Hòa giải từ lâu vốn đã được xem là một truyền thống đạo lý tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết
tương thân, tương ái trong cộng đồng, mang đậm tính nhân văn, hoạt động
vì mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội và nền tảng pháp luật, nếu thực hiện
tốt công tác này sẽ giúp ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong
bối cảnh đời sống hiện nay, khi những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp về
quyền lợi phát sinh một cách thường xuyên hơn, công tác hòa giải càng
đóng vai trò quan trọng, giúp hạn chế một phần tình trạng tranh chấp, đơn
thư khiếu kiện do thiếu hiểu biết về pháp luật.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác hòa
giải, công tác triển khai thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã được các cấp, các ngành quan
tâm chỉ đạo. Hoạt động hoà giải ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Quảng
Ngãi không ngừng đẩy mạnh phát triển, đã và đang từng bước được nâng
cao về chất lượng, tổ chức và hoạt động ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu
quả, đúng quy định của pháp luật. Hầu hết các tổ hòa giải đã được kiện
toàn bảo đảm đúng quy định, chất lượng hòa giải được nâng lên, thể hiện
qua tỷ lệ các vụ hoà giải thành năm sau cao hơn năm trước đã hỗ trợ đắc
lực cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết trực tiếp những vụ
việc vi phạm pháp luật, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội, hạn chế đơn thư, khiếu nại vượt cấp, tiết kiệm thời gian và tiền
bạc của cơ quan nhà nước và công dân. Mạng lưới tổ hoà giải được củng
cố, mở rộng thu hút được nhiều thành phần, nhiều lực lượng tham gia.
Toàn thành phố có 234 thôn, tổ dân phố nhưng có đến 239 tổ hoà giải và
không có thôn, tổ dân phố nào trên địa bàn không có tổ hoà giải, có những
thôn, tổ dân phố có đến 2 tổ hoà giải. Công tác tập huấn nâng cao kiến97
thức, kỹ năng cho hòa giải viên luôn được chú trọng, thực hiện thường
xuyên. Hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp
hành pháp luật, ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật”; góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa
đói, giảm nghèo, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở tại thành
phố Quảng Ngãi vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế như chế độ bồi
dưỡng cho hòa giải viên và điều kiện hoạt động của các tổ hòa giải chưa
được quan tâm đúng mức. Một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương
chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của công tác hòa giải cơ sở.
Bên cạnh đó, một số xã do biên chế cán bộ ít nhưng lại đảm trách nhiều
công việc nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác hòa giải. Các
Tổ hòa giải thường xuyên thay đổi nhân sự nên việc nắm bắt một số quy
định pháp luật và tích lỹ kinh nghiệm trong công tác hòa giải còn hạn chế.
113 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 631 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm phiếu khảo sát cho hòa giải viên cơ sở về trình độ văn hoá, mức
độ am hiểu pháp luật... Bên cạnh đó, thông qua những buổi họp tổ dân phố,
khu dân cư, thôn xóm cũng cần lấy phiếu khảo sát để nắm bắt được uy tín,
tín nhiệm của người dân đối với hòa giải viên cơ sở. Đó mới chính là mẫu
số chung đánh giá tính hiệu quả hay không hiệu quả của công tác hòa giải
cơ sở.
Hai là, việc tổ chức tập huấn bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng
nghiệp vụ hòa giải vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tế; năng lực của hòa
giải viên còn hạn chế; việc thống kê, lưu trữ về công tác hòa giải còn nhiều
bất cập.
Mặc dù những năm gần đây, Phòng Tư pháp thành phố Quảng Ngãi
đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cũng như nhiều cơ quan, đoàn
thể khác như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến
binhthường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp
luật và kỹ năng hòa giải, biên soạn và cung cấp các tài liệu hướng dẫn
nghiệp vụ cho hòa giải viên nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tổ
hòa giải, hòa giải viên không nắm vững quy định của pháp luật, tiến hành
hòa giải những vụ việc mà pháp luật quy định không được hòa giải. Phần
lớn hòa giải viên thiếu kỹ năng hòa giải ở cơ sở, không thường xuyên cập
nhật kiến thức pháp luật nên gặp khó khăn trong quá trình hòa giải, đặc biệt là
đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều chính sách, pháp luật.
Hay cũng có trường hợp hòa giải viên còn lúng túng khi xác định vụ việc có
thuộc phạm vi hòa giải hay không.
Tình trạng vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
vẫn còn xảy ra tương đối nhiều. Trong một số trường hợp, do hòa giải viên
75
không nắm vững các quy định của pháp luật nên vẫn tiến hành hòa giải những
vụ việc không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở như những hành vi vi phạm
pháp luật mà theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính
hoặc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc lưu trữ, thống kê hồ sơ, biểu
mẫu, sổ sách và cách ghi chép còn nhiều thiếu sót. Nhiều tổ hòa giải chưa
mở sổ theo dõi, chưa cập nhật đầy đủ thông tin về các vụ việc hòa giải nên
gặp khó khăn trong công tác quản lý.
