Thực tiễn thi hành Hiến pháp cho thấy, qua các lần sửa đổi Hiến pháp và
Luật Tổ chức VKSND, mặc dù chức năng, nhiệm vụ của VKSND có những sửa
đổi, bổ sung nhất định, nhưng cho tới nay hệ thống VKSND vẫn được tổ chức theo
3 cấp kiểm sát gắn với cấp hành chính.
Có thể nói rằng, cho đến nay ở nước ta hệ thống lý luận về cơ quan tư pháp,
hoạt động tư pháp còn chưa hoàn thiện. Trong các văn bản pháp luật thực định chưa
quy định khái niệm hoạt động nào là hoạt động tư pháp, cơ quan nào là cơ quan tư
pháp; cũng chưa có những nghiên cứu, tổng kết, kết luận chính thức về những vấn
đề lý luận liên quan đến cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp.
Như vậy, các chủ trương của Đảng cũng như là cách thức thể hiện các quyền
năng pháp lý của VKSND trong các văn bản pháp luật (kể cả Hiến pháp và các
Luật, Pháp lệnh về tố tụng tư pháp) và trên phương diện thực tiễn hoạt động tư pháp
đều cho phép xác định VKSND là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan tư pháp;
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND
là các hoạt động tư pháp.
Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vị trí của VKSND là một cơ quan Hiến
định, độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ chức tương ứng với tổ chức hệ thống
TAND, có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp của nhà nước ta như quy
định của Hiến pháp hiện hành.
1. Qua nghiên cứu Luận văn đã nêu lên được một cách khái quát các vấn đề
lý luận về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND, các
hoạt động chính của VKSND, về vụ án hành chính và thủ tục giải quyết vụ án hành
chính, về vai trò của VKSND trong việc giải quyết vụ án hành chính. Những nội
dung trên cho thấy được vai trò của công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
chung và kiểm sát hoạt động giải quyết án hành chính nói riêng qua đó góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong thực tiễn.
2. Luận văn đã phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại,
vướng mắc trong hoạt động kiểm sát giải quyết án án hành chính của VKS từ lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng. Đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế,
tồn tại, vướng mắc. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát giải
quyết án hành chính của VKS được đưa ra trên cơ sở những phân tích ở phần thực
trạng.
83 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm quyền của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá
trình, cần phải thận trọng. Trước mắt trong những năm tới, theo chúng tôi chỉ nên
xem xét làm rõ và đưa các quyết định hành chính, hành vi hành chính mang tính nội
bộ của cơ quan, tổ chức vào đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án. Mở
rộng thẩm quyền xét xử của Toà án cả đối với các quyết định hành chính, hành vi
62
hành chính mang tính nội bộ của cơ quan, tổ chức, còn có ý nghĩa răn đe, đề cao
thêm trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành
hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó.
Năm là, Cần đổi mới thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính theo hướng
sau: công dân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu thủ trưởng cơ quan hành chính,
người có thẩm quyền trong cơ quan đó xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính do họ ban hành nếu cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền lợi ích hợp pháp của mình. Việc xem xét lại quyết định hành
chính, hành vi hành chính không phải là một cấp giải quyết khiếu nại mà là giai
đoạn tự xem xét lại quyết định hành chính theo thủ tục hành chính thông thường.
Nếu công dân không đồng ý với việc xem xét của cơ quan hành chính hoặc quá một
thời hạn nhất định mà cơ quan hành chính không xem xét lại quyết định của mình,
thì công dân có quyền khiếu nại lên thủ trưởng cơ quan hành chính cấp trên.
Cơ chế giải quyết này sẽ khắc phục được tình trạng vừa đá bóng, vừa thổi
còi trong giải quyết khiếu nại hành chính (người ra quyết định hành chính không
phải là người giải quyết khiếu nại hành chính), đảm bảo được tính nhanh, gọn trong
việc giải quyết khiếu nại (việc xem xét lại quyết định hành chính được thực hiện
theo thủ tục đơn giản hơn so với thủ tục giải quyết khiếu nại), nâng cao trách nhiệm
của thủ trưởng các cơ quan hành chính khi ban hành các quyết định hành chính và
bảm đảm quyền được tự sửa chữa các quyết định, hành vi hành chính sai sót của cơ
quan hành chính nhà nước.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết khiếu nại hành chính, một mặt
phải đổi mới, hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính, mặt khác phải củng
cố, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Toà hành chính, mở rộng thẩm quyền xét xử
của Tòa án đối với các vụ việc khiếu nại hành chính. Trước hết cần phải mở rộng
thẩm quyền các Toà hành chính trong việc giải quyết các vụ việc khiếu nại liên
quan đến đất đai nhằm từng bước mở rộng thẩm quyền để tiến tới Toà án có khả
năng đảm nhận việc xét xử tất cả các khiếu kiện hành chính, bảo đảm nguyên tắc
mọi khiếu nại của công dân đều được xem xét, giải quyết tại Toà án. Đồng thời, đổi
mới thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính theo hướng đơn giản, nhanh gọn,
công khai, minh bạch, khách quan, dân chủ, tạo thuận lợi cho người dân, cơ quan, tổ
chức thực hiện quyền khởi kiện của mình.
2.5 Các giải pháp hoàn thiện thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính
2.5.1. Giải pháp Sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về thẩm quyền của
Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính
Xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
63
Quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, cơ chế
kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước luôn là yếu tố không thể
thiếu được để các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng các quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống các cơ quan nhà nước của nước ta, hệ thống các
cơ quan tư pháp có vị trí và vai trò rất quan trọng. Hoạt động tư pháp ở nước ta
được tiến hành bởi nhiều cơ quan, ở nhiều địa phương và liên quan tới quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân. Để hoạt động của các cơ quan tư pháp đúng pháp luật
và hiệu quả, ngoài việc chấp hành pháp luật và tự giám sát, kiểm tra nội bộ của các
cơ quan tư pháp; Hiến pháp và các đạo Luật đã quy định cơ chế giám sát và quy
định các cơ quan tư pháp phải được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội và
cơ quan được Quốc hội giao quyền kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật.
“VKSNDTC thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp
phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. VKSND
địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm
vi trách nhiệm do luật định” [3]. Như vậy, từ năm 2002 tới nay, chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng của VKSND được hiến định.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND vừa là một hoạt động tư pháp (do
VKSND cũng được coi là cơ quan tư pháp), vừa là hoạt động kiểm tra, giám sát từ
bên ngoài đối với hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp khác như Cơ quan
Điều tra, Tòa án, Cơ quan Thi hành án và của những người hoạt động trong các cơ
quan bổ trợ tư pháp như Luật sư, Giám định viên. Chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp VKSND luôn hướng tới mục tiêu bảo đảm cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của
công dân và của các chủ thể trong xã hội được bảo đảm một cách tốt nhất, không bị
vi phạm.
