Thi hành án hình sự, thực chất là sự tiếp tục của quá trình tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo thực thi có hiệu quả những bản án, quyết định hình phạt của Tòa án
đã có hiệu lực của pháp luật. Hoạt động này vừa phải đảm bảo tính tổ chức cao, vừa
mang tính chấp hành, điều hành rõ rệt và được thực thi trên thực tiễn.
Phú Thọ là địa bàn Trung du Bắc Bộ có vị trí quan trọng, nằm ở ngõ phía Tây
Bắc thủ đô Hà Nội. Tình hình tội phạm trên địa bàn ngày một gia tăng. Trong xu thế hội
nhập, đã phát sinh nhiều loại tội phạm mới để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, các hoạt động thi hành án hình sự trên địa bàn Phú Thọ
được tăng cường mạnh mẽ, trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt.
Luận văn thạc sĩ: “Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” đã đề
cập 3 nội dung cơ bản được cấu trúc trong 3 chương: Một là, Nhận thức chung về
thi hành án hình sự; Hai là, Tình hình có liên quan và thực trạng thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Ba là, Dự báo tình hình, phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Luận văn đã giải quyết tốt mục đích: Bổ sung hệ thống lý luận về thi hành án
hình sự ở nước ta hiện nay; đánh giá thực trạng công tác thi hành án trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ trong thời gian vừa qua. Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và khó khăn,
vướng mắc; nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và khó khăn, vướng mắc đó.
Dự báo tình hình và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ theo chức năng của lực lượng Công an, luận văn đã đưa ra các dự báo và đề
xuất hệ thống phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp, kiến nghị chủ yếu sau:
Về phương hướng, nhiệm vụ: Tiếp tục đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, trực
tiếp là các cấp ủy Đảng trong hoạt động thi hành án hình sự; Tuân thủ đúng quy
định của pháp luật trong hoạt động thi hành án hình sự; Hoạt động thi hành án hình
sự phải đảm bảo yêu cầu giáo dục người chấp hành án, đảm bảo tính nhân đạo trong
pháp luật thi hành án hình sự.68
Về giải pháp: Tiếp cận từ những vấn đề đổi mới chính sách hình sự để hoàn
thiện pháp luật thi hành án hình sự; các giải pháp tổ chức thi hành luật; các giải
pháp tái hòa nhập cộng đồng trong thi hành án hình sự; một số kiến nghị liên quan
tới công tác thi hành án hình sự hiện nay.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn thực hiện trong lúc thay
đổi tinh giản bộ máy lực lượng Công an đã có tác động khó khăn, vướng mắc cho
quá trình khảo sát, đánh giá thực tiễn. Thi hành án là một lĩnh vực khó; mặc dù tác
giả đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Kính mong
được các thầy giáo và các nhà khoa học góp ý bổ sung để nội dung của luận văn
được hoàn thiện./.
80 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 830 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp huyện với
Viện kiểm sát nhân dân, Toàn án nhân dân cùng cấp ở một số địa phương chưa chặt
chẽ dẫn đến nảy sinh nhiều vướng mắc trong quá trình thi hành án, nhất là việc
chuyển giao, tiếp nhận các bản án, quyết định thi hành án; xét miễn, giảm án ngoài
hình phạt tù, hướng dẫn pháp luật. kiểm sát, giám sát việc thi hành án của chính
quyền cơ sở còn nhiều bất cập.
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 được ban hành quy định rõ chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong công tác thi hành án hình sự
nhưng thực chất chỉ có lực lượng Công an địa phương vào cuộc.
48
Điều kiện kinh tế - xã hội ở một số địa phương còn gặp nhiều khó khăn nên
việc tìm kiếm, giải quyết việc làm tại chỗ để có thu nhập ổn định, dẫn tới tình trạng
người chấp hành án phải đi tìm việc làm ở địa phương khác, làm cho cơ quan có
thẩm quyền không thể quản lý, giám sát được.
Việc theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc thực hiện ở cơ sở của cán bộ phụ
trách địa bàn chưa thường xuyên, liên tục, thậm chí cán bộ phụ trách địa bàn không
hướng dẫn và đôn đốc hoặc có làm thì cũng chỉ làm qua loa, xong việc.
Cơ quan, tổ chức, người được giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát, giáo dục,
giúp đỡ người chấp hành án còn ngại khó, ngại khổ, ngại tiếp xúc với đối tượng.
Lực lượng nòng cốt ở cơ sở chưa xâu sát trong phối hợp với các ban, ngành, đoàn
thể, quần chúng dân dân trong quá trình quản lý, giáo dục người chấp hành án.
49
Tiểu kết chương
Trên cơ sở nhận thức lý luận về thi hành án hình sự đề cập ở Chương 1,
Chương 2 của luận văn đã tập trung khảo sát trình bày làm rõ các nội dung chủ yếu
sau đây:
Một là, tình hình có liên quan đến công tác thi hành án hình sự trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ và cơ cấu tổ chức cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Phú Thọ
trong đó phân tích rõ tình hình kinh tế - xã hội; Cơ cấu tổ chức của Cơ quan thi
hành án hình sự tỉnh Phú Thọ và công tác phối hợp quản lý nhà nước về thi hành án
hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Hai là, thực trạng công tác thi hành án hình sự, cơ sở vật chất phục vụ công
tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua. Trong đó,
phân tích làm rõ các nội dung về: Công tác thi hành án phạt tù; công tác thi hành án
treo, cải tạo không giam giữ; thi hành án phạt khác.
Ba là, nhận xét đánh giá tập trung vào kết quả ưu điểm đạt được; hạn chế,
thiếu sót và khó khăn, vướng mắc; nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và
khó khăn, vướng mắc.
Trên cơ sở đó Chương 2 của luận văn đã rút ra các kết luận cần thiết của hoạt
động thi hành án của các cơ quan chức năng, trực tiếp là lực lượng Công an các cấp
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó đưa ra các dự báo, phương hướng nhiệm vụ và giải
pháp nâng cao hoạt động này ở Chương tiếp theo.
50
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
3.1. Yêu cầu thi hành đúng án hình sự
Luật Thi hành án hình sự năm 2010 có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/07/2011, đến nay đã hơn 08 năm. Kể từ khi Luật Thi hành án hình sự năm 2010
có hiệu lực, Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Phú Thọ đã chỉ
đạo các cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị thực hiện nguyên túc quyền và nghĩa vụ của
mình trong công tác thi hành án hình sự. Đảm bảo mọi bản án, Quyết định của Tòa
án có hiệu lực pháp luật đều được thi hành ngay, đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật qua đó góp phần giữ vững tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn
xã hội. Ngoài ra, Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh Phú Thọ cũng thường
xuyên mở lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ, chiến sỹ, người có
liên quan đến hoạt động thi hành án ở các cấp xã, phường, thị trấn. Về hoạt động
thi hành án hình sự, Cơ quan thi hành án hình sự đã thực hiện tốt vai trò, trách
nhiệm của mình trong hoạt động thi hành án phạt tù, án treo và cải tạo không giam
giữ; đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp luật; công tác giáo dục người chấp hành
án, công tác đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án
phạt tù cũng được quan tâm triệt để.
