Các buổi phát thanh ở phường nên phát nhiều hơn, khoảng 2 - 3 lần/
tháng v ới chi phí mỗi lần là 15000, chú ý phát vào giờ mọi người ở nhà đầy đủ
buổi sáng trước khi đi làm, tránh phát vào giờ nghỉ trưa hay giờ tới công sở, sẽ
không thu được hiệu quả.
84 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Cty bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trả tiền bảo hiểm
-Tổng số hợp đồng giải quyết trả tiền bảo hiểm
-Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
-Hợp đồng bảo hiểm trẻ em huỷ bỏ
4.Tổng chi
-Chi trả tiền bảo hiểm
+Tổng số
+Nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
+Chi trả giá trị tự giải ước do hợp đồng bị huỷ bỏ
-Chi hoa hồng
+Tỷ lệ trên doanh thu %
-Chi quản lý kinh doanh
Công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 8 năm 1996 tuy
gặp nhiều khó khăn nhưng công ty cũng đạt được một số kết quả đáng chú ý sau:
-Từ chỉ tiêu (1) ta thấy :Số lượng hợp đồng bảo hiểm trẻ em không ngừng tăng
lên cả về mặt tuyệt đối và tương đối , so với năm 1996 có 1043 tổng số hợp đồng
, trong đó hợp đồng bảo hiểm trẻ em là 264 hợp đồng chiếm 25,31% ,đến năm
1997 là 2806 hợp đồng trong tổng số 6578 hợp đồng, chiếm 42,65% .Đến cuối
năm 1998 thì con số này là 8299 hợp đồng trong 17.822 hợp đồng chiếm 46,57%.
Như vậy số lượng người tham gia ngày càng đông chứng tỏ rằng công ty đã có
những cố gắng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường tuyên
truyền quảng cáo,tạo sự tin tưởng cho khách hàng .
Từ chỉ tiêu (2) ta có:
Nhìn chung công ty đều hoàn thành vượt mức kế hoạch về doanh thu, đặc biệt là
năm 1997 đã hoàn thành vượt mức kế hoạch là 112,5%
Đến hết năm 1996 , công ty mới đi vào hoạt động được năm tháng, doanh thu phí
bảo hiểm của công ty đã là 2013 tỷ đồng , trong đó từ nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em
là 775 triệu đồng chiếm 38,5% .Đây là con số khá khiêm tốn nhưng cũng đủ thể
hiện được sự nỗ lực của cán bộ nhân viên công ty mới bước đầu khởi hành trên
lĩnh vực này , đồng thời phản ánh được phần nào sự chấp nhận của thị trường về
sản phẩm mới này của công ty .Đến cuối năm 1998 , doanh thu từ nghiệp vụ bảo
hiểm trẻ em này đã là 12.800 tỷ VNĐ trong tổng số 30.054 tỷVNĐ chiếm
42,59% doanh thu toàn công ty. Điều đó cho ta thấy doanh thu từ nghiệp vụ bảo
hiểm này đang có xu hướng chiếm phần lớn tổng doanh thu của công ty và thể
hiện tiềm năng đang dần được khai thác.
Doanh thu của nghiệp vụ này năm 1998 so với hai năn trước tăng lên rất nhanh,
so với năm 1996 nó tăng 12 tỷ VNĐ tức gần gấp 6 lần ,so với năm 1997 là 11 tỷ
VNĐ, gần gấp 7 lần .
Môi trường đầu tư của ta ngày càng được mở rộng cả về mặt chiều rộng lẫn
chiều sâu , nên doanh thu từ hoạt động đầu tư của công ty cũng không ngừng tăng
lên.,so với năm 1996 ta mới đi vào kinh doanh nên hoạt động đầu tư chưa thu
được kết quả , thì đến năm 1997 , doanh thu của hoạt động đầu tư là 727
triệuVNĐ chiếm 17,12% tổng doanh thu và đến năm 1998 đã là 8.132 triệu VNĐ
chiếm 27,1% tổng doanh thu.
Từ đó , cho thấy nghiệp vụ này không ngừng được hoàn thiên và nâng cao cả về
chất lượng và số lượng , Công ty đã có nhiều kinh nghiệm hơn trong khâu tổ
chức , cũng như khâu khai thác,trình độ của cán bộ , đại lý được nâng cao và đăc
biệt là coi trọng mở rộng quy mô mạng lưới khai thác xuống tất cả các quận
huyện thuộc địa bàn Hà Nội (gồm 9 phòng khai thác và 2 tổ với 243 cán bộ khai
thác ).
- Mặt khác ta xét về số hợp đồng trả tiền bảo hiểm trong ba năm ta thấy: Năm
1996 có 2 trường hợp phải bồi thường nhưng không phải hợp đồng bảo hiểm trẻ
em nên số tiền bồi thường cho nghiệp vụ này không có. Đến năm 1997 thì số tai
nạn xảy ra trong nghiệp vụ này tăng lên 8 trường hợp trong tổng số 6 trường hợp
bồi thường và năm 1998 là năm trường hợp trong tổng số 17 trường hợp .Do vậy
, cùng với việc không ngừng có nhiều người tham gia vào loại hình bảo hiểm này
thì cùng với nó số tai nạn rủi ro được công ty bảo hiểm cũng tăng lên , đòi hỏi
công ty phải tăng cường đề phòng và hạn chế tổn thất .
Tổng số các khoản chi thì khoản chi hoa hồng cho người khai thác vẫn chiếm tỷ
trọng lớn nhất . Năm 1996 , chi hoa hồng là 103 triệu , chiếm 5,12% tổng doanh
thu , đến năm 1997 con số này là 191 triệu VNĐ tức 6,97% và năm 1998 là 3,5
tỷ chiếm 11,60% .Đến năm 1998 số tiền này tăng vọt lên là chủ yếu do công ty
tiến hành mở rộng mạng lưới đại lý khai thác , do đó số lượng nhân viên khai
thác tăng lên làm cho khoản chi hoa hồng ở mức khá cao. Nếu cơ cấu này tiếp tục
diễn biến trong vài năm tới , thì công ty cần phải điều chỉnh lại tỷ lệ .
Trong tổng số chi phí thì chi trả tiền bảo hiểm chiếm một tỷ lệ ít ,năm 1996 với
tổng số tiền chi trả là 7,8 triệu VNĐ nhưng không phải nghiệp vụ này , năm 1997
là 17,8 triệuVND , trong đó giải quyết trả tiền cho nghiệp vụ này là 4,3 triệu
VNĐ .Đến năm 1998 là 2,4 triệuVNĐ trong số 36,9 triệu . Như vậy trong tổng số
tiền chi trả tiền bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm thì số tiền chi trả tiền bảo
hiểm cho nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chiếm một tỷ lệ rất ít, khoảng 6% , điều đó
chứng tỏ chất lượng sản phẩm này tốt.
Đến năm 1998 có 31 hợp đồng huỷ bỏ sau hai năm và công ty đã chi trả giá trị
giải ước là 65,52 triệu VNĐ , trong đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em có 9 hợp đồng
với số tiền trả cho khách hàng là 19,02 triệu . Điều này cho thấy chúng ta cần
phải nâng cao nghiệp vụ này, không ngừng hoàn thiện sản phẩm để cho người
tham gia bảo hiểm tin tưởng vào loại hình này. Tuy nhiên tổng số tiền chi trả bảo
hiểm cho nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em chỉ là 21,42 triệu VNĐ, chiếm 20.09% chi
trả tiền bảo hiểm cho các nghiệp vụ ,số tiền này không cao nằm trong khuôn khổ
cho phép , thể hiện được chất lượng khai thác của công ty.Đây là điều chúng ta
cần quan tâm để duy trì để nâng cao hiệu quả khai thác.
2. Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em trong quý I năm 1999
tại công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ.
Mọi nghiệp vụ bảo hiểm dù nhân thọ hoặc phi nhân thọ cũng đều phải qua các
bước : khai thác , đánh gía rủi ro , công tác quản lý , theo dõi và lưu trữ hợp đồng
, công tác đề phòng , hạn chế tổn thất , công tác giám định .Mà nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ thường là rất dài so với phi nhân thọ. Do vậy việc đánh giá kết
quả kinh doanh của nghiệp vụ này sẽ không được cụ thể, mà ở đây chúng ta chỉ
đánh giá sơ lược kết quả ở quý I năm 1999 .
