Luận văn Thực hiện chính sách dân tộc - Từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi

Sơn Hà là huyện miền Tây của tỉnh Quảng Ngãi, nằm trong khu vực phát triển kinh tế trọng điểm miền Tây của Tỉnh với nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng, xã hội, lịch sử, văn hoá vô giá cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Quảng Ngãi. Điểm khác biệt của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Sơn Hà là sống xen kẽ với đồng bào dân tộc Kinh ở khắp các địa bàn, ít tập trung thành bản, làng riêng biệt. Phần lớn địa bàn cư trú là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, điều kiện đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Các dân tộc thiểu số ở Sơn Hà có lịch sử đấu tranh hào hùng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ suốt trong các cuộc kháng chiến của dân tộc đã góp phần làm cho Sơn Hà anh hùng92 trong kháng chiến và năng động trong thời kỳ đổi mới. Vì vậy, việc thực hiện chính sách dân tộc là một vấn đề được các cấp, các ngành quan tâm, để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Sơn Hà, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số với những nhiệm vụ chủ yếu: phát triển kinh tế, ổn định dân cư đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm; nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị tại cơ sở, đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số; xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trên địa bàn huyện Sơn Hà đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Chính sách dân tộc ngày càng chứng minh được vai trò của mình trong hệ thống các chính sách quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, với việc cụ thể hoá chính sách dân tộc của Đảng vào thực tiễn, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cũng như sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số, huyện Sơn Hà đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng quan trọng: Quyền bình đẳng dân tộc thể hiện ngày càng rõ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống chính trị được xây dựng và củng cố; kết cấu hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư, đáp ứng cho phát triển kinh tế dân sinh; đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện và nâng cao; chính trị ổn định và quốc phòng, an ninh được giữ vững. Do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, khi triển khai chính sách dân tộc của Đảng trên thực tế ở Sơn Hà đã gặp không ít khó khăn, hạn chế: Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực về mọi mặt, nhưng nhìn chung đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp so với mặt bằng chung trên toàn huyện. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của một số hộ chưa cao, một số trường93 hợp hộ còn thiếu đất và không có đất sản xuất. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên, chưa tích cực tham gia góp vốn, góp công sức bằng chính nội lực của mình. Trình độ văn hóa và nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế nên công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Thực hiện các chương trình, chính sách trên địa bàn huyện Sơn Hà từ nguồn ngân sách của tỉnh và của huyện: việc phân bổ nguồn kinh phí phải tính toán ưu tiên việc đầu tư và thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh và huyện quyết định. Do đó dẫn đến việc phân bổ nguồn vốn thực hiện và giải ngân nguồn vốn thuộc các hợp phần của Chương trình chậm, kéo dài. Các chương trình dự án đầu tư cho những xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số triển khai chậm, phát triển kinh tế ở những xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc có lúc, có nơi còn hạn chế, chưa kịp thời. Cán bộ phụ trách công tác dân tộc ở cơ sở chưa am hiểu phong tục tập quán, văn hóa đặc trưng của từng dân tộc, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận động và phát huy truyền thống của từng dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đời sống văn hóa tinh thần còn thiếu thốn, phong tục truyền thống, bản sắc văn hóa riêng vẫn còn nguy cơ mai một. Trong những năm tiếp theo, để thực hiện chính sách dân tộc đạt kết quả, Đảng và Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương các cấp và sự chung tay của đồng bào các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội.

pdf107 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách dân tộc - Từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng thiết yếu hỗ trợ đồng bào dân tộc thiều số đón Tết Nguyên Đán. Đối tượng được thụ hưởng là gần 50 nghìn hộ, ở 6 huyện miền núi và các xã miền núi thuộc huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi. Tại huyện Sơn Hà, ngoài ngân sách của tỉnh thì hàng năm UBND huyện cũng phân bổ những mặt hàng thiết yếu hỗ trợ cho bà con đồng bào ăn tết. Bảng 2.8: Hỗ trợ mặt hàng thiết yếu trên địa bàn huyện Sơn Hà từ năm 2014 – 2016 ĐVT kinh phí: 1000đ STT Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 1 Vốn được phân bổ các 373.625 382.402 399.701 2 Giải ngân 355.609 382.402 399.087 3 Chênh lệch 18.016 0 0 4 Tỷ lệ phần trăm giải ngân 4,82 0,00 0,00 (Nguồn: Phòng Dân tộc huyện Sơn Hà) * Hỗ trợ cho người kinh nghèo: Thành tựu 15 năm đổi mới đã ảnh hưởng ngày càng sâu rộng tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng và bước vào một giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế tiến tới phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Tết Nguyên đán cổ truyền là một điều đặc biệt của người Việt Nam, việc chăm lo tết cho người nghèo và gia đình chính sách đang được các cấp, các 70 ngành trong huyện Sơn Hà tích cực triển khai với nhiều hình thức linh hoạt, giúp các gia đình có hoàn cảnh khó khăn được đón tết cổ truyền đầm ấm. Tại huyện Sơn Hà, ngoài người đồng bào dân tộc ít người thì vẫn còn một đại bộ phận người Kinh có mức sống thấp, hành năm, huyện trích từ nguồn kinh phí còn dư sau khi đấu thầu, cộng với nguồn hỗ trợ thêm từ UBND huyện, để cấp hỗ trợ cho người kinh nghèo. Bảng 2.9: Vốn hỗ trợ người nghèo trên địa bàn huyện Sơn Hà từ năm 2014 – 2016 ĐVT kinh phí: 1000đ STT Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 1 Kinh phí hỗ trợ bổ sung 22.583 29.957 12.435 2 Giải ngân 22.583 29.957 12.435 3 Chênh lệch 0 0 0 4 Tỷ lệ phần trăm giải ngân 0,00 0,00 0,00 (Nguồn: Phòng Dân tộc huyện Sơn Hà) Đây là chương trình hỗ trợ của tỉnh Quảng Ngãi , nhằm hỗ trợ cho bà con người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh nhân dịp tết nguyên đán. Chính sách này , có ý nghĩa vầ tinh thần giúp cho bà con người dân tộc thiểu số có thêm