Luận văn Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập

Với thực trạng nền kinh tế Việt Nam như đã nói ở trên.Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tài chính là một thể thống nhất. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau: - Hoàn thiện khung pháp lý cần thiết cho sự phát triển TTTC. Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các công cụ phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro theo thông lệ quốc tế.Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản như quy định về mua bán giấy tờ có giá, quy định về chiết khâu giấy tờ có giá - Tăng cường hoạt động quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN

doc32 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2226 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thị trường tài chính và vai trò của thị trường tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àm cho chứng khoán đã phát hành có tính thanh khoản. Khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành nên luồng tiền chỉ vận chuyển giữa những nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường. Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán, gắn bó chặt chẽ với thị trường sơ cấp. Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do, giá giao dịch chứng khoán do cung - cầu trên thị trường quyết định. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường sơ cấp là cơ sở và là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường thứ cấp; vì đó là nơi cung cấp hàng hóa chứng khoán lưu thông trên thị trường thứ cấp. Ngược lại, thị trường thứ cấp là động lực, là điều kiện cho sự phát triển của thị trường sơ cấp; vì nếu không có thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán thì rất khó để phát hành và thu hút nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trên thực tế, tổ chức thị trường không phân biệt đâu là thị trường sơ cấp, đâu là thị trường thứ cấp. Vì tại một thị trường có thể cùng diễn ra đồng thời hoạt động mua bán chứng khoán mới phát hành và chứng khoán mua bán lại. Điều cần quan tâm là phải coi trọng thị trường sơ cấp vì đây là thị trường tạo vốn và có cơ chế giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp để bảo vệ thị trường tài chính ổn định. Căn cứ vào phương thức huy động, thị trường tài chính được phân thành thị trường công cụ nợ và thị trường công cụ vốn. - Thị trường công cụ nợ là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán nợ. Thực chất các công cụ nợ (trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, …) là các thỏa thuận có tính hợp đồng. Trong đó, người vay vốn thanh toán cho người giữ công cụ một khoản tiền cố định trong những khoản thời gian nhất định (thanh toán lãi) cho tới kỳ hạn cuối cùng thì thanh toán giá trị gốc. Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán, công cụ nợ được chia làm ba loại khác nhau: công cụ nợ ngắn hạn, công cụ nợ trung hạn và công cụ nợ dài hạn. Quan hệ vay mượn dựa trên công cụ nợ thường ấn định trước thời hạn và lãi suất cố định. Người sở hữu công cụ nợ không có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành của bên vay. - Thị trường công cụ vốn là thị trường phát hành, mua bán các chứng khoán vốn. Vốn được huy động trên thị trường bằng việc bán cổ phần, chứng chỉ quỹ đầu tư, …Người nắm giữ cổ phiếu gọi là cổ đông, họ góp vốn vào các doanh nghiệp cổ phần trên cơ sở gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được chia cổ tức dựa trên kết quả kinh doanh theo số lượng cổ phần mà họ nắm giữ. Chính vì vậy mà giá trị cổ tức không ổn định như người giữ công cụ nợ nhưng cổ tức có thể cao hoặc thấp hơn lãi trái phiếu, vì nó tùy thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng họ có quyền biểu quyết trong quản trị điều hành doanh nghiệp vì họ là chủ sở hữu. Người giữ chứng khoán vốn có nhiều rủi ro hơn người giữ chứng khoán nợ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Người giữ chứng khoán nợ được ưu tiên thanh toán nợ trước. Ngoài ra, trong cách phân loại này, còn có thị trường công cụ phái sinh. Đây là thị trường phát hành và mua bán các chứng khoán phát sinh, như: chứng quyền, quyền chọn, hợp đồng tương lai, … Ngày nay, một thị trường tài chính không nhất thiết phải có không gian vật lý. Vì vậy, thị trường tài chính còn được phân theo thể thức sau: Thị trường thô sơ và thị trường vi tính hóa. Thị trường thường trực và thị trường huy động. Thị trường chứng khoán đã đăng ký và thị trường lưu lượng chứng khoán. Mỗi cách phân loại thị trường tùy thuộc vào tiêu chí mà chúng ta muốn hướng đến. Từ những cơ sở lý luận nêu trên, thị trường tài chính tại Việt Nam cũng đã được hình thành và phát triển. Nhằm đánh giá thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, tiểu luận này chỉ tập trung phân tích trên ba thị trường trong phân loại theo thời hạn luân chuyển vốn. Đó là thị trường tiền tệ và thị trường vốn. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 2.1. Thị trường tiền tệ: Điều 9 khoản 2 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Thị trường tiền tệ là thị trường vốn ngắn hạn, nơi mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, bao gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác”. Các nghiệp vụ thị trường tiền tệ Việt Nam (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam): Tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc là loại trái phiếu Chính phủ (giấy vay nợ ngắn hạn) có kỳ hạn dưới một năm do Bộ tài chính phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách Nhà nước và là một công cụ quan trọng để Ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. Tín phiếu kho bạc là loại tín phiếu chiết khấu. Điều đó có nghĩa là, tín phiếu được bán thấp hơn mệnh giá và thanh toán theo mệnh giá khi đáo hạn, chứ không trả lãi theo định kỳ. Tín phiếu kho bạc được phát hành trên thị trường sơ cấp trên cơ sở đấu thầu. Tại Việt Nam, các tổ chức tham gia đấu thầu thường là các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm thỏa mãn một số quy định trong đó quan trọng nhất là phải có vốn pháp định bằng hoặc cao hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thực hiện từ tháng 5/1995. Từ năm 2003 cho phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ. Doanh số và tỷ trọng tín phiếu Kho bạc phát hành dưới hình thức đấu thầu qua NHNN trong tổng doanh số huy động vốn của Kho bạc Nhà nước tăng qua các năm. Điều này phù hợp với xu thế phát triển thị trường và thông lệ quốc tế. Khối lượng tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ (nội tệ) phát hành qua các năm: Vì tín phiếu kho bạc có những ưu điểm vượt trội hơn hẳn các loại chứng khoán khác, chẳng hạn như: công cụ có tính thanh khoản cao nhất, rủi ro v nợ thấp nhất. Do đó, đây sẽ là kênh các Tổ chức tín dụng đầu tư vốn khả dụng của mình, hưởng lãi, khi cần đem giao dịch trên thị trường mở đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Điều đó đã cho thấy được tính hấp dẫn của nó trong việc đầu tư kiếm lợi. Chính vì vậy mà tín phiếu kho bạc chủ yếu do các ngân hàng thương mại nắm giữ. Tuy nhiên, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc qua NHNN vẫn còn một số tồn tại như thành viên tham gia đấu thầu chủ yếu vẫn là các Ngân hàng thương mại Nhà nước, số lượng các NHTMCP và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tham gia rất ít. Nguyên nhân chủ yếu là các NHTMCP chưa thực sự quan tâm tới thị trường này do lãi suất tín phiếu kho bạc chưa thực sự hấp dẫn so với các loại trái phiếu phát hành qua Uỷ Ban chứng khoán. Mặt khác, lượng vốn khả dụng dư thừa để đầu tư vào tín phiếu kho bạc của các NHTMCP vẫn còn hạn chế. Việc đầu tư vào tín phiếu kho bạc của các thành viên chủ yếu nhằm mục đích dự phòng an toàn về khả năng thanh toán vào giai đoạn nhạy cảm (VD: Tết âm lịch) do đó việc giao dịch các loại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng trên thị trường liên ngân hàng với nhau chưa linh hoạt, một phần nguyên nhân do cơ sở hạ tầng (công nghệ, pháp lý) của thị trường thứ cấp chưa phát triển. Quy chế 935/2004/QĐ-NHNN ngày 23/7/2004 tuy đã cho phép việc tổ chức hình thức đấu thầu kết hợp cả cạnh tranh và không canh tranh lãi suất trong một phiên đấu thầu nhưng đến nay vẫn chưa áp dụng. Tín phiếu NHNN Tín phiếu NHNN là một giấy tờ vay nợ do NHNN phát hành nhằm thực hiện các chính sách tiền tệ góp phần kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao. Lãi suất tín phiếu NHNN thường do NHNN quy định tùy theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Các tổ chức tín dụng tham gia mua tín phiếu NHNN thông thường dưới 2 hình thức: tự nguyện và bắt buộc. Tuy nhiên, ở Việt Nam do các tổ chức tín dụng không mặn mà với loại công cụ này nên hình thức chủ yếu là bắt buộc. Thông thường chỉ khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thặt chặt (xuất phát từ mục tiêu rút bớt tiền trong nền kinh tế về trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát) thì NHNN mới cho phát hành tín phiếu NHNN dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Tương tự như tín phiếu kho bạc, hầu hết các tổ chức tín dụng mua tín phiếu NHNN đều có xu hướng giữ tới khi đáo hạn, hiếm có giao dịch mua bán lại giữa các tổ chức tín dụng. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi có kỳ hạn.Trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ đang ngày càng phổ biến ở thị trường Việt Nam. Chủ thể phát hành chủ yếu là các ngân hàng thương mại lớn. Để thu hút nguồn vốn từ khách hàng, ngoài mức lãi suất hấp dẫn các NHTM còn sử dụng rất nhiều những chính sách hấp dẫn như hình thức khuyến mại, chiết khấu, bốc thăm trúng thưởng, nâng lãi suất …để đem lại lợi ích cho các khách hàng. 2.1.4. Kỳ phiếu ngân hàng Về cơ bản, một kỳ phiếu ngân hàng là một sự thừa nhận của các khoản nợ do các ngân hàng thương mại phát hành. Kỳ phiếu là một công cụ nợ, mà không phải hậu thuẫn của tài sản bảo đảm. Kỳ phiếu được hỗ trợ bởi các khả năng thanh toán nợ và danh tiếng của ngân hàng phát hành kỳ phiếu. Đối với Ngân hàng phát hành kỳ phiếu, ngân hàng đã nộp đơn cho cơ quan có thẩm quyền. Đơn xin phát hành kỳ phiếu Ngân hàng sẽ nhận được chấp thuận nếu cơ quan có thẩm quyền không có bất kỳ sự phản đối với các ứng dụng đó. Ở Việt Nam, việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng đương nhiên chịu giám sát của NHNN Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều có công cụ kỳ phiếu. Đây được coi là công cụ hiệu quả trong huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hình thức phát hành chủ yếu là kỳ phiếu ghi danh bằng đồng Việt Nam. Việc huy động vốn tuy theo con đường phát hành kỳ phiếu còn chua tương xứng đối với sử dụng công cụ này trên thị trường quốc tế.Việc đưa ra thông tin cung ứng cho khách hàng cá nhân và tổ chức chưa rõ ràng để có thể so sánh công cụ tối ưu nhất giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể về việc phát hành kỳ phiếu của các ngân hàng. Một vài trường hợp tạm ngưng phát hành kỳ phiếu không thông báo lí do cụ thể . Điều này làm tăng tính rủi ro cho khách hàng, tác động tâm lí, bất ổn thị trường vốn và tạo tiền lệ không tốt với các ngân hàng khác. Kỳ phiếu ngân hàng ở nước ta dường như mới chỉ dừng lại ở việc làm tăng thêm tinh phong phú đa dạng trong hoạt động ngân hàng và thêm sự lựa chọn sảm phẩm cho các đối tượng có vốn rảnh rỗi. 2.1.5. Hối phiếu Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh đòi tiền vô điều kiện, do người xuất khẩu, người bán, người cung ứng dịch vụ, ... ký phát đòi tiền người nhập khẩu, người mua, người nhận cung ứng và yêu cầu người này khi nhìn thấy hối phiếu phải trả một số tiền nhất định, tại một địa điểm nhất định, trong một thời gian nhất định cho người hưởng lợi quy định trong hối