2.1. Công tác khai thác:
Khai thác là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất
bại của bất kỳ nghiệp vụ nào .
Mục tiêu của công tác khai thác bảo hiểm là tác động được số đông người tham
gia, thực chất của công tác này là tuyên truyền vận động các đối tượng hiểu về
nội dung, mục đích , ý nghĩa của nghiệp vụ .Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm trẻ
em không chỉ mới đối với mọi người dân mà còn mới đối với cả người làm trong
công tác bảo hiểm . Do vậy , công tác tuyên truyền quảng cáo đối với nghiệp vụ
này càng quan trọng hơn .
Làm tốt công tác khai thác có ý nghĩa rất lớn đối với việc triển khai nhiệm vụ,
tạo cơ sở đảm bảo cho việc triển khai thành công .Thông qua khâu khai thác mới
vận động được mọi người tham gia bảo hiểm từ đó có phí bảo hiểm để hình thành
nên quỹ bảo hiểm , tạo điều kiện thực hiện các công việc tiếp theo .Ngược lại
khâu khai thác làm không tốt , số lượng người tham gia ít, không đảm bảo nguyên
tắc "số đông bù số ít" thì việc hoạt động của công ty khó có thể được bảo đảm.
Nhận thức được điều đó, công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ một mặt tiến hành các
biện pháp tuyên truyền , giải thích trên các phương tiện thông tin đại chúng về
các điều khoản quy tắc chung về bảo hiểm Nhân Thọ , mặt khác công ty chú
trọng xây dựng mạng lưới đại lý , cộng tác viên rộng khắp. Đây là một việc làm
hết sức cần thiết đối với công ty Bảo Hiểm Nhân Thọ và đã thu được nhiều kết
quả đáng khích lệ .
- Trong 4 tháng đầu năm , công ty đã khai thác mới được 4881 hợp đồng. Như
vậy số hơp đồng có hiệu lực tính đến hết ngày 30 tháng 4 năm 1999 là 25.824
hợp đồng .
Bảng 5: Kết quả khai thác theo từng loại sản phẩm
Loại sản phẩm Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4
Bảo hiểm và tiết kiệm 5 năm(NA4) 554 274 473 695
Bảo hiểm và tiết kiệm10 năm (NA5) 33 15 30 39
An sinh giáo dục ( NA6 ) 594 306 634 937
Tổng 1478 595 1137 1617
Nguồn: Công ty bảo hiểm nhân thọ
Xét theo thời gian thì tháng 2 số hợp đồng giảm xuống rồi tăng dần lên trong 2
tháng sau với tháng 4 đạt số hợp đồng cao nhất trong quý I là 1671 hợp đồng
.Trong đó số lượng từng sản phẩm trên tổng số các hợp đồng không ngừng tăng
lên qua các tháng , tháng 1, tỷ lệ hợp đồng an sinh giáo dục trên tổng số hợp
đồng là 40,19% ;tháng 2 là 51,42% ;tháng 3 là 53,76%, đến tháng 4 con số này
đã là 56,07% .Như vậy cho thấy sản phẩm an sinh giáo dục chiếm một tỷ trọng
rất lớn trong các sản phẩm bảo hiểm Nhân Thọ , và nó không ngừng tăng lên cả
về số tương đối và số tuyệt đối, thể hiện tiềm năng rất to lớn của sản phẩm này.
Số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ cũng tăng lên qua các tháng, trong đó số hợp đồng
bảo hiểm trẻ em bị huỷ bỏ chiếm một tỷ lệ khá lớn. Chỉ riêng trong tháng 3 nó
đã chiếm 73,62% tổng số hợp đồng bị huỷ bỏ. Chính vì vậy không ngừng hoàn
thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm An Sinh Giáo Dục là hết sức cần thiết để
có thể giảm bớt số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ.
Nhận xét chung:
Tuy tình hình kinh tế quý I/1999 có nhiều yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến hoạt
động khai thác , nhưng kết quả đạt được là khả quan, đáng khích lệ , thể hiện ở
những mặt sau:
-Sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên từ cán bộ quản lý đến cán
bộ khai thác .
-Mạng lưới khai thác ngày càng được mở rộng , chất lượng cán bộ khai thác ngày
càng được nâng cao
- Đã hình thành mạng lưới khai thác với cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh từ cấp công ty
, phòng , tổ ,sinh hoạt của phòng khai thác dần dần đi vào nề nếp. Đa số các
trưởng phòng khai thác , các tổ trưởng đã hoàn thành được các công việc được
giao về các mặt như : tổ chức khai thác , quản lý duy trì chế độ sinh hoạt hàng
ngày , đôn đốc , kiểm tra cán bộ khai thác trong thực hiện các quy định của công
ty .
- Các phòng đã chủ động tìm ra các phương pháp khai thác riêng theo từng địa
bàn hoạt động .Tuy nhiên ,vẫn còn xảy ra tình trạng chồng chéo , cạnh tranh giữa
các phòng khai thác
-Công tác tuyên truyền quảng cáo đã làm cho nhiều người hiểu và tin tưởng vào
sự hoạt động của công ty nên đã làm cho nhu cầu bảo hiểm Nhân Thọ tăng .
Một số nguyên nhân dẫn tới việc khâu khai thác có phần chậm lại trong tháng 2
là :
-Số lượng ngày nghỉ ,ngày lễ lớn làm cho người dân không tập trung vào loại
hình bảo hiểm này .
-Sự khủng hoảng tài chính khu vực vẫn chưa khắc phục hết dẫn đến tâm lý vẫn
còn hoang mang của khách hàng về sản phẩm bảo hiểm Nhân Thọ .
-Do sự thay đổi về cách thức quản lý kinh doanh của Tổng công ty trong tháng 2
và chuẩn bị hai sản phẩm mới vào đầu tháng 7: bảo hiểm niên kim và bảo hiểm
trọn đời .
-Trình độ khai thác của các cán bộ không đồng đều .Một số cán bộ khai thác còn
thiếu kinh nghiệm , cũng như các kỹ năng giao tiếp còn yếu. Hiện nay, các cán bộ
có khả năng khai thác tốt lại quản lý nhiều hoạt động, quỹ thời gian để thu phí
định kỳ chiếm thời gian phần lớn trong ngày ,nên chưa phát huy được khả năng
khai thác mới .
-Từ đầu năm, hầu hết các phòng đầu sử dụng phương pháp khai thác thông qua
hình thức tuyên truyền, giới thiệu tập thể. Sử dụng phương pháp có thể khai thác
được nhiều hợp đồng cùng một lúc nhưng tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng cũng cao .Để
nâng cao chất lượng khai thác, công ty đã thay đổi phương pháp khai thác và
khuyến khích cán bộ khai thác tập trung trong việc giới thiệu, khai thác đối với
những cá nhân , do đó số lượng hợp đồng khai thác mới cũng giảm
- Một số cán bộ còn chưa xác định được đúng đắn nghề nghiệp , chưa thực sự
chăm chỉ, quyết tâm .
- Việc áp dụng quy trình khai thác mới theo quy định của Tổng công ty đã có tác
dụng nâng cao chất lượng khai thác nhưng cũng làm cho số lượng hợp đồng khai
thác giảm .
2.2. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, bảo hiểm nhân thọ cũng rất coi trọng
công tác đánh giá rủi ro nhằm loại bỏ hoặc từ chối không bảo hiểm cho các sự cố
rủi ro chắc chắn xảy ra liên quan đến trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm.
Bên cạnh đó, bảo hiểm nhân thọ còn mang nét đặc thù riêng, việc trả tiền bảo
hiểm là chắc chắn, chỉ có thời điểm trả tiền bảo hiểm là không chắc chắn. Do vậy
với những rủi ro chắc chắn xảy ra thì việc từ chối không nhận bảo hiểm là cần
thiết.
Yêu cầu của công tác này rất cao, khoản chi cho nó được tính vào phí bảo hiểm,
nó được chi ngay vào thời điểm ký hợp đồng và hiệu qủa kinh doanh của nghiệp
vụ cũng phần nào phụ thuộc vào công tác này.
Nội dung công việc bao gồm:
- Đánh giá tình trạng sức khoẻ của người được bảo hiểm, người tham gia bảo
hiểm.
- Đánh giá khả năng tài chính của khách hàng liên quan đến trách nhiệm đóng phí
đủ, đúng hạn trong suốt thời hạn hợp đồng.
- Đánh giá hành vi pháp luật của người tham gia bảo hiểm, xem xét mục đích của
người tham gia bảo hiểm (có lợi dụng bảo hiểm để hưởng quyền lợi bảo hiểm
không ?)
Năm 1998 công tác đánh giá rủi ro phần nào được xem nhẹ, hầu hết khách hàng
khi kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm xong là cán bộ khai thác viết hoá đơn thu phí
và lập tức công ty phát hành hợp đồng. Tuy nhiên chưa có trường hợp nào trục
lợi bảo hiểm xảy ra.
Năm 1999 để thực hiện phương châm “ tăng trưởng và tăng cường quản lý” công
ty đã thực hiện quy trình khai thác mới. Giấy yêu cầu bảo hiểm sau khi được
đánh giá rủi ro, chấp nhận bảo hiểm thì cán bộ khai thác mới tiến hành thu phí
bảo hiểm đầu tiên. Kết quả của công tác đánh giá rủi ro ban đầu rất quan trọng,
nó ảnh hưởng đến chất lượng khai thác bởi vì các cán bộ khai thác là những
người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Để thực hiện công việc trên, công ty đã
biên soạn tài liệu và tập huấn quy trình đánh giá rủi ro cho cán bộ khai thác và
thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh các phòng khai thác trong việc thực hiện quy
trình khai thác của Tổng công ty. Tất cả các giấy yêu cầu bảo hiểm đều được cập
nhật vào sổ, sau đó đánh giá rủi ro theo các yếu tố về sức khoẻ, tài chính của
người tham gia bảo hiểm để xem xét quyết định chấp nhận hoặc từ chối bảo
hiểm.
Công ty đã thường xuyên nghiên cứu tìm hiểu các trường hợp hoàn phí trong
vòng 14 ngày, những trường hợp chết do bệnh tật, tiến hành kiểm tra sức khoẻ
những khách hàng có độ tuổi trên 50 và có nghi ngờ về những điều kê khai trong
giấy yêu cầu bảo hiểm để đánh giá tình hình sức khoẻ, bệnh tật và các nguyên
nhân gây tử vong cũng như khả năng tài chính của khách hàng giúp cho việc hoàn
thiện quy trình đánh giá rủi ro.
Đầu năm 1999 công ty đã từ chối chấp nhận bảo hiểm 9 trường hợp trong đó có 6
trường hợp bảo hiểm trẻ em, chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Người tham gia bảo hiểm không đảm bảo sức khoẻ.
+ Người tham gia bảo hiểm không phải là bố mẹ trẻ em hay người giám hộ hợp
pháp hoặc không đủ giấy tờ hợp lý cần thiết để nhận bảo hiểm như quy định
trong điều khoản.
+ Người tham gia bảo hiểm quá tuổi theo quy định
2.3. Công tác quản lý hợp đồng.
Việc cập nhật cấp nhận hoá đơn thu phí bảo hiểm đầu tiên và định kỳ được tiến
hành đầy đủ, chính xác và tạm thời. Hàng tháng công ty đã tiến hành đối chiếu số
liệu thu phí bảo hiểm giữa nghiệp vụ với kế toán, đảm bảo chính xác số phí thu
trong tháng và số hoá đơn phát hành.
Giải quyết những đề nghị của khách hàng liên quan đến tình trạng hiệu lực của
hợp đồng như: thay đổi về địa chỉ, định kỳ thu phí, huỷ bỏ hợp đồng, thay đổi
cán bộ khai thác theo dõi hợp đồng... được thực hiện một cách nhanh chóng kịp
thời không để tồn đọng và đảm bảo việc theo dõi thu phí không bị bỏ sót và từ đó
tính hoa hồng cho cán bộ khai thác một cách chính xác.
Khi có hợp đồng phát sinh các yêu cầu giải quyết quyền lợi bảo hiểm, cán bộ của
công ty đã phối hợp ngay với cán bộ khai thác liên hệ với khách hàng để hướng
dẫn các thủ tục trả tiền bảo hiểm, xác minh các giấy tờ liên quan hồ sơ trả tiền
bảo hiểm đảm bảo đầy đủ, đúng theo quy định của Tổng công ty và nhanh chóng
hoàn tất hồ sơ trong thời gian sớm nhất. Trong năm không có bất kỳ một khiếu
kiện nào của khách hàng liên quan đến công tác giải quyết quyền lợi bảo hiểm
cũng như tình trạng hiệu lực của hợp đồng.
Đầu các tháng, công ty thực hiện in kế hoạch thu phí phát cho cán bộ khai thác
để thực hiện thu phí định kỳ đầy đủ và theo dõi tình hình thu phí của từng hợp
đồng. Phối hợp với cán bộ khai thác kiểm tra đối chiếu tình hình thu phí, nợ phí
và có biện pháp để thu. Kịp thời thông báo bằng văn bản các hợp đồng nợ phí
theo hai lần: lần 1 sau 30 ngày lần 2 sau 70 ngày và gửi thông báo chia lãi cho
các hợp đồng đã có hiệu lực trên 2 năm giải quyết các yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng,
những hợp đồng nhận giá trị giải ước và những hợp đồng nợ phí quá 70 ngày
theo đúng quy định của Tổng công ty.
Công ty đã tiến hành mở sổ theo dõi chi tiết tình trạng của hợp đồng như: sổ theo
dõi các hợp đồng huỷ bỏ, sổ theo dõi thanh toán tiền bảo hiểm, sổ theo dõi hợp
đồng hoàn phí, sổ theo dõi hợp đồng thay đổi địa chỉ. Thống kê tỷ lệ thu phí đúng
hạn, tỷ lệ phí duy trì của hợp đồng của từng cán bộ khai thác phục vụ cho công
tác đánh giá, phân loại cán bộ khai thác cuối tháng việc lập báo cáo nghiệp vụ
được đảm bảo đầy đủ nội dung, đúng thời gian theo quy định của Tổng công ty.
Tuy nhiên do trình độ, kinh nghiệm của cán bộ cũng như chương trình phần mềm
quản lý hợp đồng còn hạn chế nên dẫn đến không theo dõi được tình trạng nộp
phí của từng hợp đồng. Từ đó không xác định tình trạng nợ phí của hợp đồng và
việc xác định nhiều khi chưa chuẩn xác. Vì vậy Công ty đã tập trung mạnh vào
việc giải quyết các hợp đồng nợ phí.
Tính đến hết ngày 31 tháng 5 năm 1999 toàn công ty có:
+ 672 hợp đồng nợ phí trên 30 và dưới 70 ngày với tổng số phí nợ là 421 triệu
đồng
+ 135 hợp đồng nợ phí trên 70 ngày với tổng số phí là 49 triệu đồng.
Một số nguyên nhân chính dẫn đến tình hình nợ phí nhiều trong thời gian qua là:
+ Do khách hàng đi công tác xa dẫn đến nợ phí trong một thời gian dài, sau đó
khách hàng lại đóng phí đuổi. Vì vậy hợp đồng luôn luôn ở trong tình trạng nợ
phí.
+ Khách hàng gặp nhiều khó khăn tạm thời về vấn đề tài chính.
+ Khách hàng không nộp phí nhưng cũng không ký vào giấy đề nghị huỷ bỏ hợp
đồng.
+ Thời gian đầu công ty tập trung nhiều vào khai thác cho nên buông lỏng công
tác quản lý hợp đồng, thêm vào đó lại khai thác nhiều tại thị trường giáo dục. Do
đó trong thời gian nghỉ hè, giáo viên các trường đều nghỉ học. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân dẫn đến việc thu phí không hoàn thành theo kế hoạch.