được niềm vui khi cái tết đến. 2.3.8. Vốn hỗ trợ đầu tư của nước ngoài Được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, nhiều chính sách, chương trình, dự án đầu tư và viện trợ phát triển kinh tế - xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số đã được triển khai với nhiều nguồn lực trong và ngoài nước. Các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài là một trong những nguồn lực hỗ trợ tích cực góp phần nâng cao đời sống cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam. Dự án của các Tổ chức phi chính phủ nước ngoài tuy quy mô và giá trị không lớn nhưng đã tạo ra hiệu quả trực tiếp cho người dân, tạo ra những khu vực dân cư được nâng cao chất lượng cuộc sống mang tính lâu dài. Trong 71 các lĩnh vực ưu tiên, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam tập trung hỗ trợ chủ yếu vào y tế và giáo dục vì xác định đây là yếu tố then chốt đảm bảo nền tảng cho phát triển bền vững. Các dự án đã tạo điều kiện cho người dân trong lĩnh vực sức khỏe, khám chữa bệnh, nhất là người dân tộc thiểu số vốn khả năng tiếp cận tới các dịch vụ y tế còn rất hạn chế. Tại huyện Sơn Hà, hàng năm vẫn có nhiều dự án triển khai và số vố được phân bổ hàng năm như sau: Bảng 2.10: Vốn hỗ trợ của nước ngoài địa bàn huyện Sơn Hà từ năm 2014 – 2016 ĐVT kinh phí: 1000đ STT Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 1 Vốn được phân bổ các năm 1.500.000 1.000.000 1.600000 2 Giải ngân 1.500.000 1.000.000 1.600.000 3 Chênh lệch 0 0 0 4 Tỷ lệ phần trăm giải ngân 0,00 0,00 0,00 (Nguồn: Phòng Dân tộc huyện Sơn Hà) Trong những năm qua, huyện Sơn Hà được các tổ chức phi chính phủ, các nước như Ailen, Phần Lan hỗ trợ về xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn. Đây là những dự án quan trọng, nhằm giúp cho bà con có được đường giao thông, thuỷ lợi, trường học 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Ưu điểm + Chính sách dân tộc của Chính phủ đã từng bước làm thay đổi cuộc sống trên buôn làng của người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Làm cho kinh tế gia đình nói riêng và kinh tế huyện nhà nói chung từng bước được phát triển, đời sống vật chất tinh thần ngày càng tốt hơn, cơ sở hạ tầng được đảm bảo, hệ thống giao thông, thủy lợi phục vụ sản xuất, kinh doanh, lưu thông hàng hóa từng bước được xây dựng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế vùng. 72 + Chính sách dân tộc đã giúp cho người dân tộc thiểu số nâng cao nhận thức về nhiều mặt, trong đó có cả chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. giúp người dân tộc thiểu số từng bước hiểu được bản chất, mục đích của chính sách dân tộc và ngày càng tin tưởng hơn vào đường lối chủ trương của Đảng. Tránh bị các thế lực thù địch xuyên tạc, lợi dụng sự kém hiểu biết của người dân tộc để chống phá nhà nước. + Chính sách đã giúp cho người dân tộc thiểu số thoát nghèo, người đau ốm có bảo hiểm y tế, có trạm y tế, trẻ em được đến trường đến lớp, được vui chơi sinh hoạt cộng đồng; chính sách giúp người dân tộc thiểu số gần gủi hơn với người dân tộc đa số, giúp kiến thức của người dân tộc đa số, của thế giới từng bước bước vào đời sống sinh hoạt của người dân tộc thiểu số, giúp các dân tộc có điều kiện xích lại gần nhau hơn, đoàn kết và hiểu biết nhau hơn. đây là cái tinh hoa, cái tốt nhất mà chính sách dân tộc đã mang lại cho người dân tộc thiểu số. 2.4.2. Những hạn chế, bất cập của chính sách dân tộc hiện nay + Các chính sách dân tộc đầu tư quá dàng trãi, chính sách đầu tư không tập trung đầu tư vào một lĩnh vực, một thế mạnh của vùng hay một điểm yếu của một tập thể người dân mà đầu tư hỗ trợ áp dụng trên toàn lãnh thổ Việt Nam nên chưa thực sự phù hợp với điều kiện tự nhiên ở các vùng, địa phương khác nhau trên đất nước, trong đó có huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; Nguồn đầu tư kinh phí thấp nên chưa thực sự tạo tác động mạnh mẽ giúp người dân tộc thiểu số rút ngắn thời gian, rút ngắn nhận thức về phát triển kinh tế, chưa giúp người dân tộc thiểu số sớm bắt kịp với nhịp cầu phát triển kinh tế của cả nước. ví dụ Quyết định 102/2009/QĐ-TTg, Chương trình 135 + Chính sách dân tộc tập trung vào vấn đề hỗ trợ, chứ chưa gắng kết được tất cả các khâu từ đầu vào đến chính sách hỗ trợ đầu ra của sản phẩm; chưa kết nối, kích cầu được doanh nghiệp đi cùng chính sách. + Chính sách dân tộc làm người dân tộc thiểu số trông chờ và ỉ lại chính sách hỗ trợ, gây phản tác dụng và hiệu quả mong đợi chính sách. 73 + Việc phân bổ nguồn vốn của một số dự án, quyết định của Chính Phủ về các chính sách dân tộc còn quá chậm. Đến thời gian triển khai thì chính sách này không còn phù hợp do điều kiện phát triển, do sự thay đổi trong đời sống, sinh hoạt của người dân 2.4.3. Nguyên Nhân của các hạn chế, bất cập - Nguyên nhân của việc đầu tư dàn trãi là do cơ chế chính sách, do quy định và yêu cầu của chính sách. Việc tổ chức thực hiện ở địa phương là làm theo chủ trương của cấp trên, theo các văn bản của cấp trên. - Việc chưa tạo sự gắn kết giữa sử dụng đồng vốn hỗ trợ của Nhà nước với nhau hay việc chưa lồng ghép trong thực hiện các dự án khác với các nguồn vốn nhà nước là do tránh nhiệm của lãnh đạo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Do trình độ, năng lực của người đứng đầu. - Chính sách làm cho người dân trông chờ ỉ lại, nguyên nhân là do công tác tuyên truyền của cán bộ chưa tốt, chưa sâu sát làm cho người dân có tư tưởng trông chờ ỷ lại, không những không muốn làm ăn, phát triển kinh tế mà ngược lại còn có tác động xấu, gây ảnh hưởng đến chính sách. Và một nguyên nhân khác là do trình độ nhận thức của người nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, do điều kiện học tập, điều kiện xã hội, điều kiện sống, trình độ dân trí của vùng đặc biệt khó khăn - Việc phân bổ nguồn vốn chính sách chậm, là do việc cân đối nguồn vốn, chính sách của Chính phủ hàng năm. Có những chính sách sớm được khảo sát xây dựng đề án và phân bổ nguồn kinh phí, nhưng cũng có không ít chính sách phải mất 2-3 năm mới có nguồn vốn thực hiện. 74 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Chương II là chương tập trung vào những thực trạng thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. Nội dung nêu ra những thành công và hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách trên địa bàn huyện. Giúp cho người đọc thấy rõ về điều kiện phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn huyện ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách như thế nào, thấy rõ tính ưu việc của những chính sách dân tộc đang thực hiện, thấy rõ những kết quả thành công trong việc thực hiện chính sách dân tộc và qua đó cũng chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế, những vấn đề cần phải tiếp tục khắc phục trong thời gian tới để vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng phát triển hơn, chính sách thực hiện có hiệu quả hơn. 75 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc Tạo sao phải yêu cầu nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc?. Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện chính sách dân tộc có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thành công hay thất bại của một chính sách, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, đến các đối tượng được thụ hưởng, đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khóa khăn. Tập trung nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc sẽ là tiền đề, là cơ sở để đưa chính sách đi vào cuộc sống, giúp chính sách đạt được mục đích, hiệu quả mong đợi khi ban hành. Sơn Hà là một huyện miền núi, thuộc 62 huyện nghèo của cả nước, có 82% người dân tộc thiểu số đang sinh sống, đời sống của bà con người dân tộc còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp, bà con đại đa số làm ăn theo tập quán, truyền thống cũ, lạc hậu , kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn để giúp chính sách dân tộc đi vào đời sống thực tế của bà con, giúp bà con nâng cao nhận thức, thay đổi cách nghỉ, cách làm, giúp địa phương phát triển kinh tế xã hội và giải quyết những khó khăn trên thì cần phải thực hiện có hiệu quả các chính sách dân tộc. Trong những năm qua, việc thực hiện chính sách luôn được tổ chức một cách thường xuyên, duy trì đảm bảo các nội dung theo yêu cầu của chính sách, nhưng trên thực tế qua thực hiện vẫn còn những tồn tại khuyết điểm như đã trình bày ở chương 2, chính vì vậy, để chính sách được thực hiện tốt hơn, đảm bảo đáp ứng theo các yêu cầu , mục đích của chính sách, thì cần phải tiếp tục đổi mới và nâng cap hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc. 76 3.2. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc Việc thực hiện chính sách dân tộc có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó không những giúp giải quyết các vấn đề về dân tộc mà còn góp phần thúc đẩy nhu cầu phát triển sản xuất trong nhân dân vùng đặc biệt khó khăn, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế , ổn định chính trị, bảo đảm an ninh trật tự của đất nước. Chính vì vậy, để thực hiện những mục tiêu đó, cần phải có những phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách sách dân tộc, cụ thể như sau: 3.2.1. Đổi mới nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách dân tộc Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và hết sức khó khăn, phải có sự vào cuộc của cả một tập thể cơ quan chức năng để tạo ra chuyển biến trong nhận thức, suy nghĩ của cán bộ thực hiện chính sách dân tộc. tránh việc đơn giản hoá , xem nhẹ việc thực hiện chính sách dân tộc. Một là phải tổ chức tuyên truyền nâng cao nhận thức việc thực hiện chính sách dân tộc cho cán bộ và những người thực hiện chính sách, giúp cho mọi người thấy được những tác động tích cực của việc thực hiện chính sách đến đời sống của người dân vùng miền núi, nhằm tạo sự chuyển biến về mặt phát triển kinh tế xã hội, phát triển kinh tế vùng. Hai là để đổi mới nhận thức, để mọi người thấy được vai trò, tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách, không có cách nào khác là phải tạo ra những con người thực hiện chính sách dân tộc tâm huyết, phải có những mô hình, gương điên hình về thực hiện chính sách dân tộc thực tế để từng bước làm thay đổi về tư duy nhận thức của mọi người, bằng những công việc và con người thực tế. Ba là nhận thức không thể một sớm một chiều mà có được, chính vì vậy, cần phải có sự duy trì, kiên trì và sự đổi mới phù hợp với thực tế, với nhu cầu 77 phát triển chung của thời đại để từ đó dần dần thay đổi nhận thức vào nhiệm vụ thực hiện chính sách dân tộc của đất nước. 3.2.2. Đổi mới cách thức, phương pháp tổ chức thực hiện chính sách Cách thức và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách dân tộc góp phần thực hiện thành công các chính sách ở địa phương, nơi trực tiếp thực hiện chính sách. Một chính sách không có phương pháp, không có cách tổ chức tốt sẽ không bao giờ thực hiện được tốt, vì vậy không chỉ riêng huyện Sơn Hà mà còn các địa phương khác trong cả nước cần phải có sự đổi mới về cách thực hiện, phương pháp tổ chức thực hiện sao cho đảm bảo, hợp lý. Cụ thể huyện Sơn Hà cần phải thực hiện các nội dung sau: Một là phải xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện một cách rõ ràng, có phân công phân nhiệm cụ thể, từng nội dung, từng công việc trong thực hiện chính sách dân tộc, không để thực hiện một cách chồng chéo, gặp ai thì giao người nấy, hoặc cái có lợi về kinh tế thì làm mà cái không có lợi ích thì giao việc cho người khác thì như thế là không được. Hai là phải học tập những phương pháp tổ chức thực hiện chính sách của các cơ quan đơn vị bạn, những người thực hiện tốt các chương trình chính sách; không thực hiện chính sách theo ý chủ quan, cảm tính Ba là tránh lợi dụng những sơ hở của chính sách, những điều kiện chung để tổ chức thực hiện chính sách dân tộc theo ý kiến, nhận định cá nhân của riêng mình; cần nhận thức đúng, đổi mới đúng và phù hợp với thực tế khi thực hiện chính sách dân tộc. 3.2.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền chính sách dân tộc Đối với công tác tuyên truyền vấn đề cốt lõi cần nhất ở đây là hiệu quả, chất luợng công việc tuyên truyền. trong những năm qua vấn đề tuyên truyền , vận động luôn đuợc thực hiện ở địa phuơng nhưng hiệu quả, chất luợng của nó luôn là vấn đề cần phải nói. 78 Để giải quyết tốt vấn đề này cần phải có sự vào cuộc của các cấp chính quyền, mà quan trọng và trực tiếp là chính quyền địa phương ở cấp xã, cấp huyện. chính sách dân tộc không thể thực hiện được nếu chỉ có Phòng dân tộc huyện, hoặc UBND các xã thực hiện, mà nó cần phải có các cơ quan chức năng liên quan vào cuộc, thực hiện sự phối hợp tuyên truyền của cơ quan các cấp. phải có sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo cấp huyện, xã và đôi khi cần phải có sự quyết liệt, quyết đoán của chính quyền địa phương. Để có chất lượng và hiệu quả trong công tác tuyên truyền cần phải có kế hoạch, có sự chuẩn bị rõ ràng, công khai, minh bạch và đuợc tập thể đồng tình nhất trí đồng loạt thực hiện. công tác vận động tuyên truyền thực hiện chính sách dân tộc càng có sự chuẩn bị tốt tới đâu thì hiệu quả công việc càng tốt tới đó, tránh sự chồng