Từ những phân tích trên đây cho thấy: Nếu như VKSND không thực hiện
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp thì các hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động tư pháp liệu có được phát hiện kịp thời, đầy đủ và xử lý nghiêm minh
không và ai sẽ là người phát hiện, xử lý những vi phạm đó khi mà người công dân
chưa hoàn toàn tự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, việc
Đảng, Nhà nước tiếp tục giao cho VKSND thực hiện đồng thời hai chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp là hoàn toàn hợp lý, sát thực
tiễn và khoa học. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng: Kiểm sát các hoạt động tư pháp
của VKSND phải được tiến hành ở tất cả các loại tố tụng khác nhau từ tố tụng hình
sự, tố tụng dân sự, tố tụng kinh tế, tố tụng hành chính đến tố tụng lao động và trong
quá trình thi hành các quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án, quá trình
thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp với nước ngoài.
64
Xuất phát từ thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 trong ngành Kiểm sát
nhân dân: Chế định VKSND được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận tại Chương X
(cùng với TAND) gồm 5 điều (Điều 126, Điều 137, Điều 138, Điều 139 và Điều
140), quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, hệ thống tổ chức, nguyên tắc cơ bản
về tổ chức và hoạt động của VKSND, sự giám sát của các cơ quan dân cử đối với
hoạt động của VKSND. Nội dung quy định của Hiến pháp năm 1992 thể hiện bước
đổi mới quan trọng so với các bản Hiến pháp trước đây, theo đó, một mặt Hiến pháp
tiếp tục khẳng định chế độ làm việc theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo
trong Ngành để đề cao tính độc lập của VKSND trong hệ thống các cơ quan nhà
nước, mặt khác kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể (thông qua Uỷ
ban Kiểm sát) khi VKS quyết định những vấn đề quan trọng; đồng thời, Hiến pháp
năm 1992 cũng xác định rõ vai trò giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp đối với VKSND. Hiến pháp 2013 tiếp tục khẳng định vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong nền tư pháp nước nhà với chức ngăng thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tư pháp và quy định chế độ làm việc theo nguyên tắc tập trung
thống nhất lãnh đạo trong Ngành để đề cao tính độc lập của VKSND trong hệ thống
các cơ quan nhà nước từ Điều 107; 108; 109 trong bản hiến pháp 2013 được quốc
hội thông qua ngày 28/11/2013.
Các quy định về VKSND trong Hiến pháp năm 2013 là cơ sở pháp lý mang
tính nền tảng cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh tổ chức
và hoạt động của VKSND năm 2014. Để cụ thể hoá quy định của Hiến pháp năm
2013, Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành các Luật, Pháp lệnh điều
chỉnh tổ chức và hoạt động của VKSND; đồng thời thông qua các Luật, Pháp lệnh
về hoạt động tố tụng tư pháp, quy định cụ thể vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS
trong việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành
quyền công tố trên tất cả các lĩnh vực hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự,
TTHC và thi hành án. Trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật, VKSND
thường xuyên đổi mới phương thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, xây dựng tổ
chức bộ máy và cán bộ, hình thành và củng cố hệ thống VKSND thống nhất từ
Trung ương đến địa phương.
Trong tình hình hiện nay, công cuộc đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đẩy mạnh cải cách tư pháp đã và đang đặt ra
nhiều yêu cầu mới đối với tổ chức và hoạt động của VKSND. Sau khi Bộ Chính trị
ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của
VKSND cũng đã được triển khai nghiên cứu, tổng kết và nhiều vấn đề đã được
Đảng ta kết luận. Kết quả sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, Bộ
65
Chính trị đã khẳng định một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng xét xử
các vụ án dân sự thời gian qua còn thấp là do chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát hiệu
quả việc giải quyết các vụ án này. Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ
Chính trị cũng đã khẳng định VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay. Gần đây nhất, văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XI cũng đã khẳng định rõ bảo đảm tốt hơn các điều kiện để
VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra. Bên cạnh đó, Văn kiện Đại hội Đảng còn đề ra chủ
trương nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
trong đó nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương... Nghiên cứu xây dựng, bổ
sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp... Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra,
giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan
công quyền.
Mặt khác, thời gian qua, trên cơ sở tổng kết thực tiễn tình hình hoạt động tư
pháp ở nước ta, Quốc hội cũng đã ban hành các đạo luật liên quan đến lĩnh vực hoạt
động tư pháp như: Luật Thi hành án dân sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật TTHC,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự... Trong các đạo luật
này đều tiếp tục khẳng định vai trò của VKSND, đồng thời cũng đặt trách nhiệm
cao hơn cho VKSND trong việc kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND có trách
nhiệm tham gia đầy đủ, kiểm sát chặt chẽ việc giải quyết các vụ án hành chính, vụ
việc dân sự của Toà án và kiểm sát chặt chẽ hoạt động thi hành án hình sự, thi hành
án dân sự.
2.5.2. Giải pháp nâng cao chất lượng, đổi mới quy trình, thủ tục tổ chức,
thực hiện thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án
hành chính
Trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,
những năm qua, Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKSNDTC đã tập trung chỉ đạo toàn
ngành nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp; trong đó nhấn mạnh tăng cường kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
xét xử án hình sự, dân sự, hành chính; giam giữ, cải tạo; thi hành án, giải quyết
khiếu nại tố cáo. Mấy năm gần đây, chúng ta đã tăng cường công tác nghiên cứu lý
luận cơ bản để làm rõ những vấn đề thuộc về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của
66
VKSND trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như
những bất hợp lý trong cơ chế pháp lý liên quan đến tổ chức, hoạt động của VKS
khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp theo qui định của Hiến pháp và
Luật tổ chức VKSND. Thực tiễn hoạt động tư pháp trong thời gian qua ở nước ta
cho thấy, VKSND làm tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp đã góp phần quan
trọng xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý. Trong một số đạo luật mới được Quốc hội thông qua đã xác định nhiều
điểm mới về vai trò, trách nhiệm của VKSND trong các hoạt động tư pháp, theo
hướng tăng cường trách nhiệm cao hơn đối với Ngành ta trong lĩnh vực này.