Theo số liệu thống kê, đa số hòa giải viên đều không có trình độ
chuyên môn về pháp luật, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, trong 1.382 hòa
giải viên có 40% chưa qua đào tạo, 42% chưa được tập huấn, bồi dưỡng
kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải. Một số hòa giải viên chưa thật sự
tâm huyết với công tác hòa giải, ngại va chạm, thiếu nhiệt tình nên ảnh
hưởng đến hiệu quả hòa giải. Một số tổ hòa giải ở cơ sở hoạt động còn
mang tính hình thức, chiếu lệ, coi hòa giải như là cách giải quyết “phân
xử” buộc các bên phải tuân theo từ đó làm mất ý nghĩa và nguyên tắc tự
nguyện, tự thỏa thuận trong hoạt động hòa giải mà pháp luật về hòa giải ở
cơ sở đã quy định.
Ba là, kinh phí dành cho công tác hòa giải ở cơ sở còn hạn chế.
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP
ngày 30 tháng 7 năm 2014 của Bộ Tài chính – Bộ Tư pháp hướng dẫn việc
lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí đảm bảo cho công tác phổ biến
giáo dục pháp luật có quy định tiền thù lao cho Hòa giải viên nhưng do
chưa có hướng dẫn cụ thể về mức chi, khoản chi, hồ sơ phục vụ việc thanh
toán... nên rất khó thực hiện trong thực tế. Hầu hết các xã, phường không
có nguồn để hỗ trợ cho hoạt động của tổ hòa giải. Vì vậy đã không khuyến
khích, động viên được hòa giải viên cũng như hoạt động hòa giải ở cơ sở
76
Hiện nay, theo Quyết định 18/2015/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi có quy định các mức chi cụ thể theo từng vụ hòa giải, hỗ
trợ chi hội họp, tổng kết, mua văn phòng phẩm,.. Tuy nhiên, nhiều xã,
phường chậm thực hiện, thậm chí có xã, phường vẫn chưa thực hiện chi hỗ
trợ cho công tác hòa giải. Điều đó đã làm giảm uy tín của chính quyền đối
với các tổ hòa giải, ảnh hưởng đến sự nhiệt tình của hòa giải viên.
Bốn là, những bất cập của Luật trong việc quy định phạm vi hòa giải
ở cơ sở.
Thay vì quy định phạm vi hòa giải ở cơ sở theo hướng liệt kê gồm
các trường hợp được hòa giải và các trường hợp không được hòa giải như
trong Pháp lệnh năm 1998, Điều 3 Luật hòa giải ở cơ sở quy định về phạm
vi hòa giải theo hướng loại trừ, chỉ quy định về các trường hợp không được
hòa giải ở cơ sở. Theo Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở, việc hòa giải ở cơ sở
được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật, trừ
các trường hợp sau đây: mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng; vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình, giao
dịch dân sự mà theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự không được hòa
giải; vi phạm pháp luật mà theo quy định phải bị truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc bị xử lý vi phạm hành chính; mâu thuẫn, tranh chấp khác không
được hòa giải ở cơ sở theo quy định pháp luật.
Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP cần quy định rõ những trường
hợp được tiến hành hòa giải và những trường hợp không được tiến hành
hòa giải. Vì tổ hòa giải chỉ là một tổ chức tự quản tại cộng đồng, trình độ
hiểu biết pháp luật của hòa giải viên còn nhiều hạn chế như nêu trên, thì
việc xác định như thế nào là hành vi vi phạm pháp luật mà “chưa đến mức”
bị xử lý vi phạm hành chính, cũng như xác định “vụ án đã được khởi tố,
77
nhưng sau đó có quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng về đình chỉ điều
tra.... và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật”, theo tôi, là thách thức đặt ra khó “khả
thi” đối với hòa giải viên khi tiếp nhận vụ việc hòa giải cụ thể. Bên cạnh
đó, việc Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định trường hợp “pháp luật quy
định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại
không yêu cầu khởi tố...” được hòa giải là không có cơ sở thực tế vì trong
những vụ án này, người bị hại có yêu cầu khởi tố bất cứ thời điểm nào
trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài ra, quy định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP
lại viện dẫn đến nhiều quy định khác nhau trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003. Song Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã được thay thế bởi Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 kể từ ngày 01/7/2016. Theo đó, một số điều
luật được viện dẫn đã được thay đổi vị trí, được sửa đổi, bổ sung nội dung
quy định mới cần được bổ sung thay thế trong quy định của Nghị định số
15/2014/NĐ-CP.
Cũng tại điểm c khoản 2 Điều 4 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy
định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải ở
cơ sở quy định “kết hôn trái pháp luật” không thuộc phạm vi hòa giải ở cơ
sở. Trong khi đó, điểm b khoản 2 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP chỉ
quy định “vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo quy định của
pháp luật phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết...” mà
không nêu hành vi vi phạm cụ thể không được tiến hành hòa giải ở cơ sở.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, trình độ hiểu biết pháp luật của một số hòa giải viên còn hạn
chế, nhiều hòa giải viên chưa được tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ. Hằng
78
năm Phòng Tư pháp tham mưu UBND thành phố tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng nghiệp vụ cho tổ trưởng tổ hòa giải, chưa có điều kiện kinh phí để
tập huấn nghiệp vụ cho các tổ viên.
Hai là, UBND xã, phường không xây dựng cụ thể dự toán kinh phí
hỗ trợ cho hoạt động hòa giải trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết
định để làm cơ sở triển khai thực hiện nên khi được phân bổ, giao dự toán
chi ngân sách hàng năm phải tự cân đối, dẫn đến bị động, khó khăn trong
việc chi hỗ trợ cho công tác hòa giải ở cơ sở.
Ba là, đội ngũ làm công tác quản lý nhà nước về hòa giải còn kiêm
nhiệm, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên
chưa đạt kết quả.
Bốn là, Ban công tác mặt trận và các thành viên có lúc, có nơi chưa
thực sự là mối liên kết để vận động, hòa giải kịp thời, triệt để các mâu
thuẫn trong cộng đồng dân cư.
Năm là, thành viên của hầu hết các Tổ hoà giải được chọn lựa, cơ
cấu từ thành viên của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội ở cơ sở, có địa phương cơ cấu chủ yếu từ các Bí thư, Phó Bí
thư Chi bộ, Trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, do đó thiếu tính ổn định,
lâu dài, thành viên của các tổ chức khác thay đổi thì thành viên của Tổ hoà
giải cũng thay đổi theo; nhiều thành viên của Tổ hoà giải tuổi cao, sức
khoẻ yếu nên thường xuyên biến động. Do tính thiếu ổn định về mặt nhân
sự nên công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cũng rất bất cập. Nhiều thành viên đã
qua đào tạo, bồi dưỡng nhưng do chuyển công tác khác hoặc nghỉ do mất
sức phải thay những thành viên chưa qua đào tạo, bồi dưỡng từ đó dẫn đến
tổ chức, hoạt động của tổ hoà giải có một số mặt tồn tại, hạn chế nhất định.
79
Sáu là, các điều kiện cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động hòa giải
ở cơ sở tại một số xã, phường còn khó khăn.
2.4. Kinh nghiệm đúc kết
Một là, địa phương làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở thì tình hình an
ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho phát triển kinh tế - xã hội; địa
phương thực hiện chưa tốt công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh
chấp có chiều hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, xã hội như: những mâu
thuẫn, va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được
quan tâm giải quyết, hòa giải kịp thời nên đã trở thành phức tạp, thậm chí
là nguyên nhân xuất hiện những “điểm nóng”, khiếu kiện.
Hai là, tăng cường bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng và nghiệp
vụ hòa giải cho đội ngũ làm công tác hòa giải ở cơ sở. Để làm tốt việc này
Phòng Tư pháp và công chức tư pháp xã phải chủ động phối hợp tham mưu
UBND cùng cấp lập kế hoạch ngay từ đầu năm để kịp thời bố trí kinh phí
tổ chức nhiểu đợt tập huấn với nhiều hình thức khác nhau để thường xuyên
cập nhật kiến thức, nâng cao kinh nghiệm cho các hòa giải viên, tạo niềm
tin cho đội ngũ hòa giải viên trong giải quyết các vụ việc tranh chấp tại cơ
sở.
Ba là, sự phối hợp hiệu quả giữa chính quyền địa phương với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các hội đoàn thể ở cơ sở đóng vai trò hết
sức quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật về hòa giải ở
cơ sở; nhất là trong việc chỉ đạo thực hiện các kế hoạch tập huấn và xây
dựng lực lượng đội ngũ làm công tác hòa giải; cần chú trọng vận động
những người có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín và có khả năng thuyết
phục, vận động nhân dân... để nâng cao số lượng, chất lượng hoạt động hòa
giải ở cơ sở.
80
Bốn là, trong quá trình tổ chức thực hiện cần thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc, giải quyết những khó khăn, vướng mắc và kịp thời phát hiện
những vấn đề không phù hợp cần điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực
hiện, bảo đảm chất lượng và hiệu quả thiết thực, tránh hình thức.
Năm là, trong hoạt động quản lý của UBND các cấp cần thường
xuyên có sự động viên, khuyến khích kịp thời nhất là các hình thức biểu
dương, khen thưởng và thực hiện chế độ bồi dưỡng cho người tham gia hòa
giải, qua đó tạo động lực cho hoạt động hòa giải ở cơ sở được tốt hơn.
81
Tiểu kết Chương 2
Luận văn đã tập trung phân tích những yếu tố, điều kiện tự nhiên, kinh
tế, chính trị - hành chính, văn hóa - xã hội tác động đến công tác thực hiện
pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Tập trung đi sâu đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng
Ngãi. Qua việc phân tích này, luận văn đã đánh giá về những kết quả đạt được
là cơ bản; chỉ rõ những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập này.
Những kết luận về thực trạng thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi tại Chương 2 và cơ sở lý luận đã nêu ở
Chương 1 sẽ là những luận cứ khoa học cho việc đề xuất các phương hướng
và giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên
địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian đến.
82
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
3.1. Phương hướng hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về
hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
3.1.1. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, cán
bộ, đảng viên và nhân dân về hòa giải
Hòa giải ở cơ sở, xét từ nội hàm của khái niệm hòa giài là một hoạt
động mang đậm tính nhân văn, vì con người và trên cơ sở tình người. Vì
vậy, phải tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, hình thức tuyên truyền,
phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở nhằm nâng cao hơn nữa nhận thức
và ý thức của xã hội nói chung và nhân dân trên địa bàn thành phố Quảng
Ngãi về vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng của công tác này. Và coi hòa
giải ở cơ sở là một phương thức hữu hiệu và sử dụng càng nhiều hơn trong
việc giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn trong cộng đồng dân cư.
