Luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học

1. Tính cấp thiết của đề tài Trong thời đại ngày nay, hội nhập là xu thế tất yếu và là quy luật để một đất nước có thể phát triển, Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới và phát triển đã ngày càng hội nhập sâu vào sự phát triển của thế giới không chỉ về kinh tế mà còn cả về văn hoá, xã hội. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước ở những thập kỷ tiếp theo, chúng ta cần có một phương pháp, một phong cách ứng xử phù hợp để đưa đất nước phát triển trước sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc của tất cả các quốc gia trên thế giới vì sự phát triển của chính mình và vì những vấn đề phát triển chung của nhân loại. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta. Đảng xác định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và phong phú về cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, nó là sự chung đúc và kết tinh những gì ưu tú nhất thuộc về Dân tộc - Thời đại và Nhân loại, được trí tuệ Hồ Chí Minh, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, đạo đức, nhân cách và bản lĩnh văn hoá Hồ Chí Minh làm cho thăng hoa, thực sự trở thành giá trị văn hoá Việt Nam hiện đại. Hồ Chí Minh đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm được cái tinh thần, phương pháp biện chứng trong nhận thức, để phát hiện và giải quyết các vấn đề phát triển của Việt Nam trong thời đại mới. Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam mà còn có những phát triển mới, bổ sung và làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng tôi nhận thấy phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng của Người không những mang tính khoa học, biện chứng của triết học mácxít mà còn chứa đựng cái tinh tế, sâu sắc của triết lý phương Đông. Khoa học bởi nó chứa đựng những nguyên lý cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là tính biện chứng, tính duy vật lịch sử, nguyên lý của phát triển, mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, mối liên hệ phổ biến v.v.; tinh tế, sâu sắc bởi người sử dụng không bị gò bó mà có thể sáng tạo trên cơ sở hoàn cảnh thực tế, hoàn cảnh khách quan của hoạt động đang diễn ra và còn bởi nó không bao giờ trở nên cũ kỹ hay nhàm chán, khi sử dụng người sử dụng ngày càng nhận thấy nó trở nên phổ biến, bao quát nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực, không chỉ trong cách mạng mà còn giá trị trong cả xây dựng, phát triển; không chỉ cho toàn xã hội mà còn cho từng gia đình, từng cá nhân trong xã hội. Trong điều kiện thách thức và thời cơ đan xen nhau, vượt qua thách thức mới tìm thấy thời cơ như hiện nay, nếu như không nắm được cái "bất biến" mà cứ chạy theo cái "vạn biến" thì sẽ không những không đưa đất nước phát triển mà còn làm thụt lùi quá trình phát triển của. Công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước trong những thập kỷ tiếp theo chúng ta cần có một phương pháp, một phong cách ứng xử phù hợp để đưa đất nước phát triển trước làn sóng hội nhập kinh tế, làn sóng giao lưu văn hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc của tất cả các quốc gia trên thế giới vì những vấn đề chung của nhân loại. Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh là chưa đủ để giải quyết thấu đáo tất cả những vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn gặp phải trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước, nhưng giá trị của nó cho phép chúng ta vận dụng, khai thác trong nhiều lĩnh vực trước những đòi hỏi của quá trình phát triển đất nước. Chính vì những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài: Phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh, làm luận văn tốt nghiệp thạc sỹ ngành Hồ Chí Minh học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có một số công trình nghiên cứu về phương pháp, phong cách của Hồ Chí Minh. Trong việc nghiên cứu mang tính chất hệ thống phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh, các công trình này đã đề cập tới phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh. Tiêu biểu nhất phải kể đến là cuốn: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh – GS Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, 2004. Cuốn sách với 3 chương, các tác giả đã trình bày có hệ thống kết quả nghiên cứu lý luận chung về phương pháp, về phong cách và từ đó phân tích khá cặn kẽ nội dung, ý nghĩa của phương pháp Hồ Chí Minh, của phong cách Hồ Chí Minh, đề cập đến các khái niệm về phương pháp, phương pháp cách mạng và phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh; bước đầu chỉ ra hệ thống phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, hệ thống phong cách Hồ Chí Minh. Cuốn sách là một trong số ít những tài liệu đầu tiên nghiên cứu về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh một cách khái quát và hệ thống, nó đưa công tác nghiên cứu về phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh lên một tầm cao mới. Trong chương II, hệ thống phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh, các tác giả đã đưa ra một hệ thống phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh như sau: Một là, lấy thực tế Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi hiện thực Việt Nam làm mục tiêu cho mọi hoạt động cách mạng. Hai là, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Ba là, dĩ bất biến ứng vạn biến. Bốn là, nắm vững thời cơ, giải quyết đúng mối quan hệ giữa thời, thế và lực. Năm là, biết thắng từng bước. Sáu là, kết hợp các phương pháp.[ 23, tr.67-117] Trong mục III, chương II, với hơn 6 trang sách GS Đặng Xuân Kỳ và các tác giả đã bước đầu chỉ ra cái “bất biến” và cái “vạn biến” trong phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Về cơ bản, cuốn sách là một công trình nghiên cứu khá đầy đủ và toàn vẹn về hệ thống phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh cho tới thời điểm này, nhưng chính lý do đó, khiến cho cuốn sách không có điều kiện để đề cập sâu và rộng hơn về phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, mới chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở, định hướng có tính chất phương pháp luận. “Các tác giả không có tham vọng giải quyết mọi vấn đề đặt ra, mà chỉ hy vọng cố gắng đi tới những kết luận bước đầu về phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh.”