+ Việc đối chiếu số liệu, xác định hợp đồng nợ phí, gửi thông báo nợ phí của
công ty đến khách hàng trong những tháng đầu năm chưa thực hiện đầy đủ, còn
nhiều thiếu sót.
+ Một số cán bộ khai thác chạy theo khai thác hợp đồng mới, do đó còn lơi là
trong công tác thu phí định kỳ.
Để giải quyết vấn đề này, trong thời gian qua công ty đã tiến hành hàng loạt các
biện pháp đồng bộ như:
+ Thường xuyên gửi thông báo đến từng cán bộ khai thác và từng khách hàng
thông báo tình trạng nợ phí từ 30 đến 70 ngày, trên 70 ngày.
+ Cùng cán bộ khai thác đến từng khách hàng tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình
trạng nợ phí và có biện pháp giải quyết cụ thể cho từng trường hợp cụ thể.
Trường hợp khách hàng không có lý do chính đáng thì tiến hành làm thủ tục huỷ
bỏ theo quy định của điều khoản hợp đồng.
+ Cung cấp các thông tin về quá trình nộp phí của khách hàng như ngày nôp tổng
số tiền đã nôp .v.v. để khách hàng yên tâm biết rõ tổng số phí đã đóng và số phí
còn thiếu để đốc thu.
+ Việc đưa chỉ tiêu hoàn thành kế hoạch thu phí là một chỉ tiêu đánh giá xét
thưởng thi đua đã góp phần thúc đẩy cán bộ khai thác tăng cường thu phí và giảm
bớt số phí nợ.
2.4. Công tác tuyển dụng và đào tạo.
Trong 4 tháng đầu năm 1999, Công ty đã tuyển dụng 2 khoá cán bộ khai thác
khoá 10 và khoá 11 với số lượng là 78 người. Rút kinh nghiệm của những lần
tuyển chọn trước, công ty đã áp dụng quy trình tuyển chọn mới, từ đó đã khắc
phục được những điểm yếu của những lần tuyển chọn trước đây: như chú trọng
vào việc định hướng công việc của cán bộ khai thác bảo hiểm nhân thọ cho tuyển
viên trước khi tham dự phỏng vấn nhằm loại bỏ những cá nhân chưa xác định
đúng đắn nghề nghiệp, tuyển chọn những người có hộ khẩu Hà Nội, có lý lịch
bản thân cũng như gia đình rõ ràng, có khả năng tài chính ổn định nhằm hạn chế
khả năng chiếm dụng phí. Đồng thời sau khi phỏng vấn Công ty đã tiến hành
thẩm tra, xác minh lý lịch của từng người.
Những người này sau khi được tuyển chọn ban đầu sẽ tham dự các khoá đào tạo
kéo dài trong 6 - 7 ngày. Nội dung các khoá đào tạo đó đã được sửa đổi và phong
phú hơn. Cụ thể ngoài việc trang bị các kiến thức đại cương về bảo hiểm nói
chung, bảo hiểm nhân thọ, quy trình khai thác, Marketing trong bảo hiểm, Công
ty đã tiến hành trang bị các kiến thức về thực hành bán hàng và tổ chức thực tập
các kỹ năng bán sản phẩm.
Hiện nay tổng số cán bộ khai thác toàn công ty là 224 người. Trong đó:
+ Đại lý chuyên nghiệp là: 209 người.
+ Đại lý bán chuyên nghiệp: 15 người.
+ Cộng tác viên bảo hiểm có 3 đơn vị là: Trung tâm chuyển tiền Bưu điện Hà
Nội, công ty NASSCO và công ty Du lịch cựu chiến binh.
Đầu tháng 3 năm 1999 công ty đã tổ chức tập huấn nghiệp vụ về các sản phẩm
mới cho toàn bộ cán bộ khai thác. Sau khoá tập huấn công ty đã tổ chức kiểm tra,
kết quả cho thấy hơn 75% tổng số cán bộ khai thác đạt kết quả từ trung bình khá
trở lên. Số cán bộ không đạt yêu cầu và không tham dự kiểm tra, công ty đã yêu
cầu dừng không cho khai thác sản phẩm mới cho đến khi kiểm tra đạt yêu cầu
mới cho tiếp tục khai thác. Qua đợt tập huấn và thực tiễn khai thác cho thấy cần
thiết phải tăng cường công tác trao đổi thường xuyên nghiệp vụ và nâng cao ý
thức tổ chức kỷ luật.
Để triển khai bảo hiểm Nhân thọ trọn đời và bảo hiểm niên kim vào đầu tháng 7.
Công ty đã tổ chức tập huấn cho 22 cán bộ khai thác về 2 nghiệp vụ bảo hiểm
trên nhằm triển khai thí điểm nghiệp vụ này.
Trong tháng 4 có 28 cán bộ khai thác thôi việc chiếm tỷ lệ 16% số tuyển dụng
mới trong năm do công việc không phù hợp và chất lượng công việc không đạt
yêu cầu quy định.
Từ công tác tuyển chọn và đào tạo ban đầu công ty đã rút được nhiều những kinh
nghiệp sau:
+ Chỉ tập trung tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp.
+ Khâu tuyển chọn đã được tiến hành khoa học nghiêm túc và đạt chất lượng cao.
+ Chất lượng, nội dung đào tạo phải được nâng cao, đồng thời công tác kiểm tra
sát hạch cần được duy trì thường xuyên
+ Cần tăng cường các cuộc trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ để không ngừng bồi
dưỡng củng cố kiến thức nghiệp vụ cho các cán bộ khai thác.
2.5. Công tác tổ chức và quản lý mạng lưới đại lý:
Đầu năm 1999 ngoài việc tiếp tục đẩy mạnh hoạt động khai thác. Công ty còn tập
trung vào công tác nâng cao chất lượng khai thác, quản lý cán bộ khai thác, quản
lý chặt chẽ việc thu phí định kỳ coi đây là nhiệm vụ trọng tâm.
Công ty đã áp dụng mô hình tổ chức cán bộ khai thác 3 cấp: thành lập các phòng
khai thác khu vực, chia số cán bộ khai thác thành từng tổ. Đã chọn lựa các cán bộ
khai thác giỏi có kinh nghiệm bổ nhiệm làm Tổ trưởng và Trưởng phòng, bước
đầu đã đáp ứng được công tác quản lý và điều hành công việc hàng ngày.
Để quản lý hoạt động cán bộ khai thác dần đi vào nề nếp, khoa học công ty đã
ban hành nhiều văn bản quy định một cách chi tiết các nội dung, quy định về hoạt
động cán bộ khai thác, các mẫu biểu, báo cáo thống kê hàng tháng thống nhất từ
Cá nhân - Tổ - Phòng vừa giúp các cán bộ khai thác tổng hợp, đánh giá kết quả
hoạt động trong tháng vừa phục vụ cho công tác quản lý của Công ty.
Ngoài ra công ty đã tổ chức, quản lý lưu trữ hồ sơ cá nhân của các cán bộ khai
thác. Đã tổ chức theo dõi, chấm công coi việc thực hiện ngày công là một tiêu
chuẩn để đánh giá xếp loại cán bộ khai thác chuyên nghiệp.
Công ty cũng đã áp dụng một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
của cán bộ khai thác như: hỗ trợ tài chính cho các cán bộ khai thác trong thời
gian học nghề, phân công cán bộ cũ có kinh nghiệm giúp đỡ cán bộ mới, áp dụng
chế độ thưởng đối với các cá nhân, tổ, phòng có thành tích cao, tổ chức các
phong trào thi đua: Ngôi sao tháng (Month star). Câu lạc bộ 200 hợp đồng.
Phòng đạt chỉ tiêu khai thác mới bình quân 6,5 hợp đồng/người... Đã tiến hành
đánh giá phân loại cán bộ khai thác hàng tháng theo các chỉ tiêu như: số lượng
hợp đồng khai thác mới, tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu phí định kỳ, tỷ lệ duy trì
hợp đồng, nợ phí, ngày công làm việc. Việc tiến hành đánh giá phân loại đã tạo
động lực cho cán bộ khai thác phấn đấu, thi đua.