phiếu,hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác. Hối phiếu có tính thanh khoản cao. Hối phiếu có thể mang đến các NHTM để bảo lãnh hoặc chiết khấu. Hơn thế nữa các NHTM còncó thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn của mình. Bảo lãnh hối phiếu là sự cam kết của người thứ ba trả cho người hưởng lợi khi hối phiếu đến hạn trả tiền. Thông thường người đứng ra bảo lãnh hối phiếu là các NHTM. Chiết khấu hối phiếu là một nghiệp vụ của ngân hàng. Trong đó người hưởng lợi hối phiếu xuất trình hối phiếu chưa đến hạn trả tiền cho ngân hàng để lấy tiền ngay với một giá thấp hơn số tiền ghi trên tờ hối phiếu. Hiện nay, hối phiếu và các nghiệp vụ liên quan như bảo lãnh, chiết khấu vẫn chưa thực sự đi vào đời sống kinh tế Việt Nam. Điều này xuất phát từ một số thực trạng của nền kinh tế Việt Nam như: - Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ hối phiếu chưa thật sự có lòng tin đối với hối phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của hối phiếu khi đến hạn. - Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến hối phiếu. - Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém. 2.2. Thị trường vốn: 2.2.1. Trái phiếu: Trái phiếu là một chứng nhận nghĩa vụ nợ của người phát hành phải trả cho người sở hữu trái phiếu đối với một khoản tiền cụ thể (mệnh giá của trái phiếu), trong một thời gian xác định và với một lợi tức quy định. Người phát hành có thể là doanh nghiệp (trái phiếu trong trường hợp này được gọi là trái phiếu doanh nghiệp), một tổ chức chính quyền như Kho bạc nhà nước (trong trường hợp này gọi là trái phiếu kho bạc), chính quyền (trong trường hợp này gọi là công trái hoặc trái phiếu chính phủ). Người mua trái phiếu, hay trái chủ, có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp hoặc chính phủ. Tên của trái chủ có thể được ghi trên trái phiếu (trường hợp này gọi là trái phiếu ghi danh) hoặc không được ghi (trái phiếu vô danh) Trái chủ là người cho nhà phát hành vay và họ không chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả sử dụng vốn vay của người vay. Nhà phát hành có nghĩa vụ phải thanh toán theo các cam kết nợ được xác định trong hợp đồng vay. Năm 2008, cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở nhiều nước trên thế giới, trong khi ở Việt Nam, tình hình lạm phát diễn ra khá nghiêm trọng. Bối cảnh đó đã tác động không tốt tới tâm lý các nhà đầu tưtrên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư nước ngoài, một phần vì muốn bảo toàn vốn cho công ty mẹ nơi chính quốc, một phần vì kinh tế vĩ mô Việt Nam gặp khó khăn, đã bán tháo một lượng trái phiếu rất lớn để rút khỏi thị trường Việt Nam. Lập tức, giá trái phiếu rất rẻ, “Yield” (lợi tức thu được sau mỗi lần chuyển nhượng) tới 20% và hình ảnh thị trường tài chính Việt Nam bị ảnh hưởng khá nghiêm trọng. Hiện nay, trên thị trường trái phiếu, hầu hết tập trung ở trái phiếu chính phủ, trong đó, trái phiếu chính quyền địa phương giữ một tỷ trọng thấp. Còn đối với trái phiếu doanh nghiệp thì cũng chỉ có một số tổng công ty, doanh nghiệp lớn của nhà nước phát hành, còn doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chưa thể phát hành.Ở nước ngoài, họ phát hành lô lớn ở một số kỳ hạn nhất định 3 - 5 - 7 - 10 hay 15 năm và mặc dù ngày phát hành khác nhau nhưng ngày đến hạn luôn khớp với nhau. Ngoài ra, lãi suất trái phiếu nước ngoài luôn thống nhất ở một mức giá nào đó và khi phát hành các đợt mới, họ chỉ đấu giá trái phiếu tại thời điểm thực tế. Như vậy, dẫn đến lượng hàng hóa trên thị trường rất tập trung và do số loại trái phiếu rất ít nên giao dịch rất thuận lợi.Trong khi đó, Việt Nam có hơn 500 loại trái phiếu, lại phát hành thành nhiều lô nhỏ, ngày phát hành khác nhau, ngày đến hạn khác nhau. Do vậy, nhiều khi một nhà đầu tưmua một lô trái phiếu và giữ rịt lại, lập tức chúng không thể giao dịch được cho đến khi đến hạn thanh toán. Thực tế này không chỉ làm cho tính thanh khoản của thị trường thấp mà còn khó hình thành đường cong lãi suất chuẩn trên thị trường vốn. Ngoài ra, các thành viên giao dịch trên thị trường chưa xây dựng được cách thức, mẫu biểu giao dịch thống nhất cũng như chuẩn mực về đạo đức, hành vi ứng xử với nhau, nhiều khi, chỉ thống nhất theo mẫu hợp đồng nào khi giao dịch cũng mất cả ngày để đàm phán. Trong khi ở nước ngoài, thị trường chỉ sử dụng một mẫu biểu hợp đồng, chẳng hạn, đối với nghiệp vụ “repo”, các bên chỉ thống nhất về số tiền, giá là xong thay vì đi vào hàng loạt chi tiết như “chậm thanh toán” thì phải như thế nào, “trách nhiệm nghĩa vụ liên quan” ra sao như ở Việt Nam. Năm vừa qua được xem là năm không thành công trong việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh. Ngược lại, trái phiếu doanh nghiệp phát hành năm qua lại khá thu hút các nhà đầu tư, nhất là loại trái phiếu thả nổi. Năm qua việc phát hành các loại trái phiếu chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh trên thị trường sơ cấp khá ảm đạm. Báo cáo này cho biết tính chung trong năm 2009 chỉ có khoảng 5.000 tỉ đồng trái phiếu huy động được trên tổng số 71.400 tỉ đồng đưa ra gọi thầu. Loại trái phiếu phát hành thành công nhất trong năm qua là trái phiếu Kho bạc nhưng tỷ lệ bán được cũng chỉ ở mức 15%, còn đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế hoạch. Đặc biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, còn trái phiếu của Ngân hàng Phát triển cũng chỉ bán được 2% so với tổng khối lượng chào bán. Tình trạng này là do sự chênh lệch quá lớn về lãi suất giữa hai thị trường sơ cấp và thứ cấp, trung bình từ 100-200 điểm. Với thị trường thứ cấp, tình hình cũng không sáng sủa hơn bao nhiêu, thanh khoản luôn ở mức thấp. Tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỉ đồng, chỉ bằng 40% so với mức 195.600 tỉ đồng của năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trong một phiên giao dịch trung bình là 300 tỉ đồng, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỉ đồng của năm 2008. . Về mặt kỹ thuật, việc có quá nhiều mã trái phiếu, số lượng manh mún, thiếu chuẩn mực về kỳ hạn,… khiến mức độ hấp dẫn của thị trường trái phiếu Việt Nam kém hơn các nước trong khu vực.Quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam nhìn chung còn khá nhỏ, khoảng 15% GDP. Tỷ trọng giá trị thị trường trái phiếu chính phủ còn lớn (gấp hơn 15 lần) so với thị trường trái phiếu doanh nghiệp (Philippines là 9 lần Indonesia 11 lần Malaysia 1,25 lần…). Năm 2009, thị trường trái phiếu doanh nghiệp lại khá sôi động với nhiều đợt phát hành thành công, trong đó chủ yếu là hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất thả nổi. Ước tính đã có khoảng 18.000 tỉ đồng giá trị trái phiếu có lãi suất thả nổi được bán ra, chiếm 77% trong tổng giá trị trái phiếu huy động được (hơn 26.000 tỉ đồng).Bên cạnh đó, trái phiếu chuyển đổi cũng là kênh huy động vốn được nhiều doanh nghiệp sử dụng. Doanh nghiệp bất động sản là những nhà phát hành khá nhanh nhạy khi nhìn thấy thị trường bất động sản cũng có dấu hiệu ấm lên, và được sự hỗ trợ từ thị trường chứng khoán, liền tung ra các đợt phát hành tương đối lớn và khá thành công. Theo nhận định của Chính phủ, kinh tế Việt Nam đang có dấu hiệu phục hồi khá tốt. GDP năm nay dự kiến tăng 6,5%, cao hơn mức 5,3% của năm 2009. Vì vậy nhu cầu phát hành trái phiếu của Chính phủ và doanh nghiệp sẽ có chiều hướng tăng để đáp ứng nhu cầu vốn cho mục tiêu này. Chính phủ cũng đang nỗ lực để ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hạn chế nhập siêu, tăng tính thanh khoản trên thị trường ngoại hối… Tất cả những yếu tố này sẽ hỗ trợ tốt cho thị trường trái phiếu phát triển. Mặt khác, nhằm tăng tính cạnh tranh cho thị trường trái phiếu, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, Bộ Tài chính đang đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý cho thị trường này. Thế nhưng khó khăn lớn nhất cho thị trường trái phiếu trong năm 2010 chính là xu hướng tăng khá rõ của mặt bằng lãi suất. Giá cả hàng hóa thế giới đang có xu hướng tăng, tác động không ít đến mặt bằng giá cả trong nước, tăng áp lực nhập siêu. Bên cạnh đó, chính sách kích cầu, biện pháp nới lỏng tiền tệ trong năm 2009, do có độ trễ nhất định, sẽ gây hiệu ứng không mong muốn trong năm nay là tạo áp lực lên lạm phát. Khi mặt bằng lãi suất tăng thì lãi suất trái phiếu chính phủ cũng chịu tác động theo chiều hướng tương tự và ảnh hưởng lớn đến thị trường trái phiếu trong nước. Hiện nay, dù khối nhà đầu tưnước ngoài đã ít nhiều quan tâm đến trái phiếu Việt Nam nhưng họ vẫn hết sức dè dặt, chủ yếu chờ các chính sách tiền tệ của Chính phủ ngã ngũ. Đặc biệt vấn đề tỷ giá hiện còn là rào cản khá lớn đối với luồng tiền đầu tư từ bên ngoài vào Việt Nam. 2.2.2. Cổ phiếu: Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó.Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. Ngày càng có nhiều mã cổ phiếu được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Năm 2009 có hơn 120 cổ phiếu mới được niêm yết nâng số cổ phiếu niêm yết hiện nay lên 457 mã cổ phiếu. Trong đó trên sàn HNX có gần 100 cổ phiếu mới được niêm yết. Xét về số lượng cổ phiếu niêm yết trên cả hai sàn đã tăng gấp đôi lên mức 14.29 tỷ đơn vị.Trong bối cảnh thị trường phục hồi, nhưng vẫn có những mã cổ phiếu giảm khá mạnh. Ba mã giảm mạnh nhất là FPC, VPL, và FBT với mức giảm hơn 20%. Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2009 giảm sút. Giá trị giao dịch của khối ngoại trung bình trong năm 2009 chỉ chiến 6.7% giá trị giao dịch toàn thị trường, thấp hơn khá nhiều so với mức trung bình 15 – 20% của những năm trước. Những động thái mua bán của khối ngoại không còn ảnh hưởng nhiều đến thị trường. Khối ngoại mua ròng mạnh nhất vào tháng 7 và tháng 11, 12. Đây đều là những tháng điều chỉnh mạnh của thị trường. Khối ngoại bán ròng mạnh nhất vào tháng 9. Tổng giá trị mua ròng của khối ngoại trên HoSE trong năm khoảng 3,408 tỷ đồng, trên HNX khoảng 270 tỷ đồng. Dòng vốn gián tiếp đầu tư vào cổ phiếu niêm yết của nhà đầu tưnước ngoài không hề giảm. Nhưng mức tăng lên cũng không nhiều so với mức vốn hóa của thị trường hiện nay. Trái ngược với giai đoạn năm 2006 và 2007, sự bùng nổ của dòng vốn đầu tư gián tiếp khiến thị trường tăng mạnh. Trong năm 2009, vai trò dẫn dắt của nhà đầu tưngoại trên sàn gần như không còn. Sự biến động của thị trường cổ phiếu ở Việt Nam đã cho thấy những bất ổn của thị trường phát sinh từ chính những yếu tố nội tại của thị trường như thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận của thị trường chứng khoán (thị trường sơ cấp, sở giao dịch, thị trường UpCoM, thị trường trái phiếu chuyên biệt), chưa có sự minh bạch trong quản trị điều hành và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý, giám sát ở tầm vĩ mô, cũng như các thông tin thị trường chưa được cập nhật một cách chuẩn xác đến các nhà đầu tư, trong khi yếu tố tâm lý luôn bị chi phối nặng nề bởi các tin đồn trên thị trường vẫn còn khoảng trống pháp lý cho những nhà kinh doanh, đầu cơ có điều kiện thôn tính, lũng đoạn thị trường. 2.2.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư: Quỹ đầu tư là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào các cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ, hay các loại tài sản khác. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư(NĐT) đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quỹ đại chúng là quỹ đầu tư chứng khoán hình thành từ vốn góp của NĐT, với mục đích kiếm lợi nhuận từ việc đa dạng hóa đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác nhau nhằm phân tán rủi ro, trong đó NĐT không có quyền kiểm soát hàng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi muốn thành lập quỹ, công ty quản lý quỹ phải phát hành chứng chỉ quỹ, NĐT mua chứng chỉ quỹ tức là đã xác nhận sự góp vốn của mình vào quỹ chung đó. Hiện nay,chứng chỉ quỹ ngày càng trở thành mặt hàng được mua bán nhiều trên TTCK, thậm chí nhiều Nhà đầu tư còn đánh giá nó hấp dẫn, ít rủi ro hơn cổ phiếu và đặc biệt là có tính thanh khoản cao. Bởi vì, với ưu điểm của quỹ đầu tư chứng khoán, đa dạng hóa đầu tư - phân tán rủi ro và lại có một đội ngũ quản lý quỹ chuyên nghiệp đứng ra đầu tư thì ít nhất, độ an toàn và lợi nhuận kỳ vọng cũng cao hơn. Nhà đầu tư sở hữu chứng chỉ quỹ có thể yên tâm làm công việc khác, không cần phải suy tính đầu tư vào chứng khoán nào, rồi đến kỳ lấy lợi nhuận và có thể bán chứng chỉ quỹ này cho các Nhà đầu tư khác trên thị trường để thu lại tiền mặt. Tuy nhiên, khi sở hữu chứng chỉ quỹ, Nhà đầu tư đương nhiên sẽ trở thành người đầu tư thụ động, gián tiếp vì không có quyền quyết định đầu tư và mọi rủi ro hay thành công đều phụ thuộc vào trình độ và kinh nghiệm của người quản lý quỹ. 2.2.4. Công cụ tài chính tái sinh: Phái sinh hiểu theo nghĩa đơn giản là là sinh ra theo cái gì đó. Công cụ tài chính phái sinh có nghĩa là những công cụ tài chính được sinh ra theo các công cụ tài chính chính thức. Các công cụ tài chính có trước, sau đó mới nảy sinh thêm các công cụ phái sinh. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh là sản phẩm tất yếu của sự phát triển ngày càng sâu, rộng và đa dạng của thị trường tài chính. Sự biến động khó lường của giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ giá trên thị trường là những nguyên nhân gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư trong các phi vụ mua, bán. Để hạn chế thấp nhất những rủi ro thua lỗ có thể xẩy ra, các nghiệp vụ tài chính phái sinh đã được hình thành, đó thực chất là những hợp đồng tài chính mà giá trị cuả nó phụ thuộc vào một hợp đồng mua bán cơ sở (hay còn gọi là chính phẩm). Đến nay, trên thị trường tài chính quốc tế nghiệp vụ tài chính phái sinh đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh rất đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Sở dĩ nó phát triển thành công như vậy, là do sử dụng nghiệp vụ này đem lại lợi ích cho các thành viên thị trường. Trên thị trường có thể phân ra thành 3 loại thành viên: Người đầu tư, người đầu cơ, người cơ lợi. Sự dụng nghiệp vụ tài chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho 3 loại thành viên này: Người đầu tư phải đối diện với những rủi ro do biến động giá cả, họ phải sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro đối với người đầu cơ lại muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của sản phẩm chính, họ dùng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt đối với người cơ lợi ( thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro) bằng cách sư dụng chênh lêch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá. Trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốctế, Hệ thống tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển rất quan trọng theo hướng hội nhập với thông lệ và Chuẩn mực Quốc tế được chấp nhận chung. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, công cụ tài chính phái sinh và thị trường công cụ tài chính phái sinh vẫn chưa phát triển việc mua/ bán công cụ tài chính phái sinh được rất ít doanh nghiệp hoặc tổ chức tài chính thực hiện trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời thị trường chính thức chưa được thiết lập, thị trường phi chính thức nhỏ lẻ và hoạt động không thường xuyên. Trên thị trường tài chính ở Việt nam, các nghiệp vụ phái sinh bắt đầu xuất hiện khoảng 5 năm trước đây và đến nay xuất hiện nhiều loại công cụ phái sinh chuẩn và không chuẩn đang được thực hiện. Loại công cụ tài chính phái sinh được phổ biến nhiều nhất ở Việt Nam hiện nay là công cụ tài chính phái sinh tiền tệ.Tuy nhiên, cơ sở pháp lý các các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN. Đồng thời số lượng các giao dịch còn ít khoảng gần 15 hợp đồng hoán đổi lãi suất và một số ít hợp đồng phái sinh không chuẩn khác đã được cho phép thực hiện( trong số đó có một số giao dịch đã chưa phát sinh giao dịch). Có thể liệt kê một số TCTD đã được Ngân hàng nhà nước cho phép thực hiện: - Ngân hàng Citibanh thực hiện thí điểm hoán đổi lãi suất giữa 2 đồng tiền từ ngày 1/3/2005 đến 2/2006. - Ngân hàng Standard Chartered chi nhánh tại Việt Nam thực hiện hoán đổi lãi suất chéo giữa 2 đồng tiền chéo (Cross Currency Swap- CCS) đối với khoản vay ngoại tệ của khách hàng sau khi khách hàng vay ngoại tệ thực hiện cung cấp sản phẩm gắn với rủi ro tín dụng- lãi suất cơ cấu cho tiền gửi và giấy tờ có giá, theo đó lãi suất của khách hàng được hưởng sẽ không cố định mà nằm trong một khoảng giao động nhất định và phụ thuộc vào sự biến động của một số yếu tố thị trường , như tỷ giá, lãi suất, giá sản phẩm hàng hóa nào đó... - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, thực hiện thí điểm giao dịch quyền chọn lãi suất đối với các khoản cho vay hoặc đi vay trung hạn bằng USD hoặc euro. - NH HSBC thực hiện giao dịch hoán đổi lãi suất cộng dồn - Thực hiện nghiệp vụ quyền chọn ngoại tệ (Option ngoại tệ/ VND): Đã cho phép thực hiện thí điểm NHTMCP Quốc tế,), ngân hàng NT (8/2005) NHTM cổ phần Á Châu, NHĐT&PT, NHTMCP Kỹ thương, NHTMCP Quân đội (12/2005). - Cho phép NH TMCP kỹ thương thực hiện giao dich hợp đồng tương lai trên thị trương hàng hoá (9/2004) Vinasin thực hiện giao dịch hoán đổi ngoại tệ... Thị trường các công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và chưa phổ biến. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do mức độ phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn thấp, trên thị trường cón thiếu vắng các nhà đầu tư am hiểu kỹ về lợi ích cũng như kỹ thuật tính toán lợi nhuận từ các loại nghiệp vụ này. bên cạnh đó các nhà môi giới, các nhà cơ lợi cón quá ít trên thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán để thúc đẩy các nhà đầu tư tham gia mạnh mẽ thị trường này. Sự kém phát triển của thị trường phái sinh là một thách thức không nhỏ trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính ở Việt Nam. Khi mà rủi ro luôn là bạn đường của các nhà đầu tư và ngày càng gia tăng trong quá trình hội nhập, thì phát triển thị trường các nghiệp vụ phái sinh được xem như là là chắn quan trọng để hạn chế rui ro cuả thị trường đối với những nhà đầu tư. Vì vậy phát triển thị trường phái sinh là rất cần thiết hiện nay. 2.3. Khái quát chung về thực trạng thị trường tài chính Việt Nam: 2.3.1. Thành tựu: Thị trường tài chính giữ một vai trò đặc biệt trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính (TTTC) phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, TTTC cũng đã được hình thành và cải cách theo các nguyên tắc thị trường, góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính một cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, TTTC Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị trường cấu thành cơ bản của TTTC đã được hình thành và từng bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết lập và có những đóng góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế. Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng thương mại Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả. Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước được thể chế hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước, nhất là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán. Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của TTTC đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh doanh của mình. 2.3.2. Tồn tại của thị trường tài chính Việt Nam: Tuy đạt được không ít thành tựu, song TTTC Việt Nam vẫn được xem là còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng phương tiện thanh toán (M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng đáng kể, đều từ dưới 20% năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm 2000 và 79,0% và 70,2% năm 2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương với của các nước trong khu vực vào những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990. Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong năm 2006, song vẫn còn nhỏ bé. Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tại thời điểm 16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay gần 7% GDP năm 2005 nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường đạt 60.522,7 tỷ đồng, tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005. Cùng thời điểm, tổng giá trị trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9% GDP năm 2005, trong đó hầu hết thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%). Có rất ít trái phiếu công ty được phát hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu“ của nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp quy chưa có tính đồng bộ, thống nhất tạo hành lang pháp lý cho hoạt động của từng bộ phận thị trường. Công cụ tài chính chưa đa dạng về chủng loại và thời hạn. Điều này thể hiện ở số lượng công cụ đã phát hành và khối lượng phát hành. Ngoài tín phiếu, trái phiếu chính phủ, cổ phiếu bắt đầu được phát hành tương đối thường xuyên với khối lượng lớn thì các công cụ khác vẫn mang tính “thí điểm” với khối lượng không đáng kể. Thị trường tài chính chưa thu hút được nhiều thành viên tham gia, phương thức giao dịch tiên tiến chưa được áp dụng rộng rãi. Thị trường còn ít các nhà môi giới, các nhà tạo lập thị trường,… Các nhà bảo lãnh phát hành chủ yếu là các NHTM Nhà nước. Các công ty chứng khoán chưa đóng vai trò nhà tạo lập thị trường quan trọng trên thị trường, mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu chính phủ. Điều này phần nào làm giao dịch trên thị trường sơ cấp chưa sôi động. Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung chưa có tính chuyên nghiệp; hành vi đầu tư thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”, gây biến động mạnh về giá và làm giảm độ tin cậy đối với thị trường, nhất là trong bối cảnh mức độ công khai, minh bạch của thị trường chưa cao. Lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo được đường cong lãi suất chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động đầu tư trên TTTC. Cách thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu quốc gia trên thị trường quốc tế dường như vẫn thiếu tầm nhìn, chưa thật rõ ràng về mục tiêu dài hạn (huy động vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng hay “bảo lãnh” cho một số ngành hàng/dự án “chiến lược” được ưu tiên?). Thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu Chính phủ trên thực tế chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Thị trường thứ cấp kém phát triển. Sự tham gia đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của công chúng còn hạn chế. Hệ thống tư pháp, các chuẩn mực về công bố thông tin và kế toán, hệ thống thanh toán,... cần được cải thiện nhiều. Việc thiếu vắng các tổ chức định mức tín nhiệm cũng là nguyên nhân kìm hãm thị trường. Có thể nói, hiện Việt Nam còn thiếu nhiều điều kiện nền tảng để phát triển thị trường trái phiếu công ty. 2.3.3. Nguyên nhân chủ yếu tồn tại những yếu kém của thị trường tài chính Việt Nam: - Các văn bản pháp lý chưa đồng bộ. - Hoạt động của TTTC Việt Nam mang tính chuyên nghiệp chưa cao. - Công tác dự báo chưa thực sự đáp ứng nhu cầu. - Cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin liên lạc phục vụ còn hạn chế. Ngoài ra TTTC Việt Nam chưa phát triển còn do điểm xuất phát thấp của nền kinh tế, công tác tuyên truyền chưa tốt, trình độ cán bộ còn yếu… Chương 3: VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP Việt Nam đang có tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục và luôn giữ ở mức cao trong vòng năm năm qua và trong chiến lược phát triển đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành nước công nghiệp về cơ bản. Cho nên, để đáp ứng nhu cầu về vốn cho phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020, nền kinh tế Việt Nam luôn đòi hỏi nguồn vốn huy động rất lớn. Chính vì thế, thị trường tài chính Việt Nam hình thành và phát triển có vai trò rất to lớn là nơi tập trung mọi nguồn lực về tài chính cho sự nghiệp phát triển của đất nước. 3.1. Thị trường tài chính tạo lập nguồn vốn cho nền kinh tế Với vai trò là tích tụ và tập trung tư bản cho nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng thương mại là một kênh huy động vốn giáp tiếp để tạo lập nguồn vốn. Hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng huy động vốn của mọi thành phần kinh tế trong xã hội thông qua các dịch vụ tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ thanh toán, …Lãi suất huy động trên thị trường có ảnh hưởng rất quan trọng đến lượng vốn mà các Ngân hàng thương mại huy động được. Lãi suất này phải đảm bảo là lãi suất thực dương, tức là phải cao hơn tỷ lệ mất giá của tiền tệ nhưng phải thấp hơn lãi suất cho vay để đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho hệ thống Ngân hàng. Từ nguồn vốn huy động này, các Ngân hàng thương mại cung ứng một lượng vốn dồi dào cho nền kinh tế thông qua hoạt động cấp tín dụng. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Khi lãi suất tiết kiệm chưa thật sự hấp dẫn những người có tiền nhàn rỗi mong muốn có nơi đầu tư sinh lợi cao hơn, mạo hiểm hơn thì thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn trực tiếp cho nền kinh tế. Dựa vào tính thanh khoản cao của tài sản tài chính trên thị trường này cũng như tính linh hoạt trong lựa chọn danh mục đầu tư sao cho mức sinh lời tối ưu, thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam đã thật sự là nơi thu hút vốn rất lớn vì tính hấp dẫn ở suất sinh lời cao hơn lãi suất tiết kiệm hay sự kỳ vọng vào giá trị cổ phiếu trong tương lai. Mặt khác, nhà đầu tư cần vốn chỉ phải bỏ ra chi phí rất thấp nhưng có thể huy động nguồn vốn lớn, tức thì, không bị bó hẹp như cơ chế cho vay. Tuy nhiên, điều này còn phụ thuộc vào sự thuyết phục của nhà đầu tư từ những dự án kinh tế có sức sinh lời cao. Điều quan trọng là cần phải khơi thông cơ chế hoạt động cho thị trường chứng khoán phát triển. 3.2. Thị trường tài chính góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế Các công cụ và chính sách trên thị trường tài chính ngày càng phát triển sẽ giúp khai thông các nguồn vốn và khai thác triệt để các nguồn lực tài chính. Các nguồn lực tài chính bao gồm nguồn lực trong nước và nguồn lực từ nước ngoài. Đối với nguồn lực tài chính trong nước, cần phát triển đa dạng các dịch vụ về tài chính để những khoản tiết kiệm, tiền nhàn rỗi được đưa vào lưu thông sinh lợi hơn là đưa vào cất trữ. Khi đó, nội lực tài chính trong nước được huy động triệt để. Đối với nguồn lực tài chính bên ngoài, cần có chính sách khơi thông luồng tiền vào và ra bằng cơ chế giám sát hơn là các biện pháp quản lý hành chánh, để thu hút nguồn lực tài chính lớn của các tập đoàn nước ngoài. Thị trường tài chính phát triển, mọi thông tin trên thị trường được công khai, minh bạch. Nhà đầu tư muốn phát hành cổ phiếu huy động vốn trên thị trường phải thực sự là đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Sự cạnh tranh thu hút vốn này buộc các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả hoạt động, thường xuyên đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả kinh tế. Vì thế mà hiệu quả kinh tế của xã hội cũng được nâng lên. Mặt khác, khi doanh nghiệp tạo được sự kỳ vọng vào một giá trị thị trường tương lai tăng cao sẽ kích thích cho mọi người tăng tiết kiệm để đầu tư vào các doanh nghiệp có hiệu quả cao. Vì vậy, thị trường tài chính có vai trò kích thích việc sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả. 3.3. Thị trường tài chính góp phần đầy nhanh quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế Thị trường tài chính được hình thành tùy thuộc vào điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của mỗi nước nên có những đặc thù riêng ở thị trường của mỗi nước. Tuy nhiên, ngày nay với tốc độ tự do hóa toàn cầu, không một thị trường nào có thể phát triển riêng lẻ mà phải có mối liên hệ lẫn nhau. Điều đó được thể hiện bằng việc mức độ tự do hóa thị trường tài chính trong nước và mức độ hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Vì thế mà hiện nay ở hầu hết các nước trên thế giới tiến hành cải cách tài chính tiền tệ theo xu hướng tự do hóa tài chính. Đối với tự do hóa tài chính, được thể hiện ở các mặt sau: - Tự do hóa lãi suất: lãi suất hình thành trên thị trường phải do thị trường quyết định, phụ thuộc vào cung cầu, đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập trong nền kinh tế. Tự do hóa lãi suất thường gắn liền với nó là tự hóa tỷ giá hối đoái, có tác động mạnh đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế. - Tự do hóa cơ chế quản lý tỷ giá linh hoạt: là thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Việc áp dụng cơ chế này là phù hợp với thị trường tài chính hiện tại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là điều chỉnh tỷ giá linh hoạt tương ứng với một rổ tiền tệ, gồm các đồng tiền tham gia vào thương mại với Việt Nam hơn là neo chặt vào dollar Mỹ. Mấu chốt của chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý là xây dựng một hành lang tỷ giá cho phép tỷ giá giao động trong một giới hạn nhất định xung quanh tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam phải được tiến hành từng bước và gắn với tự do hóa các lĩnh vực khác như: - Tự do hóa giao dịch vãng lai - Tự do hóa giao dịch vốn - Thực hiện chuyển đổi đồng bản tệ Thị trường tài chính phát triển sẽ làm tăng khả năng chuyển đổi tiền tệ đối với các giao dịch qua tài khoản vãng lai; mở rộng và không hạn chế các giao dịch tài chính qua biên giới của công dân nước