Xác định công tác hòa giải là một trong những nhiệm vụ quan trọng
góp phần tích cực vào việc bảo đảm trật tự an toàn xã hội tại thôn, tổ dân
phố, khu dân cư. Tăng cường trách nhiệm, tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, chỉ đạo sự đầu tư đúng mức của chính quyền, sự phối
hợp chặt chẽ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức xã hội khác
nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị cho công tác
hòa giải ở cơ sở.
3.1.2. Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan Tư pháp và đội ngũ
cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã, phường đối với công tác hòa giải ở cơ sở
83
Với chức năng tham mưu cho chính quyền tại địa phương thực hiện
việc quản lý nhà nước đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở, Phòng Tư pháp
thành phố và cán bộ tư pháp – hộ tịch cấp xã cần được củng cố, kiện toàn
và thường xuyên bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ để có thể thực
hiện tốt chức năng tham mưu này.
Từ sau khi sáp nhập 13 xã của huyện Tư Nghĩa vào địa giới hành
chính thành phố Quảng Ngãi, đến nay số lượng biên chế của Phòng Tư
pháp thành phố vẫn giữ nguyên (hiện chỉ có 04 biên chế), trong khi khối
lượng công việc ngày càng nhiều nên cần tiếp tục kiến nghị bổ sung biên
chế để đảm bảo đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng tăng. Đối với cấp xã,
cần tăng cường vai trò trách nhiệm của cán bộ tư pháp hộ tịch, quan tâm
đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị để đảm
bảo đáp ứng nhu cầu công việc trong giai đoạn hiện nay.
3.1.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở;
tiếp tục đảm bảo cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động hòa giải ở cơ sở
Hiện nay thành phố Quảng Ngãi có 239 tổ hòa giải/234 thôn, tổ dân
phố là chưa đáp ứng với thực tế. Tiếp tục rà soát, củng cố, kiện toàn và
thống kê tình hình tổ chức của các tổ hòa giải đối với từng xã, phường. Tổ
chức đánh giá và nhân rộng mô hình hòa giải hoạt động tốt có hiệu quả trên
địa bàn thành phố Quảng Ngãi trong những năm qua, từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm cho công tác hòa giải ở cơ sở để có sự vận dụng linh hoạt ở
từng xã, phường, phù hợp với đặc điểm, tình hình ở các địa bàn khác nhau.
Tăng cường công tác phối hợp giữa tổ hòa giải với các tổ chức chính trị ở
địa phương như Ban công tác Mặt trận, Chi hội phụ nữ, Chi hội cựu chiến
binh, Chi hội nông dân, Chi đoàn thanh niên...trong hoạt động hòa giải ở cơ
sở để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, hội viên, đoàn viên, kịp
84
thời giải đáp những vần đề người dân chưa rõ, chưa hiểu hoặc cả những
khúc mắc giữa các cá nhân nhằm kịp thời ngăn chặn những tranh chấp, bất
hòa, mâu thuẫn lớn trong cộng đồng dân cư. Huy động và khuyến khích
những người am hiểu pháp luật tích cực tham gia các hoạt động hòa giải.
Tăng cường phối hợp giữa Tổ hòa giải với các Câu lạc bộ pháp luật ở địa
phương. Phấn đấu, hàng năm có trên 90% tổ hòa giải ở cơ sở hoạt động có
hiệu quả, số vụ việc hòa giải thành đạt trên 85%. Đây là một tiêu chí đặt ra
đối với các xã thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng Nông
thôn mới.
Định kỳ Phòng Tư pháp thành phố tham mưu cho UBND thành phố
xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra công tác hòa giải ở cơ sở của cấp
dưới. Qua kiểm tra để chấn chỉnh, hướng dẫn hoạt động quản lý, theo dõi,
thực hiện tốt các quy định về hòa giải ở cơ sở. Thực hiện nghiêm túc, đúng
thẩm quyền chế độ thông tin báo cáo thống kê về hoạt động hòa giải ở cơ
sở của cấp trên. Phát động phong trào thi đua và có biểu dương, khen
thưởng đối với tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.
UBND thành phố Quảng Ngãi cần tăng cường đầu tư kinh phí, cơ sở
vật chất, huy động theo hình thức xã hội hóa từ các cá nhân, tổ chức hỗ trợ
cho hoạt động hòa giải ở cơ sở. Tăng cường sự kiểm tra việc lập dự toán,
quản lý, sử dụng kinh phí hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở được thực
hiện theo đúng quy định. Thực hiện tốt công tác kiểm tra và chế độ thông
tin, báo cáo, thống kê, định kỳ sơ kết, tổng kết, khen thưởng đối với các tập
thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác hòa giải ở cơ sở. Củng cố
và đầu tư trang bị sách, tài liệu pháp luật cho tủ sách pháp luật tại các xã,
phường, thị trấn. Quan tâm xây dựng mô hình tủ sách pháp luật tại nhà văn
hóa thôn, tổ dân phố để tổ viên tổ hòa giải có điều kiện tự tìm hiểu, nghiên
cứu nhằm nâng cao kiến thức pháp luật cũng như kỹ năng, nghiệp vụ hòa
85
giải. Đổi mới phương pháp, định kỳ tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng về
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật và kỹ năng nghiệp
vụ hòa giải cho hòa giải viên.