Một số tồn tại trong công tác quản lý, tổ chức hoạt động của cán bộ khai thác
trong năm 1998 như: chế độ sinh hoạt, báo cáo thống kê thu phí định kỳ, tình
trạng cán bộ khai thác chiếm dụng phí, việc phân công thu phí định kỳ của những
hơp đồng khai thác trực tiếp, việc bàn giao, theo dõi hợp đồng giữa các cán bộ
khai thác thôi việc về cơ bản đã được khắc phụ trong những tháng đầu năm 1999.
2.6. Công tác giám định bồi thường.
Giám định là việc xác định thiệt hại thực tế của người bị rủi ro tai nạn. Bởi vậy
nó rất quan trọng, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Cùng với bồi
thường, giám định đòi hỏi phải có những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao.
Do công ty mới thành lập nên số hợp đồng hết hiệu lực là chưa phát sinh vì thời
hạn hợp đồng ngắn nhất cũng là 5 năm. Còn số hợp đồng hết hiệu lực do xảy ra
sự cố tử vong đối với người được bảo hiểm hiện nay là 25 trường hợp trong đó
bảo hiểm trẻ em là 7 trường hợp, số tiền bảo hiểm là 61,7 triệu. Điều đó chứng tỏ
khả năng xảy ra rủi ro là rất thấp. Có thể khái quát chung hiệu quả kinh doanh
của công ty đang theo chiều hướng tốt. Song chúng ta cũng không nên vội kết
luận, bởi vì với cơ sở tính phí xác suất rủi ro được tính dựa trên một mẫu số lớn,
mà số hợp đồng của công ty hiện nay chưa đủ lớn, do vậy đánh giá công tác này
cũng chưa được chính xác.
Hiện tại công tác giám định bồi thường ở Công ty còn ít nên bộ phận này chưa
được hình thành còn đang trực thuộc phòng nghiệp vụ.
2.7. Vấn đề hoạt động đầu tư
Là một tổ chức tài chính trung gian nên hoạt động đầu tư vốn của công ty
bảo hiểm nhân thọ là một trong những hoạt động quan trọng nhất của công ty.
Tham gia thị trường vốn với tư cách là một nhà cung cấp, do đó công ty bảo hiểm
có một số ảnh hưởng nhất định trên thị trường vốn. Ra đời vào ngày trước cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, thêm vào đó Việt Nam ta còn chưa có
thị trường vốn nên hoạt động của công ty gặp nhiều khó khăn.
Phân tích hoạt động đầu tư của công ty bảo hiểm nhân thọ có ý nghĩa hết sức
quan trọng, tuy nhiên do thiếu thông tin nên việc phân tích này gặp rất nhiều khó
khăn. Hoạt động đầu tư vốn của công ty hiện nay còn chưa đa dạng chủ yếu mua
trái phiếu kho bạc do Nhà Nước phát hành. Tuy nhiên lãi suất của trái phiếu là
thấp khoảng 13%/ năm. Với các khoản chi phí như chi phí hoa hồng, chi phí quản
lý, chi trả bảo hiểm chiếm khoảng 20 - 25% doanh thu từ phí bảo hiểm. Vậy 13%
lãi suất của trái phiếu là quá nhỏ nên Công ty đã cho các Công ty khác vay với lãi
suất cao hơn như cho Công ty may Thăng Long vay 7 tỷ với lãi suất 19%/ năm.
Hiện nay, nước ta sắp ra đời thị trường chứng khoán, nó sẽ tạo điều kiện cho
Công ty Bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, để tránh xảy ra
rủi ro lớn như mua trái phiếu với lãi suất giảm, Công ty sẽ tiến hành cho vay vốn
rải rác ở nhiều nơi, vì nếu Công ty này làm ăn thua lỗ, phá sản thì Công ty Bảo
hiểm nhân thọ vẫn còn lĩnh vực hoạt động khác để thu được lợi nhuận.
III. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ an
sinh giáo dục.
Bảo hiểm nhân thọ nói chung và nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói riêng là những
nghiệp vụ bảo hiểm hết sức mới mẻ không chỉ đối với người tham gia bảo hiểm
mà còn đối với cả cán bộ của công ty bảo hiểm nhân thọ. Là đơn vị đi tiên phong
trong lĩnh vực này, trong gần ba năm hoạt động, công ty bảo hiểm nhân thọ đã
gặp không ít những khó khăn trở ngại. Tất cả đều mới và phải tự mình tìm tòi
vươn lên. Bằng sự nỗ lực cố gắng của toàn thể cán bộ, nhân viên trong công ty và
sự ủng hộ, giúp đỡ của Tổng công ty, thời gian qua công ty bảo hiểm nhân thọ đã
đạt được những thành quả đáng khích lệ, bước đầu tạo đà cho hướng phát triển
sau này. Tuy nhiên công ty cũng cần ngày càng phát huy hơn nữa những thế
mạnh của mình, giải quyết những vấn đề còn tồn tại, không dừng lại ở những gì
đã đạt được để hoàn thiện hơn nữa hệ thống phân phối sản phẩm đưa lại hiêụ quả
kinh doanh cho công ty.
Thời gian tới là giai đoạn tương đối khó khăn cho công ty trong bối cảnh chung
của đất nước. Năm 1999 là năm phục hồi của các nền kinh tế khu vực sau cuộc
khủng hoảng Tài chính châu á. Bắt đầu từ tháng 1-1999 áp dụng thuế giá trị gia
tăng, chỉ số giá cả của một số loại mặt hàng tăng lên tuy không lớn nhưng cũng
làm cho sức mua của thị trường giảm và ảnh hưởng đến việc kinh doanh các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ trong đó có sản phẩm “An sinh giáo dục”
Theo đánh giá năm 1999 là năm đầu tiên Bộ Tài chính sẽ mở cửa thị trường bảo
hiểm nhân thọ vì vậy sẽ có các công ty bảo hiểm khác triển khai nghiệp vụ này
tại Việt nam. Các công ty này có tầm cỡ trên thị trường quốc tế. Cuộc cạnh tranh
kinh doanh bảo hiểm nhân thọ sẽ bắt đầu và chắc chắn sẽ khó khăn và quyết liệt
hơn.
Đối với bảo hiểm nhân thọ, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam coi năm 1999 là
năm bản lề để thực hiện triển khai rộng trong toàn quốc đồng thời chú trọng
nhiều đến công tác quản lý nghiệp vụ. Đến nay phương châm “ tăng trưởng và
quản lý “ vẫn còn nguyên giá trị. Trong năm nay Tổng công ty sẽ thực hiện một
số điểm mới như: trình Bộ Tài chính cho phép bán thêm các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ: Bảo hiểm nhân thọ trọn đời và Bảo hiểm niên kim, áp dụng phần mềm
tin học mới quản lý nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ, áp dụng mô hình quản lý đại lý
thống nhất trong toàn quốc. Tất cả các yếu tố trên tác động đến việc triển khai và
phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ nói chung và nghiệp vụ “An sinh giáo
dục” nói riêng. Trong bối cảnh đó công ty xác định nhiệm vụ kinh doanh năm
1999 như sau:
• Phấn đấu hoàn thành kế hoạch đã đăng ký với Tổng công ty là 12000 hợp
đồng khai thác mới với doanh thu là 50 tỷ đồng.
• Tiếp tục kiện toàn công tác tổ chức của công ty, bố trí đủ số cán bộ làm
việc trong các ngành chức năng, triển khai việc thực hiện mô hình tổ chức và
quản lý đại lý mới do Tổng công ty ban hành. Bồi dưỡng và bổ nhiệm đủ số cán
bộ lãnh đạo cho các tổ và các phòng khai thác khu vực; tăng cường công tác quản
lý trong tất cả các khâu, các mặt hoạt động để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
công ty.