Luật TTHC tuy không có quy định thay đổi lớn về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKS, nhưng vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong TTHC được
khẳng định một cách rõ ràng, rành mạch hơn. Mặt khác, Luật qui định mở rộng
phạm vi thụ lý giải quyết các vụ án hành chính của Toà án. Theo đó, Toà án có
thẩm quyền giải quyết hầu hết các khiếu kiện đối với các quyết định hành chính,
hành vi hành chính, chỉ trừ một số lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước. Điều kiện để cá
nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện ra Toà án cũng dễ dàng hơn trước đây (không bắt
buộc phải khiếu nại đến cơ quan hành chính có thẩm quyền giải quyết rồi mới khởi
kiện ra Tòa án). Với qui định như vậy, khối lượng việc khiếu kiện hành chính mà
Toà án thụ lý sẽ tăng nhanh. Do vậy, nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo Luật TTHC
cũng rất nặng nề.
Nâng cao chất lượng công tác kháng nghị hành chính: Trong những năm
qua, công tác kháng nghị phúc thẩm quyết định hành chính sơ thẩm đã có những cố
gắng nhất định. VKS các cấp đã chú trọng nghiên cứu, kiểm sát các bản án, quyết
định sơ thẩm và đã kịp thời phát hiện vi phạm để kháng nghị phúc thẩm. Chất lượng
kháng nghị đã từng bước được nâng lên; số lượng kháng nghị cũng tăng đáng kể;
nhiều kháng nghị được cấp phúc thẩm bảo vệ, tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp
nhận nâng lên rõ rệt. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kháng nghị phúc
thẩm hành chính còn không ít những bất cập. Trong khi các tranh chấp về khiếu
kiện hành chính không ngừng gia tăng, ngày càng đa dạng, phức tạp; việc giải quyết
của Tòa án còn nhiều thiếu sót, hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của
nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm phát sinh khiếu kiện
ở nhiều cấp, nhiều nơi, nhưng VKS chưa phát hiện được vi phạm để kháng nghị
phúc thẩm.
Để khắc phục tình trạng trên và nâng cao vai trò, trách nhiệm của VKS trong
việc giải quyết các vụ án hành chính theo tinh thần Luật TTHC đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
67
Quán triệt và thực hiện nghiêm túc chức năng, nhiệm vụ của VKS trong Luật
TTHC. Thường xuyên quan tâm chỉ đạo công tác kháng nghị phúc thẩm hành chính,
xác định đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công tác kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
Khi ban hành kháng nghị phải đảm bảo có căn cứ, chặt chẽ từ hình thức đến
nội dung và đúng thủ tục, thời hạn pháp luật quy định. Kháng nghị phải thực hiện
đúng mẫu quy định. Trước khi ban hành kháng nghị phải thận trọng rà soát kỹ văn
bản, không để xảy ra sai sót.
Nội dung kháng nghị phải phân tích, làm rõ căn cứ kháng nghị như bản án,
quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; quyết định của bản án
hoặc quyết định sơ thẩm không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án; có sai
lầm trong việc áp dụng pháp luật. Kháng nghị phải phân tích rõ vi phạm của bản án,
quyết định sơ thẩm, đối chiếu với các quy định cụ thể của điều luật có liên quan và
các văn bản hướng dẫn thực hiện. Quyết định kháng nghị phải nêu rõ phạm vi và
nội dung kháng nghị.
VKS cấp sơ thẩm phải mở sổ theo dõi và lập Phiếu kiểm sát bản án, quyết
định sơ thẩm theo mẫu ban hành. Phiếu kiểm sát do KSV tham gia xét xử sơ thẩm
hoặc do Lãnh đạo phân công lập, trong đó, nêu rõ ý kiến đề xuất của KSV; ý kiến
của Lãnh đạo đơn vị (Viện trưởng đối với VKS cấp huyện; Trưởng phòng đối với
VKS cấp tỉnh). Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (hoặc kể từ ngày nhận
được bản án trong trường hợp KSV không tham gia phiên tòa); 10 ngày, kể từ ngày
Tòa án quyết định, VKS cấp sơ thẩm phải gửi bản án, quyết định sơ thẩm kèm theo
Phiếu kiểm sát cho VKS cấp phúc thẩm.
VKS cấp phúc thẩm phải cử KSV được phân công theo dõi địa bàn kiểm tra
Phiếu kiểm sát; nghiên cứu bản án, quyết định sơ thẩm; có quan điểm về kết quả
kiểm tra và nghiên cứu của mình. Lãnh đạo đơn vị phải có ý kiến về đề xuất của
KSV.
VKS cấp huyện và VKS cấp tỉnh cần khắc phục ngay việc gửi bản án, quyết
định sơ thẩm quá chậm lên VKS cấp trên dẫn đến tình trạng khi phát hiện bản án,
quyết định có vi phạm thì không còn thời hạn kháng nghị phúc thẩm.
VKS cấp tỉnh phải tập hợp tình hình thực hiện Điều 122, 166 của Luật TTHC
về việc gửi bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm ở cả hai cấp (tỉnh và huyện),
có kiến nghị kịp thời những trường hợp vi phạm về thời hạn gửi bản án, quyết định
theo luật định và báo cáo về VKSNDTC.
VKS cấp tỉnh, cấp huyện khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm có vi
phạm pháp luật, nếu không còn đủ thời gian để kháng nghị thì báo cáo ngay VKS
cấp trên trực tiếp để xem xét kháng nghị theo thẩm quyền. Nếu không còn thời hạn
68
kháng nghị phúc thẩm, nhưng bản án, quyết định sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng
thì báo cáo VKS cấp có thẩm quyền xem xét kháng nghị giám đốc thẩm.
Tăng cường rút kinh nghiệm về những thiếu sót, hạn chế của từng kháng
nghị phúc thẩm mà VKS cấp phúc thẩm rút kháng nghị hoặc kháng nghị không
được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Đối với trường hợp Tòa án cấp phúc thẩm
không chấp nhận kháng nghị mà không có căn cứ thì phải báo cáo đề nghị cấp giám
đốc thẩm nghiên cứu, xem xét theo thẩm quyền.
2.5.3. Giải pháp nâng cao công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi
phạm thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành
chính.
Với vai trò chức năng vô cùng quan trọng của ngành VKSND trong hệ thống
chính trị nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam được hiến định trong
bản Hiến pháp, và đã được quốc hội thông qua luật tổ chức VKS riêng cho nghành
kiểm sát, thể hiện vai trò, vị trí của nghành kiểm sát là trọng tâm, chính vì ý nghĩa
đó VKSNDTC đã thành lập thanh tra của nghành để Thanh tra, kiểm tra, giám sát
và xử lý vi phạm thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân trong Thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và kiểm sát xét xử vụ án hành chính
nói riêng, Tính đến tháng 4/2017, Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành các
quyết định thành lập Thanh tra thuộc VKSND cấp tỉnh đối với 63 VKSND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nhằm tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trong ngành KSND thiết lập trật tự thực thi pháp luật, tránh để xảy ra sai phạm đáng
tiếc khi thực hiện chức năng kiểm sát của nghành mà pháp luật nhà nước đã quy
định.