Bên cạnh những kết quả đạt được đó, công tác thi hành án hình sự vẫn còn
tồn tại nhiều thiếu sót, hạn chế nhất định. Hạn chế về mặt khách quan, hệ thống
pháp luật và các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa đồng bộ, nhiều nội dung
chưa được hướng dẫn chi tiết, chung chung dẫn đến việc áp dụng khác nhau trong
quá trình thực hiện, nhiều trường hợp phát sinh phải báo cáo cơ quan cấp trên để xin
chỉ đạo thực hiện. Cơ sở vật chất chưa đáp ứng được với nhu cầu thi hành án hiện
nay, nhất là cơ sở vật chất của trại tạm giam, nhà thi hành án tử hình...Số cán bộ,
chiến sỹ có trình độ chuyên môn ít, đa số là chiến sỹ nghĩa vụ, không đảm bảo chất
lượng. Chế độ phụ cấp đối với người làm công tác thi hành án còn ít, mang tính
hình thức, không tương xứng với nhiệm vụ được giao. Hạn chế về mặt chủ quan,
51
một số bộ phận cán bộ, chiến sĩ có tinh thần trách nhiệm chưa cao, năng lực chuyên
môn nghiệp vụ kém, còn đùn đẩy trách nhiệm dẫn đến công tác thi hành án vẫn còn
để xảy ra nhiều thiếu sót, chủ yếu là về trình tự, thủ tục như: chậm lập hồ sơ, danh
sách người bị kết án phạt tù để báo cáo cho cơ quan quản lý thi hành án hình sự
thuộc Bộ Công an; chậm ra quyết định đưa người chấp hành án đi chấp hành án tại
trại giam; hồ sơ đưa người chấp hành án đến nơi chấp hành án phạt tù còn thiếu sót;
việc tiếp nhận người chấp hành án phạt tù không đảm bảo đúng trình tự, thủ tục; chế
độ đối với phạm nhân chưa được quan tâm Đối với công tác thi hành án treo, cải
tạo không giam giữ, chậm trễ trong việc ấn định thời gian người được hưởng án
treo, cải tạo không giam giữ có mặt tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã để thực hiện
việc chấp hành án; chậm giao hồ sơ thi hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã; chậm
hoặc không cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách đối với án
treo và giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ; khi người
chấp hành án lập công hoặc có nhiều thành tích tốt trong hoạt động tại địa phương
thì không làm thủ tục rút ngắn thời gian thử thách cho người bị kết án
Hiện nay, bộ máy Công an mới tinh giản theo Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày
06/8/2018 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Công an đang có nhiều tác động tới các chủ thể thi hành án hình sự của
các cơ quan chức năng nói chung và lực lượng Công an nói riêng. Đây cũng là
những vấn đề khó khăn, vướng mắc mà quá trình thi hành án tiếp cận ở góc độ khoa
học dự báo cần biết để chủ động.
3.2. Quan điểm chỉ đạo nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án
hình sự trong thời gian tới
3.2.1. Tiếp tục đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng hoạt động thi hành án hình sự
Vai trò của Đảng đã được khẳng định trong Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp
năm 2013 như sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
52
tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng thông qua đội
ngũ cán bộ, đảng viên định hướng cho sự hoạt động của chính quyền cấp cơ sở
bằng các chủ trương, chính sách phù hợp, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
quản lý Nhà nước. Đảng lãnh đạo đất nước, đảm bảo quyền làm chủ của Nhân
dân, đảm bảo quyền con người, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng không làm thay
công việc của Nhà nước. Đảng chỉ định hướng bằng các chủ trương, đường lối,
chính sách dưới dạng Văn kiện, Nghị quyết; sau đó Nhà nước thể chế hóa thành
Hiến pháp và pháp luật.
Qua đó, để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án
hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới cần nắm vững phương châm
cơ bản sau: Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với lực lượng
Công an nhân dân nói chung, lực lượng thi hành án nói riêng. Tức là trong mọi
hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc Đảng lãnh đạo
trực tiếp về mọi mặt. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong lực lượng công an cấp
phải tuyệt đối trung thành với Đảng, chấp hành mọi Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các Nghị quyết, Chỉ thị, quy định, quy chế Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước; luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Công tác thi hành án phải luôn bám sát, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, chủ động đổi mới nhận thức, quan
điểm, tích cực triển khai có hiệu quả các công tác trong thi hành án.
Quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng về
công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Hoàn thành việc xây dựng và triển khai thực
hiện Đề án vị trí việc làm của từng cơ quan đơn vị gắn với việc thực hiện Nghị
quyết số 39-NQ-TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị
lần thứ sau Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai
thực hiện các đề án về phòng, chống tiêu cực trong hoạt động tư pháp nói chung
và hoạt động thi hành án hình sự nói riêng; kịp thời sơ kết rút kinh nghiệm để
53
tiếp tục hoàn thiện cơ chế giải quyết phòng, chống tiêu cực trong từng cơ quan,
tổ chức.
Thường xuyên thực hiện việc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong
các cuộc họp Đảng bộ, góp phần ngăn chặn tình trạng suy thoai về tư tưởng,
chính trị, đạo đước, lối sống trong cán bộ, đảng viên.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án các cấp phải nghiêm túc, chỉnh đốn, kiện
toàn nâng cao năng lực lãnh đạo mọi mặt công tác của đơn vị mình; quán triệt các
chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong công tác thi hành ánh; thực
hiện đầy đủ quy định của Đảng về tổ chức đang và chức năng, nhiệm vụ của đảng
bộ cơ sở.
Thường xuyên báo cáo các công tác thi hành án, nhất là đối với thi hành án
phạt tù, án tử hình trước cấp Ủy đảng từ đó kịp thời đề xuất các vấn đề còn vướng
mắc trong công tác thi hành án.