[23, tr.13] Cuốn thứ hai: Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh của GS.TS Hoàng Chí Bảo, Nxb Lý luận Chính trị xuất bản 2007, cuốn sách là một công trình dày dặn, công phu và thể hiện tâm huyết của một nhà khoa học, một nhà lý luận "có cả sự thấu hiểu và thấu cảm về đối tượng - một đối tượng văn hoá luôn luôn làm ta cảm động và ngạc nhiên, kính yêu và ngưỡng mộ, biết ơn vô hạn và nguyện vọng xứng đáng với Người". [3, tr.25] Cuốn sách của GS.TS Hoàng Chí Bảo là công trình đã tìm hiểu và trình bày tổng quan những nghiên cứu về phương pháp Hồ Chí Minh của một số công trình, cũng như nhận định trước đó của các tác giả khác về phương pháp và phương pháp luận Hồ Chí Minh. Trong mục III, "phương pháp Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra từ lý luận đến thực tiễn", GS.TS Hoàng Chí Bảo với quan điểm tiếp cận phương pháp Hồ Chí Minh cho rằng "phương pháp bao giờ cũng hình thành từ sự tác động qua lại giữa cái khách quan và cái chủ quan", "vấn đề phương pháp phải được nhìn nhận từ nhiều lớp quan hệ gắn liền với nhau như một chỉnh thể bao gồm: Khách quan và chủ quan; Đối tượng và chủ thể; Thực tiễn - lý luận - hoạt động". Tiếp cận phương pháp Hồ Chí Minh với tư cách là phương pháp của một nhà mácxít sáng tạo lớn của Việt Nam. Từ những quan điểm mang tính chất gợi mở, GS.TS Hoàng Chí Bảo tiếp tục chỉ ra sự hình thành phương pháp Hồ Chí Minh, bước đầu nêu ra và phân tích những đặc điểm chủ yếu của phương pháp Hồ Chí Minh, đó là: Thứ nhất, phương pháp Hồ Chí Minh nổi bật ở nhận thức đúng các mối quan hệ và giải quyết hợp lý sự tác động qua lại giữa các mối quan hệ đó trong thực tiễn, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Thứ hai, thực tiễn hoá lý luận và lý luận hoá thực tiễn là một trong những đặc điểm chủ yếu của phương pháp Hồ Chí Minh. Thứ ba, phương pháp Hồ Chí Minh là phương pháp sáng tạo, đổi mới để phát triển; chú trọng hành động và hiệu quả thực tế, nên chú trọng bày vẽ cách làm và bước đi thật cụ thể để dân chúng hiểu đúng và làm ngay. Thứ tư, phương pháp Hồ Chí Minh - một kiểu mẫu của lòng khoan dung nhân ái, của việc thực hành lối sống và nhân cách văn hoá.[3, tr.125-154] Cùng với việc gợi mở những nghiên cứu về phương pháp Hồ Chí Minh, GS.TS Hoàng Chí Bảo cũng đã bước đầu vận dụng phương pháp Hồ Chí Minh để tìm hiểu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, "cảm nhận về triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh"; nghiên cứu "từ "Dân" đến "Dân chủ" và "Dân vận", trong phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh. Về cơ bản cuốn sách trình bày một cách hệ thống và có những gợi mở cho các nhà nghiên cứu một hướng đi, một phương pháp tiếp cận phương pháp Hồ Chí Minh. Cuốn sách là công trình có giá trị đối với các học giả, những người nghiên cứu và giảng dạy bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn một số sách, giáo trình như: - Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh - Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003. - Tư tưởng Hồ Chí Minh (tập bài giảng, dùng cho Chương trình Cao cấp lý luận chính trị), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Hà Nội, Khoa Lịch sử Đảng và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2003. - Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1993, tập 3. - Trường Chinh: Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1991. - Võ Nguyên Giáp: Về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993. - Bùi Đình Phong: Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. - Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong: Hồ Chí Minh văn hoá và phát triển, Nxb Chính trị – Hành chính, Hà Nội 2009. - Hồ Kiếm Việt: Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004. * Một số bài viết: - Đặng Đình Nguyên: Dĩ bất biến, ứng vạn biến - GS.TS Nguyễn Hùng Hậu (Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh): Từ triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đến triết lý hành động Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản điện tử. - Lê Thị Huệ (Học viện chính trị - Hành chính khu vực IV): Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam - nhìn từ góc độ triết học. - Trang thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng(23 - 11 - 2009): Vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta hiện nay. - Trần Văn Phòng: Về triết lý phát triển Hồ Chí Minh, Tạp chí Khoa học chính trị, Số 5/2008 - Hà Thị Mỹ Hạnh: Vận dụng phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Học viện Chính trị khu vực I, 2004. Tuy nhiên, như đã trình bày, các công trình sách, giáo trình, các bài viết chưa có điều kiện đề cập một cách có hệ thống về phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chủ yếu mới dừng lại ở chỗ chỉ ra cái “bất biến” và cái “vạn biến” trong phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh. Về cơ bản mới dừng ở mức độ phân tích, đánh giá những sự kiện đã qua nhằm cho chúng ta thấy giá trị của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh, cũng chính vì vậy nhiều công trình, bài viết còn cho rằng đây là một quan điểm, phương châm chứ chưa phân tích nó ở góc độ là một phương pháp cách mạng để thấy rõ hơn giá trị vận dụng của nó cho giai đoạn cách mạng hiện nay và về sau. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn. 3.1. Mục đích nghiên cứu. Đề tài tìm hiểu và làm rõ khái niệm, vai trò, nội dung phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, những biểu hiện cụ thể của nó trong hoạt động của Hồ Chí Minh, và sự vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu. - Hệ thống hoá và phân tích phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh trong cách mạng Việt Nam và vai trò của phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong hệ thống phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. - Nghiên cứu, tìm hiểu quá trình Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong lãnh đạo cách mạng, trên các lĩnh vực: Kinh tế; Chính trị; Quân sự; Ngoại giao; Xây dựng Đảng . - Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn, xác định các nguyên tắc phương pháp luận cần quán triệt khi vận dụng phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh trong xây dựng, đổi mới phát triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị; tăng cường mở rộng ngoại giao v.v, nhằm phát triển xã hội Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn *Về nội dung: Luận văn nghiên cứu: - Phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" - ở góc độ phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh. - Phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong thực tiễn quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực Kinh tế; Chính trị; Quân sự; Ngoại giao. *Về thời gian: - Quá trình sử dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ 1945 đến 1969. - Quá trình Đảng vận dụng phương pháp: "Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới hiện nay ở nước ta từ 1986 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản của nhân loại, là triết lý về giải phóng triệt để con người. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu, trình bày trên cơ sở quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về phương pháp cách mạng và phương pháp cách mạng Việt Nam. Luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác: Phân tích - Tổng hợp; Logíc - Lịch sử; thống kê, so sánh, v.v. 5.3. Nguồn tài liệu * Tài liệu nghiên cứu: - Gồm có 12 tập Hồ Chí Minh toàn tập. - Các tài liệu của Đảng: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng, toàn tập; Các Văn kiện Hội nghị trung ương các khoá; Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006); Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011); Các Văn kiện và cam kết gia nhập WTO v,v. * Tài liệu tham khảo: - Các giáo trình, tập bài giảng Triết học, Kinh tế chính trị, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Xây dựng Đảng v,v, dùng cho cử nhân, thạc sỹ và cao cấp lý luận chính trị. - Sách của các tác giả: Sách viết về hệ thống phong cách và phương pháp Hồ Chí Minh, sách liên quan đến các nội dung nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá, ngoại giao. - Các luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn. - Các bài viết của các nhà nghiên cứu in trên báo, tạp chí, các trang báo điện tử. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Trên cơ sở nghiên cứu, luận văn khẳng định "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là một phương châm mà đã có sự phát triển thành một phương pháp cách mạng, có giá trị lý luận, thực tiễn trong cách mạng Việt Nam trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. - Luận văn bước đầu nêu ra định nghĩa khái niệm phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh. - Luận văn lý giải cơ sở hình thành phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm rõ cái “bất biến” và cái “vạn biến” theo quan niệm và hành động của Hồ Chí Minh trong cách mạng. - Trên cơ sở phân tích quá trình đổi mới của Đảng, luận văn đánh giá và đề xuất phương hướng vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh của Đảng trong giai đoạn tiếp theo. - Luận văn là tài liệu tham khảo cho sinh viên, giảng viên môn Tư tưởng Hồ Chí Minh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 2 chương 6 tiết: Chương 1: Cơ sở hình thành và nội dung của phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh Chương 2: Biểu hiện của phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới

doc61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4564 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày thì phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh thể hiện trong xây dựng và phát triển kinh tế hẳn có nhiều giá trị cho mỗi cá nhân lãnh đạo ở mỗi đơn vị học tập, nghiên cứu và vận dụng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế rất sâu, rộng và phong phú, không chỉ có Đảng và Nhà nước mới thấy được giá trị của nó mà mỗi cá nhân, mỗi nhà máy, xí nghiệp, mỗi công ty, doanh nghiệp cũng cần thấy được giá trị vận dụng của nó cho sự phát triển lớn mạnh và bền vững của chính mình. Chính vì vậy, cần có một sự quan tâm đầu tư thích đáng của Đảng và Nhà nước cho các nhà nghiên cứu, để tìm hiểu và làm rõ tư tưởng của Người phục vụ cho việc vận dụng vào sự nghiệp phát triển kinh tế hiện nay. Hiện nay và trong thời gian tới vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế trong hội nhập là một vấn đề mà Đảng và Nhà nước cần hết sức quan tâm, vận dụng nhuần nhuyễn, phát huy cao độ phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh. Cần xác định và làm rõ cái bất biến trong phát triển kinh tế thời hội nhập. Những cơ hội, nguy cơ và thách thức cần được nghiên cứu, tìm hiểu sẵn sàng, chủ động vạn biến nhằm đạt mục tiêu cao nhất, thoát ra khỏi nguy cơ và thách thức. Tóm lại, đổi mới, phát triển nói chung và đổi mới, phát triển kinh tế nói riêng là một quá trình lâu dài và phức tạp. Trong quá trình đổi mới có đổi mới về tư duy lý luận và đổi mới trên thực tiễn. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt về vấn đề phát triển kinh tế, cần được tiếp tục nghiên cứu cùng với quá trình tổng kết thực tiễn sự nghiệp đổi mới. Trong quá trình đổi mới, chúng ta mới bước đầu làm rõ, khẳng định giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là giá trị của sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh trong kinh tế mới được nghiên cứu bước đầu. Hy vọng rằng những vấn đề nói trên sẽ được tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm cơ sở cho quá trình vận dụng của Đảng và nhân dân ta trong hội nhập và phát triển kinh tế. 2.2.2.2. Chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, trong đó nổi bật tư tưởng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự kết tinh truyền thống văn hoá dân tộc, thăng hoa lên tầm cao mới khi bắt gặp cơ chế, phương pháp đoàn kết mácxít. Xây dựng lực lượng chính trị cho cách mạng Việt Nam trên cơ sở đoàn kết, đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay, trước những thuận lợi cần phát huy, thời cơ cần giành lấy cũng như những khó khăn cần vượt qua, hơn lúc nào hệ thống chính trị phải cho thấy khả năng tập hợp lực lượng, đoàn kết các lực lượng vì những mục tiêu chung của dân tộc. Trong các hoạt động chính trị phải vì mục tiêu lấy ổn định chính trị để tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài, thể hiện vai trò chính trị của mình với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; lấy đại đoàn kết là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Cơ chế để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc dựa trên cơ sở xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Kế thừa thành quả công tác xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc đã có trong chiến tranh giải phóng dân tộc, sau khi hoà bình lập lại, Tổ quốc thống nhất, công tác xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng và Nhà nước nâng lên một tầm cao mới. Khối đại đoàn kết dân tộc, lực lượng chính trị được thể hiện có sự gắn kết chặt chẽ, tác động tương hỗ trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI, Đảng ta sử dụng khái niệm hệ thống chính trị. Hệ thống đó bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Cương lĩnh năm 1991 khẳng định: "toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân".[9, tr.19] Hệ thống chính trị vận hành theo cơ chế: "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ"; trong đó, "Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật." [9, tr.21] Không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng lãnh đạo; có chức năng thể chế hóa và tổ chức thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng và quản lý đất nước. " Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo; là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân… hoạt động theo phương thức hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên theo chương trình hành động chung;[9, tr.20] có vai trò quan trọng trong thực hiện phản biện, giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân  là người làm chủ xã hội, làm chủ thông qua Nhà nước và các cơ quan đại diện, đồng thời làm chủ trực tiếp thông qua cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; làm chủ thông qua hình thức tự quản. Để có được những thay đổi trong quan điểm như trên là kết quả của một quá trình lâu dài, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chủ động, tích cực và linh hoạt trước những biến chuyển của tình hình xã hội, những đòi hỏi của công cuộc đổi mới với mục đích xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Trong quá trình đó chúng ta thấy mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu bất biến, nó là chiến lược để xây dựng nền chính trị của Việt Nam trong thời đại mới. Mỗi một tổ chức, một đơn vị trong hệ thống chính trị tùy theo tình hình, yêu cầu của hoàn cảnh khách quan mà vận dụng linh hoạt cho phù hợp đảm bảo giữ vững và tiến tới hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Cụ thể: Thứ nhất, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định Nhà nước "là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật."[9, tr.19] Hội nghị Trung ương 2 khóa VII, đưa ra thuật ngữ "xây dựng Nhà nước pháp quyền", Hội nghị Trung ương 8 khóa VII, đưa ra Nghị quyết về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách nền hành chính, đã phát triển tư tưởng về Nhà nước pháp quyền. Đại hội IX và X, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.[15, tr.88] Từ quan điểm, phương hướng xây dựng nhà nước tiến tới mục tiêu là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân của Đảng trên cơ sở nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong thực tiễn bộ máy nhà nước đã được kiện toàn một bước từ cơ cấu tổ chức đến cơ chế hoạt động trên cả ba lĩnh vực lập pháp, tư pháp và hành pháp. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội ngày càng được đổi mới với các phiên chất vấn trực tiếp của các đại biểu quốc hội được truyền hình trực tiếp, nội dung chất vấn đi sâu vào từng nội dung cụ thể phát sinh, tồn tại trong đời sống nhân dân. Hoạt động cải cách hành chính, với việc xóa bỏ hàng loạt các văn bản quy định, thủ tục hành chính không cần thiết, thực hiện cơ chế một cửa v,v, đã bước đầu làm giảm bức xúc trong nhân dân và được cộng đồng doanh nghiệp cũng như các tổ chức quốc tế ghi nhận thể hiện qua sự cải thiện về thứ bậc xếp hạng về mức độ thuận lợi trong kinh doanh. Hoạt động cải cách tư pháp cũng đạt nhiều kết quả, quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường. Nhiều luật và bộ luật được ra đời đáp ứng kịp thời những đòi hỏi về công cụ quản lý của Nhà nước cũng như tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nội dung bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước. Tư tưởng đó đã được Đảng ta vận dụng và phát triển trong quá trình đổi mới và đạt được những kết quả nhất định, được nhân dân ủng hộ và tin tưởng. Trong quá trình đổi mới, Nhà nước cũng phải đổi mới trước những thay đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và ý thức người dân. Trong đó chúng ta thấy nổi lên mấy vấn đề mà theo chúng tôi đó là sự ứng biến kịp thời của Nhà nước: cải cách hình thức tổ chức và hoạt động của Quốc hội; cải cách hành chính; cải cách tư pháp. Những sự vạn biến đó đã giải quyết được những bức xúc trong dư luận nhân dân. Trên cơ sở, kết quả đã đạt được của bộ máy Nhà nước, Nhà nước cần tiếp tục phát huy, đổi mới cải cách hành chính về cả thủ tục lẫn bộ máy làm cho tinh gọn và hiệu quả; tiếp tục nghiên cứu hệ thống luật đảm bảo tính chặt chẽ cho hoạt động, quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; cải cách hơn nữa các kỳ họp của Quốc hội để có thể lắng nghe được những phản ánh từ phía nhân dân, đạt tới mục tiêu nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân. Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội. Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.[13, tr.124] Như vậy, chúng ta thấy rằng, dòng chảy chủ đạo trong việc xây dựng và tổ chức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vẫn trên tinh thần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo cơ sở và lực lượng, động lực và phản biện cho sự phát triển và ổn định của cả hệ thống chính trị. Tinh thần bất biến vẫn là "đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết" toàn dân tộc, sự vạn biến thể hiện là những hoạt động, hành động để duy trì, tăng cường sự đoàn kết giữa các bộ phận dân cư, các tổ chức đoàn thể và các tổ chức chính trị trong một liên minh chính trị. Trong giai đoạn hiện nay, đổi mới và hội nhập với những biến chuyển không ngừng cả về kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, Đảng, Nhà nước phải chủ động phối hợp với Mặt trận để tiếp tục giữ vững, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở nền tảng vững chắc để vượt qua những khó khăn, thách thức của đổi mới và hội nhập.  Thứ ba, về Đảng Cộng sản Việt Nam Cương lĩnh năm 1991 đã chỉ rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. [9, tr.21] Trong quá trình đổi mới và phát triển, Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.[13, tr.130] Khẳng định bản chất của Đảng như vậy rõ ràng là một sự ứng biến tích cực để có được sự ủng hộ mạnh mẽ của tất cả các tầng lớp nhân dân lao động, đưa Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới, Đảng của nhân dân, của dân tộc. Nó cũng chứng tỏ Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực sự lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động của mình. Càng ngày những hành động của Đảng càng trở về gần gũi với tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Những hoạt động của Đảng trong quá trình đổi mới và cả những đổi mới của Đảng trong quá trình đổi mới là hết sức rộng lớn và phong phú với nhiều vấn đề từ nhận thức đến thực tiễn, từ xác định nền tảng tư tưởng đến phương hướng phát triển, từ xây dựng đội ngũ đảng viên đến mối quan hệ giữa đảng viên với phát triển kinh tế tư nhân v,v, trong mỗi một vấn đề chúng ta đều nhận thấy sự thay đổi hay nói khác là sự ứng biến của Đảng để nhằm mục đích là xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, là trụ cột của hệ thống chính trị với nền tảng tư tưởng bất biến là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kim chỉ nam của mọi hành động. Tóm lại, trong quá trình đổi mới đất nước, quá trình phát triển của các tổ chức trong hệ thống chính trị có thể là do đòi hỏi tự thân của quá trình phát triển, cũng có thể do yêu cầu khách quan phải đổi mới tổ chức, hoạt động cho phù hợp với yêu cầu của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự phát triển và đổi mới được thể hiện trên nhiều mặt từ quan điểm chỉ đạo, hoạt động cho đến bản chất cũng như mục tiêu, nhiệm vụ mới cần giải quyết của từng tổ chức trong hệ thống, cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức trong hệ thống. Trong những thay đổi đó có những cái là vạn biến cho phù hợp, có những cái là kết quả tất yếu của quá trình phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đều thấy rằng bản chất của hệ thống chính trị vẫn không nằm ngoài tư tưởng Hồ Chí Minh, các tổ chức trong hệ thống đều nhằm tới mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu là động lực cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế. Đại đoàn kết chỉ thực sự có được khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa từ mục tiêu trở thành hiện thực. 2.2.2.3. Đối ngoại Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta cho thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chủ động hội nhập quốc tế được hoạch định và thực hiện với tư cách là bộ phận của chiến lược xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, làm cầu nối nước ta với thế giới, gắn kết sự nghiệp của toàn thể dân tộc ta với dòng chủ lưu phát triển và tiến bộ của thời đại. Những nội dung trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại được bao hàm trong chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, trong chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta định hướng chính sách và hoạt động đối ngoại vào việc xác định đúng vị trí ổn định và có lợi nhất cho Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, đánh giá đúng khả năng và vị thế của Việt Nam trong mọi biến hoá của thời cuộc để từ đó nhận biết và nắm bắt thời cơ, tranh thủ những điều kiện thuận lợi và nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho lợi ích dân tộc, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng tư tưởng ấy cũng là cơ sở lý luận