Với yêu cầu quan trọng đó. Viện trưởng VKSND tối cao đã ban hành Quyết
định thành lập Phòng Xử lý sau thanh tra thuộc Thanh tra VKSND tối cao.
Phòng Xử lý sau thanh tra có chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện các
kết luận, kiến nghị thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý các vấn đề
phát sinh sau thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; theo dõi, hướng dẫn,
kiểm tra việc xử lý sau thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền đối với VKSND cấp dưới; tổng hợp các vi phạm, thiếu sót trong Ngành
thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền để ra thông báo rút kinh nghiệm chung; tổ chức theo dõi, đôn đốc, tổng hợp
việc thực hiện các kết luận, kiến nghị thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền; cập nhật, thu thập các thông tin phản ánh có liên quan đến
cán bộ trong Ngành để tham mưu cho Chánh Thanh tra xem xét, xử lý kịp thời.
Chúng tôi cho rằng, trong tương lai, khi việc xây dựng một Nhà nước pháp
quyền đã đạt được những yêu cầu cần thiết thì công tác thanh tra, xét khiếu tố cần
69
phải được tổ chức lại. Ví dụ, chúng ta hoàn toàn có thể tiến tới thực hiện công tác
thanh tra theo kinh nghiệm của nhiều nước phát triển, nghĩa là thanh tra lĩnh vực
nào thì p hải do chuyên viên lĩnh vực ấy thực hiện. Thanh tra giáo dục chẳng hạn,
phải được giao cho các chuyên viên giáo dục, thanh tra tài chính là công việc của
chuyên viên tài chính Khi đó, việc xây dựng các hệ thống văn bản pháp luật trong
thanh tra theo chuyên ngành, như đã nói ở phần trên sẽ rất quan trọng. Một khi tính
bao cấp trong hoạt động quản lý đã bị xoá bỏ thì không thể tiếp tục tồn tại: hệ thống
các văn bản phục vụ cho hoạt động thanh tra và xét khiếu tố cần phổ biến rộng rãi,
công khai theo yêu cầu hoạt động của Nhà nước trong thời kỳ mới nhưng các kế
hoạch thanh tra thì cần đảm bảo bí mật đến một mức độ cần thiết. Như thế, chúng ta
sẽ cần có một cơ chế thanh tra độc lập nhằm đảm bảo cho hoạt động này mang tính
khách quan, thiết thực. Đồng thời, vì các chế tài thông thường gắn liền với trách
nhiệm nên việc xây dựng chế tài trong hệ thống văn bản pháp luật về hành chính
trong thời kỳ mới, xét trên phương diện hành chính, cần phải cho phép qui trách
nhiệm về ai như luật pháp các nước tiên tiến mới có thể đem lại hiệu quả.
Từ thực tiễn Thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm thẩm quyền của
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk trong xét xử vụ án hành chính. về cơ bản kể
từ khi thành lập Thanh tra thuộc VKSND cấp tỉnh cơ quan này đã làm rất tốt công
tác thanh tra, kiểm tra, tham mưu cho Viện trưởng tỉnh xử lý vi phạm kịp thời, uốn
nắn sữa chữa khuyết điểm của cán bộ, công chức, kiểm sát viên trong toàn tỉnh,
chưa xảy ra trường hợp đáng tiếc nào, càng ngày công tác thanh tra, kiểm tra, giám
sát và xử lý vi phạm thẩm quyền của VKS cấp tỉnh càng được chú trọng thực hiện
nhằm chống suy thoái đạo đức, lạm quyền trong thực thi công vụ, tiếp tục phấn đấu,
học tập và làm theo lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh là cán bộ công chức kiểm sát
phải “ Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
2.5.4. Giải pháp nâng cao năng lực Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân
dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành.
Kiểm sát viên VKS có nghiệm vụ quyền hạn có thể nói là trung tâm của công
tác kiểm sát hoạt động tư pháp, họ là người trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án, lập hồ
sơ kiểm sát vụ án, là người thực hành quyền công tố, tranh tụng tại phiên tòa, kiểm
sát hoạt động xét xử, là người trực tiếp tham mưu đề xuất cho lãnh đạo viện, yêu
cầu, kháng nghị, kiến nghị. Đòi hỏi KSV phải được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu,
tinh thông pháp luật để thực hiện nhiệm vụ quan trọng của viện kiểm sát mà luật
TTHC đã quy định. Viện kiểm sát kiểm sát vụ án hành chính từ khi thụ lý đến khi
kết thúc việc giải quyết vụ án mà cụ thể là những nhiệm vụ sau.
70
Kiểm sát trả lại đơn khởi kiện: Do người khởi kiện chưa hiểu đầy đủ pháp
luật và những nội dung, những quy định của việc khởi kiện của vụ án hành chính
mà Toà án lại áp dụng căn cứ quy định tại Điều 123 Luật TTHC 2015 về trả lại đơn
khởi kiện cho người khởi kiện (có đôi khi không chính xác), làm cho họ dẫn tới
chán nản không khởi kiện nữa .... Trong khi đó pháp luật không quy định cơ chế
đảm bảo để VKS thực hiện quyền kiểm sát đối với việc Toà án trả lại đơn khởi kiện.
Điều đó đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
Mặt khác do người khởi kiện không hiểu, nên sau khi bị trả đơn khởi kiện không
biết kêu tiếp ở đâu; ai hướng dẫn cho họ để khởi kiện tiếp. Đây chính là vấn đề mà
các cơ quan tố tụng phải hướng dẫn cho họ biết (trong đó có VKS). “Khi trả đơn
khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện Toà án phải có văn bản ghi
rõ lý do trả lại đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho VKS
cùng cấp” [11].
Song thực tế hiện nay vấn đề khởi kiện còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cần
phải giải quyết mà trong đó nguyên nhân chính thuộc về hai phía, mà mấu chốt là từ
khâu thụ lý hồ sơ ban đầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy vấn đề này phải có
sự tham gia ngay từ đầu của KSV được phân công vụ án.