3.2.2. Tuân thủ đúng quy định của pháp luật trong hoạt động thi hành án hình sự
Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, ban hành các văn bản hướng dẫn Luật Thi
hành án hình sự năm 2010, Luật Tạm giữ, tạm giam năm 2015. Tích cực triển khai
nghiên cứu, đề xuất việc xây dựng và sửa đổi bổ sung các văn bản pháp luật liên
quan đến công tác thi hành án theo đúng chủ trương Nghị quyết số 49-NQ/TW của
Bộ Chính tị và các nhiệm vụ cụ thể nêu trong chương trình trọng tâm công tác cải
cách tư pháp đến năm 2021.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc khi thi hành án hình sự được quy định tại
Điều 4, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 như sau: “Tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;
bản án, quyết định có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng và chấp hành nghiêm chỉnh”.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thi hành án hình sự được quy
định trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010, qua đó tích cực triển khai thực hiện
đúng trình tự, thủ tục trong công tác thi hành án phạt tù, án treo, cải tạo không giam
giữ phối hợp chặt chẽ với Tòa án, Viện kiểm sát, Ủy ban nhân dân cấp xã thực
54
hiện một số nhiệm vụ có liên quan đến công tác thi hành án hình sự đã được quy
định cụ thể trong luật Thi hành án hình sự.
Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai, tuyên truyền và tập huấn chuyên sâu nội
dung Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành trong lực
lượng Công an thành phố, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, quần chúng nhân dân
để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, góp phần thực hiện có hiệu quả
Luật Thi hành án hình sự ở địa phương. Qua đó khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật
xảy ra trong hoạt động thi hành án hình sự.
Duy trì và thực hiện Nghị định 80/CP của Chính phủ về “ quy định các
biện pháp đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt
tù”; Hướng dẫn số 157/HD-C81-C86 ngày 12/02/2014 của Tổng cục VIII-Bộ
Công an về công tác Điều tra cơ bản “Loại đối tượng trong diện cần thiết tổ chức
công tác tái hòa nhập công động sau khi chấp hành xong án phạt tù”.
Tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch chỉ đạo triển
khai thực hiện Luật Thi hành án hình sự năm 2010 đến tất cả các ban, ngành, đoàn
thể và Ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh.
Kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến thi hành
án hình sự để đề nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ cho phù
hợp với Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
Chỉ đạo Cơ quan thi hành án hình sự thành phố và quận, huyện theo dõi,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện thi hành án hình sự. Tăng cường quản lý, giáo dục,
cảm hóa, giúp đỡ số người đang chấp hành án treo; án phạt cảnh cáo; cải tạo không
giam giữ; chấp hành án phạt cấm cư trú, quản chế; án phạt trục xuất; tước một số
quyền công dân; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định; chấp hành biện pháp tư pháp. Định kỳ thống kê, rà soát, phân loại để có biện
pháp phòng ngừa, ngăn chặn. Phát hiện và xử lý nghiêm đối với người có hành vi
tiếp tục phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác.
Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện có trách nhiệm tiếp nhận các
bản án, quyết định thi hành án, các tài liệu có liên quan, lập hồ sơ thi hành án để
55
chuyển giao cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn thi hành án phạt cải tạo không
giam giữ, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định, tước một số quyền công dân, quản chế và án treo theo quy định. Trường hợp
người đang chấp hành án treo, án phạt cải tạo không giam giữ thay đổi nơi cư trú ngoài
phạm vi quận, huyện thì cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện có trách
nhiệm làm thủ tục chuyển hồ sơ thi hành án cho cơ quan thi hành án hình sự Công an
quận, huyện nơi người đó đến cư trú để tổ chức việc thi hành án. Đồng thời thông báo
bằng văn bản cho Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Tham gia đóng góp và triển khai các Đề án, Nghị định, Thông tư, Thông tư liên
tịch hướng dẫn thi hành luật cho sát hợp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và thực tế
tại địa phương. Nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin vào công
tác quản lý thi hành án hình sự hướng đến xây dựng cơ sở dữ liệu về thi hành án hình
sự của thành phố và quốc gia theo Nghị định số 20/2012/NĐ-CP ngày 20 tháng 3 năm
2012 của Chính phủ quy định cơ sở dữ liệu về thi hành án hình sự.
Tổng kết công tác thi hành án hình sự, phối hợp các cơ quan chức năng, mở
các hội thảo khoa học nhằm đánh giá số người đã chấp hành xong các án phạt về địa
phương để duy trì hoặc bổ sung phương pháp giáo dục cải tạo. Giải quyết khiếu nại,
tố cáo về thi hành án hình sự theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
3.2.3. Hoạt động thi hành án hình sự phải đảm bảo yêu cầu giáo dục người
chấp hành án, đảm bảo tính nhân đạo trong pháp luật thi hành án hình sự
Ngoài việc trừng trị người bị kết án được quy định trong Bộ luật Hình sự thì công
tác giáo dục người chấp hành án và đảm bảo tính nhân đạo trong thi hành án cũng là một
yếu tố rất quan trọng trong chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Nguyên tắc
này được quy định cụ thể trong Điều 4, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 như sau:
3. Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích
hợp pháp của người chấp hành án.
4. Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện
pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới
tính, trình độ văn hoá và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hành án.
56
5. Thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội.
6. Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao
động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại.
7. Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật
trong hoạt động thi hành án hình sự.
8. Bảo đảm sự tham gia của cơ quan, tổ chức, cá nhân và gia đình vào việc
giáo dục cải tạo người chấp hành án [33].
Tổ chức quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối, chính
sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước về thi hành án hình sự. Mỗi cán bộ,
chiến sĩ lực lượng Cảnh sát thi hành án hình sự cần nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí,
vai trò, tính chất, tầm quan trọng của công tác quản lý giam giữ, giáo dục, cải tạo các
loại đối tượng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự. Cần
thống nhất nhận thức mọi hoạt động thi hành án hình sự phải đạt được mục tiêu cao
nhất là giáo dục, cải tạo người phạm tội; tạo điều kiện cho họ sửa chữa lỗi lầm, tái hòa
nhập cộng đồng, ổn định cuộc sống, trở thành người có ích cho xã hội.
3.3. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự tại tỉnh Phú Thọ
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự
Chính sách hình sự là một bộ phận chính sách nhằm giải quyết vấn đề hình
sự, là chính sách nhằm hạn chế những yếu tố tiêu cực, bất lợi cho sự an toàn trật tự
của xã hội liên quan đến tội phạm như một hiện tượng tiêu cực của xã hội có giai
cấp và tăng cường hiệu quả đấu tranh của Nhà nước và xã hội đối với hiện tượng
đó. Cho nên, chính sách hình sự tác động lên các quá trình xây dựng các hệ thống
quy phạm pháp luật hình sự nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm. Thi hành án hình
sự là một trong những đối tượng quan trọng của chính sách hình sự. Đặc biệt, chính
sách hình sự đối với lĩnh vực thi hành án hình sự có một vị trí cực kỳ quan trọng.