quan trọng đối với ngoại giao Việt Nam. Nền tảng tư tưởng ấy và sự kiên định mục tiêu nhất quán trong chính sách đối ngoại đã làm cho hoạt động ngoại giao thời kỳ mới có được tính phát triển liên tục, vừa kế thừa thành quả của các thời kỳ trước, vừa được điều chỉnh, bổ sung và phát triển hơn nữa để phù hợp và ngang tầm với những yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ mới. Cương lĩnh năm 1991đã xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: "Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới"[9, tr.9]. Cương lĩnh xác định:     Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội Hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình. Không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác truyền thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương. Đảng Cộng sản Việt Nam trước sau như một ủng hộ các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào cách mạng trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại. Đảng Cộng sản Việt Nam sẵn sàng thiết lập và mở rộng mối quan hệ với các đảng và các lực lượng đấu tranh chống các thế lực hiếu chiến, xâm lược, áp bức bóc lột các nước chậm tiến, vì hòa bình thế giới và tiến bộ xã hội. Tham gia tích cực các tổ chức quốc tế và phong trào Không liên kết vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển. Phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hòa bình và hợp tác. Phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển. Mở rộng sự hợp tác cùng có lợi với các nước phát triển.[9, tr.18] Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đã từng bước hoàn thiện đường lối đối ngoại. Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đã ra nghị quyết chuyên đề về đối ngoại; các nhiệm kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X đã phát triển thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển với 7 nội dung cơ bản: Thứ nhất, về lợi ích đất nước: Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX xác định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Thứ hai, về nhiệm vụ công tác đối ngoại: Từ Đại hội VII đến nay, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ của công tác đối ngoại nhằm ba mục tiêu chủ yếu: một là, giữ vững môi trường hòa bình; hai là, tạo và tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; ba là, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thứ ba, về tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại và quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại: Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII xác định tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải hết sức sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ. Đến Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo công tác đối ngoại là: Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa theo phương châm "thêm bạn, bớt thù", vừa hợp tác vừa đấu tranh, cố gắng gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc; lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc. Thứ tư, về phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế: Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII nêu bốn phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế: Một là, đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân. Hai là, giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Ba là, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Bốn là, tham gia hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước. Đến Đai hội X, Đảng ta nhấn mạnh phương châm phát triển công tác đối ngoại nhân dân là: "chủ động, linh động, sáng tạo và hiệu quả". Thứ năm, về các nguyên tắc mở rộng quan hệ đối ngoại: Trong mở rộng quan hệ về mặt nhà nước, chúng ta tuân thủ các nguyên tắc: Tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải quyết bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hòa bình; làm thất bại mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt cường quyền. Thứ sáu, về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác: Các văn kiện Đại hội, đặc biệt văn kiện Đại hội IX và X của Đảng đã nhận định: Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Để phát triển nước ta không thể đứng ngoài quá trình toàn cầu hóa kinh tế mà phải chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường. Thứ bảy, bảo đảm sự lãnh đạo của thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại; đối ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thông tin trong nước. [15, tr.79-83] Trên đây là những thay đổi về quan niệm và cách tiếp cận của Đảng trong vấn đề đối ngoại, trên thực tiễn, những quan điểm chỉ đạo đó đã giúp cho hoạt động đối ngoại của ta đạt được những thành tựu to lớn: Thứ nhất, phá thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia. Chủ động giải quyết vấn đề Campuchia (1989), bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (1991), với Hoa Kỳ (1995), gia nhập ASEAN (1995), WTO (2007)… Thứ hai, xác lập được quan hệ ổn định với các nước lớn: các nước Đông Nam Á, các nước EU(1995), Trung Quốc (1999), Nga (2001), Nhật (2002), Hoa Kỳ. Thứ ba, giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo với các nước liên quan, giữ vững môi trường hòa bình. Thứ tư, tranh thủ vốn ODA, thu hút FDI, mở rông thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; đã tranh thủ được nguồn vốn, khoa học - công nghệ tiên tiến, kỹ thuật quản lý của nước ngoài để phát triển đất nước.[14, tr.96-98] Trong quá trình đổi mới, có lẽ là không một nội dung nào trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh lại phát huy vai trò, thể hiện giá trị sớm như tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh trong ngoại giao. Kết quả và bài học kinh nghiệm từ những hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong những năm tháng sóng gió đối với vận mệnh dân tộc, đã phát huy vai trò ngay từ những ngày đầu đổi mới. Bài học kinh nghiệm quý báu là phát huy chính nghĩa của dân tộc, giữ gìn hoà bình, tăng cường hữu nghị và hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia của nền ngoại giao Việt Nam là dòng chảy liên tục và xuyên suốt quá trình lịch sử. Cái bất biến: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cũng như những yêu cầu phải "chủ động, linh động, sáng tạo và hiệu quả" trong điều kiện và hoàn cảnh mới, luôn được Đảng ta quán triệt và vận dụng, thể hiện trong quan điểm chỉ đạo qua các kỳ đại hội cũng như trong hoạt động thực tiễn của quá trình đổi mới.                      Bối cảnh tình hình mới đã làm cho hoạt động đối ngoại có nhiều thay đổi, biến động; hoạt động đối ngoại cũng đa dạng và rộng lớn hơn. Trong những biến động đó, chúng ta phải tiếp tục giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là những hằng số, những điều bất biến.  Trong bối cảnh hiện nay, đối ngoại phải phục vụ phát triển kinh tế và ổn định chính trị. Trong đó mục tiêu phát triển kinh tế phải được coi trọng hơn. Hoạt động đối ngoại phải phát huy được những thế mạnh đặc thù về địa chính trị của dân tộc, của từng vùng, từng ngành kinh tế để phục vụ trực tiếp vào việc phát triển kinh tế - xã hội. Đối ngoại phục vụ kinh tế có nghĩa là định hướng hoạt động đối ngoại vào việc khai thác triệt để những thuận lợi và điều kiện từ các mối quan hệ quốc tế để làm lợi cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Trong điều kiện toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, đối ngoại phải thực hiện tốt vai trò cầu nối và là một trong những lực lượng đi đầu. Vấn đề đặt ra ở đây là tăng cường năng lực và hiệu quả phục vụ kinh tế, coi đó vừa là một trọng tâm, vừa là mục tiêu ưu tiên của hoạt động đối ngoại.   