Kiểm sát xét xử tại phiên toà: Nhìn chung các vụ án hành chính được Hội
đồng xét xử xét xử đúng pháp luật. Vai trò của KSV đã thể hiện đúng việc kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các chủ thể. Vụ án đã đảm bảo được tính công bằng,
bình đẳng. Trong nhiều việc xét xử cũng còn gợi lên một số vấn đề sau đây cần phải
được lưu ý. Vì lẽ: Vụ án hành chính đó là “giải quyết sự tranh chấp hành chính”
giữa một bên là cơ quan hành chính nhà nước, một bên là những người dân hoặc
nhóm người dân, mà thực chất là “dân kiện quan”. Cho nên việc xét xử cũng như sự
đối xử phải đảm bảo tính công bằng và bình đẳng cho các chủ thể của vụ án. Từ
việc cử người ra toà đến việc xét hỏi đối với hai bên (người khởi kiện và người bị
khởi kiện) phải đảm bảo tính công bằng - khách quan. Không nặng bên này, không
nhẹ bên kia. Ở một vài vụ án hành chính tôi thấy trong quá trình xét xử, cũng như
phần xét hỏi có nơi có lúc còn nghiêng về các cơ quan hành chính (người bị kiện),
coi nhẹ người dân (người khởi kiện). Vì thế vai trò của KSV là rất quan trọng. Cùng
với Hội đồng xét xử đảm bảo sự công bằng trong quá trình xét xử đó chính là việc
kiểm sát tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử của Hội đồng xét xử. Đặc biệt là
lời phát biểu của KSV trước khi HĐXX vào nghị án.
Để KSV làm tốt hơn nữa vai trò của mình trong việc tham gia xét xử các vụ
án hành chính (nói riêng) và thực hiện tốt Luật TTHC đồng thời để khắc phục
những tồn tại đã nêu trên theo tôi cần phải tập trung vào một số giải pháp chủ yếu
sau đây:
71
Thứ nhất, phải đẩy mạnh hơn nữa trong việc tuyên truyền, học tập Luật
TTHC không những chỉ cho những người làm công tác tố tụng, các đối tượng có
liên quan mà là tổ chức nghiên cứu, học tập cho mọi người dân để họ hiểu được nội
dung của luật hiểu được vai trò của VKS nói chung và KSV nói riêng để từ đó mọi
người hiểu được những việc phải làm những thủ tục quy định nội dung khởi kiện
nguyên tắc khởi kiện mỗi khi có vụ án hành chính xảy ra.
Thứ hai, để thực hiện tốt vai trò của KSV với tư cách là người tiến hành tố
tụng, với nhiệm vụ quyền hạn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật xuyên suốt trong
quá trình vụ án hành chính từ khi thụ lý vụ án đến khi kết thúc vụ án hành chính ....
KSV phối hợp với Toà án (mà thực tế là Thẩm phán được phân công phục trách vụ
án) phải tham gia ngay từ đầu của vụ án hành chính trừ việc thụ lý hồ sơ, đơn khởi
kiện ... chứ không phải chỉ kiểm sát khi tham gia xét xử phiên toà hành chính có
như thế mới tạo thuận lợi cho người khởi kiện không phải đi kiện nhiều lần, tốn
kém, mất thời gian, hạn chế được việc “trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện”.
Thứ ba, để cho vụ án hành chính được xét xử đúng pháp luật và KSV làm tốt
việc “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” một trong những biện pháp quan trọng nhất
đó là sự công tâm, công bằng và khách quan của cơ quan tố tụng nói chung, Hội
đồng xét xử, KSV nói riêng. Vì thế trong quá trình giải quyết vụ án hành chính
KSV phải có quan điểm, thái độ đúng nhất để lời phát biểu của mình trước HĐXX
đảm bảo được việc kiểm sát tuân theo pháp luật của các chủ thể trong vụ án, đảm
bảo được sự công bằng, khách quan đúng pháp luật tránh được sự thiên vị giữa
người khởi kiện (người dân) và người bị khởi kiện (là cơ quan hành chính nhà
nước) giúp cho Hội đồng xét xử vụ án hành chính có được bản án nghiêm minh,
đúng pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân đối với cơ quan tố tụng.
Thứ tư, vụ án hành chính là một trong những loại án phức tạp, nhạy cảm, đó
là sự tranh chấp hành chính giữa người dân và các cơ quan hành chính nhà nước khi
có quyết định hành chính mà đụng đến quyền lợi của một trong hai bên. Vì thế khi
thụ lý vụ án hành chính, cũng như trong quá trình xét xử cơ quan tố tụng cần phải
có bộ phận hướng dẫn cho các đương sự một cách cụ thể để vụ án hành chính được
giải quyết nhanh hơn và đúng với pháp luật.
Qua nghiên cứu lý luận và theo dõi thực tiễn tại các phiên tòa người viết thấy
rằng kỹ năng chuẩn bị bản phát biểu ý kiến của VKSND tỉnh tại phiên tòa phúc
thẩm vụ án hành chính cần được nâng lên phải thể hiện được quan điểm của
VKSND tại phiên tòa phúc thẩm về bản án sơ thẩm có kháng nghị hoặc kháng cáo,
nêu biện pháp giải quyết chuẩn xác đảm bảo cho bản án phúc thẩm khi có hiệu lực
được thi hành có căn cứ và đúng pháp luật. Nội dung bản phát biểu ý kiến của
VKSND tỉnh tại phiên tòa phúc thẩm nêu lên những vấn đề có liên quan đến kháng
72
cáo, kháng nghị; đồng thời KSV cũng phải nêu rõ ý kiến đề xuất của mình về quan
điểm giải quyết vụ án. Trong trường hợp có tài liệu bổ sung không liên quan đến vụ
án thì trong bài phát biểu của VKS, KSV đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Nếu tài liệu bổ sung hoàn toàn mới có liên quan trong hồ sơ có thể làm thay đổi nội
dung vụ án nhưng chưa có điều kiện kiểm tra, xác minh ngay tại phiên tòa thì trong
bài phát biểu ý kiến của KSV (nếu có đủ căn cứ) phải đề nghị Hội đồng xét xử
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại. Trường hợp không có căn cứ
để xét xử và chấp nhận theo hướng kháng cáo, kháng nghị thì KSV đề nghị Hội
đồng xét xử phúc thẩm căn cứ nội dung vụ kiện, điều luật vận dụng để ra quyết định
giữ nguyên án sơ thẩm và như thế bài phát biểu ý kiến của KSV tại phiên tòa phúc
thẩm có yêu cầu khác hẳn bài phát biểu của KSV tại phiên tòa sơ thẩm.