chéo, thiếu tự tin trong công tác tuyên truyền chính sách dân tộc. Nội dung của công việc thực hiện chính sách phải rõ ràng; cán bộ thực hiện tuyên truyền phải có tâm huyết với nghề; tránh ngại khó khăn, gian khổ khi thực hiện chính sách ở vùng miền núi, phải chấp nhận đi tuyên truyền vận động vào ban đêm, ngoài giờ hành chính, phải vuợt rừng,vuợt núi đến tận thôn bản để truyên truyền vận động giải thích cho bà con biết và hiểu đuợc các chính sách của Đảng và Nhà nước. Muốn làm tốt công tác tuyên truyền, người tham gia tuyên truyền phải là người có tính guơng mẫu, đã thực hiện tốt chính sách; đối với việc thực hiện tuyên truyền về các mô hình dự án, thì người thực hiện tuyên truyền phải là người đã thực hiện thành công dự án đó, hoặc phải có mô hình thành công, hoặc con người thành công khác thì tuyên truyền người dân mới nghe và làm theo. Tránh truờng hợp chỉ có cán bộ đến nói suông như những gì cán bộ địa phuơng chúng ta đang thực hiện hầu hết trên các vùng miền núi hiện nay. Tuyên truyền là phải tâm huyết, phải hiểu chính sách dân tộc, phải nắm rõ từng nội dung chủ truơng của Đảng, Nhà nước. tránh truờng hợp người đi tuyên truyền không giải thích được cho dân, đi cho đủ số lượng cán bộ phân công, đi 79 để chơi ; không được phân biệt giữa dân tộc kinh với dân tộc thiểu số khác, phải sống chan hoà với bà con, phải ăn chung, ngũ chung, sinh hoạt chung lành mạnh với bà con buôn làng để hiểu được phong tục, tập quán canh tác, rồi từng bước thay chuyển tư tuởng mới trong sinh hoạt, canh tác và các hoạt động khác trong đời sống xã hội mà Đảng , Chính phủ đã có chủ trương chính sách, quyết định ban hành thực hiện. Công tác tuyên truyền là khâu hết sức quan trọng, nó đưa chính sách dân tộc vào cuộc sống của người dân tộc vùng miền núi, trực tiếp giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế của đời sống bà con, người dân tộc thiểu số nghèo ở vùng đặc biệt khó khăn. Chính vì vậy người làm công tác tuyên truyền phải hết sức tâm huyết, phải có kế hoạch và thực hiện tốt kế hoạch đặc ra, không ngại khó, ngại khổ, không lùi bước trước những khó khăn về địa lý, ngôn ngữ, điều kiện sống nhất là khi thực hiện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 3.2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách dân tộc Hàng năm Nhà nước thực hiện rất nhiều các công trình, dự án, các chương trình nhằm xoá đói, giảm nghèo ở địa phương. để các chương trình dự án của Chính phủ đi vào thực tế đời sống của bà con, không bị thất thoát kinh phí, lảng phí thì cần phải có công tác kiểm tra giám sát. Trong thời gian qua công tác giám sát, kiểm tra trên địa bàn huyện luôn được quan tâm và duy trì, nhưng trên thực tế chất lượng chưa tốt, người tham gia giám sát chưa mạnh dạng chỉ ra những việc sai trái, một số dự án chỉ đến có mặt nghiệm thu, khi phát hiện sai trái chỉ mang tính nhắc nhỡ cho khăc phục, sau đó ký biên bản nghiệp thu rồi về và hàng hoá tiếp tục cấp, công trình tiếp tục được hoàn chỉnh thủ tục , quyết toán và đưa vào sử dụng. để khắc phục tình trạng này, đối với nội dung giám sát, kiểm tra thực hiện chính sách cần làm tốt các nội dung sau: 80 Một là người tham gia kiểm tra, giám sát phải có 1/3 là cấp trên, và 2/3 trong đoàn giám sát không liên quan đến chủ đầu tư. Hai là người thực hiện giám sát, kiểm tra phải là người có kiến thức, năng lực về nội dung kiểm tra đó. Khi đến kiểm tra phải có ít nhất 3 người có trình độ chuyên môn chuyên sâu, để họ có thể đánh giá một cách khách quan, trung thực và có sự am hiểu. đừng để như hiện nay, mỗi cơ quan liên quan được mời, cử đi một người tham gia kiểm tra để nghiệm thu nhưng khi đến chỉ biết nhìn về hình thức bên ngoài, đánh giá bên ngoài của công trình chứ không nhận xét gì về bên trong. Ba là việc kiểm tra của cấp trên phải thực sự sâu sát, không thực hiện qua loa, không kiểm tra theo yêu cầu của chủ đầu tư. Đoàn công tác đến kiểm tra phải tự xác định ngẫu nhiên các chuơng trình dự án mà mình muốn kiểm tra, đừng bao giờ nói trước hay gợi ý chủ đầu tư muốn kiểm tra chổ nào? Thời gian nào?. Khi đến kiểm tra phải đến tận nơi, đừng ngại vùng miền núi khó đi, địa hình xa xôi mà “thôi, ta kiếm chổ nào ngần đây để về chiều còn đi họp”. như thế là không được, chưa sâu sát với bà con, chưa hết trách nhiệm với Đảng, Nhà nước. Bốn là để tránh nạn khai khống, làm chứng từ để thanh quyết toán rồi thực hiện sau. Việc này lãnh đạo các cấp phải sâu sát, kiểm tra đột xuất và kiên quyết chấn chỉnh. Tránh để xảy ra như vụ Ban Quản lý dự án rừng phòng hộ huyện cho thanh toán tiền mua cây giống nhưng trong 2 năm chưa thực hiện, sau đó kiểm điểm kỷ luật rồi thu hồi, như vậy là quá chậm trể. 3.2.5. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tham ô, tệ nạn xã hội Đây là vấn đề, là tác nhân gây ra những việc làm sai trái, làm biến thái bản chất cán bộ. tấc cả cán bộ không ai muốn mình làm việc sai, không ai mới đến nhận việc sẽ nghĩ mình sẽ kiếm tiền bằng cách này, hay cách khác khi làm việc cho nhà nuớc, không ai muốn mình làm cái việc vô luơng tâm, thiếu trách nhiệm kia nhưng cái cốt lõi ở đây là do ma lực của đồng tiền, do ý chí mình 81 chưa vững, do cuộc sống gia đình, do tác nhân bên ngoài và có cả những lý do là phải theo ý của cấp trên. Việc đẩy mạnh phòng chống tham nhũng là một việc vô cùng cần thiết, hiện nay nhà nuớc ta đã tổ chức nhiều biện pháp, mô hình, hình thức khác nhau nhằm làm tốt công tác phòng chống tham nhũng, nhưng có thể nói những giải pháp này chỉ có tốt và dừng lại ở mức cảnh báo đánh động, chứ chưa thực sự phát huy được hết những mong muốn, ý nguyện mà Nhà nước và nhân dân kỳ vọng. Để thực hiện tốt nội dung này nhà nước ta phải thực hiện đồngbộ các giải pháp sau thì mới có khả năng thực hiện nhiệm vụ phòng chống tham nhũng trong thực hiện chính sách dân tộc nói riêng, và các chính sách khác nói chung: Một là phải có cơ chế bảo vệ tuyệt đối người tố cáo tham nhũng, nơi tố cáo đừng yêu cầu phải kê khai quá nhiều thông tin người đi tố cáo và phải hiểu người tố cáo tham nhũng, không phải tố cáo vì để lấy tiền thưởng mà vì quyền lợi, lợi ích chung của cả cộng đồng, vì không thích thấy hành động sai trái ngang ngược diễn ra. Hiện nay nhà nước mong muốn tấc cả những người dân, cán bộ tham gia vào công tác phòng chống tham nhũng nhưng nghịch lý thay khi đi tố cáo tham nhũng đã lo sợ chết khiếp mà tới nơi tố cáo hoặc gửi nội dung tố cáo còn phải kê khai thông tin người tố cáo, người tố cáo luôn mong muốn nhà nuớc phải có cơ chế mở, ví dụ như: mở một cổng thông tin điện tử để mọi người có thể viết vào đấy những nội dung, địa điểm, con người