Việc xác định phục vụ phát triển kinh tế là một trọng tâm của hoạt động đối ngoại đáp ứng yêu cầu đặt ra cho thời kỳ mới là tập trung vào phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm. Phải lấy kết quả thiết thực trong việc phục vụ phát triển kinh tế làm thước đo và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả công tác đối ngoại.   Đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế thể hiện ở đóng góp vào việc tranh thủ mọi nguồn ngoại lực cho đất nước. Mọi hoạt động đối ngoại đều phải nhằm phục vụ thiết thực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển nền kinh tế nhanh và vững chắc. Đối ngoại Việt Nam phải ra sức duy trì và không ngừng cải thiện môi trường quốc tế và khu vực hoà bình, ổn định để phát triển đất nước, tận dụng mọi nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp hài hoà các mối quan hệ song phương và đa phương, phải tăng cường năng lực hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường hơn nữa và với hiệu quả thiết thực việc đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ và hội nhập quốc tế.   Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, hoạt động đối ngoại phải góp phần đưa đất nước tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, vào “điều hoà kinh tế thế giới và giữ gìn hoà bình”. Ngày nay, tham gia vào các quá trình kinh tế chính trị này, chúng ta có được những điều kiện nhất định để chủ động hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế đối với đất nước và để cùng xác định những luật chơi chung trong quá trình hội nhập quốc tế.   Bên cạnh việc tăng cường các hoạt động và hiệu quả thiết thực trong các cơ chế và diễn đàn đa phương, trọng tâm của công tác đối ngoại phục vụ kinh tế là tìm kiếm đối tác và thị trường xuất khẩu, làm tốt vai trò trung gian, môi giới và làm cầu nối trong các hoạt động và nghiệp vụ kinh tế, huy động vốn đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển, thúc đẩy hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo và lao động quốc tế, đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài theo tinh thần chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.                       Trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta, Đảng ta cần tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh, phải thấy “bất biến” tức là không vì quyền lợi hay lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân nào đó mà bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc, của tập thể. Phải tuyệt đối đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lên trên hết. Thực hiện phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế cũng phải luôn “ứng vạn biến”, biết phân tích, dự đoán và mau lẹ chớp lấy thời cơ, nắm chắc và tận dụng có hiệu quả thời cơ để mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đó là bản lĩnh cách mạng, sự mẫn cảm và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong thời kỳ chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay ở nước ta.     2.2.2.4. Quốc phòng - an ninh Trong Cách mạng tháng Tám, trong Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như trong Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tư tưởng, phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh trên lĩnh vực quân sự được biểu hiện hết sức sinh động và phong phú. Cái bất biến được thể hiện là tư tưởng giành thế chủ động và kiên quyết tấn công, còn cái vạn biến biểu hiện trong từng trận đánh, từng chiến dịch với từng thế trận, hoàn cảnh do ta cũng như do địch tạo ra, nó không chỉ dừng lại ở các cách đánh địch, lực lượng tham gia đánh địch trên các mặt trận mà còn cả đánh địch trong lòng địch, ở quê hương địch, nơi không có địch. Trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển hiện nay, với điều kiện chúng ta có nền độc lập dân tộc và sự thống nhất đất nước; việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự trong thời chiến chuyển sang thời bình, từ thế trận đối đầu trực tiếp với kẻ thù chuyển sang thế trận xây dựng nền quốc phòng, an ninh nhân dân. Rõ ràng chúng ta thấy, cái thay đổi lớn nhất trong các hoạt động quân sự là chuyển từ thời chiến sang thời bình, chuyển từ chiến đấu sang xây dựng và bảo vệ. Trong đó, không chỉ vấn đề quân sự, quốc phòng được đặc biệt quan tâm mà vấn đề an ninh trật tự cũng đã chiếm một vị trí quan trọng. Ngay cả về mặt khái niệm, vấn đề cũng đã được mở rộng, không chỉ là quân sự mà là quốc phòng - an ninh. Nội dung hoạt động quốc phòng, an ninh được triển khai trên nhiều lĩnh vực. Cương lĩnh năm 1991 xác định nhiệm vụ của quốc phòng - an ninh là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.[9, tr.16] Đến Đại hội X, Đảng ta xác định đầy đủ hơn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ…[13, tr.37] Trong qua trình thực hiện nhiệm vụ ấy, tư tưởng vẫn là: "Kiên quyết làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ;…chủ động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn đến những đột biến bất lợi." [15, tr.76-77] Trên thực tế, những hoạt động quốc phòng - an ninh đã đạt được những thành tựu nhất định; giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, sự lãnh đạo của Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội và trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng và thực hiện Chiến lược an ninh quốc gia và Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động phòng ngừa, tấn công làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", hoạt động gây rối, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động cơ hội chính trị, các loại tội phạm hình sự; tham gia tích cực các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống và khắc phục thiên tai. Rõ ràng trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng - an ninh nói chung cũng như vận dụng sáng tạo phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh để chuyển thế trận từ thời chiến sang thời bình, góp phần vào sự nghiệp phát triển và đổi mới đất nước. 2.3. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CẦN QUÁN TRIỆT KHI VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN” HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 2.3.