Để khắc phục những điều chưa đạt được, phấn đấu đạt được các kế hoạch
đã đề ra công ty cần có những kế hoạch cụ thể sau:
1.Tăng cường mở rộng mạng lưới đại lý khai thác
Mở rộng mạng lưới khai thác luôn luôn là mục tiêu hàng đầu trong việc triển khai
các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Theo con số thống kê, hiện nay số người tham
gia bảo hiểm nhân thọ trên địa bàn Hà Nội mới chiếm khoảng 0,8% dân số, một
con số rất nhỏ bé. Thu nhập bình quân đầu người của dân cư Hà Nội là hơn
600$/năm /người. Thành phố Hà Nội với dân số đông, lại là nơi tập trung hàng
nghìn cơ quan, bộ, ngành, đơn vị, trường học, bệnh viện của trung ương và hơn
3000 doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố.Như vậy, thị trường Hà Nội là
một thị trường lớn và đầy tiềm năng. Với số lượng cán bộ khai thác hiện nay,hơn
200 người là quá ít, lại phân bố chưa đồng đều. Công ty cần khẩn trương tuyển
dụng và đào tạo thêm cán bộ khai thác,nâng tổng số cán bộ khai thác lên khoảng
400 người và mở thêm các phòng khai thác nhằm phủ kín điạ bàn thành phố.
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội còn quận Tây Hồ và huyện Từ Liêm chưa có
phòng khai thác bảo hiểm nhân thọ. Công ty cần khẩn trương thành lập ngay các
phòng khai thác này để mở rộng và hoàn thiện mạng lưới khai thác.
Công ty cũng cần mở rộng thị trường ở các cơ quan, doanh nghiệp triển khai sâu
thị trường giáo dục, y tế , đó là những thị trường đầy tiềm năng và mở rộng thị
trường mới là các khu dân cư ở các phường xã. Đây là khu vực thị trường hết sức
mới mẻ, chưa được khai thác nhiều. Trên thực tế một số lượng lớn dân cư làm
nghề buôn bán và lao động tự do còn chưa biết về bảo hiểm nhân thọ. Nếu mở
rộng khai thác vào khu vực thị trường này sẽ đem lại kết quả khai thác khả quan
cho công ty.
2. Đa dạng các biện pháp khai thác và nâng cao chất lượng khai thác
Biện pháp khai thác truyền thống của các cán bộ khai thác là giới thiệu về sản
phẩm với người mua và thuyết phục để cho khách hàng hiểu được lợi ích, tác
dụng của sản phẩm để từ đó kí hợp đồng tham gia bảo hiểm. Nhưng phải thấy
rằng rất nhiều khách hàng khi nghe giải thích, vì chưa có một khái niệm gì về bảo
hiểm nhân thọ nên họ hoàn toàn không hiểu hoặc hiểu sai về các nghiệp vụ bảo
hiểm nhân thọ, đặc biệt là với nghiệp vụ “An sinh giáo dục”. Đa số khách hàng
đều nói rằng: “Tôi đem tiền đi gửi tiết kiệm lãi suất còn cao hơn tham gia bảo
hiểm”. Hoặc đôi khi có những khách hàng đã từng biết qua về các nghiệp vụ này,
nhưng vì biết không chính xác nên họ hiểu sai về nghiệp vụ, cho rằng “Gửi tiền
vào bảo hiểm nhân thọ rồi chẳng lấy ra được”, hoặc “Công ty bảo hiểm họ cầm
đằng chuôi”. Trong những trường hợp như vậy, cán bộ khai thác cần phải giải
thích hết sức khéo léo, kĩ lưỡng với người tham gia bảo hiểm để họ hiểu rõ thấu
đáo về các nghiệp vụ này.
Quan điểm của khách hàng nhiều khi rất đa dạng, và dễ bị thay đổi. Nhiều khách
hàng cho rằng chưa cần mua bảo hiểm, chưa có điều kiện để mua hay không cần
thiết phải tiết kiệm. Người cán bộ khai thác phải hiểu rằng trong những trường
hợp như vậy, khi mình có những giải thích thoả đáng, đánh trúng vào tâm lý của
khách hàng sẽ làm họ thay đổi ý kiến.
Như vậy, biện pháp khai thác phải luôn luôn linh hoạt, thay đổi cho phù hợp với
từng đối tượng khách hàng, chứ không nên theo một qui trình, công thức cụ thể
nào cả.
Một điều hết sức quan trọng đối với người các bộ khai thác là tính kiên trì và sự
chịu đựng. Nhiều khi khách hàng khó tính hoặc vì không hiểu mà chê bai, phản
đối việc tham gia bảo hiểm, phải luôn ghi nhớ câu “ Khách hàng là thượng đế”.
Hơn nữa, không phải chỉ thuyết phục một lần mà khách hàng đã tham gia bảo
hiểm ngay. Có khi phải thuyết phục 2-3 lần, thậm chí 4-5 lần mới đạt kết quả.
Cán bộ khai thác cần có nhiều hình thức, biện pháp khai thác, bằng cách thăm dò
tiếp cận nhằm trực tiếp toạ đàm, giải thích với khách hàng một cách khoa học về
sản phẩm, đặc biệt là với sản phẩm “An sinh giáo dục”. Phải thấy rằng sản phẩm
“An sinh giáo dục” là sản phẩm đáp ứng được nhu cầu khá phổ biến của người
dân Việt Nam- đó là nhu cầu tiết kiệm, đôi khi nhu cầu này còn được quan tâm
hơn nhu cầu về bảo hiểm. Vì vậy, ngay cả khi thị trường hiện tại chưa có hợp
đồng, người cán bộ khai thác vẫn phải giữ mối quan hệ và duy trì thị trường này
vì chính nó là những tiềm năng lớn trong tương lai.
Bên cạnh đó, một biện pháp khai thác tương đối phổ biến đối với các loại sản
phẩm thông thường mà chưa được áp dụng trong quá trình triển khai các sản
phẩm bảo hiểm nhân thọ noí chung, cũng như nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói
riêng. Đó chính là các hình thức khuyến mãi, tặng quà cho khách hàng. Công ty
nên tổ chức các đợt khuyến mại vào các ngày lễ lớn trên qui mô rộng, không chỉ
làm tăng số lượng hợp đồng khai thác mà còn tăng hiểu biết của khách hàng về
các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Khuyến mại nên được tổ chức dưới các hình
thức như tặng quà cho người tham gia bảo hiểm, giảm phí cho người tham gia
hợp đồng với mức trách nhiệm cao, tặng quà cho khách hàng giới thiệu được
nhiều khách hàng mới tham gia bảo hiểm...Đây là những hoạt động rất cần thiết
và trong thực tế đã làm nên thành công cho nhiều doanh nghiệp. Cần lưu ý rằng
chi phí cho những hoạt động này là không lớn mà hiệu quả tác động rất cao, nó
mang ý nghĩa về mặt tinh thần đối với khách hàng nhiều hơn, đánh vào tâm lý
được quan tâm, đề cao của người mua.
Bên cạnh hoạt động đa dạng các biện pháp khai thác, doanh nghiệp cũng cần
ngày càng nâng cao chất lượng khai thác nhằm giảm đến mức tối đa tỷ lệ huỷ bỏ
hợp đồng. Tỷ lệ duy trì hợp đồng là một tiêu thức quan trọng để đánh giá chất
lượng khai thác. Năm1998, số hợp đồng huỷ bỏ là 2073 hợp đồng chiếm tỷ lệ
11,6% số hợp đồng phát hành, trong đó số lượng hợp đồng “An sinh giáo dục”
huỷ bỏ là 1532 hợp đồng, chiếm 73,9% tổng số hợp đồng huỷ bỏ.
Để nâng cao chất lượng khai thác, đặc biệt đối với sản phẩm “An sinh giáo dục”,
công ty Bảo Việt nhân thọ cần rút kinh nghiệm giữa các cán bộ khai thác, giữa
các phòng khai thác. Tại sao có những cán bộ khai thác, những phòng khai thác
hầu như khôngCó hoặc có rất ít hợp đồng bị huỷ bỏ.Phần lớn những cán bộ khai
thác có nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ là người ít kinh nghiệm, hơn nữa vì chạy theo
số lượng hợp đồng nên khi ký hợp đồng thường vội vàng, không tuân theo đúng
các quy trình cần thiết như: giải thích cụ thể cho khách hàng về điều khoản, biểu
phí của hợp đồng...