Như vậy, cần có văn bản hướng dẫn của TANDTC và VKSNDTC về vai trò,
phạm vi của người được ủy quyền tham gia TTHC vì thực tiễn hoạt động kiểm sát
xét xử phúc thẩm vụ án hành chính cho thấy, người trực tiếp ban hành quyết định
hoặc có hành vi hành chính xâm hại trực tiếp đến lợi ích của công dân không trực
tiếp đến tham gia tố tụng tại phiên tòa. Người nhận ủy quyền thực hiện tham gia tố
tụng trong khuôn khổ được ủy quyền, không trực tiếp thực hiện hành vi hoặc ký
quyết định hành chính đang bị kiện và như thế những nội dung cần làm sáng tỏ vụ
án gặp nhiều khó khăn người nhận ủy quyền không hiểu rõ được nội dung và những
vấn đề liên quan trong vụ án nên khi tham gia tố tụng rất hạn chế, làm chậm quá
trình giải quyết vụ án.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước các quan hệ dân sự,
hành chính ngày càng tăng về số lượng và phức tạp về mức độ, tính chất vì thế KSV
làm công tác giải quyết án hành chính phải nắm thật vững Luật TTHC và các luật
về nội dung như Luật Đất đai, Luật Nhà ở
Để đáp ứng nhu cầu đó ngành Kiểm sát cần phối hợp với ngành Tòa án để
tiếp cận vụ án ngay từ khi Tòa án thụ lý vụ kiện đảm bảo cho việc thụ lý có căn cứ,
đúng quy định của pháp luật.
Cần đầu tư lực lượng KSV, cán bộ đầy đủ để kiểm sát 100% các quyết định
và bản án hành chính do Toà án cung cấp và cấp dưới ban hành. Tích cực phát hiện
vi phạm để kiến nghị, kháng nghị tránh tư tưởng ngại khó. Cần làm tốt các quyền
kiến nghị, kháng nghị thì vị trí vai trò của ngành Kiểm sát trong TTHC mới được
nâng lên. Để làm tốt điều đó, mỗi công chức, KSV làm công tác kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính cần tự giác học tập, nghiên cứu, tiếp thu được tri thức
mới, nắm được hệ thống pháp luật đồng bộ để phục vụ công tác, đáp ứng yêu cầu
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
73
Nâng cao chất lượng phát biểu của KSV VKS tại phiên tòa hành chính sơ thẩm.
Thực tiễn qua 15 năm thi hành PLTTGQCVAHC tại phiên toà hành chính sơ thẩm KSV
phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án và đề nghị Hội đồng xét xử đường lối giải quyết
vụ án. “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia TTHC...” [11].
Như vậy, theo quy định của Luật TTHC 2010 thì KSV khi tham gia phiên toà hành chính
sơ thẩm không có quyền phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án cũng như
đề nghị Hội đồng xét xử đường lối giải quyết vụ án, mà KSV chỉ có quyền phát biểu ý kiến
về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia TTHC. Theo đó, tại phiên toà,
KSV sẽ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của hai nhóm đối tượng.
Nhóm thứ nhất (Hội đồng xét xử, Thẩm phán), KSV chỉ phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử. KSV phát biểu về việc thụ lý vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ,
chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, xác định
tư cách người tham gia tố tụng, thủ tục tại phiên toà, thành phần Hội đồng xét
xử...có căn cứ, hợp pháp hay không?
Nhóm thứ hai (Người tham gia tố tụng), KSV phát biểu việc chấp hành pháp
luật của người tham gia tố tụng. KSV phát biểu về việc khởi kiện vụ án, cung cấp
tài liệu vật chứng, yêu cầu cá nhân, cơ quan tổ chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ
để đề nghị Toà án thu thập chứng cứ, yêu cầu Toà án áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện
pháp khẩn cấp tạm thời, tranh luận tại phiên toà...có đúng trình tự, thủ tục và hợp
pháp hay không?
Rõ ràng quy định tại Điều 47 PLTTGQCVAHC tuy ngắn nhưng dễ hiểu và
dễ áp dụng hơn, thể hiện việc KSV có quyền phát biểu ý kiến trình bày quan điểm
giải quyết vụ án. Còn quy định tại Điều 160 Luật TTHC vừa dài dòng lại không thể
hiện được nội dung quan trọng, nhất là trong lời phát biểu của mình KSV có được
phép trình bày quan điểm giải quyết vụ án của VKS hay không. Nếu không được
phép trình bày quan điểm giải quyết vụ án thì việc tham gia phiên tòa của KSV có
ý nghĩa gì.
Phát biểu của KSV tại phiên toà hành chính sơ thẩm được quy định tại
Luật TTHC là vấn đề mới so với các quy định trước đây, mối quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan trong việc giải quyết án hành chính, mà với một số điều trong
luật, còn chờ hướng dẫn của TANDTC và VKSNDTC. Thực tế nêu trên cho thấy,
việc sửa đổi, bổ sung như Điều 190 Luật TTHC 2015: “Khi KSV tham gia phiên
tòa hành chính sơ thẩm, phát biểu ý kiến toàn diện về việc giải quyết vụ án, nhằm
74
giúp cho Hội đồng xét xử ra bản án có căn cứ, đúng pháp luật” mới phát huy thẩm
quyền của kiểm sát viên tham gia tại phiên tòa. Như vậy VKSND, KSV mới có
điều kiện thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao.
Nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa hành chính
phúc thẩm: Điều 237 Luật TTHC năm 2015 quy định: “1...Trường hợp chỉ có Viện
kiểm sát kháng nghị thì KSV trình bày về nội dung kháng nghị và các căn cứ của
việc kháng nghị. Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị KSV trình bày
về nội dung kháng nghị và các căn cứ của việc kháng nghị...Điều 240 Luật TTHC
năm 2015. ..KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm.”. Theo đó, nếu VKS
kháng nghị thì tại phiên toà hành chính phúc thẩm KSV trình bày về nội dung
kháng nghị, các căn cứ của việc kháng nghị, việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm và yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm bác kháng cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm hoặc sửa một
phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm hoặc huỷ án sơ thẩm và chuyển vụ án cho Toà án
cấp sơ thẩm xét xử lại hoặc huỷ án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án hoặc đình
chỉ việc giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm.
Trường hợp VKS không kháng nghị, hiện có hai quan điểm khác nhau về
việc phát biểu của KSV tại phiên toà hành chính phúc thẩm.
Quan điểm thứ nhất, KSV tham gia phiên toà phúc thẩm chỉ được phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Quan điểm hai, tại phiên toà KSV chỉ trình bày về việc tuân theo pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính ở giai đoạn phúc thẩm theo đúng quy
định tại Điều 240 Luật TTHC năm 2015.
Theo quan điểm của cá nhân tôi, quan điểm thứ hai là có cơ sở. Nghĩa là, tại
phiên toà phúc thẩm, KSV không chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án mà còn phát biểu ý kiến về đường lối giải
quyết vụ án, tức là phát biểu cả về phần nội dung vụ án, với những lý do sau:
Về nhiệm vụ, quyền hạn của KSV trong TTHC, Điều 43 Luật TTHC 2015
quy định KSV có nhiệm vụ, quyền hạn: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng hành chính, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người
tham gia tố tụng, tham gia phiên toà, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, kiểm
sát bản án, quyết định của Toà án, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm
quyền của VKS theo sự phân công của Viện trưởng VKS.
