Luận văn Thế giới nghệ thuật tự truyện trước 1945 qua sống nhờ (mạnh phú tư), những ngày thơ ấu (nguyên hồng) và chân trời cũ (hồ dzếnh)

Ngôn ngữ gắn liền với thế giới nội tâm và giọng điệu kết hợp giữa giọng hoài niệm, giọng hồn nhiên trong sáng, giọng triết lý suy tư. Tác giả đã trở về sống với cảm xúc tuổi thơ để cảm nhận và đánh giá cuộc sống. Ở đó, mỗi nhân vật trẻ thơ là một nhân cách, chịu sự tác động của nhiều hướng, nhiều chiều từ môi trường gia đình, xã hội và thời đại. Cuộc sống tuổi thơ được cảm nhận qua lăng kính người lớn với sự giao hòa về điểm nhìn, giọng điệu trần thuật. Vì thế, truyện tuy viết về tuổi thơ nhưng không giới hạn phạm vi độc giả ở mỗi lứa tuổi cụ thể. Mỗi thế hệ khác nhau đều có thể tìm lại lần nữa tuổi thơ của mình ở những trang viết chân thành ấy

pdf26 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế giới nghệ thuật tự truyện trước 1945 qua sống nhờ (mạnh phú tư), những ngày thơ ấu (nguyên hồng) và chân trời cũ (hồ dzếnh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ------------------- PHẠM THỊ KIM TRỌNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TỰ TRUYỆN TRƯỚC 1945 QUA SỐNG NHỜ (MẠNH PHÚ TƯ), NHỮNG NGÀY THƠ ẤU (NGUYÊN HỒNG) VÀ CHÂN TRỜI CŨ (HỒ DZẾNH) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 60.22.34 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Đà Nẵng, Năm 2013 Công trình được hoàn thành tại ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI THANH TRUYỀN Phản biện 1: TS. Lê Thị Hường Phản biện 2: TS. Hà Ngọc Hòa Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại Đại học Đà Nẵng vào ngày 15 tháng 12 năm 2013. Có thể tìm hiểu luận văn tại: − Trung tâm Thông tin-Học liệu, Đại học Đà Nẵng − Thư viện trường Đại học sư phạm, Đại học Đà Nẵng. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tự truyện có một vị trí đặc biệt trong nền văn học hiện đại Việt Nam nói riêng và văn học thế giới nói chung. 1.2. Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh là những tác giả nổi bật của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Phần lớn sáng tác của các tác giả này được biết đến và in dấu trong tâm thức của nhiều thế hệ bạn đọc. Không chỉ lưu tâm đến đề tài người nông dân bị bần cùng hóa, bị tha hóa hay những kẻ lưu manh đô thị, họ còn tìm cho mình một dòng riêng, hướng mảng sáng tác về đề tài thiếu nhi - đối tượng đặc biệt cần được yêu thương, che chở. 1.3. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật của tự truyện viết về đề tài thiếu nhi trước 1945 qua Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Chân trời cũ (Hồ Dzếnh), Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), đề tài góp phần nhận diện những đặc điểm nổi bật về nội dung và hình thức nghệ thuật của ba tác phẩm, qua đó khẳng định những đóng góp của thể loại này cho văn học thiếu nhi nói riêng và văn học dân tộc nói chung. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng đã có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học nước nhà. Phần lớn tác phẩm của họ thu hút đông đảo bạn đọc nhiều thế hệ cũng như giới nghiên cứu, phê bình văn học. 2.1. Những nghiên cứu về sáng tác của Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh, Nguyên Hồng Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong tác phẩm Nhà văn hiện đại; Nguyễn Minh Châu trong Trang giấy trước đèn; Phan Cự Đệ trong lời giới thiệu Tuyển tập Nguyên Hồng; Trần Đăng Suyền trong 2 bài viết Cá tính và phong cách nghệ thuật Nguyên Hồng; Đào Thị Lý trong bài viết Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng trước Cách mạng tháng 8 - 1945. Cùng với Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư là một trong những đại biểu xuất sắc của nền văn học hiện đại. Xuất hiện muộn so với các nhà văn khác, tuy nhiên ông vẫn gây được chú ý, được các nhà nghiên cứu đánh giá cao những giá trị nội dung tư tưởng trong sáng tác của ông: Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại và Những năm tháng ấy; Nguyễn Đăng Mạnh - Bùi Duy Tân - Nguyễn Như Ý trong cuốn Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường. Khác với Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, cái tên Hồ Dzếnh lại được độc giả yêu mến với các thi phẩm nổi tiếng như Ngập ngừng, Chiều Lặng lẽ đến với làng văn vào những năm 40 của thế kỉ trước, khắc sâu trong lòng người đọc ấn tượng về một ngòi bút luôn dạt dào xúc cảm trước cuộc sống: Bùi Giáng nhận định bài thơ Rằm tháng Giêng; Trần Hữu Tá trong Từ điển văn học; Mai Hương trong Lặng lẽ một chân tài; Hoài Anh trong tập Chân dung văn học. Nhìn chung những đánh giá về sự nghiệp và tài năng của các nhà nghiên cứu về ba tác giả rất xác đáng. Cùng với những nhà văn đương thời, họ đã góp một phần công sức của mình vào sự phát triển của nền văn xuôi hiện đại. 2.2. Những