3.1.4. Tăng cường sự phối hợp giữa chính quyền với các đoàn
thể, tổ chức chính trị trong thực hiện hòa giải ở cơ sở
Sự phối hợp giữa Ủy ban nhân dân với Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức thành viên trong công tác hòa giải ở cơ sở là rất cần thiết góp phần
nâng cao hiệu quả cho hoạt động này. Hằng năm, Phòng Tư pháp thành phố
và cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã cần tham mưu Ủy ban nhân dân cùng
cấp xây dựng chương trình phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và tổ
chức củng cố, kiện toàn tổ chức hoạt động của các tổ hòa giải ở cơ sở; tạo
điều kiện và động viên, khuyến khích hội viên, thành viên của mình tham
gia tích cực vào các hoạt động hòa giải ở cơ sở. Đồng thời, Mặt trận, các
đoàn thể chính trị - xã hội các cấp thường xuyên chủ động cung cấp thông
tin, phát huy vai trò giám sát việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở,
kịp thời kiến nghị, đề xuất chính quyền cùng cấp những vấn đề mới đặt ra
trong quá trình thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để tham mưu cho cấp ủy đảng thành phố
Quảng Ngãi có hướng chỉ đạo.
3.1.5. Hòa giải ở cơ sở phải phù hợp với pháp luật, đạo đức xã
hội
Để hòa giải ở cơ sở đi vào nề nếp, phát huy hiệu quả và vai trò của
nó, bản thân hòa giải viên, tổ hòa giải phải biết vận dụng linh hoạt kết hợp
chặt chẽ giữa lý và tình để giải quyết sự việc thấu tình đạt lý. Không vì
thành tích hay kết quả hòa giải thành cao mà vi phạm đạo đức trong thực
hiện nhiệm vụ. Mọi sự hòa giải phải đặt con người vào vị trí trung tâm, phù
86
hợp với đạo đức xã hội. Hòa giải muốn thành công phải xem xét trên cơ sở
của pháp luật, song được đặt trong từng tình huống và từng địa bàn, khu
dân cư như ở vùng trung tâm thương mại khác với vùng nông thôn miền
núi, hay các xã vùng biển,... Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền thì trong mọi lĩnh vực, tôn trọng quyền và lợi ích của nhân dân luôn
được đặt lên hàng đầu. Trong lĩnh vực hòa giải, việc tôn trọng quyền và lợi
ích của nhân dân sẽ là cơ sở để giúp hòa giải viên thực hiện tốt nhiệm vụ
hòa giải của mình.
3.2. Giải pháp hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về hòa
giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Giải pháp trước mắt
3.2.1.1. Nâng cao việc truyên truyền pháp luật về hòa giải ở cơ sở
trong đời sống xã hội
Thực tiễn đã khẳng định vai trò, ý nghĩa của hòa giải trong đời sống
xã hội, truyền thống đoàn kết “thương người như thể thương thân”, “lá lành
đùm lá rách”... tồn tại từ lâu trong nhân dân ta, hoạt động hòa giải đã góp
phần giữ gìn truyền thống đoàn kết trong cộng đồng, tiết kiệm được kinh
phí, thời gian, công sức của nhân dân, của cơ quan nhà nước; khắc phục
tình trạng khiếu kiện và bất đồng trong nhân dân, tạo dựng lòng tin, thúc
đẩy quan hệ xã hội phát triển. Đồng thời, hòa giải còn góp phần quan trọng
vào công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của nhân dân.
Để nâng cao nhận thức của xã hội về hòa giải, trước tiên, các cấp ủy,
đảng cần dành sự quan tâm đúng mức hơn cho hoạt động này, chỉ đạo, lãnh
đạo thường xuyên, sát sao cơ quan tư pháp và các cơ quan, tổ chức có liên
quan trong công tác hòa giải. Các đảng viên cần thể hiện vai trò chủ động,
87
gương mẫu của mình trong việc thực hiện pháp luật về hòa giải. Bên cạnh
đó, tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền về tác dụng của hòa giải
cho nhân dân, thiết thực nhất là thông qua các vụ việc phức tạp, gay cấn
nhưng đã hòa giải thành ngay trên địa bàn để người dân tin tưởng và ủng
hộ các tổ hòa giải hoạt động. Khi đó họ sẽ tìm đến tổ hòa giải và hòa giải
viên khi có tranh chấp, mâu thuẫn, xích mích xảy ra trong gia đình hay
trong thôn, xóm.
Chỉ thỉ số 32-CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân
đã xác đinh: “Đa dạng cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật như tăng
cường xuất bản và phát hành sách hỏi đáp pháp luât (kể cả sách song
ngữ), tổ chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật; phổ biến giáo dục pháp luật
thông qua các hoạt động tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, hòa giải, giải
quyết khiếu nại, tố cáo...”[1].
3.2.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính
quyền, sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở
Lãnh đạo công tác hòa giải ở cơ sở là nhiệm vụ của cấp ủy đảng
thông qua việc ban hành các chủ trương, đường lối, chính sách; sự gương
mẫu chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách đó và sự tích cực tham
gia vào tổ chức và hoạt động hòa giải của các đảng viên. Công tác hòa giải
cần được xem như một trong những nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng,
gắn công tác hòa giải với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Đối với cấp ủy đảng, chính quyền thành phố cần ban hành những văn bản
thể hiện sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của
88
chính quyền đối với công tác hòa giải trên địa bàn thành phố và cũng là tài
liệu tuyên truyền quan trọng để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, hiểu về
hòa giải ở cơ sở cũng như vai trò, ý nghĩa của nó trong giai đoạn hiện nay.