Theo quy định của PLTTGQCVAHC thì: VKS cùng cấp phải tham gia phiên
toà phúc thẩm hoặc phải có ý kiến bằng văn bản đối với các vụ án quy định tại
khoản 3 Điều 43 của Pháp lệnh này và trong trường hợp VKS kháng nghị; đối với
75
các trường hợp khác, VKS tham gia phiên toà phúc thẩm khi thấy cần thiết. Nếu
VKS tham gia phiên toà, thì Toà án chuyển hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu trong
thời hạn mười ngày. Như vậy, theo quy định của PLTTGQCVAHC thì tại
phiên toà sơ thẩm và phúc thẩm, KSV có quyền phát biểu ý kiến của mình về việc
tuân theo pháp luật cả về mặt tố tụng và mặt nội dung vụ án.
Luật TTHC năm 2010 “Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu
tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án” [11]. Với quy định này, nội dung phát biểu
của KSV tại phiên toà sơ thẩm được giới hạn, theo đó, KSV chỉ được phát biểu ý
kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội động xét xử, việc chấp
hành pháp luật của người tham gia TTHC, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời
điểm Hội đồng xét xử nghị án. Còn tại phiên toà phúc thẩm Khoản 3 Điều 204 Luật
TTHC quy định: “KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc tuân theo pháp luật trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm”.Như vậy, Luật TTHC
năm 2010 đã phân biệt rõ giới hạn nội dung phát biểu của KSV tại phiên toà sơ
thẩm và tại phiên toà phúc thẩm. Tại phiên toà sơ thẩm, lúc này Toà án chưa có
quan điểm về việc giải quyết vụ án nên KSV chỉ được phát biểu ý kiến về việc tuân
theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét
xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng. Còn tại phiên toà phúc
thẩm, lúc này đã có bản án, quyết định của Toà án cấp sở thẩm. Nhiệm vụ của KSV
tham gia phiên toà phúc thẩm không thể chỉ dừng lại ở việc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật tố tụng của những người tiến hành tố tụng hoặc những người tham gia tố
tụng. Bởi lẽ, chức năng của phiên tòa cấp phúc thẩm là xem xét lại hoặc của bản án,
quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét
nội dung kháng cáo, kháng nghị; do vậy, những người tiến hành tố tụng, bao gồm
cả kiểm sát viên phải có trách nhiệm xem xét giải quyết vụ án về mặt nội dung. Như
vậy, phát biểu của KSV tại phiên toà phúc thẩm sẽ bao hàm cả việc phát biểu về nội
dung vụ án. Có như vậy, việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm mới đảm bảo
tính đúng pháp luật và vai trò của phiên toà phúc thẩm mới được đảm bảo. Chính
bởi lẽ đó, tại Điều 190; 237; 240 Luật TTHC 2015 đã quy định kiểm sát viên phát
biểu về nội dung giải quyết vụ án ngay ở phiên tòa sơ thẩm, trình bày kháng nghị,
xuất trình bổ sung, chứng cứ, tài liệu sau khi những người tham gia tố tụng phát
biểu tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn phúc thẩm.
Việc thực hiện quyền năng phát biểu ý kiến về nội dung vụ án tại
phiên toà phúc thẩm còn nhằm tạo điều kiện cho VKSND thực hiện các quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho việc giải
76
quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật được triệt để. Trong trường hợp, quyết
định hoặc bản án do Toà án cấp phúc thẩm ban hành mà không đúng pháp luật hoặc
trái với quan điểm giải quyết vụ án của đại diện VKS tại phiên toà, thì VKS sẽ thực
hiện các quyền năng như kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Điều
này hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của VKSND khi kiểm sát việc giải
quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và
những việc khác theo quy định “Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án, vụ việc theo quy định của
pháp luật.” [10].
Ngoài ra, Luật Tổ chức VKSND cũng quy định: Khi kiểm sát việc giải quyết
các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc
khác theo quy định của pháp luật, VKSND có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND theo quy định của
pháp luật; kiến nghị với TAND cùng cấp và cấp dưới khắc phục những vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về
hình sự. Để thực hiện triệt để quy định trên về quyền hạn của VKS, tại
phiên toà phúc thẩm, ý kiến phát biểu KSV về việc tuân theo pháp luật tại
phiên toà phúc thẩm bao gồm cả việc tuân theo pháp luật về mặt tố tụng và mặt nội
dung vụ án. Nếu KSV không có quyền phát biểu quan điểm về nội dung vụ án (tức
về đường lối giải quyết vụ án) thì KSV sẽ không phát huy hết vai trò kiểm sát của
mình tại phiên toà phúc thẩm. Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện các quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của TAND
theo quy định của pháp luật hoặc ảnh hưởng đến quyền kiến nghị với TAND cùng
cấp và cấp dưới đồng thời khắc phục những vi phạm pháp luật trong việc giải quyết
các vụ án.
2.5.5. Giải pháp bảo đảm chế độ, chính sách cho Kiểm sát viên của Viện
Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án hành chính
Trong thực tiễn kiểm sát xét xử vụ án nói chung án hành chính nói riêng, tất
cả kiểm sát viên tham gia tố tụng để kiểm sát giai quyết các vụ án đều được nhà
nước có chính sách bồi dưỡng tham gia xét xử, tuy không nhiều nhưng đó là nguồn
động viên, là sự khởi đầu cho việc thực hiện chế độ, chính sách cho cán bộ công
chức nghành kiểm sát; việc bảo đảm chế độ chính sach cho kiểm sát viên là yếu tố
quan trọng, khởi tạo nên sự cống hiến, chuyên tâm nghiên cứu
Ngoài những chế độ chính sách đã được nhà nước quy định chung và luật tổ
chức VKS thì nhà nước cần có chế độ, chính sách đặc thù cho kiểm sát viên và
77
chính sách bảo hiểm rủi ro khi thực hiện công tác phức tạp này. Giải pháp bảo đảm
chế độ, chính sách cho Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét
xử vụ án hành chính đóng vai trò quan trọng cho thành công trong tiến trình cải
cách hành chính của nhà nước ta nói chung, trong xét xử vụ án hành chính nói riêng
bởi vì “có thực mới vực được đạo”.