nghiên cứu về tự truyện của ba tác giả Tự truyện của Nguyên Hồng không nhiều, nhưng nó là một mảng sáng tác quan trọng trong văn nghiệp của ông. Đánh giá về tự truyện của Nguyên Hồng có: Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại; Thạch Lam và Bùi Hiển trong hai Lời tựa cho Những ngày thơ ấu, 3 Nguyễn Đăng Mạnh trong cuốn Những bài giảng về tác gia Văn học Việt Nam hiện đại. Giống như Nguyên Hồng, trước Cách mạng tháng Tám Mạnh Phú Tư được biết đến với tiểu thuyết Làm lẽ, Nhạt tình nhưng có lẽ đến tiểu thuyết Sống nhờ ra đời mới thực sự gây tiếng vang và độ chín muồi trong sáng tác của ông, thu hút sự chú ý của giới độc giả, giới nghiên cứu: Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại; Bùi Huy Phồn với bài viết Sống nhờ của Mạnh Phú Tư; Vũ Tuấn Anh - Bích Thu trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến 1945; Nguyễn Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân, Nguyễn Như Ý trong cuốn Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng trong nhà trường; Nguyễn Duy Tờ trong Sự vận động trong dòng văn học hiện thực 1930 - 1945. Xuất hiện cùng thời với Thạch Lam, Thanh Tịnh, cái tên Hồ Dzếnh người ta biết đến nhiều về thơ hơn là văn xuôi. Nhưng điều đó không ảnh hưởng gì đến hành trình lặng lẽ đi tìm con chữ của ông: Lời tựa của nhà văn Thạch Lam trong tập truyện Chân trời cũ; Kiều Thanh Quế trong Phê bình Chân trời cũ - tập truyện ngắn của Hồ Dzếnh; Trần Hữu Tá trong Hồ Dzếnh - một hồn thơ đẹp; Phong Lê trong Hồ Dzếnh với những Chân trời cũ; Nguyễn Thị Thu Trang trong Âm vang hồn thơ Hồ Dzếnh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài hướng trọng tâm khám phá những đặc điểm chính trong thế giới nghệ thuật của tự truyện viết về đề tài thiếu nhi Việt Nam trước 1945 của ba tác giả Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh trên hai phương diện nội dung và hình thức thể hiện. 4 3.2 Phạm vi nghiên cứu - Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chúng tôi chỉ tập trung khai thác ba tiểu thuyết: 1) Sống nhờ (Mạnh Phú Tư) 2) Chân trời cũ (Hồ Dzếnh) 3) Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng) Để phù hợp với yêu cầu về dung lượng của luận văn, đề tài hướng trọng tâm khám phá những phương diện chính yếu về nội dung và hình thức của ba tiểu thuyết này để nhận diện và minh giải đặc điểm ưu trội của loại thể tự truyện viết về đề tài thiếu nhi trong văn học Việt Nam trước 1945 nói chung, văn xuôi hiện thực phê phán nói riêng. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, luận văn có vận dụng phối hợp một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp lịch sử Phương pháp tiếp cận hệ thống Phương pháp thống kê kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp Phương pháp so sánh (đồng đại và lịch đại) 5. Đóng góp của đề tài Cái mới của luận văn là tập trung chuyên sâu đi tìm hiểu về đặc điểm và vị thế của tự truyện viết về đề tài thiếu nhi trong văn học Việt Nam trước 1945, chỉ ra những nét đặc trưng về thế giới nghệ thuật tự truyện qua ba cuốn tiểu thuyết, đồng thời qua đó cũng khẳng định được những đóng góp cùng phong cách của Mạnh Phú Tư, Hồ 5 Dzếnh, Nguyên Hồng cho văn học thiếu nhi Việt Nam hiện đại qua mảng tự truyện. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung của đề tài gồm ba chương: Chương 1: Thể loại tự truyện trong văn học Việt Nam trước 1945. Chương 2: Các phương diện nội dung cơ bản của tự truyện trước 1945 qua Sống nhờ, Những ngày thơ ấu và Chân trời cũ. Chương 3: Những phương thức thể hiện chủ yếu của tự truyện trước 1945 qua Sống nhờ, Những ngày thơ ấu và Chân trời cũ. 6 CHƯƠNG 1 THỂ LOẠI TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỚC 1945 1.1. KHÁI LƯỢC VỀ TỰ TRUYỆN 1.1.1. Khái niệm tự truyện Tự truyện là một thể loại đặc biệt, đặc trưng của thể loại này là tác giả ngược dòng thời gian kể lại câu chuyện của bản thân khi đã trưởng thành, hiện thực của thời quá khứ được phục dựng nhờ ký ức. Theo các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi đồng chủ biên nhận định tự truyện là: “Tác phẩm văn học thuộc loại tự sự, tác giả tự viết về cuộc đời mình”. Trong cuốn 150 thuật ngữ văn học Lại Nguyên Ân cũng có cùng quan điểm với các tác giả trên và nhấn mạnh thêm: “Tác phẩm tự truyện có thiên hướng lý giải cuộc sống đã qua của tác giả Do vậy tự truyện thường viết khi tác giả đã trưởng thành, đã trải qua phần lớn các đoạn đời mình”. Từ điển văn học (bộ mới) do Đỗ Đức Hiểu chủ biên, hệ thống: “Tự truyện thường là những câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của chính tác giả”. Có thể nói tự truyện là tác phẩm văn học tự sự do tác giả viết về cuộc đời mình, tâm điểm của tự truyện là “cái tôi” người kể chuyện. Trong quá trình sáng tác người viết tự truyện nhiều khi cũng vận dụng hư cấu “thêm