phạm pháp để cơ quan có chức năng đến kiểm tra thực tế là được rồi không cần thiết phải ghi thông tin của ngưòi tố cáo tham nhũng. Còn người tham nhũng muốn khai thông tin để nhận thưởng thì vẫn có phần đăng ký thông tin người tố cáo để sau khi nội dung công việc hoàn thành sẽ đuợc thuởng theo quy định. Hai là phải cho thành lập công ty phòng chống tham nhũng trên đất nước ta. Công ty sẽ tiến hành thành lập và hoạt động nhằm giám sát việc tham ô, tham nhũng và hưởng lợi nhuận từ việc kiểm tra giám sát, thu hồi các nguồn kinh phí 82 của nhà nuớc theo tỷ lệ nhà nuớc quy định. Có thể có nhiều công ty khác nhau, có thể kiểm tra, giám sát, phát hiện lẫn nhau trong quá trình thực hiện phòng chống tham nhũng, tránh việc móc nối cùng nhau tham nhũng. Việc chống tham nhũng nếu được thành lập công ty sẽ tạo ra một mạng lưới chống tham nhũng khắp các nơi, nhân viên thực hiện nhiệm vụ của công ty luôn là con số bí mật, kiến các cán bộ không biết đâu là người kiểm tra mình nên không giám tham nhũng, đáp ứng được việc đầu tiên là phòng ngừa và hạn chế tham nhũng. Và khi phát hiện ra tham nhũng, công ty sẽ giúp nhà nước thu thập các chứng cứ, thông tin và bàn giao cho các cơ quan chức năng của Nhà nước để xử lý. Việc thành lập công ty phòng chống tham nhũng sẽ giúp cho nhà nước tinh giảm bộ máy phòng chống tham nhũng hiện nay, giảm bớt rất nhiều công sức, chi phí và mục đích cuối cùng sẽ đạt được là làm cho cán bộ không giám tham nhũng, từng bước xoá bỏ tham nhũng và tiến tới một đất nước không có tham nhũng. việc này cần phải thực hiện cho đến khi các công ty phòng chống tham nhũng tự giải thể do không còn cán bộ tham nhũng thì mới có thể đánh giá nó đã thành công. Ba là phải có sự đồng thuận của các cấp chính quyền, phải cương quyết chỉ đạo, không những nói bằng miệng mà còn phải hành động bằng những việc làm thiết thực, như trực tiếp giám sát và xử lý vi phạm; phải gương mẫu, mẫu mực, có đạo đức với nghề... Để làm đuợc những vấn đề này rất khó, đã được nghe nhiều, nói nhiều nhưng nó còn nằm trong giới hạn trong lời nói, trong nhận thức con người chứ việc thực hiện chưa được nhiều, chưa được tốt như kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân mong muốn. Tóm lại, để thực hiện phòng chống tham nhũng, không phải chỉ có những giải pháp trên mà cần phải thực hiện phối hợp với nhiều giải pháp khác. Nhưng cơ bản và trước mắt phải xây dựng cho được hệ thống phòng chống và 83 phát hiện tham nhũng ở nhiều nơi, các đơn vị phòng chống tham nhũng có thể tự ứng biến đối phó với tình trạng tham nhũng, biết cách tự mình để phát hiện tham nhũng để hạn chế tình trạng tham nhũng, làm cho cán bộ không giám tham nhũng, sợ tham nhũng, tham ô, lảng phí. Giúp cho nhà nước quản lý hiệu quả hơn, tiết kiệm hơn và tinh gọn hơn về biên chế phòng chống tham nhũng. thiết nghĩ chỉ có như vậy mới có thể góp phần lớn giải quyết vấn đề tham nhũng ở khắp nơi trên đất nước Việt Nam, chứ không chỉ riêng địa bàn huỵên Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi. 3.2.6. Biên chế cán bộ thực hiện chính sách dân tộc ở cấp xã Cấp xã là cấp trực tiếp thực hiện hầu hết các chính sách dân tộc như chường trình 30a, chương trình 135, quyết định 167/QĐ-TTg nhưng tại cấp xã hiện nay chưa có biên chế chính thức để thực hiện các nhiệm vụ, công việc hiện nay chỉ có các cán bộ xã kiêm nhiệm thực hiện chính sách ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chính vì vậy, công việc luôn bị chậm trể, chồng chéo, lúc phân cán bộ này theo dõi, lúc phân cán bộ khác theo dõi, do vậy không thể sâu sát trong quá trình đánh giá, kiểm tra, rà soát, dẫn đến việc rà soát luôn có những sai sót nhất định trong thực hiện chính sách dân tộc. Những công việc nhỏ, không có cán bộ chuyên môn nên không thể làm việc trực tiếp và giải quyết nhanh công việc mà phải qua nhiều khâu như gặp lãnh đạo với nhau để triển khai, sau đó mới cử một cán bộ khiêm nhiệm, sau đó mới tiếp tục triển khai các nội dung tiếp theo. Trên thực tế, một số công việc không đáng phải mất nhiều thời gian như thế cũng có thể giải quyết được nếu có cán bộ phụ trách chuyên môn. Để khắc phục tình trạng này, giải pháp cơ bản và chủ yếu là phải tổ chức biên chế cán bộ xã thực hiện chính sách dân tộc, các chính sách dân tộc hầu hết do cấp xã trực tiếp thực hiện và hầu hết người dân ở xã là người dân tộc thiểu số, chính vì vậy , cần phải ưu tiên một biên chế cấp xã để thực hiện nhiệm vụ chính sách dân tộc tại địa phuơng là vô cùng cần thiết. song bên cạnh đó cần phải có các chính sách hỗ trợ đặc thù cho các bộ xã, thôn làm công tác dân tộc, vì chính 84 sách dân tộc hầu hết thực hiện ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn, điều kiện đi lại phức tạp, người dân tộc vùng cao sống không tập trung, khó khăn rất nhiều trong tác tác tuyên truyền, vận động khi đến nhà dân nhưng các khoản tiền lương, phụ cấp của cán bộ xã, thôn rất thấp, nếu đi làm nhiều sẽ gặp khó khăn về tài chính, cũng như trong sinh hoạt gia đình. 3.2.7. Kết nối doanh nghiệp trong thực hiện chính sách dân tộc nhằm giảm nghèo bềnh vững và phát triển kinh tế vùng Đây là một chủ trương lớn mà Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, làm sao kết nối được doanh nghiệp với hoạt động sản xuất nông nghiệp của bà con. Giúp cho bà con có nguồn đầu ra ổn định, an tâm sản xuất, doanh nghiệp có nguồn hàng hoạt động thường xuyên và địa phương phát triển kinh tế vùng. Hiện nay có rất nhiều nguồn vốn Chính phủ, UBND tỉnh, UBND huyện phê duyệt phân bổ hàng năm để giúp cho bà con giảm nghèo, bên cạnh hỗ trợ bằng kinh phí để phát triển, nhà nuớc còn hỗ trợ cả về tinh thần, xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu cho nhân dân để có cơ sở làm ăn phát triển kinh tế nhưng hiệu quả đem lại của nó rất thấp, chưa thật sự tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ như kỳ vọng của Đảng và Nhà nước. nguyên nhân chưa đạt được ở đây mà bản thân tôi nghĩ Nhà nước và chính phủ chưa thấy được hoặc chưa làm được đó là do vốn chúng ta thực hiện phân bổ vốn quá dàng trải, tràn lan, thiếu tính tập trung và thực hiện chưa theo quy hoạch phát triển vùng, song cùng với nó là chưa thực sự tạo cơ hội cho doanh nghiệp bắt tay vào cùng phát triển với bà con, chưa có chính sách bảo hộ rủi ro khi doanh nghiệp giúp bà con nhưng do thời tiết, sự cố, biến động kinh tế hoặc bị tác động bên ngoài làm ảnh huởng đến việc làm ăn phát triển chung của doanh nghiệp và bà con bị ngưng trệ, thất thoát Muốn doanh nghiệp thật sự bắt tay vào phối hợp với địa phương, bà con nhân dân để phát triển kinh tế, thì nguồn vốn nhà nuớc phân bổ về phải gắn liền với doanh nghiệp, cụ thể phải hội tụ đủ các yếu tố sau : - Nhà nước mua giống, thực hiện 01 loại giống và quy hoạch trồng tập trung. 