Tiểu kết chương 2
Chương 2 của đề tài đề cập thực trạng, quan điểm của cá nhân về giải pháp
hoàn thiện thẩm quyền của Viện Kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong xét xử vụ án
hành chính
1. Công tác kiểm sát xét xử các vụ án hành chính là nhiệm vụ trọng tâm của
nghành kiểm sát nhân dân trong việc thực hiện một trong hai chức năng chính của
mình đã được hiến pháp quy định đó là “kiểm sát hoạt động tư pháp” công tác
tương đối khó khăn, phức tạp về thủ tục tố tụng, đồng thời lien quan đến nhiều văn
bản pháp luật điều chỉnh, thay đổi nhiều, tính ổn định của van bản pháp luật không
cao, không còn phù hợp với thực tế khách quan. Do đó, những người tiến hành tố
tụng dễ nhầm lẫn, sai sót dẫn đến vi phạm pháp luật khi giải quyết vụ án. Mặt khác,
chủ thể bị kiện ban hành quyết định hành chính không tuân thủ các nguyên tắc, thủ
tục luật định, đến khi bị kiện thì không chịu nhẫn lỗi về mình để sửa sai mà tìm mọi
cách bảo vệ cho cái sai đã làm của mình.
2. VKS trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của hội đồng xét xử, đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến
việc xét xử và thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhằm bảo đảm việc thi hành
bản án, quyết định kịp thời đầy đủ, đúng pháp luật. Trong quá trình kiểm sát giải
quyết vụ án hành chính, phát hiện những sơ hở, thiếu sót vi phạm trong quản lý nhà
nước để kịp thời kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên có biện pháp khắc phục vi
phạm, xử lý người vi phạm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhà nước, của cộng
đồng và của công dân. Cá nhân mạnh dạn đề xuất quan điểm về giải pháp hoàn
thiện thẩm quyền xét xử của viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh từ thực tiễn tỉnh Đắk
Lắk.
78
KẾT LUẬN
Thực tiễn thi hành Hiến pháp cho thấy, qua các lần sửa đổi Hiến pháp và
Luật Tổ chức VKSND, mặc dù chức năng, nhiệm vụ của VKSND có những sửa
đổi, bổ sung nhất định, nhưng cho tới nay hệ thống VKSND vẫn được tổ chức theo
3 cấp kiểm sát gắn với cấp hành chính.
Có thể nói rằng, cho đến nay ở nước ta hệ thống lý luận về cơ quan tư pháp,
hoạt động tư pháp còn chưa hoàn thiện. Trong các văn bản pháp luật thực định chưa
quy định khái niệm hoạt động nào là hoạt động tư pháp, cơ quan nào là cơ quan tư
pháp; cũng chưa có những nghiên cứu, tổng kết, kết luận chính thức về những vấn
đề lý luận liên quan đến cơ quan tư pháp, hoạt động tư pháp.
Như vậy, các chủ trương của Đảng cũng như là cách thức thể hiện các quyền
năng pháp lý của VKSND trong các văn bản pháp luật (kể cả Hiến pháp và các
Luật, Pháp lệnh về tố tụng tư pháp) và trên phương diện thực tiễn hoạt động tư pháp
đều cho phép xác định VKSND là một cơ quan thuộc hệ thống cơ quan tư pháp;
hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND
là các hoạt động tư pháp.
Chính vì vậy, cần tiếp tục khẳng định vị trí của VKSND là một cơ quan Hiến
định, độc lập trong bộ máy Nhà nước, được tổ chức tương ứng với tổ chức hệ thống
TAND, có vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp của nhà nước ta như quy
định của Hiến pháp hiện hành.
1. Qua nghiên cứu Luận văn đã nêu lên được một cách khái quát các vấn đề
lý luận về chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc tổ chức hoạt động của VKSND, các
hoạt động chính của VKSND, về vụ án hành chính và thủ tục giải quyết vụ án hành
chính, về vai trò của VKSND trong việc giải quyết vụ án hành chính. Những nội
dung trên cho thấy được vai trò của công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp nói
chung và kiểm sát hoạt động giải quyết án hành chính nói riêng qua đó góp phần
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong thực tiễn.
2. Luận văn đã phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại,
vướng mắc trong hoạt động kiểm sát giải quyết án án hành chính của VKS từ lý
luận cũng như thực tiễn áp dụng. Đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế,
tồn tại, vướng mắc. Những kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát giải
quyết án hành chính của VKS được đưa ra trên cơ sở những phân tích ở phần thực
trạng.
79
Trong quá trình thực hiện các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp,
những năm qua, Ban cán sự đảng, Lãnh đạo VKSNDTC đã tập trung chỉ đạo toàn
ngành nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp; trong
đó nhấn mạnh tăng cường kiểm sát xét xử án hành chính. Mấy năm gần đây, chúng
ta đã tăng cường công tác nghiên cứu lý luận cơ bản để làm rõ những vấn đề thuộc
về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như những bất hợp lý trong cơ chế pháp lý liên quan
đến tổ chức, hoạt động của VKS khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Thực tiễn hoạt động tư
pháp trong thời gian qua ở nước ta cho thấy, VKSND làm tốt chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp (kiểm sát giải quyết án hành chính) đã góp phần quan trọng xây
dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị (2005) “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005
2. Bộ Chính trị (2010) “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án, viện
kiểm sát và cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010
3. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2011) “Về việc hướng dẫn thi
hành một số điều của luật TTHC” Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày
29/7/2011
4. Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao (2006) “Hướng dẫn thi hành một số
điều của PLTTGQCVAHC” Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày
04/8/2006
5. Quốc hội (2010) “Về việc thi hành Luật TTHC 2010” Nghị quyết số
56/2010/QH12 ngày 24/11/2010
6. Quốc hội (2001) “Về sửa đổi, bổ sung Điều 137 của Hiến pháp năm 1992”
Nghị quyết số 51/2001/NQ-QH ngày 25/12/2001
7. Quốc hội (1959) “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1959”.
8. Quốc hội (1992) “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)”.
9. Quốc hội (2013) “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013”.
10. Quốc hội (2015) “Luật Tố tụng hành chính năm 2015”
11. Quốc hội (2004) “Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2011)”.
12. Quốc hội (2014) “Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014”
13. Quốc hội (2010) “Luật Tố tụng hành chính năm 2010”
14. Trường Đại học luật Hà Nội (Giáo trình Luật TTHC), Nxb Công an Nhân
dân, Hà Nội.
81
15. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2009) “Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án năm
2009”
16. Viện KSND tỉnh Đắk Lắk (2011-2016) “Báo cáo cáo tổng kết thực tiễn 5
năm hoạt động kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính của ngành kiểm sát
nhân dân tỉnh Đắk Lắk 2011- 2016”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_tham_quyen_cua_vien_kiem_sat_nhan_dan_cap_tinh_tron.pdf