thắt” “sắp xếp lại”, các chi tiết của cuộc đời mình, nhằm làm cho sự trình bày về cuộc đời ấy trở nên hợp lý, nhất quán. 1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tự truyện Là một thể loại mang tính giáp ranh, đường biên động giữa tự truyện và hồi ký dường như rất mỏng. Vì thế để nhận diện các đặc trưng cơ bản của tự truyện nên chăng chúng ta cần có cái nhìn đối sánh với người anh em của nó - hồi kí. 7 Tự truyện cho chúng ta “bức chân dung về sự hình thành cuộc đời quá khứ của một cá nhân nào đó từ điểm nhìn của thời hiện tại, được hoàn thành thông qua nội quan và hồi ức, trong đó cái tôi hiện ra như một thực thể đang phát triển” (Bruce Mazlish). Tự truyện thường tập trung vào quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội tâm của chính mình trong sự tương tác của nó với thế giới bên ngoài đến những người mình đã gặp, những việc mình đã thấy hoặc tham dự. Tư duy trong tự truyện là tư duy “hướng nội”, còn tư duy hồi kí thiên về “hướng ngoại”. Cảm xúc, tình cảm cá nhân của tác giả trong tự truyện thường đậm nét hơn so với hồi kí. Xu hướng chung của tự truyện là lý giải cuộc sống đã trải qua như một chỉnh thể, tạo ra những nét mạch lạc. Có thể nói tự truyện là một bản tường trình về cuộc đời tác giả dựa trên hai đặc điểm cơ bản: sự hiện diện của nhà văn trên văn bản và tự truyện không mang tính hư cấu. Tuy nhiên vì nhu cầu sáng tạo mang đậm cá tính của nhà văn nên một tự truyện phải là một sắp xếp đầy tính thẩm mĩ những sự thật, một sự bố trí đầy thuyết phục những kinh nghiệm với mục đích thẩm mỹ, trí tuệ và đạo đức. Có bốn tiêu chí cơ bản để nhận diện thể loại tự truyện: Các sự kiện được xâu chuỗi, kết nối, liên hệ tạo thành cốt truyện, tái hiện lại số phận, cuộc đời của mỗi con người; một tác phẩm tự truyện không chỉ là một câu chuyện riêng tư, tách rời những vấn đề xã hội, thời đại mà tác giả đang sống; người viết phải đảm bảo tính trung thực và những tư liệu xác đáng, và phải thể hiện chúng trong tinh thần nhân bản; phải đảm bảo yếu tố kết cấu và ngôn từ có tính nghệ thuật. Những tự truyện hay nhất là những tác phẩm quyết liệt nhất trong cuộc đi tìm “chân lý” cá nhân. 1.1.3. Các dạng tự truyện Sự phát triển rầm rộ của thể loại tự truyện ở phương Tây như một “hội chứng văn chương” có ảnh hưởng đến nền văn học Việt Nam. 8 Văn học hiện đại Việt Nam có hai dạng tự truyện chính: Tự truyện viết về đề tài tuổi thơ và tự truyện viết về cuộc đời, sự nghiệp. Tự truyện viết về tuổi thơ ghi lại “những rung động cực điểm” cùng quãng thời gian gắn với những ký ức không thể phai nhòa, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Những tác phẩm tiêu biểu: Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Cỏ dại (Tô Hoài), Chân trời cũ (Hồ Dzếnh), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Tuổi thơ im lặng (Duy Khán), Tự truyện viết về cuộc đời, sự nghiệp ở nước ta rất ít. Ở Phương Tây, đội ngũ nhà văn cũng viết về cuộc đời mình như M.Gorki với bộ ba tác phẩm: Thời thơ ấu (1912), Kiếm Sống (1914) và Những trường đại học của tôi (1922); Sourcener với Mê lộ cuộc đời (1974); Claude Simon với Điền viên (1981), Ở Việt Nam tuy, ra đời muộn hơn nhưng cũng có thể kể đến một vài tự truyện như Ngục trung thư (1914) và Phan Bội Châu niên biểu (1928) của Phan Bội Châu, Giấc mộng lớn (Tản Đà - 1932), Mực mài nước mắt (Lan Khai - 1941), Nhà văn viết về cuộc đời mình, bên cạnh đó cũng phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện tư tưởng của mình trước thời cuộc. Tự truyện chủ yếu được viết theo lối tư duy truyền thống, chú ý khắc họa hơn là miêu tả tâm lý nên thành tựu nghệ thuật chưa cao. 1.2. DIỆN MẠO TỰ TRUYỆN TRONG VĂN HỌC TRƯỚC 1945 1.2.1. Cơ sở hình thành thể loại tự truyện trước 1945 Văn học là một loại hình nghệ thuật, một hình thái ý thức xã hội đặc thù luôn vận động, biến chuyển. Tiến trình của văn học như một hệ thống chỉnh thể với sự hình thành, tồn tại, phát triển qua các thời kì lịch sử. Văn học là con đẻ của thời đại, mang nhịp đập, dáng dấp, hơi thở của thời đại. Nó là một phần da thịt của lịch sử. Ở Việt Nam, thể loại tự truyện ra đời giai đoạn 1930 - 1945 của lịch sử. Trong giai đoạn này là thời kỳ khủng hoảng, thời kỳ của 9 những cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra rất gay gắt. Những thành công của tự truyện trong văn học phương Tây thế kỷ XX cũng có thể là một động lực thúc đẩy tìm kiếm cho con đường sáng tạo mới cho văn học Việt Nam. Hiện thực xã hội đang diễn đã tác động mạnh mẽ đến tâm thức trí thức giai đoạn này. Hơn ai hết, họ ý thức rất rõ về cá nhân và họ cần có nhu cầu tái hiện, phơi bày những điều tai nghe, mắt thấy. Cùng với công cuộc hiện đại hóa văn học, bên cạnh sự phát triển không ngừng của các thể loại, sự xuất hiện của tự truyện lúc này là hợp với quy luật vận