sở tại và nước ngoài; các luồng vốn nước ngoài được tự do ra vào trên thị trường chứng khoán. Khi nền kinh tế của một nước là lớn mạnh và đồng tiền có uy tín thì đồng tiền của quốc gia đó được xem là đồng tiền chuyển đổi tự do khi mà bất cứ ai có đồng tiền đó đều có quyền tự do chuyển đổi sang những ngoại tệ tự do mang đầy đủ chức năng thanh toán và dự trữ quốc tế theo tỷ giá hối đoái thị trường ngay ở trong nước và cả khi ra khỏi biên giới quốc gia. Thị trường tài chính phát triển giúp cho các chủ thể tham gia trên thị trường có thể hòa nhập vào nhau cho dù họ ở bất kỳ đâu trên thế giới và khi đó tính hội nhập quốc tế được thể hiện. Trước hết là trong lĩnh vực kinh tế - thương mại. Những vùng, miền kinh tế khác nhau có thể đang xen hoạt động kinh tế - thương mại của nhau thông qua thị trường tài chính ở mỗi quốc gia khi mà thị trường tài chính được tự do hóa. Các tổ chức, công dân của một nước có thể đầu tư, giao dịch, mua bán hàng hoá và dịch vụ với các tổ chức, cá nhân của nước khác nếu như nền tài chính của hai nước được liên kết với nhau. Các giao dịch của hai bên đều được thể hiện trên thị trường. Vì thế mà kinh tế thế giới ngày càng mang tính toàn cầu. Để đáp ứng cho việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng phải có sự hội nhập quốc tế sâu rộng vào thị trường thế giới. Thực hiện chức năng này, Ngân hàng phải thực sự có tiềm lực tài chính và uy tín trên thế giới. Khi đó, thương hiệu của các Ngân hàng hay tổ chức tài chính là yếu tố quan trọng khi giao dịch trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính, ngoài thực hiện các hoạt động và dịch vụ, yếu tố con người, văn hóa – xã hội vùng, miền mà họ là người ở đó, cũng được thể hiện thông qua quá trình giao dịch, hoạt động trên thị trường. Từ đó mà tính văn hóa, xã hội, ngoại giao giữa các nước, các khu vực được hội nhập, đan xen vào nhau. Tóm lại, việc hình thành thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong công cuộc xây dựng phát triển đất nước. Đây là thị trường tiền đề cho mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội được diễn ra, bắt đầu từ việc tạo lập nguồn vốn đến nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội và cuối cùng là hội nhập và nền kinh tế thế giới. Cho nên, thị trường tài chính cần được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, có cơ chế giám sát phù hợp nhằm hạn chế những tác hại, rủi ro khi có khuảng hoảng tài chính. Chương 4: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHO PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI Với thực trạng nền kinh tế Việt Nam như đã nói ở trên.Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế, tức là phải phát triển đồng bộ, tất nhiên là phải có sự ưu tiên xây dựng các tiền đề, cơ sở hạ tầng nào đó Chúng ta không thể nôn nóng, cũng như không thể ngồi chờ cho đủ điều kiện được. Như phần đầu bài viết đã đề cập, thị trường tài chính là một thể thống nhất. Khi lãi suất trên thị trường tiền tệ tăng lên, khi thị trường tiền tệ nóng lên, thì thị trường chứng khoán cũng sôi động. Phát triển thị trường tiền tệ, làm tăng tốc độ chu chuyển vốn ngắn hạn trong nền kinh tế, nâng cao khả năng kinh doanh trên thị trường tiền tệ của các tổ chức trung gian tài chính, tạo điều kiện cho các tổ chức này sẵn sàng tham gia có hiệu quả trên thị trường chứng khoán. Theo đó một số đề xuất và kiến nghị như sau: - Hoàn thiện khung pháp lý cần thiết cho sự phát triển TTTC. Ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện các công cụ phái sinh, công cụ phòng ngừa rủi ro theo thông lệ quốc tế.Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản như quy định về mua bán giấy tờ có giá, quy định về chiết khâu giấy tờ có giá… - Tăng cường hoạt động quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ mạnh dạn đưa 2-4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo g vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế hoạch. Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức, vận hành. NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện rõ vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. - Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút. - Phát triển hạ tầng và hoàn thiện các quy tắc giao dịch. Xây dựng hệ thống giao dịch tập trung dựa trên công nghệ tiên tiến và phương thức giao dịch đa dạng tạo lập hệ thống môi giới tiền tệ phát triển hệ thống thông tin minh bạch và tin cậy giữa các thành viên tham gia thị trường. - Tăng cường công tác tuyên truyền, đào tạo cán bộ ngân hàng có năng lực. KẾT LUẬN Ngày nay, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, phù hợp với quy luật phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, vấn đề xây dựng một thị trường tài chính vững mạnh, ổn định và phát triển cần phải được tổ chức và có những bước đi thích hợp. Chính phủ với vai trò quản lý và là người xây dựng hành lang pháp lý cho thị trường tài chính phát triển, cần phải có những chính sách thông thoáng để thị trường tài chính phát huy hết vai trò của nó, giúp cho nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, nhất là khi hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Thị trường tài chính ngày nay mang tính toàn cầu, vượt ra khỏi ranh giới giữa các quốc qia, tính hội nhập cũng rất mạnh mẽ nên rất khó trong quản lý, đặc biệt là cơ chế giám sát, sao cho vừa mang tính đặc thù riêng theo những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước vừa mang tính hội nhập quốc tế, vừa đảm bảo an toàn cho thị trường tài chính trong nước vừa mang tính chất tự do hóa. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tailieu.vn Giáo trình môn thị trường tài chính trường Đại Học Công Nghiệp tp.HCM www.svktqd.com www.tapchitaichinh.vn Giáo trình môn thị trường tài chính trường Đại Học Kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_tttc_hoan_chinh_4692.doc
Luận văn liên quan