luật GTĐB.
- Đạt được sự đồng cảm với pháp luật GTĐB
Trình độ thứ hai:
- Hình thành tình cảm tôn trọng pháp luật GTĐB.
- Hình thành thái độ không khoan nhượng đối với các vi phạm pháp luật GTĐB
ở mức độ xử lý vi phạm hành chính và cấu thành tội phạm.
- Hình thành hành vi pháp chế trong lĩnh vực GTĐB, tập quán và thói quen xử
sự theo quy định của pháp luật GTĐB.
- Hình thành hành vi tích cực trong hoạt động GTĐB.
Về lý luận chúng ta có thể phân tích rạch ròi và đề ra yêu cầu đối với toàn thể
cộng đồng, thực tế các mức độ trên có thể hình thành ở mỗi vùng dân cư, mỗi người
trong một cộng đồng sớm muộn khác nhau.
Hiện nay, “chúng ta chỉ hy vọng nâng cao sự hiểu biết những quy định về trật tự
an toàn giao thông, sau 10 năm, 20 năm nữa nếu kiên trì giáo dục pháp luật chúng ta sẽ
có một thế hệ đạt được những yêu cầu ở trình độ thứ hai” [7, tr.51].
Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật GTĐB cần phải nghiên cứu cho
phù hợp với từng đối tượng. Cần tập trung vào các đối tượng học sinh, thiếu niên,
thanh niên; người sử dụng môtô, xe máy; người điều khiển xe thô sơ; người lái ôtô;
cán bộ công nhân viên chức ở các cơ quan xí nghiệp, nhân dân sống ven đường. Cần
có nội dung, hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú, thiết thực.
Những nội dung, hình thức tuyên truyền sau đây đã và đang mang lại hiệu quả
rõ rệt cần được tập trung đẩy mạnh trong thời gian tới:
- Tuyên truyền miệng: Đây là hình thức người nói trực tiếp nói với người nghe
về những nội dung, những quy định của pháp luật GTĐB. Mục đích cuối cùng là nhằm
làm cho người nghe hiểu và hành động theo mục đích của người tuyên truyền. Hình
thức này có thể thực hiện ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào cho một người hay nhiều
người nghe. Hiệu quả của tuyên truyền miệng không chỉ đánh giá tại chỗ khi nghe, thu
hoạch sau khi nghe mà cao hơn là người nghe giữ được niềm tin lâu dài đối với pháp
luật GTĐB. Người tuyên truyền có thể đến cơ quan, trường học nói chuyện về pháp
luật GTĐB, nói chuyện hoặc trả lời phóng vấn trên đài truyền hình, đài phát thanh; sử
dụng ôtô, môtô gắn loa phóng thanh đi lưu động để phổ biến pháp luật GTĐB.
Để tuyên truyền miệng đạt kết quả cao, cần phải chuẩn bị nội dung thiết thực, ngắn
gọn, phù hợp với đối tượng nghe, cách nói cuốn hút người nghe.
- Phát động các cuộc thi tìm hiểu pháp luật GTĐB: có thể tổ chức thi viết, vấn
đáp luật GTĐB, hái hoa dân chủ, qua hình thức sân khấu hoá, hoặc tìm hiểu pháp luật
GTĐB thông qua cuộc thi xem phim an toàn GTĐB..v.v…, cho đông đảo quần chúng
tham gia, cần tập trung các đối tượng như học sinh, sinh viên, thanh thiếu niên, cán bộ,
công chức, lực lượng vũ trang
Nội dung ra câu hỏi có thể bao gồm: về những quy định chung của pháp luật
GTĐB, về biển báo hiệu, sa hình, tình huống giải quyết một vụ tai nạn GTĐB, xử lý
ùn tắc GTĐB hoặc nêu một trường hợp vi phạm với nhiều lỗi khác nhau để yêu cầu
phân tích, xử lý
- Tuyên truyền qua phương tiện thông tin đại chúng: Báo viết, đài truyền hình,
đài phát thanh là ba phương tiện thông tin đại chúng phục vụ đắc lực công tác tuyên
truyền giáo dục pháp luật GTĐB.
Về hình thức tuyên truyền, giáo dục pháp luật GTĐB: đưa tin thời sự, bài viết
phản ánh tình hình chấp hành pháp luật GTĐB, nêu vụ tai nạn GTĐB để phân tích
nguyên nhân, đề xuất các biện pháp phòng ngừa, mở chuyên mục trật tự an toàn
GTĐB định kỳ, trả lời phỏng vấn, thi đố vui, xây dựng các chương trình: câu chuyện
truyền thanh, văn nghệ về đề tài pháp luật GTĐB; sân khấu hoá tuyên truyền pháp luật
GTĐB như “SV”, ‘Bảy sắc cầu vòng”, “kính vạn hoa”, “Giờ thứ 9”, ‘Gặp nhau cuối
tuần”; chương trình “Vì an ninh tổ quốc”; “An ninh và cuộc sống”; “An toàn giao
thông”, v.v, xây dựng các phóng sự, tiểu phẩm phản ánh, tuyên truyền giáo dục pháp
luật GTĐB. Hằng năm hoặc hai năm, định kỳ tổ chức liên hoan băng hình toàn quốc
về trật tự GTĐB, các phim sẽ được phát sóng ở truyền hình Trung ương hoặc địa
phương để tuyên truyền.
- Xây dựng, tổ chức triễn lãm tranh ảnh: Xây dựng các panô, tranh ảnh về trật
tự GTĐB để triển lãm lưu động ở các bến xe, nhà ga, trường học, khu dân cư, nơi tổ
chức hội nghị, hội thảo hoặc trưng bày trong một thời gian nhất định…, để thu hút
người xem, thông qua đó để tuyên truyền, giáo dục pháp luật GTĐB. Tại triển lãm có
thể chuẩn bị các câu hỏi về pháp luật GTĐB để người xem bắt thăm trả lời, nếu đúng
sẽ được tặng một phần thưởng bao hàm ý nghĩa an toàn GTĐB.
Tại triển lãm có thể trưng bày tranh, ảnh, sơ đồ, bảng thống kê phân tích tai nạn
GTĐB, hình ảnh các vụ tai nạn GTĐB nghiêm trọng đã xảy ra nếu có điều kiện cần trưng
bày hiện vật xe môtô, ôtô bị hư hỏng do tai nạn GTĐB.
- Tuyên truyền bằng khẩu hiệu: Viết các khẩu hiệu chữ to tuyên truyền, nhắc
nhở chấp hành các quy định pháp luật GTĐB trên các đường phố chính, dọc các tuyến
đường, các cơ quan, trường học, các hội nghị v.v, như: “An toàn GTĐB là hạnh phúc
cho mỗi người”; “nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật GTĐB”; “chú ý đoạn đường
thường xảy ra tai nạn”.