Công tác hòa giải là công tác vận động quần chúng. Vì vậy, mối
quan hệ mật thiết giữa cơ quan tư pháp với các tổ chức chính trị -xã hội,
các đoàn thể quần chúng có ý nghĩa hết sức quan trọng, không chỉ bảo đảm
tính dân chủ trong công tác hòa giải mà còn góp phần gắn kết hoạt động
hòa giải với phong trào của quần chúng, nâng cao hiệu quả hoạt động hòa
giải, phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc-
một trong những nhân tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam
trong thời đại ngày nay. Do đó, UBND thành phố và xã, phường tiếp tục
thực hiện tốt Quy chế dân vận của cả hệ thống chính trị theo Quyết định số
441-QĐ/TU ngày 10/6/2011 của Ban Thường vụ Thành ủy và thực hiện tốt
Quy chế phối hợp giữa Ban Dân vận, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã
hội với UBND cùng cấp trong tham gia phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, giải quyết các vấn đề bức xúc trong nhân dân trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi theo Quyết định 1856-QĐ/TU ngày 20/10/2011 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy. Đồng thời, UBND thành phố cần ban hành văn bản
phối hợp với UBMTTQ Việt Nam và các hội, đoàn thể trong thực hiện
công tác hòa giải ở cơ sở như: Chương trình phối hợp tuyên truyền, tập
huấn nghiệp vụ hòa giải. Một trong những vấn đề quan trọng của việc ban
hành những văn bản phối hợp thực hiện trong công tác hòa giải ở cơ sở là
phải phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong quá trình phối hợp.
Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả phối hợp của các cơ
quan đó. Kịp thời rút kinh nghiệm các vấn đề còn tồn tại và nhân rộng
những mô hình điển hình trong công tác phối hợp.
89
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trên địa bàn thành phố
cần thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình trong công tác hòa giải ở
cơ sở, chỉ đạo Mặt trận Tổ quốc xã và Ban công tác mặt trận của các thôn,
tổ dân phố xây dựng kế hoạch cụ thể thực hiện Luật Mặt trận Tổ quốc, Luật
Hòa giải ở cơ sở, Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT-CP-
UBTUWMTTQ về hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của
pháp luật về hòa giải ở cơ sở và các văn bản có liên quan đến hoạt động
hòa giải ở cơ sở. Các cấp Hội Nông dân cần xây dựng kế hoạch thực hiện
Chỉ thị số 26/2001/CT-TTg và Công văn số 1502/TTG-Vụ II của Thủ
tướng Chính phủ về giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh và thành phố cần có sự chỉ đạo các sở,
ngành chức năng tham mưu ban hành những văn bản quản lý nhà nước về
công tác hòa giải trên địa bàn như: Quy chế hoạt động của tổ hòa giải ở cơ
sở, hoạt động của hòa giải viên... Thông qua công tác này, các cơ quan có
chức năng trong tỉnh có điều kiện nắm bắt sâu sắc hơn tình hình hoạt động
của các hòa giải viên, của tổ hòa giải và những vấn đề có liên quan đến
hoạt động hòa giải ở cơ sở, từ đó có sự quan tâm, đề nghị cấp có thẩm
quyền đầu tư kinh phí cho hoạt động hòa giải ở cơ sở.
3.2.1.3. Xây dựng và kiện toàn các tổ chức hòa giải
Tổ hòa giải là tổ chức tự quản của nhân dân được thành lập ở thôn,
tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác để thực hiện hoặc
tổ chức thực hiện việc hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở.
Việc kiện toàn tổ chức của tổ hòa giải có ý nghĩa quan trọng góp phần tạo
hiệu quả hoạt động hòa giải của tổ hòa giải.
Tuy nhiên hiện nay thành phố Quảng Ngãi có nhiều xã, phường địa
giới rộng, dân cư đông như xã Nghĩa An, xã Nghĩa Hà, phường Trương
90
Quang Trọng, phường Quảng Phú nên cần thiết phải tăng cường thành lập
thêm các tổ hòa giải tại thôn, tổ dân phố tại các địa phương này để kịp thời
nắm bắt tình hình nhân dân, phát hiện sớm những mẫu thuẫn, tranh chấp
nhỏ tại địa bàn thôn, xóm, khu dân cư để kịp thời tổ chức hòa giải.
Tổ hòa giải gồm tổ trưởng và hòa giải viên và mỗi tổ có từ ba hòa
giải viên trở lên, trong đó có hòa giải viên nữ. Đây là quy định của Luật
Hòa giải ở cơ sở năm 2013. Để đảm bảo thực hiện quy định này, Phòng Tư
pháp thành phố Quảng Ngãi cần thường xuyên tham mưu cho UBND thành
phố ban hành văn bản chỉ đạo các xã, phường trên địa bàn triển khai việc
kiện toàn tổ chức và hoạt động của các tổ hòa giải theo quy định; rà soát,
kiện toàn đội ngũ hòa giải viên đáp ứng các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy
định của Luật.