Do đó, những điều lưu ý đối với cán bộ khai thác là phải giới thiệu đầy đủ quyền
lợi bảo hiểm, nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm cho khách hàng trước khi ký
hợp đồng. Trong trường hợp đã ký hợp đồng rồi, khách hàng yêu cầu huỷ bỏ thì
cán bộ khai thác cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân và thuyết phục khách hàng
duy trì hợp đồng. Công ty chỉ huỷ bỏ sau khi có ý kiến xác nhận của cán bộ khai
thác.
3. Cần có phương pháp khai thác hợp với từng thị trường
Thời gian tới, công ty cần có kế hoạch tập trung vào phân loại, đánh giá từng khu
vực thị trường để có các phương pháp khai thác thích hợp . Việc phân loại đánh
giá này giúp nhận biết được đặc điểm, đặc trưng riêng của từng khu vực, về thu
nhập, về nhu cầu bảo hiểm, về nhận thức của người lao động, từ đó đưa ra các
phương pháp khai thác khác nhau.
Ví dụ, đối với thị trường các tổ chức tại cơ quan, công ty, trụ sở làm việc.. cán bộ
khai thác nên sử dụng phương pháp “vết dầu loang”. Phương pháp này thực hiện
bằng cách tiếp xúc và kích thích nhu cầu tham gia bảo hiểm của các lãnh đạo tổ
chức đó. Từ đó tiếp tục khai thác các cán bộ trong tổ chức bằng cách lấy các vị
lãnh đạo đó là những tấm gương để khuyến khích, giải thích với nhân viên của họ
về nghiệp vụ An sinh giáo dục này. Nghiệp vụ An sinh giáo dục là một nghiệp vụ
rất thích hợp với các cán bộ, nhân viên công tác trong các tổ chức, cơ quan Nhà
nước vì nó mang tính tiết kiệm, dành dụm, lo lắng cho tương lai. Một khi các vị
lãnh đạo tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này tức là họ thấy được lợi ích và ưu việt
của nó, điều này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai tiếp theo trong tổ chức này.
Nhiều khi, phương pháp này cũng cần áp dụng linh hoạt. Giả sử trước khi thực
hiện kế hoạch khai thác ở một tổ chức, cán bộ khai thác tìm hiểu về lãnh đạo ở tổ
chức này và biết được đó là một người rất bận rộn, hay phải đi công tác và rất
khó gặp được. Lúc này, người cán bộ khai thác lại phải tìm cách tiếp cận với thu
ký, trợ lý hay cán bộ cấp dưới của vị lãnh đạo đó, thuyết phục họ tham gia bảo
hiểm. Sau khi đã thuyết phục được họ tham gia bảo hiểm, cán bộ khai thác sẽ có
cơ hội để nắm rõ về vị lãnh đạo, về lịch công tác, có cơ hội để gặp gỡ và trò
chuyện, từ đó mời tham gia bảo hiểm.
Ngoài ra do tính chất của sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vô hình, vào thời điểm
bán sản phẩm mà nhà bảo hiểm cung cấp ra thị trường chỉ là lời hứa, lời cam kết,
người bán không chỉ ra được kích thước, màu sắc.. người mua không cảm nhận
được bằng các giác quan của mình. Điều này gây trở ngại cho hoạt động khai
thác sản phẩm. Để khắc phục, cán bộ khai thác cần có các biện pháp để củng cố
lòng tin với khách hàng, tăng tính hữu hình cuả sản phẩm. Nên mời những người
nổi tiếng có uy tín giới thiệu về sản phẩm hoặc những người này mới nhận được
tiền trả bảo hiểm để tuyên truyền về sản phẩm.
Từ đó để thấy phương pháp khai thác phù hợi với thị trường, công tác phân loại,
đánh giá từng khu vực thị trường cần chính xác, cụ thể, kịp thời để nâng cao hiệu
quả khai thác đối với nghiệp vụ “An sinh giáo dục “.
4. Công tác tuyển dụng, đào tạo và quản lý cán bộ khai thác
Điều quan trọng đầu tiên là công ty chỉ tập trung tuyển chọn cán bộ khai thác
chuyên nghiệp. Hiện nay trong công ty số lượng cán bộ khai thác bán chuyên
nghiệp cũng không nhiều nên việc tuyển chọn cán bộ khai thác chuyên nghiệp sẽ
tạo thuận lợi cho công tác quản lý cán bộ khai thác.
Công tác tuyển chọn cán bộ khai thác cần được tiến hành khoa học, nghiêm túc
và đảm bảo chất lượng cao ngay từ ban đầu. Chất lượng, nội dung đào tạo phải
được nâng cao, đồng thời công tác sát hạch kiểm tra cần được duy trì thường
xuyên.
Thực tế tồn tại nhiều cán bộ khai thác không thực hiện đúng các quy định khi
khai thác, ký hợp đồng bảo hiểm như kê khai hộ giấy yêu cầu cho khách hàng,
thu phí đầu tiên trước khi giấy yêu cầu bảo hiểm được chấp nhận, để nợ phí quá
nhiều, quá thời hạn ... cần có biện pháp cụ thể để khắc phục hoàn toàn các tình
trạng này. Đây là những quy định rất dễ thực hiện nhưng một số cán bộ khai thác
lại coi thường, xem nhẹ vì chưa có quy định cụ thể về xử lý vi phạm.
Công ty đã có những biện pháp như giảm lương hoặc sa thải những cán bộ khai
thác kém như: tỷ lệ khách hàng huỷ bỏ hợp đồng cao. Tuy nhiên, cũng cần quy
định cụ thể hơn, ví dụ như tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng ở mức 10 - 30 % số hợp đồng
khai thác mới thì phạt tiền ở mức 50.000 đồng/hợp đồng, tỷ lệ huỷ bỏ từ 30% trở
lên thì buộc thôi việc.
Một vấn đề nữa còn tồn tại giữa các cán bộ khai thác đó là việc các cán bộ khai
thác, tổ khai thác, phòng khai thác còn chồng chéo trong việc khai thác trong
cùng một khu vực thị trường, đòi hỏi các trưởng phòng và tổ trưởng nhắc nhở các
cán bộ khai thác thực hiện tốt, nhằm tránh hiện tượng tranh giành thị trường làm
mất uy tín của công ty. Xem qua vấn đề này là không lớn song xét trên thực tế
công ty của ta mới thành lập, giữ uy tín với khách hàng là yếu tố hết sức quan
trọng nên còn những tồn tại đó sẽ khó khăn cho bước đường tiến triển của công
ty trên thương trường.
Trong công tác đào tạo và quản lý cán bộ khai thác, công ty cần chú trọng việc
nghiên cứu xây dựng một qui trình tuyển dụng và đào tạo cán bộ khai thác chi
tiết, chính xác. Tăng cường các cuộc trao đổi, sinh hoạt nghiệp vụ giữa các
phòng, các tổ để không ngừng bồi dưỡng củng cố các kiến thức nghiệp vụ cho
cán bộ khai thác. Hiện nay, Tổng công ty đã có quyết định về mô hình tổ chức và
quản lý đại lý. Công ty cần thực hiện kịp thời các qui định này, tiến tới có một hệ
thống đại lý vững mạnh.
Công ty cũng cần tiến hành ký kết lại hợp đồng đại lý và giải quyết dứt điểm các
tồn đọng trong hoạt động cộng tác viên. Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động
của các phòng khai thác, đồng thời xây dựng qui chế hoạt động của các phòng để
các phụ trách phòng điều hành công việc.
Công ty cũng cần tiếp tục duy trì đánh giá phân loại cán bộ khai thác hàng tháng.
Hiện nay có câu lạc bộ 200 hợp đồng, nên thành lập câu lạc bộ 300 hợp đồng tạo
hướng phấn đấu cho các cán bộ khai thác. Đồng thời ban hành tiêu chuẩn đánh
giá, phân loại thống nhất ngay từ đầu năm nhằm tạo ra động lực thi đua giữa các
phòng, các tổ và cán bộ khai thác. Phát động các phong trào thi đua, tổ chức các
hoạt động tập thể... để động viên cán bộ khai thác hoàn thành nhiệm vụ.