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta Nhìn toàn cục, trên thế giới, kinh nghiệm lịch sử chỉ rõ, bất cứ một quốc gia, dân tộc nào muốn tồn tại, phát triển và nhịp bước cùng thời đại, đều phải có hệ tư tưởng của mình hoặc phải chọn lấy hệ tư tưởng thích hợp với mình. Đồng thời, kinh nghiệm lịch sử cũng chỉ rõ, sự lựa chọn ấy chỉ đúng đắn, khi một mặt xuất phát từ thực tế đất nước, từ tính cách của dân tộc, từ ước vọng tha thiết của nhân dân, và mặt khác, phải phù hợp với quy luật phát triển tất yếu, khách quan của xã hội. Sự lựa chọn mục tiêu phát triển của Việt Nam, xét từ mọi góc độ, không nằm ngoài cái tất yếu đó. Chúng ta đều biết rằng vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, chế độ phong kiến mà đại diện là triều đình nhà Nguyễn đã hèn nhát đầu hàng, dâng nước ta cho Pháp. Mặc dù các phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương nổ ra nhưng đều thất bại. Nó chứng tỏ giai cấp phong kiến không còn khả năng duy trì hay cứu vãn nền độc lập dân tộc. Trong quá trình khai thác và bóc lột của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi, cùng với sự ra đời của các giai cấp mới là phong trào đấu tranh mà giai cấp đó đại diện. Lịch sử đã cho chúng ta thấy các phong trào gắn với các giai cấp tư sản, tiểu tư sản đều thất bại. Nó cũng chứng tỏ một điều là: giai cấp tư sản và các khuynh hướng cứu nước theo con đường dân chủ tư sản cũng thất bại. Chỉ tới những năm 20 của thế kỷ XX, với những biến động long trời lở đất, đặc biệt với Cách mạng tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã làm cho tính chất thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo cách mạng cũng thay đổi dẫn đến con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi. Bằng nhiều con đường và biện pháp Hồ Chí Minh cùng các đồng chí của mình đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi, chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi".[24, tr.28] Hồ Chí Minh bằng trí tuệ thiên tài của mình đã nhận thấy: "chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ", "chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc". [24, tr.461] Rõ ràng, sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta xét về logic là một tất yếu khách quan, xét về lịch sử là hoàn toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện của một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân dân lao động Việt Nam. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng bất biến của Hồ Chí Minh. Lịch sử đấu tranh của dân tộc từ khi Đảng ra đời đã chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chỉ đạo, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân ta. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ cho chúng ta mục tiêu để phát triển mà chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông còn cho chúng ta phương pháp để hiện thực hóa mục tiêu. Thông qua đấu tranh cách mạng và từ trong đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Trong quá trình đổi mới và phát triển, hội nhập kinh tế hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh nói riêng, Đảng ta luôn quán triệt giữ vững cái bất biến là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta. 2.3.2. Biết mình, biết người công việc thành công Biết mình, biết người công việc thành cônglà nguyên tắc cần quán triệt thứ hai được rút ra trong quá trình vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh của Đảng. Từ khi có Đảng, trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, biết mình, biết người có thể được hiểu là những hiểu biết về chính mình - chủ thể hành động trên tất cả các mặt năng lực, sức mạnh, hoàn cảnh thực tế v,v, là những hiểu biết về đối phương, biết người để có biện pháp, cách thức đấu tranh hay chiến đấu nhằm nắm chắc phần thắng về phía mình; là những hiểu biết về tình hình thế giới, mối quan hệ giữa các lực lượng, các nước lớn để đưa ra những biện pháp đấu tranh và tranh thủ sự giúp đỡ, ủng hộ từ các nước anh em cũng như từ các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, thông qua những nhận định về tình hình thế giới, tình hình trong nước qua các Hội nghị giữa nhiệm kỳ, hay qua các kỳ Đại hội Đảng, vấn đề biết mình biết người không chỉ còn là những vấn đề bó hẹp như trong đấu tranh cách mạng, mà vấn đề đã được mở rộng: không chỉ hiểu rõ nắm bắt được tình hình trong nước, xu thế phát triển của các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong nước mà còn là nắm bắt, phân tích, nhận định xu thế phát triển của thế giới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định: trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta phải đi tắt đón đầu. Chúng ta nên hiểu rằng đi tắt đón đầu ở đây không chỉ về khoa học công nghệ mà còn cả về xu hướng chính trị - xã hội. Về mặt chính trị - xã hội, khi xác định xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa là chúng ta đã đi tắt đón đầu. Mặc dù sự thất bại của chủ nghĩa xã hội hiện thực cũ ở Liên Xô và các nước Đông Âu làm cho không ít người hoài nghi chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong thời gian qua, với sự phát triển, đổi mới của các nước xã hội chủ nghĩa, cùng với sự khủng hoảng về kinh tế có tính chất chu kỳ của chủ nghĩa tư bản, ngay bản thân chủ nghĩa tư bản cũng nhận thấy cần thiết áp dụng một số biện pháp quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm tránh những cuộc khủng hoảng kinh tế của mình. Trong thực tế các nước xã hội chủ nghĩa, đang có khả năng phát triển vô hạn, vẫn là một trào lưu và xu hướng chính trị của nhân loại. Về mặt khoa học, công nghệ, trong những năm đổi mới, luôn có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước. Mặc dù còn những tồn tại hạn chế nhất định, nhưng chúng ta ngày càng hiểu rõ khả năng, điều kiện, lợi thế để phát triển nền khoa học công nghệ của mình cũng như hiểu rõ khả năng phát triển của từng lĩnh vực, từng ngành khoa học, công nghệ của từng quốc gia trên thế giới để có chính sách phù hợp thu hút, tận dụng và dự báo xu hướng cho khoa học công nghệ của Việt Nam phát triển. Qua quá trình đổi mới và phát triển, Đảng ta đã vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh có hiệu quả trên cơ sở phân tích kỹ điều kiện, khả năng vốn có của mình, mục tiêu cần đạt tới trong quá trình phát triển; điều kiện chính trị, kinh tế, khoa học, công nghệ của các quốc gia trên thế giới để tranh thủ, kêu gọi đầu tư, khai thác cho mục tiêu phát triển của mình. Như vậy, biết mình biết người là điều kiện để vận dụng phương pháp 'Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh hay là cơ sở phương pháp luận đảm bảo cho vận dụng hiệu quả phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". 2.3.3. Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả Chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quảlà phương châm hoạt động đối ngoại của Đảng, theo chúng tôi đây là nguyên tắc thứ ba được rút ra từ quá trình vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh của Đảng. Nếu như biết mình biết người là điều kiện để vận dụng sáng tạo phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" thì chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả là biện pháp thực hiện, là thước đo cho quá trình vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh. Xét ở nghĩa chung lớn nhất, chỉ có biết mình biết người mới có thể chủ động; hoàn cảnh, điều kiện cũng luôn thay đổi nên phải "ứng" biến, phảilinh hoạt, sáng tạo thì mới đạt hiệu quả, mục tiêu. Nhưng để đảm bảo mục tiêu hướng tới, kết quả đạt được là đúng, là tiến bộ phải trên cơ sở nắm chắc, phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho mọi hành động. Như vậy, ba nguyên tắc xuất phát từ quá trình vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh của Đảng trong sự nghiệp đổi mới có mối quan hệ biện chứng, tương hỗ cho nhau. Tiểu kết chương 2 Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu nội dung và biểu hiện của phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh; xem xét nó trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh trên một số lĩnh vực xã hội, chúng ta thấy rằng tư tưởng, phương pháp và hành động của Hồ Chí Minh ở mỗi thời điểm lịch sử, ở mỗi phương diện xã hội nhất định là thống nhất với nhau. Mặc dù do hoàn cảnh, thời điểm lịch sử khác nhau cho nên xét trong một giai đoạn chúng ta thấy có cái bất biến riêng, còn xét trong toàn bộ quá trình cách mạng thì tất cả những cái “bất biến” ấy vẫn nhằm đạt tới cái bất biến cuối cùng, cao nhất: Độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định và vận dụng thành công phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, các điều kiện, hoàn cảnh của dân tộc; điều kiện, hoàn cảnh thế giới cũng luôn phát triển và đổi khác, vì vậy Đảng tiếp tục quán triệt tinh thần vận dụng phương pháp "Dĩ bất biến, ứng vạn biến" Hồ Chí Minh. Đảm bảo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta, trên cơ sở biết mình biết người, Đảng phải chủ động, linh hoạt, sáng tạo, để đạt hiệu quả cao nhất. KẾT LUẬN Sự tồn tại, phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc trong thời đại ngày nay đều phải dựa trên một hệ tư tưởng, một nền tảng lý luận nhất định. Xây dựng và phát triển đất nước không dựa trên một hệ tư tưởng, không có một nền tảng lý luận vững chắc sẽ nhanh chóng bị phụ thuộc, lệ thuộc vào các nước khác, trở thành quân bài chính trị của các nước lớn. Mỗi quốc gia, dân tộc phải xác định cho mình một hệ tư tưởng chỉ đạo, một nền tảng lý luận vững chắc và tiên tiến để đảm bảo cho sự phát triển của dân tộc mình, tổ quốc mình. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong quá trình đấu tranh cách mạng, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng tỏ là một hệ tư tưởng đúng đắn, khoa học và cách mạng đưa cách mạng Việt Nam đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…[12, tr.20-21] Đảng ta xác định: Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và nhân dân ta. Nghiên cứu, tìm hiểu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm có ý nghĩa thiết thực trong điều kiện hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, cho nên trong mỗi hoạt động, mỗi lĩnh vực khi nghiên cứu tìm hiểu chúng ta lại tìm thấy chìa khóa để giải quyết những vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn nảy sinh trong quá trình hoạt động. Trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay, cơ hội và thách thức luôn đan xen, lồng ghép vào nhau, trong cơ hội bao hàm cả thách thức và nhiều khi vượt qua thách thức mới tìm thấy cơ hội. Cơ hội càng lớn, thách thức càng nhiều; vượt qua thách thức lớn mới có cơ hội lớn. Điều đó đòi hỏi sự sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh chính trị, quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nỗ lực của toàn dân, để ngày càng hạn chế những khó khăn, thách thức; biến thách thức thành cơ hội để phát triển và khẳng định mình. Để làm được như vậy, điều quan trọng đối với từng quốc gia là phải xác định được quyền lợi thiết thân nhất của dân tộc, của chính thể để tìm ra phương thức và tốc độ thích hợp nhất trong quá trình hội nhập quốc tế. Xác định không đúng cái “bất biến” sẽ bị rơi vào cái “vạn biến” trên trường quốc tế và dần đánh mất mình trở thành phụ thuộc, lệ thuộc vào các nước lớn. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái bất biến lớn nhất trong tư tưởng của Người là: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. "Dĩ bất biến, ứng vạn biến", không chỉ là nguyên tắc, phương pháp có giá trị lịch sử, có ý nghĩa đối với Việt Nam trong đấu tranh cách mạng, mà còn là nguyên tắc, phương pháp quan trọng để giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối với đất nước ta trong quá trình hội nhập, phát triển và khẳng định mình. Phát huy và vận dụng sáng tạo phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh chúng ta cần phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu và học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh áp dụng vào hoàn cảnh mới cho phù hợp; đổi mới, hội nhập và phát triển phải vì mục tiêu: Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Ngọc Anh (2003) Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh văn hoá và phát triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 3. Hoàng Chí Bảo (2002), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. Phạm Văn Bính (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5.Trường Chinh (1991), Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 6. Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới; Nxb Sự thật, Hà Nội. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc, Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam - BCHTW - Ban chỉ đạo tổng kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 15.  Đảng Cộng sản Việt Nam - BCHTW - Tiểu ban tổng kết, bổ sung và phát triển Cương lĩnh năm 1991(2010), Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 16. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - Một con người, một dân tộc, một thời đại, NXB Sự thật, Hà Nội. 17. Võ Nguyên Giáp (1969), Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 18. Võ Nguyên Giáp (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay (Sách chuyên khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Tập bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh (Hệ cử nhân chính trị), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Học viện chính trị khu vực I (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh (Tập bài giảng), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 22. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Hồ Chí Minh (2006), Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 25. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 30. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 31. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 32. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 33. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 34. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 36. Kim Ngọc (2004), Kinh tế thế giới 2020 xu hướng và thách thức (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 37. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Đặng Văn Thái (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế và vận dụng trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 39. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 40. Mạch Quang Thắng (2009), Hồ Chí Minh nhà cách mạng sáng tạo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. T.Lan (1976), Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Sự thật, Hà Nội. 42. Trần Dân Tiên (1994), Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 43. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, viện nghiên cứu tôn giáo (1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 44. V. I. Lênin (1976), Toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va. 45. Đức Vượng (2006), Góp phần tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN THAC SY KHO HOC CHINH TRI CHUYEN NGANH HO CHI MINH HOC.doc
Luận văn liên quan