3.2.2. Giải pháp lâu dài
3.2.2.1. Bảo đảm cơ sở vật chất cần thiết cho hoạt động thực hiện
pháp luật hòa giải ở cơ sở
Hòa giải mang lại hiệu quả rất lớn cho xã hội trong việc giải quyết
tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, góp phần củng cố tình đoàn
kết, thân ái trong nhân dân. Điều đó cũng đồng nghĩa để có được những kết
quả đó, ngoài việc hòa giải viên phải có lòng nhiệt huyết, tận tâm với công
việc.. thì cơ quan nhà nước phải tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho Tổ hòa
giải và hòa giải viên thực hiện công việc của mình. Tạo cơ sở vật chất ở
đây không có nghĩa là chỉ tăng mức trả thù lao cho hòa giải viên mà còn là
trang bị ở mức tối thiểu những điều kiện làm việc và sinh hoạt của Tổ hòa
giải và các tổ viên.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, mức hỗ trợ kinh phí cho công tác hòa
giải ở cơ sở theo Quyết định 18/2015/QĐ-UBND ngày 13/5/2015 của
91
UBND tỉnh Quảng Ngãi còn quá thấp (chi thu lao cho hòa giải viên là
200.000đ/vụ, chi hỗ trợ mua văn phòng phẩm, sao chụp tài liệu nước uống
phục vụ các buổi họp của tổ hòa giải là 100.000đ/tổ/tháng), chưa khuyến
khích, đảm bảo điều kiện cần thiết và đáp ứng với thực tế cho hoạt động
hòa giải. Để khích lệ hơn nữa hoạt động hòa giải và có sự động viên kịp
thời cho hòa giải viên, UBND các xã, phường có thể hỗ trợ thêm cho hoạt
động hòa giải ở cở sở bằng nguồn xã hội hóa cho hoạt động hòa giải ở cơ
sở để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả cho hoạt động này, kịp
thời động viên thành viên các tổ hòa giải nâng cao vai trò trách nhiệm của
mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ hòa giải ở cơ sở.
Để chủ động, hàng năm, UBND các cấp cần xây dựng dự toán phần
ngân sách chi hỗ trợ cho hoạt động hòa giải ở cơ sở trình HĐND cùng cấp
xem xét quyết định; hướng dẫn lồng ghép thực hiện pháp luật về hòa giải ở
cơ sở vào xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của thôn, xóm, khu
dân cư; cung cấp thông tin miễn phí về chính sách, pháp luật liên quan cho
tổ chức, cá nhân theo quy định [27].
3.2.2.2. Giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ kỹ năng hòa giải,
kiến thức pháp luật và vận dụng pháp luật cho đội ngũ hòa giải viên
Năng lực, trình độ và kinh nghiệm của những người tiến hành hòa
giải đóng vai trò quan trọng vào thành công của hòa giải và sự phát triển
của hòa giải. Việc thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm,
kỹ năng giữa các hòa giải viên là hết sức cần thiết. Các mâu thuẫn, tranh
chấp ngày càng đa dạng, phức tạp, trong khi trình độ dân trí, hiểu biết pháp
luật ngày càng cao. Qua số liệu thống kê của Phòng Tư pháp thành phố
Quảng Ngãi cho thấy tỷ lệ người dân thành phố Quảng Ngãi am hiểu pháp
luật ngày càng tăng. Điều đó đòi hỏi hòa giải viên khi tham gia vào quá
92
trình hòa giải phải trang bị cho mình những kiến thức pháp luật nhất định.
Nếu hòa giải viên có kiến thức, trình độ am hiểu pháp luật không bằng các
bên tranh chấp, mâu thuẫn thì việc hòa giải sẽ phản tác dụng, làm cho vụ
việc thêm phức tạp. Đối với những trường hợp người dân không am hiểu,
hoặc cố tình chống đối việc thực thi pháp luật thì với đội ngũ hòa giải viên
tường tận, am hiểu về các quy định của pháp luật cùng với khả năng vận
động, thuyết phục cao sẽ đạt được kết quả hòa giải thành. Vì vậy, việc đào
tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật rất cần thiết, những kiến thức về nghiệp
vụ hòa giải, kinh nghiệm thực tiễn cho hòa giải viên là một yêu cầu khách
quan. Có thể khẳng định rằng, một trong những yếu tố quyết định đến hiệu
quả công tác hòa giải là việc nâng cao chất lượng, bồi dưỡng kiến thức
pháp luật và nghiệp vụ hòa giải cho đội ngũ những người làm công tác hòa
giải ở cơ sở. Phòng Tư pháp thành phố cần tổ chức nhiều lớp tuyên truyền
về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nghiệp vụ cho
những người làm công tác hòa giải. Tổ chức thường xuyên việc tổ chức
giao lưu, trao đổi tình huống nghiệp vụ giữa các hòa giải viên. Biên soạn
và cung cấp thường xuyên tài liệu thiết thực, phù hợp cho hòa giải viên,
bảo đảm cho đội ngũ này hoạt động một cách chuyên nghiệp hơn, hoàn
thành tốt nhiệm vụ.