- Hội thảo chuyên đề: Tổ chức các hội thảo chuyên đề để nghiên cứu, trao đổi
để tìm ra các giải pháp đảm bảo trật tự an toàn GTĐB như: hội thảo an toàn xe khách,
hội thảo về phòng chống đua xe trái phép, hội thảo về lái xe an toàn…
- Phát động, xây dựng và duy trì các phong trào thi đua đảm bảo trật tự an toàn
GTĐB như “ Lái xe tốt, giữ xe an toàn” trong đội ngũ lái xe, phong trào “Đoạn đường
tự quản”; phong trào “Toàn dân tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông” do Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam phát động. Ngoài ra, còn có nhiều hình thức tuyên truyền khác
như tổ chức các câu lạc bộ pháp luật, các đội thông tin cổ động về pháp luật GTĐB;
phổ biến giáo dục pháp luật GTĐB qua lễ hội truyền thống; sinh hoạt văn hoá, in phát
các tờ rơi, tờ gấp, thông báo trên các bản tin của thôn, xã, phương, phát động thi sáng
tác tranh, ảnh, truyện ngắn, phóng sự, ký, tấu, bài hát về trật tự an toàn GTĐB để
tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng; soạn các tài liệu ngắn gọn về
pháp luật GTĐB để quần chúng học tập qua sinh hoạt của Tổ nhân dân tự quản và ký
cam kết chấp hành.
Một nội dung hết sức quan trọng trong tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
GTĐB là đưa pháp luật GTĐB vào giảng dạy chính khoá ở các bậc học từ mầm non đến
phổ thống trung học, cao đẳng, đại học và các trường dạy nghề. Trước hết, cần tập trung
dạy và học pháp luật GTĐB ở bậc mầm non, tiểu học, các trường trung học cơ sở. Nhà
trường cũng là nơi để có thể sử dụng làm địa điểm tập huấn, hội họp để phổ biến kiến thức
pháp luật cho số đông người. Đội ngũ giáo viên dạy đạo đức, giáo dục công dân cũng
là những tuyên truyền viên có khả năng và cần được phát huy.
Mặt khác, các cơ quan chức năng cần phối hợp với chính quyền địa phương thường
xuyên phát động phong trào thi đua, lôi kéo mọi ngành, mọi cấp, mọi người tham gia giữ
gìn trật tự an toàn GTĐB, động viên, tuyên truyền, nêu gương những người lái xe giỏi, an
toàn, những người tham gia giao thông có thức cao về chấp hành pháp luật GTĐB. Tổ chức
các hội thi, hội nghị tôn vinh những người có thành tích xuất sắc trong việc tham gia bảo
đảm trật tự, an toàn GTĐB, ngăn ngừa tai nạn GTĐB xảy ra. Đây cũng là những biện pháp
tuyên truyền giáo dục pháp luật GTĐB đạt hiệu quả cao cần được quan tâm duy trì thường
xuyên và nhân rộng ra tất cả các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp.
Những hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói trên muốn đạt
được hiệu quả cao phải kết hợp giáo dục có tính cộng đồng với giáo dục theo đối
tượng; kết hợp giáo dục gia đình với nhà trường và xã hội; kết hợp giáo dục với cưỡng
chế thực hiện; phải tiến hành thường xuyên liên tục, có chương trình kế hoạch cụ thể,
phải xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên có đủ nhiệt quyết, đủ trình độ hiểu biết pháp
luật GTĐB, gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật GTĐB.
Thứ hai, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền QLNN trong
lĩnh vực GTĐB.
Mặc dù tại Điều 69 Luật giao thông đường bộ năm 2001 đã quy định cụ thể trách
nhiệm QLNN trong lĩnh vực GTĐB của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực GTĐB
nhưng trong thực tế quản lý hiện nay vẫn còn sự phối hợp chưa ăn khớp, nhịp nhàng giữa
các cơ quan. Do vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan
có thẩm quyền QLNN trong lĩnh vực GTĐB để tránh đi tình trạng quản lý chồng chéo lên
nhau hoặc đùn đẩy, né tránh làm giảm hiệu quả của QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực
GTĐB. Hiện nay và trong những năm tiếp theo cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ
quan QLNN trong lĩnh vực GTĐB theo hướng như sau:
- Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ đồng bộ giữa Bộ Giao thông vận tải và Bộ
Công an trên các vấn đề như xây dựng công trình GTĐB phân luồng, phân tuyến, xử
lý vi phạm pháp luật về GTĐB: phân định rạch ròi thẩm quyền của Cảnh sát giao
thông và Thanh tra GTĐB.
- Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Uỷ ban nhân dân cấp Tỉnh xây dựng cơ
chế phối hợp trong việc tổ chức giao thông, phân cấp quản lý.
- Bộ Thương mại, Bộ Giao thông vận tải, Bộ công nghiệp phối hợp chặt chẽ
trong việc quản lý nhập khẩu phương tiện vận tải đường bộ, chủng loại phương tiện
được nhập khẩu trên cơ sở tiêu chuẩn, kỹ thuật và tình hình cầu đường hiện tại.
- Bộ Giáo dục Đào tạo, Bộ văn hoá - thông tin, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Lao
động-Thương Binh xã hội, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên phối
hợp trong việc đào tạo, dạy nghề, tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật GTĐB.
- Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Giao thông vận tải phối hợp đồng bộ trong việc
thu tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB, thống nhất phát hành và
quản lý biên lai, chứng từ thu tiền xử phạt vi phạm hành chính về GTĐB.
Thứ ba, đẩy mạnh việc xây dựng phong trào quần chúng thực hiện pháp luật
GTĐB
Quần chúng là lực lượng đông đảo, to lớn, có mặt ở mọi nơi, mọi lúc tại các
tuyến đường, địa bàn giao thông công cộng, chính sự tham gia của quần chúng vào
việc tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB sẽ giúp cho các cơ quan có thẩm quyền trong
lĩnh vực GTĐB giải quyết các vấn đề GTĐB một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất,
chẳng hạn như quần chúng phát hiện có tai nạn GTĐB xảy ra, ùn tắc GTĐB xảy ra báo
ngay cho lực lượng cảnh sát giao thông để lực lượng này kịp thời có mặt để giải quyết.
Ngày 19/5/2000, Ban Thường trực Đoàn Chủ tịch Uỷ Ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam đã ký Nghị quyết liên tịch số 02/NQLT với Uỷ ban An toàn giao thông
quốc gia vận động “Toàn dân tham gia bảo đảm trật tự an toàn giao thông”. Tiếp đó, Uỷ
ban An toàn giao thông quốc gia và Trung ương Đoàn Thanh niên công sản Hồ Chí Minh
đã ký Nghị quyết liên tịch số 124/2001/NQLT về vận động thanh thiếu niên khi tham gia
bảo đảm trật tự an toàn giao thông nhằm mục đích nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành
pháp luật an toàn giao thông cho thanh thiếu niên qua đó tác động đến các tầng lớp khác
trong xã hội. Song song đó, Bộ Công an và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh cũng đã phối hợp thực hiện chương trình số 174 về giữ gìn trật tự an toàn giao thông
và phòng chống đua xe trái phép tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà
Nẵng. Có thể nói rằng bước đầu các cuộc vận động này đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực.