85 Trong những năm qua, các địa phương cấp xã, chỉ đuợc nhà nước hỗ trợ 200-300 triệu đồng, nhưng lại chọn rất nhiều loại cây, con giống khác nhau, sau đó cấp cho nhiều người dân khác nhau trồng (chăn nuôi) ở các vị trí khác nhau trong thôn, xã. Chính vì vậy, doanh nghiệp chỉ biết bán giống, không thể thu mua hàng hoá nhỏ lẽ, chỉ có thương lái đến gom mua, vì vậy người dân thường bị ép giá. Việc bán giống không phải thu mua, giúp doanh nghiệp có nhiều lợi nhuận truớc mắt nên các doanh nghiệp đua nhau xin đăng ký cung ứng hàng hoá, và từ đây sẽ xảy ra các tình trạng tiêu cực, tham ô, nhũng nhiễu Thiết nghĩ giả sử chúng ta chỉ giao cho những doanh nghiệp có bao tiêu sản phẩm đầu ra thực hiện mua giống để cấp giống thì liệu có xảy ra tham nhũng hay không? Có hạn chế tham nhũng đuợc không? Khi họ cần chất lượng giống tốt để sau này có sản phẩm tốt? nếu sản phẩm đầu ra không tốt doanh nghiệp cũng phải thu mua theo giá cố định và tấc nhiên sẽ không sẽ không buôn bán hoặc xuất khẩu được đối với hàng hoá kém chất lượng chính vì vậy, khi cần chất luợng sản phẩm tốt thì gắn với họ đó là trách nhiệm đầu ra, doanh nghiệp phải có kỹ thuật luôn kiểm tra, theo dõi, phải chi phí rất nhiều khoản liên quan thì liệu có giám phung phí chạy chọt dự án hay không? - Doanh nghiệp bán giống nhưng phải có cam kết tiến hành thu mua bao tiêu sản phẩm. - Nhân dân thực hiện theo đúng kỹ thuật Để thực hiện tốt việc kết nối giữa nhà nước, doanh nghiệp, và người dân cần phải tập trung vào gải quyết các nội dung sau: Một là phải quy hoạch tập trung vùng nguyên liệu, vùng sản xuất gắn với định huớng sản xuất của địa phương và doanh nghiệp. Hai là phải có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, trong việc mua cung ứng giống và bao tiêu sản phẩm. 86 Ba là Nhà nuớc phải hỗ trợ doanh nghiệp về tài chính, như vay vốn, hỗ trợ kinh phí trực tiếp khi đầu tư vào vùng dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn ; đồng thời phải mở một kênh thu hút đầu tư vào miền núi, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số cho các doanh nghiệp biết tại tỉnh đó, huyện đó, xã đó có chính sách gì hỗ trợ doanh nghiệp như: về đất đai, thuế, về kinh phí và cho doanh nghiệp biết được vùng đó sản xuất phù hợp với loại hình phát triển nào? điều kiện giao thông ra sao? đơn giản chỉ cần xây dựng một website thông tin về phát triển kinh tế vùng miền núi và cập nhật thường xuyên những thông tin mới thì sẽ có doanh nghiệp vào tham gia ngay. Và cũng ở đây các địa phương sẽ thấy được sự phát triển kinh tế giữa các vùng trong cả nước , thấy được những mô hình, kinh nghiệm sản xuất, từ đó đưa ra chính sách hợp lý với địa phương mình để thu hút đầu tư và phát triển trên mảnh đất của mình. Bốn là quy trình thực hiện phải tinh giảm các thủ tục hành chánh và thời gian bằng cách đưa ra những quy định chung nhất để đạt mục đích cuối cùng là thành quả thực hiện. đừng để muốn thụ hưởng một chính sách của Chính phủ, của Tỉnh phải qua hết Sở ban ngành này, đến Sở ban ngành kia , phải làm bao nhiêu công đoạn thủ tục nhỏ lẽ mới có thể được thụ hưởng. Năm là tạo điều kiện cho bà con dân tộc thiểu số vùng khó khăn vay vốn lãi suất 0%, doanh nghiệp cam kết tham gia cam kết giúp dân trả tiền vay tại ngân hàng khi bán hàng hoá. Sáu là chính sách hỗ trợ cho bà con vùng đồng bào dân tộc thiểu số phải hỗ trợ tập trung về vốn, loại giống trên cơ sở đã quy hoạch loại giống sản xuất; hỗ trợ phát triển kinh tế thì phải hỗ trợ theo vùng sản xuất, tránh truờng hợp như hiện nay hỗ trợ theo đối tượng và chọn giống theo yêu cầu của đối tượng được hưởng lợi thì rất khó khăn trong việc quy hoạch và thực hiện định hướng sản xuất kinh doanh. Để phát triển kinh tế xã hội của các địa phương vùng dân tộc thiểu số, rất cần sự quan tâm thực sự của các cấp chính quyền ở địa phương, nhân dân, doanh 87 nghiệp. Dù Đảng và Nhà nước có chính sách tốt mấy, có tạo điệu kiện đến mấy mà không có sự vào cuộc, sự tâm huyết của chính quyền địa phương, nhân dân, doanh nghiệp thì chính sách đó cũng trở nên kém hiệu quả, khó phát triển được theo kỳ vọng của nhà ban hành chính sách . 3.2.8. Kiến nghị thay đổi những chính sách chưa hợp lý Hiện nay, không những lĩnh vực công tác dân tộc mà còn có những lĩnh vực khác, các chính sách khi ban hành ra điều có những mặt ưu của nó và song hành với đó cũng không ít những nội dung không phù hợp làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả của chính sách dân tộc, cụ thể: Một là tại Quyết định 102/2009/QĐ-TTg ngày 7 thang 8 năm 2009 của Thủ tướng chính phủ, quy định hỗ trợ 1 người dân nghèo tại khu vực 2 được hỗ trợ 80.000đ/năm và khu vực 3 là 100.000đ/năm. với mục tiêu mong muốn của chính sách là hỗ trợ đời sống của người dân, góp phần xoá đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội vùng khó khăn, hộ trợ người dân nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và từng bước tiếp cận với sản xuất hàng hoá, thông qua hỗ trợ giống cây trồng con vật nuôi có chất lượng cao. Đây là một chính sách tốt nhưng nó chưa thực sự hiệu quả ở chổ nguồn vốn hỗ trợ quá thấp và trong chính sách chỉ quy đinh 4 loại có thể mua: cây – con giống, muối I-ốt và thuốc thú y hoặc là đuợc cấp tiền mặt. Nguồn vốn quá thấp làm cho người dân nghèo không biết mua gì, lựa chọn cái gì để mua làm giống phát triển kinh tế để thoát nghèo ở vùng miền núi. nguồn vốn thấp khi cấp bằng tiền thì người dân không đủ mua giống thì dùng tiền sai mục đích , thường là mua rượu uống; còn quy định không chế việc mua hàng hoá phát triển sản xuất gây khó khăn không nhỏ cho địa phương, vì nguồn vốn đã ít, mua để cấp cây con giống thì không đủ phát huy tính hiệu quả, muốn mua những loại hàng hoá có giá trị thì không đuợc phép mua, như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật đấy là một thực tế. chính vì thế cần phải có những sự thay đổi , điều chỉnh chính sách này cho phù hợp, đem lại hiệu quả cao cho địa phương. 