động, phát triển của văn học dân tộc. 1.2.2. Phác họa diện mạo tự truyện trước 1945 Tái hiện diện mạo tự truyện trước 1945 là một việc hết sức khó khăn, bởi cho đến nay có nhiều tác phẩm chưa được khảo sát, chỉ nghe tên mà chưa có cơ hội được chiếm lĩnh ngay cả đối với giới nghiên cứu lão làng. Ở Việt Nam, tác phẩm có ít nhiều tính chất tự truyện là Sơ kính tân trang của Phạm Thái, tiếp đến là Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Nhưng người sớm có ý thức viết tự truyện đầu tiên lại là Phan Bội Châu với Ngục trung thư (1914) Đến Phan Bội Châu Niên biểu (1928) thì tính chất tự truyện mới dần rõ nét. Ông là người có công mở đường cho sự hình thành của thể loại tự truyện trong văn học Việt Nam. Vào năm 1932, Tản Đà viết Giấc mộng lớn tự thuật về thân thế của mình từ lúc bé cho đến những năm phiêu bạt, trong đó cốt cách, con người thi nhân được khắc họa rõ nét. Mạch chính của tự truyện trước 1945 là những hồi ức tuổi thơ. Đánh dấu cho sự định hình thể loại này có thể kể đến Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, tiếp đến là Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Chân trời cũ (Hồ Dzếnh), Cỏ dại (Tô Hoài), Quê mẹ (Thanh Tịnh) Với mảng tự truyện hiện đại, người đọc thấy tác giả không chỉ tái hiện lại cuộc đời của chính mình mà còn tái hiện cả bức tranh sinh 10 hoạt của cá nhân giữa thời buổi cả nước đang nằm trong cảnh ngộ tối tăm, bi đát nhất. Thông qua hồi tưởng, các nhà văn đã tái hiện thế giới tuổi thơ của mình trong quá khứ. Thời gian tuyến tính, không gian một chiều và những sự kiện có thật đôi lúc cũng làm hạn chế tính sáng tạo của tự truyện. 1.2.3. Truyện viết về đề tài tuổi thơ - một mảng sáng tác đặc biệt của tự truyện trước 1945 Ngoài những đề tài ưu trội như nông dân, trí thức nghèo, nông thôn, văn học Việt Nam thời kỳ đầu thế kỷ XX đến 1945 cũng hướng sự quan tâm đến số phận của trẻ em trong xã hội thực dân phong kiến như: Những ngày thơ ấu (Nguyên Hồng), Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Sống nhờ (Mạnh Phú Tư), Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Trẻ con không được ăn thịt chó (Nam Cao) v.v... Những tác phẩm này đều thể hiện thái độ phê phán quyết liệt đối với xã hội đương thời và thể hiện tấm lòng tha thiết đến trẻ thơ - đối tượng cần được yêu thương, che chở và bảo vệ. Trong mảng sáng tác này, tự truyện chiếm vị trí quan trọng. Những sáng tác về quãng đời ấu thơ quăng quật của nhà văn đến nay vẫn còn sức ám gợi lớn với người đọc. Các hồi ức về tuổi thơ trở thành ngọn nguồn vô cùng quý giá của cảm hứng vì chúng rất trong sáng và tinh khiết, rất sâu sắc và gắn với những hy vọng trẻ trung và những giấc mơ vàng ngọc thường hiện lên một cách kỳ diệu trên cái nền cực nhọc và đủ thứ tan vỡ, chán chường sau đó. Tự truyện viết về đề tài tuổi thơ dường như là mảnh đất màu mỡ, níu giữ phần lớn và lôi kéo nhà văn và nhiều thế hệ bạn đọc tìm đến. 11 CHƯƠNG 2 CÁC PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TỰ TRUYỆN TRƯỚC 1945 QUA SỐNG NHỜ, NHỮNG NGÀY THƠ ẤU VÀ CHÂN TRỜI CŨ 2.1. NHỮNG PHÁC HỌA SỐNG ĐỘNG VỀ TUỔI THƠ 2.1.1. Tuổi thơ nghèo khó, bất hạnh Quãng ấu thơ là những năm tháng có sự tác động mạnh mẽ nhất đến thế giới tâm hồn vốn ngây thơ, trong sáng và cũng dễ tổn thương nhất để lại những kỉ niệm in sâu trong tiềm thức của con người. Viết Sống nhờ, Mạnh Phú Tư trở về miền ký ức với bao đau đớn và tủi hờn, cay đắng và đau khổ, những vất vả của thuở thiếu thời. Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng là những “rung động cực điểm của một linh hồn trẻ dại”. Mỗi chương là một trang hồi ức kém phần tươi sáng in hằn dấu vết những tháng ngày đói khổ. Trọn vẹn trong Chân trời cũ của Hồ Dzếnh là một dòng hoài niệm về một chân trời riêng, với những gì gắn bó, tạo nên những buồn vui thấm thía của cuộc đời ông. Ba tuổi thơ - ba mảnh đời riêng trong ba tác phẩm - là những ký ức buồn nhiều hơn vui. Dù không muốn, các em cũng phải phó thác cuộc sống của mình mặc cho sự đời xô đẩy. 2.1.2. Tuổi thơ với mái trường Hoàn cảnh khác nhau, hình thành những số phận khác nhau cho nên đoạn đường đến trường của những đứa trẻ vốn thiếu thốn tình thương trong ba tự truyện này là những khúc ca buồn. Thuật lại tuổi thơ của chính mình, các tác giả không hề cường điệu hòng phủ một ký ức buồn về tuổi cắp sách đến trường mà chỉ 12 muốn phản ánh những gì trung thực nhất. Qua hồi ức tuổi thơ, các nhà văn mong muốn cắt nghĩa, lý giải quá trình trưởng thành của bản thân để hiểu hơn chính mình trong hiện tại và con đường mà mình đã lựa chọn. 2.1.3. Tuổi thơ với những rung động vi tế trước thiên nhiên, con người Trong tự truyện, bức tranh thiên nhiên được người viết tái hiện có độ lùi thời gian chứ không phải được miêu tả trực tiếp. Cảnh vật được hồi tưởng phản chiếu qua tâm hồn nhà