Tuy nhiên, trong thời gian tới cần đẩy mạnh thực hiện các việc sau:
- Thành lập “Ban tự quản an toàn giao thông” ở xã, phường, thị trấn, tại các khu
dân cư thành lập tổ tự quản an toàn giao thông do Trưởng Ban công tác Mặt trận làm tổ
trưởng tổ tự quản; trưởng thôn, ấp, bản, khu phố làm tổ phó, thêm một số tổ viên gồm
công an viên, Bí thư chi đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và một số người có uy
tín, già làng, trưởng bản.
- Tiến hành điều tra tình hình người tham gia giao thông; phương tiện giao
thông hiện có; tình hình tai nạn giao thông ... ở từng khu dân cư, khu phố, ấp, thôn,
bản, xã, phường, thị trấn.
- Xây dựng chương trình hành động vận động “Toàn dân tham gia bảo đảm trật
tự an toàn giao thông” của khu dân cư, lấy phương châm “An toàn giao thông là hạnh
phúc cho mọi nhà” với mục tiêu xây dựng “Khu dân cư bảo đảm trật tự an toàn giao
thông” và cần bổ sung các nội dung sau đây vào quy ước, hương ước của cơ quan,
trường học, khu dân cư:
Tuyên truyền, giáo dục trong các cơ quan, trường học, trạm xá, các đoàn thể
và nhân dân ở khu dân cư về pháp luật nói chung, pháp luật GTĐB nói riêng.
Nâng cao ý thức trách nhiệm của quần chúng để cùng Nhà nước bảo vệ kết
cấu hạ tầng giao thông.
Tố giác, phát hiện những hành vi của tập thể và cá nhân vi phạm những quy
định về an toàn giao thông.
- Mỗi khu dân cư, cơ quan, trường học xây dựng “Câu lạc bộ tìm hiểu pháp
luật” để mọi người được sinh hoạt, tìm hiểu về pháp luật trong đó có pháp luật GTĐB.
- Ở các khu dân cư trọng điểm giao thông của các thành phố lớn cần phối hợp
với Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh cơ sở thành lập “Đội thanh niên tình
nguyện” tham gia đảm bảo trật tự an toàn giao thông ở1 những nút giao thông thường
xuyên gây ùn tắc giao thông, đội này gồm những đoàn viên thanh niên ở khu dân cư,
trường học, cơ quan. Riêng ở mỗi trường học thành lập “Đội thiếu niên bảo vệ trật tự
an toàn giao thông cổng trường và đường đi học”.
- Mở rộng các hình thức tự quản ở khu dân cư như “ Đoạn đường tự quản an
toàn”, “Bến xe tự quản an toàn”, “Bến phà tự quản an toàn”.
- Trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng khu phố, tổ trưởng Tổ nhân dân tự quản tổ
chức cho các hộ gia đình ký cam kết. Nội dung cam kết gồm: thực hiện quy ước,
hương ước, tham gia học tập để hiểu biết pháp luật nói chung, pháp luật GTĐB nói
riêng, không vi phạm pháp luật nói chung, pháp luật GTĐB nói riêng, không vi phạm
hành lang an tòan giao thông… với mục tiêu xây dựng “Khu dân cư đảm bảo an toàn
giao thông”, “Hộ gia đình văn hóa”, “Khu dân cư tiên tiến và khu dân cư xuất sắc”
trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”.
- Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư căn cứ vào chương trình hành động Tháng
9 cao điểm an toàn giao thông và tháng Tết cao điểm an toàn giao thông để phối gợp với
các lực lượng ở khu dân cư tổ chức phát động hưởng ứng thực hiện tháng cao điểm an
toàn giao thông ( lưu ý các nút giao thông thường xảy ra tai nạn, chợ, bến xe, cổng trường,
đường ngang…).
- Xây dựng “Hòm thư tố giác vi phạm an toàn giao thông” ở khu dân cư.
- Sơ kết ba tháng, sáu tháng, Tháng 9 cao điểm an toàn giao thông, tháng Tết cao
điểm an toàn giao thông và tổng kết một năm bảo đảm an toàn giao thông, từ đó đánh giá
những mặt ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của những ưu điểm và khuyết điểm, đưa ra
những giải pháp hữu hiệu để thực hiện thắng lợi phong trào “Nhân nhân tham gia bảo đảm
trật tự an toàn giao thông”.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quy định pháp luật về việc kết cấu
hạ tầng GTĐB.
Việc thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB nhằm phát
triển, nâng cấp kết cấu hạ tầng GTĐB là một nhu cầu quan trọng và tất yếu được Nhà
nước quan tâm, tập trung chỉ đạo. Kết cấu hạ tầng GTĐB nước ta có nhiều thay đổi,
tuy nhiên so với các nước trong khu vực và thế giới thì kết cấu hạ tầng GTĐB nước ta
còn nhiều hạn chế. Do hệ thống đường bộ nước ta còn hẹp nên chưa tách được các dòng
giao thông cơ giới và dòng giao thông thô sơ trên các tuyến quốc lộ, đường chính. Các
điểm giao cắt chủ yếu vẫn trong tình trạng giao cắt đồng mức kể cả với đường sắt. Dân cư
sống dọc các tuyến đường, kể cả những tuyến đường mới xây dựng phát triển đến đâu thì
nhà dân lại lan ra đến đó. Việc sử dụng đường, hành lang an toàn đường bộ theo quy định
vẫn còn là vấn đề nan giải…
Bên cạnh việc thực hiện các quy định pháp luật về cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới
kết cấu hạ tầng GTĐB, một số vấn đề cần được quan tâm trong việc tổ chức các quy định
pháp luật về kết cấu hạ tầng GTĐB như sau:
- Hệ thống điện báo, thông tin, tín hiệu chỉ dẫn, hệ thống gương hình cầu cần
được lắp đặt theo quy định ở những nơi cần thiết.
- Xây dựng các quy tắc giao thông trên đèo, dốc
- Xây dựng và lắp đặt các thiết bị phòng hộ, bảo vệ
- Các biện pháp kiểm soát đường ngang và đường chính
- Xây dựng đường lánh nạn trên đèo, dốc
- Lập các trạm kiểm soát giao thông, kỹ thuật phương tiện ở hai đầu đèo, dốc
nguy hiểm
Ngoài ra, các thiết bị trang bị trên các tuyến đường như điện thoại, cứu
thương… cũng cần được quan tâm đúng mức.
Trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ
tầng GTĐB thì việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về kiểm toán an toàn giao
thông đối với các đường cải tạo, nâng cấp, làm mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc kiểm toán an toàn đường bộ là một thủ tục chính thức cho việc đánh giá khả năng
hoạt động an toàn trong những dự án đường bộ mới, cải tạo và nâng cấp. Mục đích của
hoạt động kiểm toán an toàn đường bộ là giảm thiểu sự rủi ro, giảm mức độ nghiêm trọng
của tai nạn có thể xảy ra đã được dự liệu trước, nhờ đó mà giảm chi phí lâu dài của dự án.
Công tác này từ trước đến nay chưa thực sự quan tâm, vì vậy nhiều tuyến đường được xây
dựng mới, được nâng cấp, cải tạo thì nguy cơ xảy ra tai nạn cũng tăng lên. Do đó, phải coi
kiểm toán an toàn đường bộ là một phần chiến lược của công tác an toàn GTĐB, góp
phần vào nâng cao hiệu quả việc thực hiện các quy định pháp luật về kết cấu hạ tầng
GTĐB.