Chúng ta đều biết rằng, đổi mới và không ngừng hoàn thiện chính sách hình
sự là yêu cầu khách quan do sự biến đổi của tình hình tội phạm và những nghiệp vụ
đấu tranh phòng chống tội phạm để bảo đảm điều kiện an toàn cho sự nghiệp đẩy
57
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được tiến triển tốt đẹp. Tất nhiên, để
đổi mới và hoàn thiện chính sách hình sự mà không chệch hướng mục tiêu, bảo đảm
không chệch định hướng chính trị mà Đảng đã đề ra, đòi hỏi phải xác định những tư
tưởng và quan điểm cơ bản để đổi mới, hoàn thiện.
Chính sách hình sự nói chung, trong đó có chính sách đối với lĩnh vực thi
hành án phạt tù nói riêng, cũng phải được đổi mới theo hướng hiện đại hoá, công
nghiệp hoá. Đổi mới, làm giàu bằng những giá trị tinh thần pháp luật Việt Nam,
nhưng đồng thời phải tiếp cận, tiếp thu những giá trị văn hoá pháp lý của nhân loại.
Tuy nhiên, để tiếp thu được những giá trị đó mà không bị đồng hoá, không bị các
thế lực thù địch lợi dụng trên lĩnh vực này thì phải xác định những nguyên tắc và
quan điểm đổi mới, hoàn thiện. Điều đó, một mặt cho phép mở cửa, hội nhập và tiếp
thu được những giá trị đổi mới từ nền văn minh hiện đại của nhân loại, những kinh
nghiệm tiên tiến của các quốc gia trên thế giới đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện
được những giá trị nhân quyền Việt Nam, bảo đảm hiệu quả cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, bảo đảm giữ vững được độc lập dân tộc, bảo vệ được chế độ, vượt
qua được những nguy cơ, thách thức.
Việc giải quyết những vấn đề vĩ mô của chính sách hình sự trên lĩnh vực thi
hành án phạt tù hiện nay, đòi hỏi phải:
Giải quyết đồng bộ cùng với vấn đề xác lập các lĩnh vực quản lý nhà nước
đối với An ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; xác định đúng đắn tính chất vũ
trang của lực lượng Công an, xác định đúng đắn tính chất bạo lực trấn áp của nhà
tù trong điều kiện đấu tranh giai cấp đang diễn ra gay gắt như hiện nay.
Bảo đảm phù hợp với điều kiện mới của quan hệ quốc tế và đáp ứng chính
sách đổi mới, mở cửa hoà nhập, đáp ứng các yêu cầu về bảo đảm quyền con người
và phục vụ tốt cho cuộc đấu tranh nhân quyền của Đảng và Nhà nước, không để
địch lợi dụng chống phá ta. Đảm bảo giam giữ, quản chế tốt phạm nhân; khẳng định
và nâng cao hiệu quả giáo dục lại, nhằm hoàn lương cho những người lầm lỗi, phạm
tội, phục vụ tốt yêu cầu bảo đảm An ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
Trên cơ sở tiếp cận từ những vấn đề đổi mới chính sách hình sự trên đây, đề nghị
cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn, quy định rõ thời hạn thi
58
hành hình phạt tử hình, nhằm khắc phục tình trạng chờ làm thủ tục thi hành án kéo
dài như hiện nay; sửa đổi bổ sung các văn bản hướng dẫn về việc tạm đình chỉ thi
hành án đối với phạm nhân mắc bệnh hiểm nghèo nhằm hạn chế số phạm nhân chết
trong trại; ban hành các văn bản hướng dẫn về công tác thi hành án đối với phạm
nhân có mức hình phạt thấp.
Nghiên cứu ban hành văn bản hướng dẫn cho các trại tạm giam tận dụng số
người có án phạt tù, trong thời gian chờ chuyển đến trại giam chấp hành án, nếu họ
có nguyện vọng được ra lao động, học nghề để làm quen dần với môi trường cái
tạo, hạn chế vi phạm nội quy trại tạm giam.
Ngoài ra, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 ban hành đến nay đã được hơn
08 năm về cơ bản đã giải quyết được yêu cầu cần thiết trong công tác thi hành án
hình sự. Tuy nhiên, qua quá trình triển khai, đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, hạn chế
nhất định. Hơn nữa, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); Bộ luật Tố tụng
hình sự 2015; Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 ban hành có nhiều điểm
mới được quy định, dẫn đến tình trạng một số điều luật không thống nhất với quy
định trong Luật thi hành án hình sự năm 2010 gây khó khăn cho Tòa án, Viện kiểm
sát, Cơ quan thi hành án trong việc áp dụng. Chính vì vậy, yêu cầu bức thiết đặt ra
cần phải sửa đổi Luật thi hành án hình sự năm 2010 để đảm bảo tính động bộ trong
hệ thống văn bản pháp luật, cụ thể là:
-Về thi hành án phạt tù
Thứ nhất, đề nghị sửa đổi lại Điều 22, Luật Thi hành án hình sự năm 2010, quy
định thi hành quyết định thi hành án phạt tù cho thống nhất với quy định tại Điều 26
quy định về “Tiếp nhận người chấp hành án phạt tù” để tạo điều kiện cho người được
tại ngoại có thể tự đến trại giam, trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án Công an cấp
huyện chấp hành án.
Thứ hai, sửa đổi Khoản 1 Điều 22 của Luật Thi hành án hình sự năm 2010 theo
hướng gia hạn thêm thời gian cho Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cấp
tỉnh tổng hợp danh sách người có quyết định thi hành án phạt tù đang bị tạm giam để ra
quyết định đưa người chấp hành án cho phù hợp với tình hình thực tế của từng địa
phương thuộc các tỉnh miền núi, vì một số địa phương xa xôi, đi lại khó khăn.
59
Khoản 1, Điều 22, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định: “Trường hợp
người bị kết án phạt tù đang bị tạm giam thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được quyết định thi hành án, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, cơ quan
Thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải tống đạt quyết định thi hành án cho người
bị kết án và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh. Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
tỉnh hoàn chỉnh hồ sơ, lập danh sách người chấp hành án phạt tù để báo cáo cơ quan
Quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an”.
Thứ ba, sửa đổi Điều 24 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về
thi hành quyết định hoãn chấp hành án phạt tù theo hướng bổ sung quy định gửi
quyết định hoãn chấp hành án phạt tù cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được
hoãn chấp hành án về cư trú [10].
Thứ tư, việc tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66) là một quy định mới
trong Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), từ đó cho thấy được ngoài
tính trừng trị người phạm tội ra, Bộ luật Hình sự hiện nay đã tăng cường đề cao
quyền con người, tính nhân đạo của Nhà nước đối với người bị kết án. Về trình tự,
thủ tục, hồ sơ xét tha tù trước thời hạn có điều kiện được quy định trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015. Chính vì vậy, cần thiết phải bổ sung các quy định về thi hành
Quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện và các quy định khác có liên quan đến
việc quản lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện [10].