văn. Qua những tác phẩm của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh, người ta dễ ấn tượng với những bức tranh cuộc sống đặc sắc về phong cảnh, phong tục ở những vùng miền khác nhau được trình hiện trong dòng nhớ, trong sóng lòng của tác giả. Với năng lực quan sát tinh tế, cảnh vật được Hồ Dzếnh phục dựng ở những cung bậc rung cảm thật sự, chất chứa hồn, chất chứa tình. Hướng nhãn quan của mình vào các tập tục làng quê, chất phong tục dày đặc trong tác phẩm góp phần làm nên “tính chất Việt Nam” cho văn Mạnh Phú Tư. Nguyên Hồng - nhà văn của những người cùng khổ - cũng có một tuổi thơ bất hạnh hơn người. Sự lạc lõng chính trong thế giới của người thân và càng lạc lõng hơn giữa không gian của phố xá, giữa những con người xa lạ làm cho một đứa trẻ vốn cô đơn càng trở nên bơ vơ hơn. Đọc tự truyện của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh, ta thấy thật xúc động với những cảnh đời tư hiện lên thật thiêng liêng tha thiết vừa buồn, vừa vui đan xen thể hiện rất thực cuộc sống đời thường. 13 2.2. TỪ CÁI TÔI BỘC LỘ CỦA TÁC GIẢ ĐẾN HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT TRUNG TÂM TRONG TÁC PHẨM 2.2.1. Từ cái tôi tự bộc lộ của tác giả Tác phẩm tự truyện đã phản ánh rất thực cuộc đời đã qua của nhà văn - nhân vật tôi đồng thời tái hiện cuộc sống hiện thực dưới sự quan sát, miêu tả của nhà văn ấy. Các đặc điểm của tự truyện phần lớn bị quy định bởi các đặc điểm của trần thuật. Nhất quán với nguyên tắc ấy, trong Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu, ba tác giả đã khắc chạm cái tôi một thời quá vãng của mình trên những phương diện chủ yếu sau đây: a. Cái tôi ngây thơ, hài hước, hóm hỉnh Mặc dù sống trong sự thiếu thốn tình thương của cha mẹ, lại chịu sự cái đói, cái rét buốt tận da xương nhưng không vì vậy mà tâm hồn trẻ thơ bị “chết yểu’. Trong Chân trời cũ, những lời nói ngây thơ, trong sáng của người cháu khi động viên bà mình trong cảnh nhà sa sút, đã làm giảm bớt không khí u ám trong gia đình. Trong Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, những ý nghĩ non nớt và ngây thơ làm cho cái nhìn trẻ thơ càng trở nên thi vị hơn. Với Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, cậu bé Hồng lúc nào cũng tràn ngập hình ảnh yêu thương đối với mẹ. “Những ước mơ mong manh của những đêm kì thú” đưa cậu đến một thế giới của những giấc mơ đẹp. Viết về tuổi thơ, tác giả vừa có sự nhập thân vào quá khứ để thể hiện sự vật trong cái nhìn trong trẻo, hồn nhiên nhất vừa có sự đánh giá, suy nghiệm lại về số phận mình. b. Cái tôi sâu sắc, nhạy cảm Tuổi thơ là quãng đời quan trọng, có ý nghĩa trong quá trình hình thành nhân cách của con người. Tuổi thơ luôn để lại những ấn 14 tượng nguyên thủy, sâu sắc, có sức ám ảnh dai dẳng trong suốt cuộc đời nhà văn. Điều đó lí giải vì sao tự truyện thường hay viết về tuổi ấu thơ - quãng đời đẹp nhất, có sức ám ảnh lâu nhất của con người. Trong Chân trời cũ cuộc sống quá ư nghèo khó, tù túng của làng quê với những số phận hẩm hiu đã tạo “đất” và cảm hứng cho Hồ Dzếnh. Cậu bé Dần trong Sống nhờ cũng rất tinh ý khi lắng nghe tiếng mẹ thở dài trong đêm. Trong Những ngày thơ ấu, tuy còn thơ dại nhưng Hồng đã biết dành rất nhiều tình cảm, sự cảm thông cho những người phụ nữ cơ cực, sống lầm lũi trong một xã hội còn nhiều định kiến. c. Cái tôi nhiều mơ ước, nhiệt tình, giàu trải nghiệm Nhân vật trẻ em trong sáng tác của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh trước Cách mạng tháng Tám hầu hết là những em bé nghèo khổ, có tuổi thơ bất hạnh. Dù bị đày đọa, vùi dập đến đâu thì chúng vẫn là những đứa trẻ nhân hậu, giàu lòng tương thân tương ái, đầy khao khát về tương lai, lẽ sống công bằng. Uớc mơ của các em không bao giờ tắt, cứ âm ỉ, giữ nuôi để chỉ cần có dịp là bùng phát. Đó có thể là mơ ước được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ, ước mơ có một chiếc áo ấm áp để chống chọi với mùa đông rét mướt, cũng có thể là khát vọng thoát khỏi cảnh sống nhờ hay đi đến những nơi thật xa,... Điểm gần gũi, tương đồng giữa Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu là đã phản ánh chân thực cuộc sống nhọc nhằn đau khổ của trẻ em khi bị gạt ra khỏi đời sống gia đình, bị xã hội đối xử một cách bất công, tàn bạo. Dù tận cùng của khổ đau, bất hạnh, các em vẫn rất nhiệt tình với người thân, cộng đồng. Chúng biết đùm bọc và 15 chia sẻ đau buồn với những người cùng cảnh ngộ, biết xót xa, thông cảm với nỗi đau khổ của đồng loại... 2.2.2. Đến hình tượng nhân vật trung tâm trong tác phẩm Không hề né tránh những tiêu cực, mất mát của xã hội, các nhà văn đã để tự các em tiếp xúc với mọi phương diện đời sống, những cảnh ngộ, những nỗi niềm. Có thể trẻ không nhận thức được điều đó ở hiện tại, nhưng với thời gian không lâu sau này, các em sẽ có hành trang cuộc sống để đủ tự tin bước vào đời. Những thay đổi trong quan niệm về trẻ em có tác động trực tiếp đến cách xây dựng hình tượng nhân vật trẻ em trong tác phẩm. Hồi tưởng về quá khứ, viết về những biến cố trong tuổi thơ của mình, Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Mạnh Phú Tư đã đặt nhân vật trong mối quan hệ đa chiều với thế giới xung quanh, để nhân vật bật lên được những tính cách, những nếm trải và trưởng thành. 