Thứ năm, tăng cường thực hiện các quy định pháp luật đối với phương tiện
tham gia GTĐB nhằm nâng cao chất lượng an toàn phương tiện GTĐB.
Để đảm bảo an toàn hoạt động GTĐB, ngoài việc đề nghị Chính phủ, Bộ
Thương mại, Bộ Giao thông vận tải có chiến lược phát triển GTĐB,xem xét hạn chế
nhập về số lượng, chủng loại phương tiện giao thông, nhất là những phương tiện trên
thực tế không hoặc chưa phù hợp với tình hình đường sá và hoạt động giao thông ở
nước ta hiện nay, cần phải tăng cường thực hiện các quy định pháp luật đối với
phương tiện tham gia GTĐB.Trong những năm tới,để nâng cao chất lượng an toàn
phương tiện GTĐB cần thực hiện tốt các quy định sau đây:
- Tổ chức tổng kiểm tra phương tiện cơ giới
- Quản lý chặt chẽ hơn phương tiện, thiết bị vận tải
- Hạn chế và tiến tới không cho các loại phương tiện không đảm bảo tiêu
chuẩn kỹ thuật an toàn tham gia GTĐB
- Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh Nghị định 23/2004/NĐ-CP ngày 13/1/2004
của Chính phủ về quy định niên hạn sử dụng của ôtô tải và ô tô chở người.
Thứ sáu, tăng cường thực hiện các quy định pháp luật về đào tạo người điều
khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
Người điều khiển phương tiện giao thông cơ giới đường bộ có vai trò hết sức
quan trọng trong việc giảm tai nạn GTĐB. Do vậy, đối với họ cần quan tâm thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe, bằng,
chứng chỉ chuyên môn, giáo dục nâng cao đạo đức cho người điều khiển phương tiện
giao thông cơ giới đường bộ cần quan tâm các nội dung sau:
- Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ vào khâu sát hạch. Xây dựng các
trung tâm sát hạch, cấp giấy phép lái xe tập trung có đủ tình huống giao thông cần
thiết, lắp đặt các thiết bị tự động đánh giá kết quả sát hạch thay cho đánh giá trực quan.
- Qui hoạch lại hệ thống cơ sở đào tạo lái xe theo hướng mỗi pháp nhân chỉ
có một điểm đào tạo tại một địa phương, liên kết các cơ sở nhỏ thành cơ sở lớn. Đào
tạo lái xe khách các hạng: D, E, F là các ôtô có liên quan đến tính mạng của nhiều
người, cần tập trung về các trường dạy lái xe chính quy được phân theo từng vùng có
đủ điều kiện.
- Thực hiện nghiêm túc các quy định về chương trình, thời gian đào tạo của
Bộ Giao Thông vận tải, đồng thời coi trong việc đào tạo đội ngũ giáo viên, sách hạch
viên có đủ trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức ở tất cả các cơ sở, trường đào
tạo, sát hạch cấp giấy phép lái xe.
3.2.3. Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát; xử lý nghiêm minh triệt để,
kịp thời mọi vi phạm pháp luật giao thông đường bộ
Để đạt được mục tiêu giáo dục pháp luật GTĐB không những chỉ làm những công
tác giáo dục, mà phải coi những biện pháp cưỡng chế thực hiện pháp luật là hết sức quan
trọng, đặc biệt có hiệu quả khi ý thức chấp hành pháp luật GTĐB của người tham gia
GTĐB hiện nay còn nhiều hạn chế.
Cưỡng chế thi hành pháp luật là biện pháp quan trọng của Nhà nước pháp quyền
bởi vì các QPPL của Nhà nước ban hành và được bảo đảm thi hành bằng các biện pháp
cưỡng chế. Hoạt động tuần tra, kiểm soát và xử lí vi phạm pháp luật GTĐB hiện nay
có nhiều lực lượng tham gia như lực lượng công an (mà chủ yếu là lực lượng cảnh sát
giao thông), lực lượng Thanh tra GTĐB và chính quyền các cấp. Để không chồng
chéo, hoặc đùn đẩy, né tránh dẫn đến bỏ trống việc tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm
pháp luật GTĐB trước hết cần xem xét lại chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan này,
xem có chức năng nhiệm vụ nào trùng lắp lên nhau thì loại bỏ. Đối với lực lượng cảnh
sát giao thông công tác tuần tra, kiểm soát giao thông là một trong những biện pháp
nghiệp vụ cơ bản để thực hiện chức năng QLNN, kiểm tra, giám sát việc chấp hành
pháp luật GTĐB, tham gia đấu tranh phòng ngừa các hành vi vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB và những hành vi vi phạm pháp luật GTĐB đã cấu thành tội
phạm hoạt động trên các tuyến đường giao thông, nhằm góp phần đảm bảo GTĐB trật
tự an toàn và thông suốt, đồng thời phòng ngừa, hạn chế tai nạn GTĐB xảy ra.
Để tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát và cũng để nâng cao hiệu quả của
công tác này cần xây dựng lực lượng cảnh sát giao thông trong sạch, vững mạnh.
Trước mắt, cần tiếp tục tập trung chỉ đạo, củng cố và tổ chức lại lực lượng tuần tra,
kiểm soát giao thông từ Trung ương đến địa phương cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm
vụ trong tình hình mới. Đảm bảo việc tuần tra, kiểm soát phải khép kín địa bàn và thời
gian, không để địa bàn không có lực lượng cảnh sát giao thông phụ trách,cũng như
tránh sự chồng chéo; không ngừng nâng cao trình độ, nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức
của những người thi hành công vụ, đảm bảo phát hiện kịp thời mọi vi phạm pháp luật
GTĐB và xử lý nghiêm minh, triệt để, để giáo dục, răn đe và phòng ngừa, đồng thời
tránh được các biểu hiện tiêu cực. Nếu mọi hành vi vi phạm pháp luật GTĐB đều bị
xử lý nghiêm minh, triệt để, công bằng, không có hiện tượng tiêu cực thì chắc chắn
hiệu lực QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB sẽ được nâng cao, các hành vi vi
phạm pháp luật GTĐB sẽ giảm đáng kể và nó là yếu tố quan trọng để giảm tai nạn
GTĐB.