Thứ năm, đề nghị sửa đổi Khoản 3, Điều 32, Luật Thi hành án hình sự năm
2010 quy định việc bàn giao người được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù cho chính
quyền địa phương nơi người đó cư trú, lý do: Nguồn nhân lực, phương tiện, kinh
phí của các trại giam, trại tạm giam chưa đáp ứng kịp; hơn nữa sẽ gây ra rất nhiều
khó khăn, tốn kém về kinh tế vì có phạm nhân cư trú ở miền Trung, miền Nam
nhưng lại có quyết định chấp hành án tại các trại giam ở miền Bắc.
- Về thi hành án tử hình
Sửayđổi, bổ sungymột số quy định liên quan đến quyếtođịnh thành lậpoHội
đồng thi hànhpán tử hình theo hướng quy định cụ thể hơn về thời gian, mối quan hệ,
phối hợp giữa các cơ quan trong việc thành lập Hội đồng thi hành án tử hình.
60
- Về thi hành án treo và cải tạo không giam giữ
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Điều 62, Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cho
phù hợp với thực tế trong quá trình thực hiện không gây lúng túng cho các cơ quan có
trách nhiệm về thi hành án hình sự và để thể hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa được đảm
bảo thực hiện.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung thêm các quy định về nghĩa vụ của người được hưởng
án treo trong Luật thi hành án hình sự năm 2010 cho phù hợp với quy định về án treo
trong Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Bởi vì, Bộ luật hình sự 2015 (sửa
đổi, bổ sung 2017) có thêm quy định mới, cụ thể Khoản 5, Điều 65 quy định:
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định
buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường
hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt
của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56
của Bộ luật này [10].
Thứ ba, Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định mới đối với
trường hợp bị phạt cải tạo không giam giữ nếu không có việc làm hoặc bị mất việc làm
trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải lao động phục vụ tại cộng đồng trong
thời gian phạt cải tạo. Do vậy, cần bổ sung thêm một số quy định về nghĩa vụ của
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ
chức hoặc người được giao nhiệm vụ quản lý, giám sát người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ [10].
Thứ tư, theo Khoản 3 Điều 62 và Khoản 3 Điều 67 Luật Thi hành án hình sự
năm 2010 quy định trước khi hết thời hạn chấp hành án thì Cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện, Cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải gửi giấy chứng
nhận đã chấp hành xong án phạt cho người chấp hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn
vị quân đội được giao giám sát, Toàn án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi
Tòa án ra quyết định thế nhưng lại không gửi quyết định cho Viện kiểm sát. Từ đó dẫn
đến việc lúng túng trong khâu kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát. Do vậy, nên bổ
61
sung thêm Viện kiểm sát cũng được nhận giấy chứng nhận đã chấp hành xong án phạt
để thực hiện đúng chức năng kiểm tra, giám sát của mình.
Thứ năm, bổ sung thẩm quyền của Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp
huyện có quyền ra lệnh áp giải thi hành án đối với những người chấp hành án treo,
cải tạo không giam giữ bỏ trốn hoặc cố tình trốn tránh không đến trình diện theo
giấy triệu tập; bổ sung thêm quyền xử lý vi phạm hành chính cho Cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp huyện và Công an cấp xã khi những người này cố tình
không đến Cơ quan thi hành án để làm việc theo giấy triệu tập.
Thứ sáu, sửa đổi các quy định về thi hành biện pháp tư pháp đối với người
dưới 18 tuổi trong Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cho phù hợp với quy định
của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bởi vì, trong bộ luật
Hình sự hiện hành không quy định biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là
biện pháp tư pháp mà là biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp
người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự [10].
Thứ bảy, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ban hành
có quy định liên quan đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Cụ thể,
pháp nhân thương mại được coi là chủ thể tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình
sự, chủ yếu tập trung vào các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội phạm về
môi trường; các tội phạm về an toàn công cộng, trật tự công cộng. Chính vì vậy, cần
sửa đổi, bổ sung các quy định đối với pháp nhân thương mại trong Luật thi hành án
hình sự năm 2010 để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các văn bản pháp luật.
3.3.2. Các giải pháp tổ chức thi hành luật
- Công tác thi hành án phạt tù
Thực hiện xã hội hóa một số khâu trong công tác giáo dục phạm nhân ở các
trại giam. Công tác giáo dục phạm nhân ở các trại giam là hoạt động phức tạp, liên
quan đến nhiều lĩnh vực đó là tâm lý, chính trị, xã hội, luật pháp, văn hoá, văn nghệ,
dạy nghề, nếu cứ khép kín trong hoạt động trại giam thì không thể có đầy đủ tổ
chức và biên chế để thực hiện hết các công việc cần phải giáo dục cho phạm nhân,
nhất là trong điều kiện các trại giam rất thiếu cán bộ, chuyên gia, chuyên ngành về
62
các lĩnh vực giáo dục. Mặt khác, đối tượng giáo dục gồm nhiều thành phần khác
nhau, trình độ, lứa tuổi, dân tộc, giới tính .... trong cùng một trại giam. Vì vậy, cần
thiết phải sử dụng tổng hợp các hình thức và biện pháp tác động giáo dục và chuyển
hướng tổ chức giáo dục phạm nhân ở các trại giam hiện nay từ tự tổ chức sang hình
thức có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, các doanh nghiệp nhằm tạo
điều kiện để các chuyên gia từng lĩnh vực tham gia cùng trại vào công tác tư vấn,
giáo dục phạm nhân sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều, nhất là trong lĩnh vực chuyển lao
động của phạm nhân chủ yếu là lao động nông lâm nghiệp sang lao động ngành
nghề, lao động công nghiệp, vừa sử dụng lao động phạm nhân có hiệu quả kinh tế
và qua lao động truyền nghề, dạy nghề cho các phạm nhân để chuyển hướng. Cần
nghiên cứu đề xuất Chính phủ ban hành các chính sách ưu tiên, khuyến khích các tổ
chức, đoàn thể nhất là các doanh nghiệp tham gia vào việc tư vấn, dạy nghề cho
phạm nhân như chính sách ưu đãi thuế đối với các doanh nghiệp tổ chức dạy nghề
cho phạm nhân.
Cần phải kiện toàn tổ chức bộ máy biên chế và đào tạo tập huấn chuyên sâu
cho cán bộ, chiến sỹ làm công tác thi hành án hình sự; chú trọng việc tập luyện cho
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Trưởng Công an cấp xã về công tác thi hành án
hình sự, nâng cao chế độ hỗ trợ cho lực lượng thi hành án hình sự.
Thực hiện có hiệu quả Nghị định 80/CP, chú trọng công tác xây dựng,
nhân rộng mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác tái hòa nhập cộng đồng.