2.3. HIỆN THỰC CUỘC SỐNG QUA CÁI NHÌN TRẺ THƠ 2.3.1. Chân dung người lớn Hoài niệm về một thời đã qua, những ký ức hiện về còn nguyên vẹn, tươi mới. Thế giới tuổi thơ được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình. Nhà văn khi nhớ về những người thân yêu đã dàn trải lòng mình ở cảm xúc bồi hồi, xúc động. Trong miền hoài niệm, hồi ức về mẹ luôn gây cho nhà văn nhiều xúc động nhất. Viết về người cha, tự truyện của Nguyên Hồng không có những ký ức ngọt ngào như mẹ, nhưng cũng không đến nỗi đặt đau khổ và uất hận lên người. Sống nhờ của Mạnh Phú Tư đã ghi lại khoảnh khắc thân thương nhất về người bà, nơi nương tựa duy nhất khi xa 16 mẹ. Kí ức vọng về trong Chân trời cũ của Hồ Dzếnh là hình ảnh những người phụ nữ với nếp đời tẻ nhạt. Nhân vật hiện ra sắc nét, sinh động. Mỗi con người, mỗi gương mặt, mỗi hình bóng được miêu tả lại có những cảnh ngộ riêng, những cảnh đời và thận phận khác nhau tạo nên bức tranh cuộc đời chung mà trông vào đó người đọc thấy thấm thía một nỗi buồn cho cuộc sống tù túng, quanh quẩn. 2.3.2 Bức tranh xã hội Hiện thực xã hội là mảnh đất đầy tiềm năng để nhà văn đi sâu vào số phận con người trong quan hệ gia đình bị chi phối bởi những phong tục, những thành kiến hủ bại. Nguyên Hồng đã đề cập đến một thực trạng chua xót về số phận người phụ nữ bị bó buộc, chà đạp dưới âm hưởng nặng nề của lễ giáo phong kiến. Trong Sống nhờ, vấn đề Mạnh Phú Tư đặt ra xung quanh cái đói, cái nghèo bao trùm lên cuộc sống của những người dân là mối quan hệ giữa con người và con người. Không cay đắng, xót xa, không đưa ra bất kỳ giáo thuyết nào để cổ vũ hiện thực xã hội, giọng văn của Hồ Dzếnh nhẹ nhàng và thiết tha như một lời tâm sự. Chân trời cũ chủ yếu viết về nỗi buồn thế sự của con người. Từ không gian hiện thực những năm đầu thế kỷ, tự truyện của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh đã mở ra một thế giới về cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn khắc nghiệt, trong bầu không khí ngột ngạt của nạn đói 1945. 17 CHƯƠNG 3 NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CHỦ YẾU CỦA TỰ TRUYỆN TRƯỚC 1945 QUA SỐNG NHỜ, NHỮNG NGÀY THƠ ẤU VÀ CHÂN TRỜI CŨ 3.1. PHƯƠNG THỨC TỰ TRUYỆN 3.1.1. Theo lối phi hư cấu Tự truyện trước 1945 gặp gỡ nhau ở một điểm cơ bản là cách thuật lại, kể lại theo dòng cảm xúc những gì trải qua trong quá khứ. Quãng đời thơ ấu hiện lên một cách nguyên vẹn, liên tục. Trong Sống nhờ, tuổi thơ của Mạnh Phú Tư bắt đầu những chuỗi ngày sống bên nội cùng mẹ, đến khi mẹ đi lấy chồng phải sống người bà, luân phiên nhau nương nhờ các chú. Với Hồ Dzếnh, cũng là kết cấu theo mạch cảm xúc nhưng hồi tưởng về tuổi thơ là những câu chuyện rời rạc. Mạch cảm xúc trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng khi được khai triển, ông - nhân vật chính trong truyện đã kinh qua những ngày tháng lam lũ, khốn khổ. Các tác phẩm nhờ đó đã phần nào thuật lại một cách chân thực và xúc động những cảm xúc và suy nghĩ. Không có cốt truyện truyền thống, các tự truyện này chỉ là những ký ức trôi chảy trong trí nhớ và kết thúc ở điểm nhìn tuổi thơ. Bằng cách này, các nhà văn đã đạt được đến sự thật về chính mình và đồng thời cũng đưa người đọc đến thế giới tuổi thơ với cảm xúc ban sơ nhất. 3.1.2. Theo lối hư cấu Cốt lõi làm nên tác phẩm là sự thật nhưng việc mở rộng sự thật bằng yếu tố hư cấu là một phương thức được lựa chọn. Nếu như ở phương thức phi hư cấu nhân vật tôi được tự do đi lại, liên tưởng, đánh giá, nhận xét, tự do quyết định kết thúc tác phẩm thì ở phương 18 thức kết cấu này, nhân vật được đặt trong toàn bộ hệ thống những biến cố, sự kiện, tình huống với tư cách là người chứng kiến. Theo lối hư cấu, tự truyện của ba nhà văn đã tạo nên cách tiếp cận số phận trẻ em trong sự tương giao với bức tranh muôn mặt của cuộc sống. Qua truyện, người đọc dễ dàng nhận ra tuổi thơ và tâm hồn tác giả, vừa thấy được bức tranh xã hội lịch sử và con người. Vì vậy, viết tự truyện theo lối phi hư cấu hay hư cấu, các tác giả cũng đã trở về sống lại cảm xúc tuổi thơ của chính mình để nhìn nhận và đánh giá cuộc sống. Là người chủ động nắm quyền kể chuyện, nhà văn có thể lựa chọn những cách thức khác nhau, phù hợp với những tâm tình và gửi gắm trong tác phẩm. 3.2. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU 3.2.1. Ngôn ngữ a. Ngôn ngữ trần thuật Khai thác những vấn đề bức thiết, sâu rộng của đời sống, có ý nghĩa nhân văn sâu rộng, cả ba tác giả đều có sự gặp gỡ trong cách thức triển khai ngôn ngữ trần thuật. Việc sử dụng thường xuyên, linh hoạt hai dạng thức ngôn ngữ đối thoại và độc thoại cũng là một biểu hiện sinh động cho điều đó. Những lời đối thoại, tranh biện được thể hiện qua lời của nhân vật trong tác phẩm, suy cho cùng đó là lời đối thoại của nhà văn với bạn đọc về cuộc đời. Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh là những cây bút sắc sảo, tinh tế. Người viết còn khám phá thế giới nội tâm nhân vật bằng ngôn ngữ độc thoại. Trong thế giới tự truyện của Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Mạnh Phú Tư, nhờ ngôn ngữ này mà người đọc chạm đến những suy tư, trăn trở về cuộc đời, phận người của những mảnh đời bất hạnh. 19 b. Ngôn ngữ miêu tả Bên cạnh ngôn ngữ trần thuật, ngôn ngữ miêu tả cũng được ba tác giả vận dụng tối đa như một phương diện quan trọng để khắc họa tính cách nhân vật. Qua đó, người viết dễ dàng bày những suy tư, trăn trở của một tuổi thơ cay đắng, phơi trải cảm xúc của những tâm hồn trẻ thơ nhẹ nhàng và sâu lắng nhất. 3.2.2. Giọng điệu Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu (voice) cũng là yếu tố căn bản, đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính nhà văn thông qua hình tượng người kể chuyện. Hướng về một thời thơ ấu buồn khổ bằng cái nhìn và tâm cảm của người trong cuộc, giọng điệu tự truyện nói chung, trong Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu nói riêng, có những đặc trưng nhất định. Đó là sự pha trộn của nhiều sắc thái: khi hoài niệm xót xa, lúc hồn nhiên trong sáng, cũng có khi có sự trăn trở, triết lí của những đứa trẻ sớm già. a. Giọng hoài niệm xót xa Ba tác phẩm đều thể hiện giọng hoài niệm xót xa về một tuổi thơ bất hạnh, ở đó những ký ức được ghi lại một cách chân thực những gì đã trải qua. Cả ba nhân vật trung tâm đều bị những vết xước về tinh thần mà đi qua năm tháng vẫn in hằn rõ nét không thể nào xóa mờ. Bằng chất giọng đặc biệt này, tác giả và nhân vật đã nhận được sự đồng cảm từ độc giả. b. Giọng hồn nhiên trong sáng Với chất giọng hồn nhiên, trong sáng, ba tác giả đã chạm khắc vào lòng người những ký ức rất đẹp của một thời thơ ấu đã đi không 20 trở lại. Giọng kể hài hước qua lăng kính của trẻ thơ đã biến những cái bình thường trở thành cái vĩnh hằng mà người lớn không thể chạm đến được. c. Giọng triết lý suy tư Trong các tự truyện Nguyên Hồng, Hồ Dzếnh, Mạnh Phú Tư, không khó để chúng ta nhận ra chất triết lí của các nhân vật là sự chiêm nghiệm khi trải qua va vấp cuộc sống khi tuổi đời còn quá nhỏ. Giọng kể thâm trầm, sâu lắng mà đậm chất triết lí, suy tư trong cả ba tác phẩm đã thể hiện được những cung bậc tâm trạng phức tạp của nhân vật tôi về cuộc đời, về những kỉ niệm ngày thơ ấu. Giọng triết lý, suy tư làm cho các sáng tác viết về tuổi thơ dường như sâu hơn, lắng đọng hơn trong cảm nhận. 3.3. KẾT CẤU 3.3.1. Kết cấu theo chuỗi hành động - tuyến tính Thông thường, trong tự truyện, người kể chuyện là tác giả. Nhân vật đến với độc giả phải thông qua tư tưởng, tình cảm nhà văn. Quãng đời thơ ấu hiện lên nguyên vẹn, liên tục. Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng được xây dựng theo mạch vận động tâm lý của cậu bé Hồng, kể về một tuổi thơ bất hạnh trong cảnh nhà ngày một sa sút. Cùng một kết cấu theo chuỗi hành động - tuyến tính thời gian, trong Sống nhờ, những chi tiết, sự kiện không có gì gay cấn hay kịch tính, mà cứ xuôi chảy một chiều, hướng về những câu chuyện vặt vãnh hằng ngày khi cậu bé chuyển từ nhà chú lớn sang nhà chú bé, gia đình cậu mợ, bà ngoại. Ở Chân trời cũ, Hồ Dzếnh không chú ý nhiều đến cốt truyện nhưng điều thu hút ở đây là sự tự thể hiện cái tôi đầy nội cảm của ông. 21 3.3.2. Kết cấu theo dòng tâm trạng - đảo tuyến Với lối tổ chức này, kí ức được sắp xếp không theo trật tự biên niên mà lan man, rối rắm, nhớ đến đâu, kể đến đó. Thế giới trong hồi ức, hồi tưởng được lọc qua trí nhớ, cuộc đời khúc xạ qua tâm hồn và suy nghĩ của tác giả nên thấm đẫm cảm xúc trữ tình, suy tư trải nghiệm có thể là sự ý thức, sự suy ngẫm rất thực về cuộc sống hay về chính mình. Với lối kết cấu đảo tuyến, sự kiện, hành động không theo tuần tự trước sau mà đan cài, xóa bỏ ranh giới bởi nó nương vào, phụ thuộc vào sự chuyển biến phức tạp, vi tế của tâm trạng người kể chuyện. Qua Sống nhờ, Chân trời cũ và Những ngày thơ ấu, ta thấy kết cấu kết vận động theo mạch tâm lý là phù hợp nhất với đặc trưng của thể loại tự truyện. Nhờ đó, người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc sống của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của họ. 22 KẾT LUẬN 1. Công cuộc hiện đại hóa văn học những năm đầu thế kỷ XX đã góp phần làm nên diện mạo mới của giai đoạn văn học này. Phương