Mặt khác, trong công tác tuần tra, kiểm soát, xử lí vi phạm pháp luật GTĐB cũng
phải thường xuyên tổ chức rút kinh nghiệm các chuyên đề, các đợt cao điểm để đề ra
các biện pháp phát huy kết quả đạt được và khắc phục những thiếu sót trong quá trình
thực hiện. Lực lượng cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát, xử lí vi
phạm pháp luật GTĐB phải chấp hành nghiêm chỉnh “Quy trình tuần tra kiểm soát và
xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự an toàn giao thông đường bộ” được ban
hành theo Quyết định số 174/2000/QĐ-BCA (C11) ngày 25 tháng 02 năm 2000 của
Bộ Trưởng Công an. Song song đó, cũng cần nghiên cứu bổ sung kịp thời các quy
trình có liên quan đến công tác tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm pháp luật GTĐB
cho phù hợp với yêu cầu thực tế nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong việc
thực hiện như quy định chỉ được dừng phương tiện khi có dấu hiệu vi phạm hoặc vấn
đề trang bị phương tiện hiện đại cho lực lượng cưỡng chế thi hành pháp luật GTĐB mà
trước hết là lực lượng cảnh sát giao thông cần được quan tâm đúng mức và đáp ứng
đầy đủ các phương tiện, thiết bị dụng cụ như máy đo nồng độ cồn, cân tải trọng, máy
đo tốc độ, camera kiểm tra, phương tiện tuần tra, nhiên liệu để làm nhiệm vụ tuần tra,
kiểm soát.
Tệ nạn đua xe trái phép, tổ chức đua xe trái phép đang còn diễn biến hết sức phức
tạp tại một số đô thị lớn. Vì vậy, lực lượng công an phải luôn luôn nêu cao cảnh giác,
sẵn sàng có phương án để phòng ngừa và đấu tranh chống đua xe trái phép có hiệu
quả.
Trước hết, lực lượng cảnh sát phải làm tốt công tác nghiệp vụ cơ bản, lên danh sách
các đối tượng có biểu hiện, có khả năng đua xe hoặc tổ chức đua xe trái phép. Từ đó, phối
hợp chặt chẽ với gia đình, trường học và chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể để
phòng ngừa không để xảy ra đua xe trái phép. Cần củng cố hệ thống cơ quan trực ban
hình sự, trực ban giao thông để tiếp nhận thông tin qua số điện thoại 113 về tố giác tội
phạm và đua xe trái phép. Các lực lượng làm công tác phòng ngừa và đấu tranh ngăn chặn
đua xe trái phép và tổ chức đua xe trái phép cần được trang bị các phương tiện hỗ trợ hiện
đại phù hợp với thực tiễn công tác, kịp thời ngăn chặn và bắt giữ những người tham đua
xe trái phép, gây rối trật tự công cộng. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần giao trách nhiệm cụ
thể cho cấp huyện, cấp xã phối hợp với các ngành thực hiện chức năng của mình để phòng
ngừa và đấu tranh chống nạn đua xe trái phép, gây rối trật tự công cộng. Hình thành thế
trận nhân dân phát hiện đối tượng có dấu hiện đua xe trái phép, tụ tập cổ vũ, gây rối trật tự
công cộng. Thực hiện công tác phòng chống đua xe là của toàn xã hội bởi vì mọi đối
tượng đua xe trái phép không qua được tai mắt nhân dân.
Các đơn vị làm nhiệm vụ chống đua xe trái phép làm công tác điều tra cơ bản,
khảo sát cần nắm chắc địa bàn, tuyến đường thường xuyên có biểu hiện tụ tập, đua xe, cổ
vũ, lên danh sách các đối tượng đã có tiền án, tiền sự về đua xe trái phép; nắm chắc những
tụ điểm các đối tượng tụ tập trước khi tổ chức đua xe trái phép như quán ăn, vũ trường,
quán cà phê... để tìm ra những quy luật, chủ động có kế hoạch tăng cường tuần tra kiểm
soát ở những tuyến trọng điểm, phòng ngừa, ngăn chặn ngay từ khi chưa xảy ra.
Khi có vụ đua xe trái phép xảy ra, ngoài các biện pháp khẩn trương giải tán đám
đua, lực lượng cảnh sát giao thông cần phối hợp chặt chẽ với lực lượng cảnh sát điều
tra để thu thập tài liệu chứng cứ củng cố hồ sơ chuyển sang cho Viện Kiểm sát và Toà
án xử lý hình sự những hành vi đã cấu tội phạm, kiên quyết không để lại xử lý hành
chính. Khi xử lý hình sự hoặc xử lý hành chính phải đảm bảo tính pháp chế chặt chẽ.
Để phòng ngừa hạn chế tai nạn GTĐB xảy ra,bên cạnh những biện pháp phòng
ngừa tích cực thì công tác điều tra, tai nạn GTĐB cũng như việc lập hồ sơ những vụ tai
nạn GTĐB có dấu hiệu tội phạm để đưa ra xử lý công khai, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật sẽ có tác dụng đề cao kỷ luật, kỷ cương trong QLNN bằng pháp luật
trong lĩnh vực GTĐB. Thông qua công tác điều tra tai nạn GTĐB để phát hiện những
nguyên nhân, điều kiện xảy ra tai nạn từ đó đề xuất các giải pháp phòng ngừa. Để đạt
được yêu cầu trên, cần có sự phân công, phân cấp, điều tra giải quyết tai nạn GTĐB
một cách thống nhất từ Trung ương đến địa phương theo hướng dẫn số 1251/CT-BCA
(C16) ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ Công an về phân công điều tra, giải quyết tai
nạn giao thông, Quyết định số 57/2000/QĐ-BCA (C11) ngày 6 tháng 12 năm 2000 của
Bộ Trưởng Bộ Công an ban hành quy chế phân công trách nhiệm giữa các lực lượng
công an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện trường và quyết định số 30/2003/QĐ-
BCA (C11) ngày 16 tháng 1 năm 2003 của Bộ Trưởng Bộ Công an ban hành quy định
điều tra giải quyết tai nạn GTĐB. Lực lượng làm nhiệm vụ điều tra, xử lý tai nạn giao
thông, đặc biệt là cấp huyện phải được tập huấn nghiệp vụ và trang bị những phương tiện
kỹ thuật phục vụ cho công tác điều tra, xử lý tai nạn giao thông như máy ảnh, camera, đèn
chiếu sáng… Khi xử lý phải căn cứ vào mức lỗi của người vi phạm, không phân biệt đối
tượng là người đi bộ, người điều khiển phương tiện thô sơ hay cơ giới, mà mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật. Trong công tác xử lý, không được cho rằng tội với lỗi vô ý thì
cho giải quyết bằng việc bồi thường thiệt hại, mà không cần phải xử lý bằng biện pháp
hình sự, xử lý như vậy sẽ tạo ra sự bất công và tâm lý coi thường pháp luật từ phía người
điều khiển phương tiện, pháp chế trang lĩnh vực GTĐB sẽ không được đảm bảo vững
chắc.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở nước ta là một yêu
cầu cấp bách hiện nay. Điều này nó xuất phát từ phương thức quản lý của Nhà nước pháp
quyền XHCN, từ nhu cầu xã hội về GTĐB ngày càng tăng; từ những hạn chế, yếu kém
của GTĐB.
Trên cơ sở những yêu cầu cấp bách đó, luận văn đã tập trung đề ra những giải
pháp để tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB trong thời gian tới.
Các giải pháp đó là:
- Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB và các lĩnh
vực pháp luật khác có liên quan.
- Tăng cường công tác tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB.
- Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp
thời mọi vi phạm pháp luật GTĐB.