Công ty nên áp dụng các chế độ đãi ngộ dải hạn cho cán bộ khai thác như chế độ
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để tạo sự gắn bó lâu dải với công ty
5. Công tác giám định và trả tiền bảo hiểm.
5.1. Công tác giám định:
- Tổ chức các khoá đào tạo giám định viên về các kiến thức y học, kiến
thức luật để các cán bộ giám định hiểu sâu rộng về các lĩnh vực này , tạo điều
kiện hoàn thành tốt công việc.
- Đề nghị Bộ Tài chính cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ, tạo
điều kiện cho cán bộ giám định được đi học hỏi kinh nghiệm ở các công ty bảo
hiểm nhân thọ nước ngoài, gặp gỡ các chuyên gia về giám định trong công ty bảo
hiểm nhân thọ.
5.2. Công tác trả tiền bảo hiểm:
Công ty cần duy trì những kết quả đã đạt được và phải luôn chú trọng công tác
này, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng cũng như tăng thêm uy tín của công ty.
Hiện nay chưa tới thời gian đáo hạn của các hợp đồng bảo hiểm nhưng công ty
cũng cần lập kế hoạch cụ thể để tới thời hạn trả tiền bảo hiểm cho hàng loạt
khách hàng, công ty sẽ không gặp khó khăn.
Công ty cần phân loại khách hàng được trả tiền bảo hiểm theo địa chỉ của khách
hàng, theo thời điểm lấy tiền để tiện cho việc trả tiền.
Ngoài ra, cũng cần qui định cụ thể về trách nhiệm của cán bộ khai thác trong việc
hướng dẫn khách hàng làm thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm. Nếu có bất cứ một
khiếu kiện nào của khách hàng về thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm, cán bộ khai
thác thu phí định kì của khách hàng đó sẽ phải chịu trách nhiệm. Tránh trường
hợp hiện nay có những cán bộ khai thác không hướng dẫn khách hàng về các thủ
tục này hoặc hướng dẫn không đầy đủ, làm cho khách hàng rất lúng túng và hiểu
sai lệch về các hoạt động của công ty,
6. Một số kiến nghị khác.
6.1.Về việc nâng tỉ lệ hoa hồng cho đại lý:
Do trách nhiệm của người đại lý (cán bộ khai thác) là rất nặng nề, thu nhập của
họ sẽ bị giảm sút bởi lẽ số lượng hợp đồng năm thứ nhất sẽ theo họ tới khi mãn
hạn, trong khi đó tỉ lệ hoa hồng của các hợp đồng thấp đi theo năm (năm thứ
nhất, thứ hai, thứ ba...) và giảm đi đáng kể. Vì trách nhiệm của người đại lý trong
các năm hợp đồng tiép theo không giảm đi là bao nhiêu (họ vẫn phải thu phí định
kì tại nhà, vẫn phải chăm sóc khách hàng thường xuyên) khi đó người đại lý có
trách nhiệm sẽ không có điều kiện để khai thác thêm những hợp đồng mới (khi
mà họ có thừa năng lực để làm việc này). Liệu có thể xảy ra khả năng đại lý sao
nhãng việc thu phí và chăm sóc khách hàng cũ, để đi tìm kiếm các khách hàng
mới hay không?...
Hơn nữa, khi có một công ty bảo hiểm nào đó (kể cả công ty bảo hiểm nước
ngoài) được cấp giấy phép kinh doanh bảo hiểm nhân thọ có thể sẽ trả hoa hồng
cao để kéo đại lý của Bảo Việt về phía họ.Đó là những nguyên nhân mà công ty
cần xem xét để có mức hoa hồng đại lý cho phù hợp giữa các năm hợp đồng mà
vẫn đảm bảo hiệu quả kinh doanh của công ty.
6.2.Về thuế thu nhập đối với số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ:
Nhà nước nên có chính sách ưu đãi không đánh thuế thu nhập với số tiền đóng
phí bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay ngoài các yếu tố mang ý nghĩa thu hút khách
hàng của công ty, có một yếu tố có tính quyết định trong việc lựa chọn hình thức
tiết kiệm và tham gia bảo hiểm nhân thọ của khách hàng đó là thuế thu nhập. Vì
thông thường mỗi người đều nhận thấy ý nghĩa của bảo hiểm nhân thọ, song họ
còn quan tâm nhiều về khía cạnh tiết kiệm, đó là điều bất lợi cho việc triển khai
nghiệp vụ của công ty.
Nếu như số tiền đóng phí bảo hiểm nhân thọ không bị đánh thuế thu nhập, thu
hút được rất nhiều khách hàng, đặc biệt khách hàng có thu nhập cao và chắc chắn
hợp đồng bảo hiểm tham gia cũng sẽ ở mức trách nhiệm cao, thu hút được vốn
đầu tư cho công ty.
6.3.Về công tác tuyên truyền quảng cáo:
- Chi kinh phí cho quảng cáo và tuyên truyền nhiều hơn, đặc biệt là quảng
cáo trên đài truyền hình, đài phát thanh.
- Các buổi phát thanh ở phường nên phát nhiều hơn, khoảng 2 - 3 lần/
tháng với chi phí mỗi lần là 15000, chú ý phát vào giờ mọi người ở nhà đầy đủ
buổi sáng trước khi đi làm, tránh phát vào giờ nghỉ trưa hay giờ tới công sở, sẽ
không thu được hiệu quả.
- In các tờ rơi quảng cáo dưới nhiều hình thức, mẫu mã khác nhau phù hợp
với từng đối tượng bảo hiểm.
- Tổ chức các buổi trả tiền bảo hiểm khi đến thời hạn trả tiền bảo hiểm cho
hợp đồng đáo hạn hàng loạt.
- Tổ chức chương trình khuyến mại, thông tin rộng rãi trên các báo hàng
ngày như báo Hà nội mới, Nhân dân, Lao động...
Trên đây là những kiến nghị, giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện hơn nữa sản
phẩm “An sinh giáo dục” của công ty Bảo Việt nhân thọ, góp phần vào sự phát
triển của công ty.
kết luận
Bảo hiểm nhân thọ nói chung và nghiệp vụ “An sinh giáo dục” nói riêng được
triển khai trên thị trường Việt Nam là lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ. Bởi thế bước
đầu hoạt động công ty không thể tránh khỏi những vướng mắc về nhiều mặt. Qua
gần ba năm hoạt động, khoảng thời gian chưa đủ dải cho cán bộ và nhân viên của
công ty có được bề dày kinh nghiệm cũng như những tinh tuý đúc rút được từ
lĩnh vực này. Song những thành quả mà công ty đã đạt được thể hiện sự cố gắng,
quyết tâm và đầy nhiệt huyết của toàn thể lãnh đạo và cán bộ trong công ty cũng
như sự chấp nhận của thị trường với nghiệp vụ này.
Cùng với sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước, Bộ Tài chính và Tổng công ty, hi
vọng công ty Bảo Việt nhân thọ sẽ không ngừng lớn mạnh và đứng vững trong thị
trường bảo hiểm Việt Nam, phát triển không thua kém gì các công ty bảo hiểm
nhân thọ trong khu vực và trên thế giới. Tôi hi vọng những ý kiến của mình sẽ
đóng góp một phần nhỏ bé trong quá trình phát triển và tăng trưởng của công ty.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo PTS Nguyễn Văn Định, các thầy
cô giáo trong tổ bộ môn Bảo hiểm cùng toàn thể các cán bộ trong công ty Bảo
Việt nhân thọ đ• tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này.
Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 1999
Sinh viên thực hiện
Đỗ tiến Dũng
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế bảo hiểm - Trường ĐH KTQD
2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm - Trường ĐH KTQD
3. Giáo trình thống kê bảo hiểm - Trường ĐH KTQD
4. Chương trình đào tạo đại lý Công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
5. Sổ tay người đại lý bảo hiểm nhân thọ- Tổng công ty BHVN.
6. Cơ sở kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ
7. Tạp chí Tài chính, Ngân hàng, Thông tin thị trường bảo hiểm 1998- 1999.
8. Và một số Tài liệu liên quan khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thay đổi trong nhu cầu khách hàng và khai thác loại hình hảo hiểm mới tại các Cty bảo hiểm.pdf