thức khám phá con người với tư cách là một cá nhân trong những nhu cầu, khát vọng riêng được thể hiện đủ đầy, vừa là yêu cầu cấp thiết của đổi mới văn học. Tự truyện nói chung, tự truyện viết về tuổi thơ nói riêng đã đi trên con đường ấy và Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh đã tạo ra một dòng riêng trong cuộc canh tân văn học nước nhà. Thông qua từng tác phẩm, những vấn đề cấp thiết được nhà văn đặt ra qua số phận các nhân vật trẻ em. Đây cũng là một đóng góp đáng quý của các cây bút hiện thực sớm tìm đến với cách mạng. Tái hiện về thời thơ ấu đã qua, bộc lộ một thế giới riêng, gương mặt riêng của từng nhà văn, Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu là tiếng nói thành thật của những cái tôi đầy cảm xúc. Chính tiếng nói của cái tôi đắn đót phận mình và trở trăn với bao phận người bất hạnh làm nên đặt trưng và tạo sự thu hút riêng đối với những sáng tác này. 2. Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu đã “đánh dấu sự mở rộng ý niệm về quá khứ” của văn học. Lấy ký ức làm chất liệu chính để tạo nên phần hồn của tác phẩm và cái tôi tác giả được tự do phô bày hết tất cả các trạng thái tinh thần, sở thích, nghi hoặc của riêng mình, nhờ đó ba tác phẩm này đã đem đến cho độc giả sự thích thú, đồng cảm trên con tàu trở về tuổi thơ. Mỗi câu chuyện là một cuộc viễn du về quá khứ, trong đó những trải nghiệm của bản thân được mô tả hết sức chân thực và sâu sắc, để từ cuộc đời của nhân vật 23 “tôi” trong tác phẩm người đọc đã cảm nhận được chút bóng dáng một thời bé dại của mình. Những sáng tác về trẻ thơ của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh trước cách mạng luôn gắn với những tủi cực, đày đọa về thể chất lẫn tinh thần. Người viết thể hiện tấm lòng yêu thương con người dưới đáy xã hội với cuộc sống tăm tối, bế tắc để từ đó gợi sự đồng cảm của người đọc. Bằng cách ấy, người viết đã tái hiện lại một thời kì lịch sử đầy đau thương - sự đói nghèo, lầm than của trẻ em nói riêng và của người lao động nói chung trong xã hội cũ. Vì thế, dẫu viết về tuổi tuổi thơ, khắc hoạ tuổi thơ với những cảm xúc và tình cảm riêng, các nhà văn cũng đã làm tròn phận vị của mình. Người viết tự kể chuyện đời mình để bao kỷ niệm buồn vui hiện lên trang giấy như một nỗi ám ảnh chưa xa và không kém phần thắm thiết. Những dòng hồi ức trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng phục dựng một tuổi thơ bất hạnh hơn người, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư gợi về bao ký ức vụn vỡ của một tuổi thơ sống hờ giữa t́nh thương của người thân, Chân trời cũ của Hồ Dzếnh khắc chạm mỗi mảnh đời với một bất hạnh riêng. Mỗi người có một cách viết riêng, không ai giống ai nhưng họ gặp nhau ở một điểm là tái hiện bức tranh thời thơ ấu gắn liền với khát vọng được cắt nghĩa về chính mình trong hoàn cảnh, môi trường xung quanh, trong bối cảnh thời đại mình đã ra đời, đồng thời thể hiện quan điểm của mình về nhân tâm, thế sự. 3. Về phương diện hình thức, tự truyện của Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh cũng mang những nét riêng biệt. Phương thức tự sự của những tác phẩm này xuất phát từ điểm nhìn trẻ thơ, thông qua nội tâm và trí nhớ, không dựa vào các sự kiện mà chủ yếu 24 vẫn là ấn tượng cảm xúc. Ngôn ngữ gắn liền với thế giới nội tâm và giọng điệu kết hợp giữa giọng hoài niệm, giọng hồn nhiên trong sáng, giọng triết lý suy tư. Tác giả đã trở về sống với cảm xúc tuổi thơ để cảm nhận và đánh giá cuộc sống. Ở đó, mỗi nhân vật trẻ thơ là một nhân cách, chịu sự tác động của nhiều hướng, nhiều chiều từ môi trường gia đình, xã hội và thời đại. Cuộc sống tuổi thơ được cảm nhận qua lăng kính người lớn với sự giao hòa về điểm nhìn, giọng điệu trần thuật. Vì thế, truyện tuy viết về tuổi thơ nhưng không giới hạn phạm vi độc giả ở mỗi lứa tuổi cụ thể. Mỗi thế hệ khác nhau đều có thể tìm lại lần nữa tuổi thơ của mình ở những trang viết chân thành ấy. 4. Tự truyện về đề tài tuổi thơ trước 1945 định hình và phát triển với những bước đi còn rón rén. Sáng tác Sống nhờ, Chân trời cũ, Những ngày thơ ấu, cả Mạnh Phú Tư, Hồ Dzếnh và Nguyên Hồng hẳn đã chịu nhiều sức ép của việc viết đúng, viết đủ sự thật. Tác phẩm ra đời từ sự thôi thúc giãi bày những nỗi niềm, những tâm trạng, tình cảm, cho nên mạch văn dạt dào cảm xúc. Những câu chuyện là nỗi lòng của người viết mong muốn được chia sẻ câu chuyện của riêng mình và một phần hiện thực bề bộn của thời đại mình đang sống. Dẫu còn một số hạn chế trong giai đoạn tìm tòi, thử nghiệm, nhưng những bước tiến của tự truyện trước 1945 vẫn là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thể loại này trong tiến trình vận động của văn học dân tộc, đặc biệt là từ sau 1975 đến nay.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftomtat_20_5407.pdf
Luận văn liên quan