KẾT LUẬN
Trên cơ sở xác định tính cấp thiết của đề tài “Tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay” và trình
bày một số nội dung khác trong phần mở đầu, luận văn đã đi sâu nghiên cứu một số
vấn đề cơ bản như sau:
1. Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực
GTĐB với những vấn đề như đưa ra khái niệm quản lý, quản lý xã hội, QLNN từ đó
xây dựng khái niệm QLNN bằng pháp luật. Đặc biệt luận văn đã đi sâu phân tích khái
niệm, đặc điểm, nội dung QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB. Nội dung
QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB được phân tích trên ba khâu có quan hệ
chặt chẽ với nhau. Đó là xây dựng, hoàn thiện pháp luật GTĐB; tổ chức thực hiện
pháp luật GTĐB; xử lý vi phạm pháp luật GTĐB. Trên cơ sở phân tích nội dung
QLNN bằng pháp luật, luận văn đã nêu bật vai trò của QLNN bằng pháp luật trong
lĩnh vực GTĐB nhằm đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội; trật tự an toàn xã hội, củng
cố quốc phòng an ninh và thúc đẩy giao lưu hội nhập khu vực và quốc tế.
2. Luận văn đánh giá khái quát thực trạng QLNN bằng pháp luật trong lĩnh
vực GTĐB ở Việt Nam từ năm 1995 đến nay trên các vấn đề như thực trạng pháp luật
GTĐB; thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật GTĐB; thực trạng xử lý vi phạm pháp
luật GTĐB, từ đó tìm ra những nguyên nhân đưa đến hạn chế hiệu lực, hiệu quả của
QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB.
3. Từ việc đánh giá thực trạng ở chương 2, luận văn đã xác định việc tăng
cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay là một yêu
cầu cấp bách. Nó xuất phát từ phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN,
từ nhu cầu xã hội về GTĐB ngày càng tăng, từ những hạn chế, yếu kém trong lĩnh vực
GTĐB. Trên cơ sở xác định yêu cầu cấp bách đó, luận văn đã đề ra các giải pháp để
tăng cường QLNN bằng pháp luật trong lĩnh vực GTĐB ở Việt Nam hiện nay và
những năm tiếp theo như sau:
- Đẩy mạnh hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật GTĐB và các lĩnh
vực pháp luật khác có liên quan.
- Tăng cường công tác tổ chức thiện pháp luật GTĐB.
- Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm minh, triệt để, kịp
thời mọi vi phạm pháp luật GTĐB.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
1. Dương Quốc Hoàng (2001), "Phân quyền và phân công trong tổ chức thực hiện
quyền lực của Nhà nước", Đặc san Trường Chính trị Bến Tre, tr.21.
2. Dương Quốc Hoàng (2002), "Bàn về nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay", Đặc san Trường Chính trị Bến
Tre, tr.32-33.
3. Dương Quốc Hoàng (2004), "Một số điểm cần sửa đổi đối với Bộ luật dân sự
hiện hành", Thông tin trao đổi Trường Chính trị Bến
Tre, tr.22.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hi §ng Anh (1998), Ph¸p lut vµ s qu¶n lý cđa Nhµ n-íc, Nxb ChÝnh trÞ quc gia,
Hµ Ni.
2. NguyƠn Thĩy Anh (2003), "§ỉi míi qu¶n lý nhµ n-íc vỊ giao th«ng c«ng cng trong
®« thÞ lín n-íc ta", T¹p chÝ Qu¶n lý nhµ n-íc, (5), tr.17-20.
3. Hoµng §×nh Ban (2004), "Lut giao th«ng ®-ng b sau hai n¨m nh×n l¹i", T¹p chÝ
giao th«ng vn t¶i, (3), tr.18-23.
4. Hoµng §×nh Ban (2004), Hi ®¸p vỊ xư ph¹t vi ph¹m hµnh chÝnh ®i víi hµnh vi vi
ph¹m trt t an toµn giao th«ng ®-ng b, Nxb Giao th«ng vn t¶i, Hµ Ni.
5. NguyƠn Huy B»ng (2001), T¨ng c-ng ph¸p ch x· hi chđ ngha trong lnh vc giao
th«ng ®-ng b n-íc ta hiƯn nay, Lun v¨n th¹c s Lut hc, Hc viƯn ChÝnh trÞ
quc gia H ChÝ Minh, Hµ Ni.
6. B Giao th«ng vn t¶i - ViƯn Nghiªn cu kinh t giao th«ng vn t¶i (1995), §Ị tµi
KC10-04: C¬ ch chÝnh s¸ch ph¸t triĨn giao th«ng vn t¶i, Hµ Ni.
7. B Giao th«ng vn t¶i (1999), §Ị ¸n t¨ng c-ng b¶o ®¶m trt t an toµn giao th«ng giai
®o¹n 1999-2005, Hµ Ni.
8. B Giao th«ng vn t¶i (2000), B¸o c¸o chin l-ỵc ph¸t triĨn giao th«ng vn t¶i ViƯt
Nam ®n n¨m 2020, Hµ Ni.
9. B Gi¸o dơc vn t¶i (2001), Ch-¬ng tr×nh quc gia vỊ an toµn giao th«ng giai ®o¹n
2001-2005, Hµ Ni.
10. B Giao th«ng vn t¶i (2002), Hi th¶o tỉ chc qu¶n lý bn xe « t« kh¸ch, §µ N½ng.
11. B Giao th«ng vn t¶i (2003), §Ị ¸n nhu cÇu vn cho c«ng t¸c qu¶n lý b¶o tr× ®-ng
b (phÇn quc l), Hµ Ni.
12. B Giao th«ng vn t¶i (2003), T- t-ng H ChÝ Minh vỊ giao th«ng vn t¶i, Nxb Giao
th«ng vn t¶i, Hµ Ni.
13. B Giao th«ng vn t¶i (2004), B¸o c¸o c«ng t¸c b¶o ®¶m trt t an toµn giao th«ng
n¨m 2004, Hµ Ni.
14. C¸c quy ®Þnh ph¸p lut vỊ giao th«ng ®-ng b (2003), Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ
Ni.
15. §¹i hc Lut Hµ Ni (1999), T ®iĨn gi¶i thÝch thut ng÷ Lut hc, Nxb C«ng an nh©n
d©n, Hµ Ni.
16. §¹i hc Lut Hµ Ni (2003), Gi¸o tr×nh Lut hµnh chÝnh ViƯt Nam, Nxb C«ng an
nh©n d©n, Hµ Ni.
17. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (1986), V¨n kiƯn §¹i hi ®¹i biĨu toµn quc lÇn th VI,
Nxb S tht, Hµ Ni.
18. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (1991), V¨n kiƯn §¹i hi ®¹i biĨu toµn quc lÇn th VII,
Nxb S tht, Hµ Ni.
19. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (1994), V¨n kiƯn Hi nghÞ ®¹i biĨu toµn quc gi÷a
nhiƯm k kha VII, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
20. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (1996), V¨n kiƯn §¹i hi ®¹i biĨu toµn quc lÇn th VIII,
Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
21. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (2001), V¨n kiƯn §¹i hi ®¹i biĨu toµn quc lÇn th IX,
Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
22. §¶ng Cng s¶n ViƯt Nam (2003), V¨n kiƯn Hi nghÞ lÇn th 7 Ban Chp hµnh
Trung -¬ng §¶ng kha IX, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
23. Mai V¨n §c (2000), Nghiªn cu t×nh h×nh giao th«ng ®-ng b vµ c¸c biƯn ph¸p
kh¾c phơc, Lun v¨n th¹c s Khoa hc k thut, §¹i hc Giao th«ng vn t¶i, Hµ Ni.
24. Hin ph¸p n-íc Cng hßa x· hi chđ ngha ViƯt Nam n¨m 1992 (2002), Nxb ChÝnh
trÞ quc gia, Hµ Ni.
25. Hc viƯn ChÝnh trÞ quc gia H ChÝ Minh (2004), Lý lun chung vỊ Nhµ n-íc vµ
ph¸p lut, tp 1, Nxb Lý lun chÝnh trÞ, Hµ Ni.
26. Hc viƯn ChÝnh trÞ quc gia H ChÝ Minh (2004), Gi¸o tr×nh khoa hc qu¶n lý,
Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
27. Lª V¨n HoÌ (20010, "C¶i c¸ch s©u rng h¬n ho¹t ®ng x©y dng ph¸p lut", T¹p chÝ
Lý lun (2), tr.19-23.
28. Mai H÷u Khuª, Bi V¨n Nh¬n (2002), T ®iĨn gi¶i thÝch thut ng÷ hµnh chÝnh,
Nxb Lao ®ng, Hµ Ni.
29. NguyƠn Duy L·m (1996), Sỉ tay thut ph¸p lý th«ng dơng, Nxb Gi¸o dơc, Hµ Ni.
30. Lut tỉ chc Tßa ¸n nh©n d©n (2002), Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
31. Lut Tỉ chc ViƯn kiĨm s¸t (2002), Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
32. TrÇn V¨n LuyƯn, TrÇn S¬n, NguyƠn V¨n ChÝnh (2003), Trt t an toµn giao
th«ng ®-ng b - thc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
33. C.M¸c (1960), T- b¶n, quyĨn II, tp 2, Nxb S tht, Hµ Ni.
34. C.M¸c - Ph.¡ngghen (1960), Toµn tp, tp 23, Nxb S tht, Hµ Ni.
35. C.M¸c - Ph.¡ngghen - V.I.Lªnin (1983), Bµn vỊ giao th«ng vn t¶i, Nxb S tht, Hµ
Ni.
36. C.M¸c - Ph.¡ngghen (1984), TuyĨn tp, tp 6, Nxb S tht, Hµ Ni.
37. C.M¸c - Ph.¡ngghen (1993), Toµn tp, tp 23, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
38. C.M¸c - Ph.¡ngghen (1993), Toµn tp, tp 25, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
39. C.M¸c - Ph.¡ngghen (1995), Toµn tp, tp 21, Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
40. H ChÝ Minh (1980), Toµn tp, tp 1, Nxb S tht, Hµ Ni.
41. M«ng-te-xki-¬ (1996), Tinh thÇn ph¸p lut, Nxb Gi¸o dơc, Hµ Ni.
42. Ph¸p lƯnh c¸n b c«ng chc (2003), Nxb ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
43. Hoµng Phª (chđ biªn) (1997), T ®iĨn ting ViƯt, Nxb §µ N½ng.
44. Hµn Phi (1992), Hµn Phi Tư, Nxb V¨n hc, Hµ Ni.
45. Lª Minh Qu©n (2003), X©y dng Nhµ n-íc ph¸p quyỊn ®¸p ng yªu cÇu ph¸t triĨn
®t n-íc theo ®Þnh h-íng x· hi chđ ngha ViƯt Nam hiƯn nay, Nxb ChÝnh
trÞ quc gia, Hµ Ni.
46. Bi §×nh Thanh (2000), "Mt vµi suy ngh vỊ qu¶n lý ph¸t triĨn x· hi", T¹p chÝ
Th«ng tin lý lun, (12), tr.20-24.
47. Vị Xu©n Th¸i (1998), Gc vµ ngha t ting ViƯt th«ng dơng, Nxb V¨n ha th«ng tin,
Hµ Ni.
48. NguyƠn V¨n Th©m (2003), So¹n th¶o vµ xư lý v¨n b¶n qu¶n lý nhµ n-íc, Nxb
ChÝnh trÞ quc gia, Hµ Ni.
49. Lª Th TiƯm vµ tp thĨ t¸c gi¶ (1995), §Ị tµi nghiªn cu khoa hc cp nhµ n-íc
KX.07.17, ¶nh h-ng cđa tƯ n¹n x· hi ®n s h×nh thµnh nh©n c¸ch con ng-i
ViƯt Nam, Hµ Ni.
50. Lª Ngc Tin (2004), "Gi¸o dơc ph¸p lut - biƯn ph¸p quan trng trong gi¶m thiĨu tai
n¹n giao th«ng ®-ng b", T¹p chÝ Giao th«ng vn t¶i, (7), tr.55-56.
51. Bi To¶n (2002), "T¨ng c-ng qu¶n lý nhµ n-íc vỊ tỉ chc giao th«ng nh»m h¹n ch tai
n¹n giao th«ng", T¹p chÝ Qu¶n lý nhµ n-íc, (12), tr.21-23.
52. TrÇn Trung (2004), "Trao ®ỉi ý kin vỊ sưa ®ỉi NghÞ ®Þnh s 15/N§-CP cđa
ChÝnh phđ", T¹p chÝ Giao th«ng vn t¶i, (5), tr.21-23.
53. Lý Huy Tun (2002), "Qu¶n lý nhµ n-íc trong lnh vc giao th«ng ®« thÞ", T¹p chÝ
Qu¶n lý nhµ n-íc, (3), tr.12-16.
54. T ®iĨn B¸ch khoa C«ng an nh©n d©n (2000), Nxb C«ng an nh©n d©n, Hµ Ni.
55. đy ban an toµn giao th«ng quc gia (2000), Hi th¶o tai n¹n giao th«ng m« t« xe
m¸y, Hµ Ni.
56. đy ban an toµn giao th«ng quc gia (2003), B¸o c¸o c«ng t¸c b¶o ®¶m trt t an toµn
giao th«ng n¨m 2003.
57. ViƯn Nghiªn cu Nhµ n-íc vµ ph¸p lut (1996), B×nh lun khoa hc Hin ph¸p n-íc
Cng hßa x· hi chđ ngha ViƯt Nam n¨m 1992, Nxb Khoa hc x· hi, Hµ Ni.