Làm tốt công tác điều tra cơ bản loại đối tượng cần thiết tổ chức công tác tái hòa
nhập cộng đồng, nắm chắc tình hình người chấp hành xong án phạt tù để chủ
động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp chỉ đạo thực hiện các biện pháp
đảm bảo tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong án phạt tù một
cách phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế xã hội địa phương.
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về công tác
thi hành án hình sự, công tác tái hòa nhập cộng đồng đối với người chấp hành xong
án phạt tù. Phối hợp với cơ quan báo, đài phát thanh, truyền hình địa phương
thường xuyên đưa tin, bài viết an ninh trật tự, về gương người tốt việc tốt, về mô
hình, cá nhân điển hình thực hiện công tác tái hòa nhập cộng đồng.
63
Tạo công ăn việc làm cho người chấp hành xong án phạt tù để họ có thu
nhập ổn định, xóa đi mặc cảm, tự ti. Đồng thời vận động quần chúng nhân dân tích
cự quan tâm, giúp đỡ, không kỳ thị, xa lánh người chấp hành xong án phạt tù để họ
sớm hòa nhập với cộng đồng, góp phần giữ vững an ninh, trật tự trên địa bàn tỉnh.
Trên cơ sở Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 06/8/2018 quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an nhanh chóng hoàn thiện tổ
chức bộ máy cấp phòng của 2 Cục: Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo
dưỡng bắt buộc, trường giáo dưỡng và Cục Cảnh sát quản lý tạm giữ, tạm giam và
thi hành án hình sự tại cộng đồng; xây dựng chức năng nhiệm vụ cụ thể theo tinh
thần cải cách tinh giản bộ máy mới để đưa hoạt động thi hành án hình sự ổn định, đi
vào nền nếp.
Chú trọng chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực và trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ thi hành án hình sự cho các lực lượng chức năng nói chung
và lực lượng Công an nói riêng trong hoạt động thi hành án hình sự.
Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện nghiệp vụ, chế độ bồi dưỡng cho
những cán bộ, chiến sĩ làm công tác thi hành án, nhất là đối với cán bộ, chiến sĩ trực
tiếp quản lý, giáo dục người chấp hành án phạt tù.
- Công tác thi hành án khác ngoài án phạt tù
Kiện toàn tổ chức bộ máy biên chế; tập huấn chuyên sâu cho cán bộ, chiến sỹ
đã làm công tác thi hành án hình sự, hạn chế việc luân chuyển những cán bộ đã
được đào tạo, tập huấn chuyên sâu về công tác này. Chú trọng việc tập huấn cho
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã và Trưởng Công an cấp xã về công tác thi hành án
hình sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra.
Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp, phát thanh, truyền hình của địa
phương tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về Luật Thi hành án hình sự tại xã,
phường, thị trấn đối với người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ nhằm
giúp họ nắm được các quy định của pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành bản án,
những quy định của địa phương.
Thực hiện tốt công tác lập hồ sơ đối với người thi hành án treo, cải tạo không
giam giữ theo quy định của luật và văn bản hướng dẫn khác của Bộ Công an quy
64
định về chế độ Công tác hồ sơ thống kê nghiệp vụ Cảnh sát và hướng dẫn của Bộ
Công an, đặc biệt sau này khi hình thành các tổ chức bộ máy mới trong các Cục có
liên quan tới 2 Cục thi hành án hình sự là Cục Cảnh sát quản lý trại giam, cơ sở giáo
dưỡng bắt buộc, trường giáo dưỡng; Cục Cảnh sát quản lý tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự tại cộng đồng. Bảo đảm các đối tượng đều phải được lập, đăng ký,
bổ sung diễn biến thông tin đầy đủ vào hồ sơ theo dõi đúng quy định.
Để kịp thời khắc phục những vi phạm, tồn tại trong công tác thi hành án
phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ, nhằm nâng cao tác dụng
hiệu quả giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm của công tác thi hành án hình
sự đưa công tác này đi vào nề nếp theo đúng các quy định của pháp luật, trong
thời gian tới Ủy ban nhân dân các xã cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, tiếp tục tổ chức nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ
các nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Luật Thi hành án hình sự năm
2010 và các văn bản hướng dẫn về công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ.
Hai là, tổ chức rút kinh nghiệm, làm rõ nguyên nhân để xảy ra vi phạm; khắc
phục những vi phạm, tồn tại như đã phân tích ở trên.
Ba là, lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp xã phải thường xuyên có sự chỉ đạo và
tăng cường kiểm tra việc tổ chức, triển khai thực hiện của các bộ phận tham mưu,
giúp việc trong công tác thi hành án hình sự, nhất là Công an cấp xã, để đưa công
tác thi hành án phạt tù cho hưởng án treo và cải tạo không giam giữ đi vào nề nếp,
đúng quy định của pháp luật.
Bốn là, quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, chế độ cho lực
lượng làm công tác thi hành án treo và cải tạo không giam giữ để động viên, khuyến
khích các cán bộ, chiến sĩ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năm là, tăng cường kiểm tra việc chấp hành pháp luật của những người chấp
hành án treo và cải tạo không giam giữ tại địa phương; kịp thời chấn chỉnh và yêu
cầu người chấp hành án phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân và nghĩa
vụ thi hành án theo quy định của pháp luật; xử lý nghiêm khắc những trường hợp cố
tình vi phạm, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án qua đó nâng cao hiệu quả giáo dục,
phòng ngừa tội phạm góp phần giữ gìn trật tự trị an xã hội.
65
Sáu là, kịp thời biểu dương, động viên và xem xét đề nghị rút ngắn thời gian
thử thách, giảm thời hạn chấp hành án cho những người chấp hành án có tiến bộ,
lao động học tập tốt, lập công,để khuyến khích người chấp hành án tích cực phấn
đấu, cải tạo thành người có ích cho xã hội.
3.3.3. Các giải pháp tái hòa nhập cộng đồng trong thi hành án hình sự
- Về pháp luật: Cần ban hành các văn bản pháp luật quy định cụ thể quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, chính quyền cơ sở
trong công tác tái hoà nhập cộng đồng. Trong đó, phải xác định rõ nhiệm vụ quản lý
đối tượng về mặt hành chính là nhiệm vụ của Công an cơ sở, còn giúp đỡ, giáo dục
đối tượng là nhiệm vụ của toàn xã hội đặc bịệt là nhân dân khu phố, thôn xóm và
các đoàn thể tại cơ sở, trong đó khuyến khích các cá nhân, tổ chức tình nguyện
đứng ra nhận trách nhiệm giúp đỡ, giáo dục đối tượng. Việc giao đối tượng cho ai
giúp đỡ, giáo dục phải được quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của họ.