88 Phải thay đổi, mở rộng phạm vi mua hàng hoá sản phẩm nông nghiệp và tăng nguồn kinh phí hỗ trợ cho bà con, tránh trường hợp làm như hiện nay . Hai là tại quyết định 33/2013/QĐ-TTg ngày 4/6/2013 của Thủ tướng chính phủ. Đây là chính sách hỗ trợ di dân về tái định canh định cư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. việc quy hoạch, rà soát hộ di dân đuợc thực hiện từ năm 2008 và có quyết định phê duyệt của Chính phủ vào năm 2009, nhưng mãi đến những năm gần đây mới có kinh phí phân bộ về hỗ trợ cho người di cư . việc phân bổ ngân sách về thực hiện tái định canh đinh cư cho người dân tộc thiểu số sống di cư không còn ý nghĩa và tốn ngân sách của nhà nuớc khi hiện nay không còn hộ dân tộc thiểu số sống di cư. Lợi dụng chính sách này những cán bộ tha hóa, biết chất, tham lam vẫn cứ trình các văn bản , làm các thủ tục để xin nguồn vốn phân bổ về thực hiện sai mục đích của chính sách. Đây là việc làm sai trái, cấp trên có chức năng cần phải rà soát lại đối tượng, từng người, từng hộ dân cụ thể, trước đây họ sống ở đâu, làm gì? họ có phải là những đối tượng du canh du cư không để có biện pháp khắc phục. trong thời gian tới, đối với chính sách này, Nhà nước cần phải tiến hành rà soát lại sớm và cần phải nghiêm chỉnh chấn chỉnh, xử phạt nghiêm minh những cán bộ vi phạm, đừng để cán bộ tha hoá , lợi dụng để cho xây dựng các công trình dự án để chuộc lợi cá nhân. Ba là tại quyết định số 54/2012/QĐ-TTg ngày 4/12/2012 và quyết định 755/QĐ-TTg ngày 20/05/2013 của Thủ tướng chính phủ, về việc cho vay vốn hỗ trợ sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số nghèo vùng đặc biệt khó khăn. cần thực hiện các giải pháp sau đây: - Tăng nguồn kinh phí vay vốn cho bà con ngừơi đồng bào dân tộc thiểu số nghèo vùng khó khăn, vì đã là những người nghèo nhưng nguồn vay vốn thấp thì khó có thể mua trang thiết bị, giống cây trồng, nhân công và để trang trãi trong quá trình sản xuất, chăn nuôi 89 - Tạo cơ chế phối hợp với doanh nghiệp tổ chức hợp tác sản xuất kinh doanh, theo hình thức doanh nghiệp hỗ trợ bảo lãnh ngân hàng, tiêu thụ bao tiêu hàng hoá - người dân vay vốn sản xuất hàng hoá. - Để bà con mạnh dạng vay vốn, nhà nước cần hỗ trợ ở mức lãi xuất 0% để kích cầu vay vốn sản xuất hàng hoá. Thay vào đó không nên hỗ trợ cho không như các chương trình 135, 30a bà con sẽ lợi dụng chính sách, ỉ lại, không muốn làm ăn, không muốn thoát nghèo để được thụ hưởng chính sách. Đây là gải pháp tốt, giúp cho người dân tránh ỉ lại, chú trọng đến việc làm ăn để thoát nghèo, giải quyết một phần việc tham ô tham nhũng của cán bộ thông qua việc hỗ trợ mua giống cây trồng, con vật nuôi 90 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Chương 3 là chương tập trung sâu vào những giải pháp, chỉ rõ thêm và giải quyết những khâu yếu, cái chưa tốt, những việc còn tồn tại của việc thực hiện chính sách và đồng thời đưa ra những phương hướng giải pháp sát thực cần phải làm trong thời gian tới, giúp cho người đọc có thể tìm ra đuợc cách giải quyết ở địa phương mình thông qua thực tế việc thực hiện chính sách dân tộc ở huyện Sơn Hà tỉnh Quảng Ngãi. 91 KẾT LUẬN Chính sách dân tộc là một trong những vấn đề cơ bản và mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong một quốc gia đa dân tộc, đây là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Chỉ trên cơ sở một chính sách dân tộc đúng đắn mới có thể giải quyết được vấn đề dân tộc - một vấn đề được coi là phức tạp và nhạy cảm. Một chính sách dân tộc đúng phải tác động làm biến đổi thực sự bộ mặt kinh tế, văn hoá, xã hội của các vùng dân tộc và các dân tộc; từng bước cải thiện; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Suy đến cùng, việc thực hiện chính sách dân tộc nhằm bảo đảm nguyên tắc: bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc. Để thực hiện mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách ưu tiên phát triển miền núi, vùng dân tộc, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ bảy, khoá IX về công tác dân tộc và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Bên cạnh đó, Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình, dự án nhằm đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế - xã hội miền núi tạo ra sự phát triển toàn diện, bền vững các tỉnh miền núi, trong đó phát riển kinh tế là nền tảng, phát triển văn hoá - xã hội là khâu đột phá. Sơn Hà là huyện miền Tây của tỉnh Quảng Ngãi, nằm trong khu vực phát triển kinh tế trọng điểm miền Tây của Tỉnh với nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng, xã hội, lịch sử, văn hoá vô giá cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh Quảng Ngãi. Điểm khác biệt của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Sơn Hà là sống xen kẽ với đồng bào dân tộc Kinh ở khắp các địa bàn, ít tập trung thành bản, làng riêng biệt. Phần lớn địa bàn cư trú là vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, điều kiện đi lại còn gặp nhiều khó khăn. Các dân tộc thiểu số ở Sơn Hà có lịch sử đấu tranh hào hùng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ suốt trong các cuộc kháng chiến của dân tộc đã góp phần làm cho Sơn Hà anh hùng 92 trong kháng chiến và năng động trong thời kỳ đổi mới. Vì vậy, việc thực hiện chính sách dân tộc là một vấn đề được các cấp, các ngành quan tâm, để từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Sơn Hà, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số với những nhiệm vụ chủ yếu: phát triển kinh tế, ổn định dân cư đối với đồng bào các dân tộc thiểu số; đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm; nâng cao dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và xây dựng, củng cố hệ thống chính trị tại cơ sở, đào tạo bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số; xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trên địa bàn huyện Sơn Hà đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Chính sách dân tộc ngày càng chứng minh được vai trò của mình trong hệ thống các chính sách quốc gia, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, với việc cụ thể hoá chính sách dân tộc của Đảng vào thực tiễn, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cũng như sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc thiểu số, huyện Sơn Hà đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng quan trọng: Quyền bình đẳng dân tộc thể hiện ngày càng rõ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống chính trị được xây dựng và củng cố; kết cấu hạ tầng xã hội được quan tâm đầu tư, đáp ứng cho phát triển kinh tế dân sinh; đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện và nâng cao; chính trị ổn định và quốc phòng, an ninh được giữ vững. Do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, khi triển khai chính sách dân tộc của Đảng trên thực tế ở Sơn Hà đã gặp không ít khó khăn, hạn chế: Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực về mọi mặt, nhưng nhìn chung đời sống kinh tế của đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn thấp so với mặt bằng chung trên toàn huyện. Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật của một số hộ chưa cao, một số trường 93 hợp hộ còn thiếu đất và không có đất sản xuất. Một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số còn trông chờ, ỷ lại vào chính sách hỗ trợ của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên, chưa tích cực tham gia góp vốn, góp công sức bằng chính nội lực của mình. Trình độ văn hóa và nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số còn hạn chế nên công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Thực hiện các chương trình, chính sách trên địa bàn huyện Sơn Hà từ nguồn ngân sách của tỉnh và của huyện: việc phân bổ nguồn kinh phí phải tính toán ưu tiên việc đầu tư và thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh và huyện quyết định. Do đó dẫn đến việc phân bổ nguồn vốn thực hiện và giải ngân nguồn vốn thuộc các hợp phần của Chương trình chậm, kéo dài. Các chương trình dự án đầu tư cho những xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số triển khai chậm, phát triển kinh tế ở những xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số còn chậm, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số còn cao. Quản lý nhà nước về công tác dân tộc có lúc, có nơi còn hạn chế, chưa kịp thời. Cán bộ phụ trách công tác dân tộc ở cơ sở chưa am hiểu phong tục tập quán, văn hóa đặc trưng của từng dân tộc, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc vận động và phát huy truyền thống của từng dân tộc trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đời sống văn hóa tinh thần còn thiếu thốn, phong tục truyền thống, bản sắc văn hóa riêng vẫn còn nguy cơ mai một. Trong những năm tiếp theo, để thực hiện chính sách dân tộc đạt kết quả, Đảng và Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng bộ, chính quyền địa phương các cấp và sự chung tay của đồng bào các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã hội. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chỉ đạo Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam (2009), Kỷ yếu đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số địa phương lần thứ nhất – 2009, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Bế Trường Thành(2010), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Bế Viết Đẳng (1996), Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 4. C. Mác, Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Đậu Tuấn Nam (2009), Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Hoàng Văn Hoan (2014), Xây dựng nông thôn mới vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. Lâm Quý (2009), Văn hóa các dân tộc thiểu số Vĩnh Phúc, Ban Dân tộc – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc 8. Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (1998), Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 9. Lê Ngọc Thắng (2005), Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 10. Lô Quốc Toàn(2010), Phát triển nguồn cán bộ dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 11. Nguyễn Đăng Thành (2010), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Nguyễn Đức Lữ (2013), Tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Nguyễn Quốc Phẩm (2000), Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số (các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Nguyễn Văn Lý(2012), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ lãnh đạo quản lý cấp huyện người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Nguyễn Văn Nam (2009), Vấn đề giao đất, giao rừng và định canh, định cư vùng đồng bào các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 17. Phạm Thanh Hà(2010), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Trần Hữu Tiến(2011), Dân tộc trong lịch sử và trong thời đại ngày nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Trần Quang Nhiếp (1997), Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay. Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 22. Ủy ban dân tộc(2010), Kỷ yếu Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất – 2010, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc ( 2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 24. Ban Dân tộc tỉnh Vĩnh Phúc (2011), Vựng tập Các dân tộc thiểu số ở Vĩnh Phúc. 25. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 26. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa X(2000), Chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước về dân tộc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 29. Nxb Chính trị quốc gia (2012), Tài liệu nghiên cứu các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (Dùng cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên), Hà Nội. 30. Trường Đào tạo nghiệp vụ công tác dân tộc - Ủy ban Dân tộc (2004), Các chuyên đề bồi dưỡng về nghiệp vụ công tác dân tộc cho cán bộ ở địa phương (Tài liệu phục vụ cho Hội nghị tập huấn năm 2004), Hà Nội. 31. Lê Duy Đại (2002), Một số chính sách cán bộ ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số hiện nay, Dân tộc học, (4), tr3-4. 32. Hoàng Công Dũng (2005), Sự tham gia của người dân trong xây dựng và thực hiện các chính sách dân tộc, Dân tộc (52), tr27-30. 33. Phan Hữu Dật (2003), Hợp tác, tương trợ giữa các dân tộc hướng tới mục tiêu ổn định và phát triển xã hội tại các vùng đa dân tộc ở nước ta, Lý luận chính trị, (8), tr27-31. 34. Nguyễn Quốc Phẩm (2004), Vị trí chiến lược của vấn đề dân tộc, công tác dân tộc và đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nước ta, Lý luận chính trị, (3), tr42- 35. Đặng Quốc Tiến (2004), Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn hiện nay, Cộng sản, (20), tr18-21. 36. Bế Thu Hương(2003), Thực hiện chính sách dân tộc ở vùng núi phía Bắc nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Luận văn tốt nghiệp lớp cao cấp lý luận chính trị. 37. Đặng Thành Đạt (2007), Nghiên cứu so sánh chính sách dân tộc của Trung Quốc và Việt Nam thời hiện đại, Luận án Tiến sĩ Lịch sử. 38. Hồ Thị Ngọc Mai (2006), Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay ,Luận văn Thạc sĩ Triết học. 39. Nguyễn Thị Phương Thủy (2001), Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn Thạc sĩ Triết học. 40. Nguyễn Thị Phương Thủy (2006), Thực hiện chính sách dân tộc ở Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ Triết học. 41. Phạm Công Tâm (2001), Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Dương và Bình Phước, Luận án Tiến sĩ Triết học. 42. UBND huyện Sơn Hà, Báo cáo tổng kết công tác dân tộc năm 2014, 2015, 2016,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_chinh_sach_dan_toc_tu_thuc_tien_huyen_son.pdf
Luận văn liên quan