58. NguyƠn Cưu ViƯt (1997), Gi¸o tr×nh Lut Hµnh chÝnh ViƯt Nam, Nxb §¹i hc
Quc gia Hµ Ni, Hµ Ni.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Hệ thống đường bộ nước ta tính đến tháng 6 năm 2004
Hệ thống
đường
Đường và kết cấu mặt đường
Tổng chiều
dài
Bê tông xi
măng
Bê tông
nhựa + đá
nhựa
Cấp phối đá
dăm
Mặt đường
đất
Km % Km % Km % Km % Km %
Quốc lộ 17.295 8,1 344 2,0 14.097 81,5 600 3,5 2.254 13,0
Đường tỉnh 18.344 8,6 156 0,8 6.437 35,1 7.309 39,8 4.460 24,3
Đường đô thị 5.919 2,8 0 0 5.919 100 0 0 0 0
Đường huyện 37.974 17,7 0 0 3.611 9,5 17.932 47,2 16.431 43,3
Đường xã 134.463 62,8 0 0 2.922 2,3 52.446 39,0 79.095 58,8
Tổng cộng 213.995 100,0 500 0,2 32.986 15,4 78.287 36,6 102.240 47,8
Nguồn: Bộ Giao thông Vận tải.
Phụ lục 2: So sánh đường bộ Việt Nam với một số nước trên thế giới
Thứ
tự
Tên nước
Tổng
chiều dài
đường bộ
Diện tích
(km2)
Dân số
(1000
dân)
Mật độ
(km/
km2)
Mật độ
(km/1000
dân)
1 Việt Nam 204.981 326.258 77.000 0,179 0,810
2 Inđônêxia 24.278 1.919.000 198.400 0,130 1,251
3 Hàn quốc 54.000 98.000 44.500 0,550 1,213
4 Malaixia 45.000 330.000 19.900 0,140 2,261
5 Philippin 155.670 300.000 68.400 0,520 2,276
6 Thái Lan 150.000 542.000 60.200 0,300 2,492
7 Myanma 27.983 677.000 45.400 0,410 0,616
8 Bunggari 29.564 110.727 9.000 0,267 3,285
9 Hunggari 29.346 93.162 10.310 0,315 2,846
10 Rumani 56.600 237.815 23.172 0,238 2,443
11 Ba Lan 122.039 312.921 38.519 0,390 3,168
12 Cu Ba 27.000 139.175 10.892 0,194 2,479
13 Trung Quốc 12.292 9.561.000 1.198.585 0,120 1,026
14 Băngladet 15.000 144.000 110.200 0,100 0,136
15 Ấn Độ 15.000 328.800 911.600 0,460 1,645
Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam.
Phụ lục 3: Thống kê phương tiện cơ giới đường bộ
Năm
Tổng số phương tiện
cơ giới đường bộ
Ô tô Mô tô
Số
phương
tiện
Tăng so
với năm
trước (%)
Số
phương
tiện
Tăng số
năm trước
Số
phương
tiện
Tăng so
với năm
trước %)
1995 3.918.935 17,49 340.779 10,97 3.578.156 18,15
1996 4.595.223 17,25 386.976 13,55 4.208.247 17,60
1997 5.244.987 14,13 417.768 7,95 4.827.279 14,70
1998 5.643.000 7,58 443.000 6,00 5.200.000 7,72
1999 6.050.000 7,21 465.000 4,96 5.585.000 7,40
2000 6.965.562 15,1 486.608 4,64 6.478.954 16,00
2001 8.916.134 28,0 557.092 14,48 8.359.042 20,01
2002 10.881.060 27,9 607.401 15,2 10.273.659 19,7
2003 12.054.407 31,01 675.000 16,6 11.379.407 19,93
2004 13.764.057 40,74 753.730 17,96 13.010.327 22,78
Nguồn: Bộ Giao thông vận tải.
Phụ lục 4: So sánh cường độ vận tải của phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
Việt Nam với một số nước Đông Nam Á
Thứ tự Tên nứơc
Cường độ vận tải
Hàng hóa
(T/km)
Hành khách
(nghìn HK/
km)
1 Việt Nam 946,3 7,99
2 Inđônexia 671,3 1,07
3 Malaixia 784,4 1,43
4 Philippin 1405,1 1,15
5 Thái Lan 4144,5 13,86
Nguồn: Bộ Giao thông vận tải.
Phụ lục 5: Thống kê tai nạn giao thông từ 1995 – 2004
Năm
Số vụ Số người chết Số người bị thương
Số vụ
Tăng so với
năm trước
(%)
Số
người
chết
Tăng so
với năm
trước (%)
Số
người
bị
thương
Tăng so với
năm trước
(%)
1995 15.999 16,3% 5.728 17% 17.167 21,1%
1996 19.638 22,7% 5.932 3,6% 21.718 26,5%
1997 19.998 1,8% 6.152 3,7% 22.071 1,6%
1998 20.753 3,8% 6.394 3,9% 22.989 4,2%
1999 21.538 3,8% 7.095 11,0% 24.179 5,2%
2000 23.317 8,3% 7.924 11,7% 25.693 6,3%
2001 25.831 10,7% 10.866 37,1% 29.449 14,6%
2002 27.993 8,4% 13.186 21,4% 30.999 5,3%
2003 20.674 27,2% 11.864 -8,1% 20.704 -34,8%
2004 17.532 23% 12.096 8,2% 15.633 26,2%
Nguồn: Uỷ ban An toàn giao thông quốc gia.
Phụ lục 6: Thống kê tai nạn GTĐB từ 1995-2004
Năm Số vụ
So sánh
Với năm
trước
Số
người
chết
So sánh
với năm
trước
Số người
bị
thương
So sánh với
năm trước
1995 15.376 17,2% 5.430 19,8% 16.920 29,6%
1996 19.075 24,1% 5.581 2,8% 21.556 27,4%
1997 19.159 0,4% 5.680 1,8% 21.905 1,6%
1998 19.975 4,3% 6.067 6,8% 22.723 3,7%
1999 20.733 3,8% 6.670 9,9% 23.911 5,2%
2000 22.486 8,5% 7.500 12,4% 25.400 6,2%
2001 25.040 11,4% 10.477 39,7% 29.188 14,9%
2002 27.134 8,3% 12.800 22,15% 30.733 5,3%
2003 19.852 6,07% 11.319 -19,5% 20.400 3,5%
2004 15.145 -4,6% 11.822 20,3% 16.500 -2,8%
Nguồn: Ủy ban An toàn giao thông quốc gia.
Phụ lục 7: Dự báo phân bổ luồng khách liên tỉnh
Phân
loại
Giữa các tỉnh 1999 2010 2020
2010/1
999
2020/1
999
Đườn
g dài
(1)
Hà Nội Thành phố
HCM
3.686 11.528 24.762 3,1
6,7
Hải Phòng Thành phố
HCM
587 1.490 2.546 2,5
4,3
Cự ly
trung
bình
(2)
Hà Nội Đà Nẵng 1.058 3.714 9.650 3,5 9,1
Hải Phòng Đà Nẵng 108 308 656 2,9 6,1
Thành phố HCM Đà
Nẵng
1.789 4.778 8.834 2,7 4,9
Cự ly
ngắn
(3)
Hà Nội Hải Phòng
12.777 43.374
106.15
4
3,4
8,3
Hà Nội Lào Cai 1.238 2.286 4.114 1,8 3,3
Thành phố HCM Cần
Thơ
11.133 23.442 45.556 2,1
4,1
Chú thích: (1) hơn 1000km; (2) 500km tới 1000km; (3)dưới 500km
Nguồn: Bộ Giao thông vận tải.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 146_9422.pdf