- Về cơ chế, chính sách: Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành một số
chính sách khuyến khích một số hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân
trong xã hội, cụ thể: Các chính sách ưu đãi đối với các doanh nghiệp có sử
dụng lao động là người mãn hạn tù, người đã chấp hành xong chế tài hành
chính vào làm việc với tỷ lệ lớn; các chính sách đãi ngộ và ghi nhận công lao
như: tuyên dương, tặng thưởng danh hiệu đối với những tổ chức và cá nhân tình
nguyện có thành tích trong hoà nhập tái hoà nhập cộng đồng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật tại cơ sở. Cần
hướng vào các mục tiêu: Xoá bỏ mặc cảm về tâm lý của đối tượng đối với cộng
đồng, xoá bỏ những trở ngại về tâm lý của cộng đồng với đối tượng; làm cho nhân
dân, các đoàn thể cơ sở xác định rõ vị trí, vai trò và trách nhiệm của họ trong công
tác tái hoà nhập cộng đồng, tránh việc nhầm tưởng rằng đây là công việc của Công
an cơ sở; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tạo điều kiện, nhận người
tái hoà nhập cộng đồng vào làm việc.
- Việc dạy nghề, dạy văn hoá cho người đang chấp hành hình phạt tù: Trẻ em
tại trường giáo dưỡng cần được quan tâm, quán triệt và chỉ đạo thường xuyên từ
66
phía cơ quan quản lý trại giam, trường giáo dưỡng, cũng như ý thức tích cực của
mỗi cán bộ, trường, trại. Các mô hình dạy nghề, hướng nghiệp cần được đổi mới về
nội dung và phương pháp dạy nghề.
- Các cơ sở giáo dục, cải tạo: Cần thực hiện nghiêm túc việc thông báo, liên
hệ với gia đình phạm nhân và chính quyền cơ sở nơi phạm nhân sẽ về cư trú, về tình
hình thi hành án của đối tượng. Đặc biệt là việc thông báo hai tháng trước khi đối
tượng mãn hạn tù. Trong vấn đề này cần xác minh cụ thể xem đối tượng sẽ về cư trú
tại địa phương nào, trên cơ sở đó thông báo cho chính quyền sở tại biết về việc đối
tượng sẽ về cư trú tại địa phương. Trong thông báo cần nêu rõ quá trình rèn luyện,
cải tạo của đối tượng, đề xuất các biện pháp quản lý, giúp đỡ, giáo dục cụ thể.
- Thiết lập mối quan hệ giữa cộng đồng, xã hội vớỉ trại giam: Ngay từ giai
đoạn người phạm tội vào các cơ sở cải tạo. Việc giữ mối quan hệ giữa phạm nhân
và gia đình, tổ chức xã hội ở địa phương, việc tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của
từng phạm nhân để từ đó kiến nghị các phương thức giáo dục thích hợp là những công
việc nên được giao cho xã hội nếu chúng ta thực Sự muốn xã hội hoá công tác này.
67
KẾT LUẬN
Thi hành án hình sự, thực chất là sự tiếp tục của quá trình tố tụng hình sự
nhằm đảm bảo thực thi có hiệu quả những bản án, quyết định hình phạt của Tòa án
đã có hiệu lực của pháp luật. Hoạt động này vừa phải đảm bảo tính tổ chức cao, vừa
mang tính chấp hành, điều hành rõ rệt và được thực thi trên thực tiễn.
Phú Thọ là địa bàn Trung du Bắc Bộ có vị trí quan trọng, nằm ở ngõ phía Tây
Bắc thủ đô Hà Nội. Tình hình tội phạm trên địa bàn ngày một gia tăng. Trong xu thế hội
nhập, đã phát sinh nhiều loại tội phạm mới để góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm, các hoạt động thi hành án hình sự trên địa bàn Phú Thọ
được tăng cường mạnh mẽ, trong đó lực lượng Công an giữ vai trò nòng cốt.
Luận văn thạc sĩ: “Thi hành án hình sự từ thực tiễn tỉnh Phú Thọ” đã đề
cập 3 nội dung cơ bản được cấu trúc trong 3 chương: Một là, Nhận thức chung về
thi hành án hình sự; Hai là, Tình hình có liên quan và thực trạng thi hành án hình sự
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Ba là, Dự báo tình hình, phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Luận văn đã giải quyết tốt mục đích: Bổ sung hệ thống lý luận về thi hành án
hình sự ở nước ta hiện nay; đánh giá thực trạng công tác thi hành án trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ trong thời gian vừa qua. Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và khó khăn,
vướng mắc; nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót và khó khăn, vướng mắc đó.
Dự báo tình hình và đưa ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Nhằm nâng cao hiệu quả công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ theo chức năng của lực lượng Công an, luận văn đã đưa ra các dự báo và đề
xuất hệ thống phương hướng, nhiệm vụ và các giải pháp, kiến nghị chủ yếu sau:
Về phương hướng, nhiệm vụ: Tiếp tục đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng, trực
tiếp là các cấp ủy Đảng trong hoạt động thi hành án hình sự; Tuân thủ đúng quy
định của pháp luật trong hoạt động thi hành án hình sự; Hoạt động thi hành án hình
sự phải đảm bảo yêu cầu giáo dục người chấp hành án, đảm bảo tính nhân đạo trong
pháp luật thi hành án hình sự.
68
Về giải pháp: Tiếp cận từ những vấn đề đổi mới chính sách hình sự để hoàn
thiện pháp luật thi hành án hình sự; các giải pháp tổ chức thi hành luật; các giải
pháp tái hòa nhập cộng đồng trong thi hành án hình sự; một số kiến nghị liên quan
tới công tác thi hành án hình sự hiện nay.
Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn thực hiện trong lúc thay
đổi tinh giản bộ máy lực lượng Công an đã có tác động khó khăn, vướng mắc cho
quá trình khảo sát, đánh giá thực tiễn. Thi hành án là một lĩnh vực khó; mặc dù tác
giả đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi thiếu sót. Kính mong
được các thầy giáo và các nhà khoa học góp ý bổ sung để nội dung của luận văn
được hoàn thiện./.
69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2005), Từ Điển Hán – Việt, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
2. Nguyễn Ngọc Anh (2012), Bình luận khoa học Luật THAHS, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
3. Trần Thị Thục Anh (2016), Luận văn Thạc sĩ Kiểm sát Thi hành án treo và cải
tạo không giam giữ theo quy định của pháp luật từ thực tiễn thành phố Hà
Nội, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Trương Hòa Bình (2002), “Hoạt động thi hành án hình sự hiện nay - Thực
trạng và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Khoa học pháp lý số 06/2002.
5. Bộ Công an - VKSNDTC - Bộ Quốc phòng (2005), Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa
Cơ quan điêu tra và VKS trong việc thực hiện một so quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự 2003, Hà Nội.
6. Bộ Công an - VKSNDTC - TANDTC - Bộ Quốc phòng - Bộ Y tế (2006),
Thông tư liên tịch số 02/2006/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BYT ngày
18/5/2006 hướng dẫn thi hành một sổ quy định của pháp luật về tạm đình chỉ
chấp hành hình phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh
nặng, Hà Nội.
7. Bộ Công an (2012), Thông tư số 25/TT-BCA ngày 02/5/2012 quy định vê Thủ
trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan quản lý THAHS, Cơ quan THAHS trong Công
an nhân dân, Hà Nội.
8. Vũ Đức Chấp (2008), “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
THAHS của VKS nhân dân”, Tạp chí Kiểm sát, (10) tr. 18-21, 25.
9. Chính phủ (2008), Nghị định số 113/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 về quản lý
phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sình hoạt vày tế cho phạm nhân, Hà Nội.
10. Chính phủ (2018), Tờ trình số 419/TTr-CP về dự thảo Luật thi hành án hình
sự ban hành ngày 29/09/2018, Hà Nội.
11. Công an tỉnh Phú Thọ (2016), Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Luật đặc xá
70
và 05 năm thi hành Luật Thi hành án hình sự trong Công an nhân dân, ban
hành ngày 06/07/2016, Phú Thọ.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
Bộ Chính trị về một so nhiệm vụ trọng tâm công tác trong thời gian tới, Hà Nội.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết so 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thong pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của
Bộ Chính trị về đề án đối mới to chức và hoạt động của tòa án, VKS và các cơ
quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
16. Vũ Trọng Hách (2002), “Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình sự
ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước pháp luật số 05/2002.
17. Vũ Trọng Hách (2004), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành
án hình sự, Luận án Tiến sĩ, Viên nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
18. Học viện Cảnh sát nhân dân (2006), Công tác thi hành án phạt tù – những vẫn đề
lý luận và thực tiễn, nxb CAND, Hà Nội.
19. Học viện Cảnh sát nhân dân (2007), Những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành án
phạt tù Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội.
20. Học viện Khoa học xã hội (2013), Giáo trình sau đại học - Luật THAHS, Hà Nội.
21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
22. Bùi Đức Long (2010), “Bàn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nhân dân
trong THAHS”,Tạp chí Kiểm sát, tr 9-12.
23. Nghị định số 01/NĐ-CP, ngày 06/8/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công an.
24. Phòng PC81 (2013), Báo cáo công tác THAHS và HNCĐ năm 2013, ban hành
71
ngày 11/11/2013, Phú Thọ.
25. Phòng PC81 (2014), Tập hợp số liệu phục vụ báo cáo kết quả công tác
THAHS và HTTP năm 2014, ban hành ngày 14/11/2014, Phú Thọ.
26. Phòng PC81 (2015), Tập hợp số liệu phục vụ báo cáo kết quả công tác
THAHS và HTTP năm 2015, ban hành ngày 10/11/2015, Phú Thọ.
27. Phòng PC81 (2016), Tập hợp số liệu phục vụ báo cáo kết quả công tác
THAHS và HTTP năm 2016, ban hành ngày 15/11/2016, Phú Thọ.
28. Phòng PC81 (2017), Tập hợp số liệu phục vụ báo cáo kết quả công tác
THAHS và HTTP năm 2017, ban hành ngày 12/11/2017, Phú Thọ.
29. Phòng PC81 (2017), Tập hợp số liệu phục vụ tổng kết công tác thi hành án
hình sự năm 2017, ban hành ngày 15/10/2017, Phú Thọ.
30. Nguyễn Hải Phùng (2012), “Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tạm
giữ, tạm giam và THAHS có cần ban hành “quyết định trực tiếp kiểm sát”,
Tạp chí Kiểm sát, tr.25-28.
31. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự, ban hành ngày 21/12/1999, Hà Nội.
32. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 26/11/2003, Hà Nội.
33. Quốc hội (2010), Luật Thi hành án hình sự, ban hành ngày 17/06/2010, Hà Nội.
34. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban
hành ngày 26/11/2013, Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.
36. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.
37. Bùi Lê Sính (2017), “Một số dạng vi phạm phổ biến trong công tác thi hành
án treo, cải tạo không giam giữ”, Tạp chí Kiểm sát số 02/2017.
38. Vũ Huy Thuận (2017), “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn thi hành luật thi
hành án hình sự 2010”,Tạp chí Kiểm sát tháng 05/2017.
39. Võ Khánh Vinh và Cao Thị Oanh (2013), Luật thi hành án hình sự, NXB
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
40. Phan Hùng Vương ( 2016), Thi hành án hình sự từ thực tiễn tại huyện Củ Chi,
thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Thống kê tình hình thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2013 – 2017
Năm
Hình phạt
2013 2014 2015 2016 2017
Tù có thời hạn 75 61 59 40 36
Án treo 849 859 736 695 650
Cải tạo không giam giữ 439 414 316 237 291
Quản chế 20 20 44 40 40
Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề 0 0 1 3 3
Các án khác 0 0 0 0 5
(Nguồn: Công an tỉnh Phú Thọ)
Bảng 2.2. Thống kê đội ngũ cán bộ thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ gia đoạn 2013-2017
Cấp bậc Công an cấp tỉnh Công an cấp huyện
Sĩ quan 80 51
Hạ sĩ quan 46 36
Chiến sĩ nghĩa vụ 45 126
Công nhân viên phục vụ 10 0
Tổng số 181 213
(Nguồn: Công an tỉnh Phú Thọ)
Bảng 2.3. Kết quả thực hiện công tác thi hành án hình sự trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2013 – 2017
(Đơn vị: người)
Hình
phạt
2013 2014 2015 2016 2017
Tăng
(*)
Giảm
(*)
Đang
quản
lý
Tăng Giảm Đang
quản
lý
Tăng Giảm Đang
quản
lý
Tăng Giảm Đang
quản
lý
Tăng Giảm Đang
quản
lý
Án treo 226 287 849 226 255 870 160 292 736 195 228 695 267 296 650
Cải tạo
KGG
314 176 439 256 285 385 195 265 316 186 272 237 271 212 291
Quản
chế
11 2 20 21 14 27 28 12 44 9 14 40 19 14 40
Cấm
đảm
nhiệm
chức vụ
1 1 0 0 0 0 2 1 1 1 1 0 1 0 2
Cấm
hành
nghề
0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 2 2 1 1
Các án
khác
0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 3 0 5
(Nguồn: Công an tỉnh Phú Thọ)
Ghi chú:
- Số liệu tăng, giảm được so sánh với năm trước. Ví dụ: năm 2013 so sánh với năm 2012;
- Tăng: lý do chấp hành xong hoặc phạm tội mới;
- Giảm: lý do có quyết định của Tòa án.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thi_hanh_an_hinh_su_tu_thuc_tien_tinh_phu_tho.pdf