Thời gian qua, việc bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hòa
giải cho cán bộ làm công tác hòa giải ở cơ sở là một nhiệm vụ hết sức nặng
nề của cơ quan tư pháp các cấp. Do đó, cần có sự phối hợp, phân công,
phân cấp trong việc tổ chức công tác bồi dưỡng cho đội ngũ này. Trên cơ
sở hướng dẫn của Bộ, ngành cấp trên, Phòng Tư pháp thành phố Quảng
Ngãi đã chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức các lớp tập huấn nghiệp vụ
cho thành viên các tổ hòa giải của thành phố Quảng Ngãi. Các lớp tập huấn
nghiệp vụ theo phương pháp này thu hút sự tham gia của tất cả các hòa giải
93
viên. Nội dung bồi dưỡng có thể theo từng chuyên đề như Bộ luật Dân sự,
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Đất đai, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo,...
Về phương pháp tiến hành, trong quá trình tập huấn cần đẩy mạnh
việc trao đổi, thảo luận, đưa vào những tiểu phẩm tình huống, những câu
chuyện có thật trong quá trình hòa giải, xây dựng những nội dung tương tác
phù hợp giữa báo cáo viên và học viên để học viên chủ động, tích cực tham
gia quá trình tập huấn, tránh tình trạng tập huấn hình thức, không hiệu quả.
Về báo cáo viên trong các buổi tập huấn phải là những người am hiểu về
công tác hòa giải, về kiến thức pháp luật khác có liên quan, chú trọng mời
những báo cáo viên có kinh nghiệm thực tiễn trong công tác hòa giải ở cơ
sở, thậm chí lựa chọn hòa giải viên tiêu biểu để phổ biến, truyền đạt những
kinh nghiệm thực tế.
Hòa giải ở cơ sở là một trong những hình thức phổ biến giáo dục
pháp luật được quy định trong Luật Phổ biến giáo dục pháp luật. Vì vậy,
cần đẩy mạnh hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật thông qua Hội đồng
phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật của tỉnh, thành phố, biên soạn các tài
liệu theo từng chuyên đề, phát tờ rơi, tờ gấp hoặc đề cương, giới thiệu nội
dung của các văn bản pháp luật mới ban hành, cung cấp đến từng tổ hòa
giải, giúp cho hòa giải viên tự nghiên cứu nâng cao trình độ.
Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, động viên khen thưởng những hòa
giải viên, tổ hòa giải điển hình, xuất sắc. Đồng thời tổ chức các buổi giao
lưu, tọa đàm, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các xã, phường trong
thành phố Quảng Ngãi hoặc với các huyện bạn trong Tỉnh về công tác hòa
giải ở cơ sở.
3.2.2.3. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật
94
Thời gian qua, công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả, nhưng thực tế cho thấy vẫn tồn tại
nhiều bất cập, hạn chế. Một trong những nguyên nhân của tồn tại hạn chế
đó là các quy định của pháp luật chưa toàn diện, đầy đủ. Mặc dù, công tác
hòa giải ở cơ sở đã được điều chỉnh bởi một văn bản pháp lý cao, điều
chỉnh thống nhất về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở theo Luật Hòa
giải ở cơ sở năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014, nhưng
tổng thể Luật này vẫn còn một số bất cập như đã nêu ở phần hạn chế. Vì
vậy Luật cần quy định rõ hơn căn cứ để xác định phạm vi hòa giải tại điểm
d khoản 1 Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP; rà soát các quy định mới
trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để sửa đổi cho phù hợp; không quy
định về việc hòa giải đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự và hành vi
vi phạm pháp luật hành chính mà chỉ nên quy định hòa giải đối với mâu
thuẫn, tranh chấp phát sinh từ các hành vi quy định tại điểm đ, e khoản 1
Điều 5 Nghị định số 15/2014/NĐ-CP (như hòa giải phần trách nhiệm dân
sự, bồi thường thiệt hại phát sinh do hành vi vi phạm hành chính, bồi
thường thiệt hại gây ra...); sửa đổi quy định cụ thể hành vi không được hòa
giải ở cơ sở về hôn nhân và gia đình tại điểm b khoản 2 Điều 5 như sau:
“Kết hôn trái pháp luật, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật
hoặc trái đạo đức xã hội”.
95
Tiểu kết Chương 3
Công tác thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Quảng Ngãi chỉ có thể được hoàn thiện khi có một hệ thống lý thuyết hoàn
thiện để trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng, rút ra những kết luận
khoa học. Theo đó, luận văn đã đề ra các giải pháp trước mắt và giải pháp lâu
dài nhằm nâng cao năng lực thực thi pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi.
Để công tác hòa giải ngày một phát triển, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn
đặt ra, cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa, vai trò của hòa giải trong đời sống
xã hội. Hòa giải không chỉ là một biện pháp giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp mà còn là một hình thức phát huy dân chủ ở cơ sở. Thông qua hoạt động
của tổ hòa giải, nhân dân tiếp tục được tham gia vào việc giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư, góp phần vào việc dân chủ hóa mọi
mặt của đời sống xã hội, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự,
an toàn xã hội của địa phương. Do vậy, những giải pháp đặt ra cần phải được
tiến hành một cách đồng bộ để tăng hiệu quả trên thực tế, đồng thời căn cứ
những kết quả đạt được chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu, kịp thời có giải
pháp để giải quyết những phát sinh nếu có nhằm bảo đảm việc thực hiện pháp
luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
trong thời gian đến đạt hiệu quả.
96
KẾT LUẬN
Hòa giải từ lâu vốn đã được xem là một truyền thống đạo lý tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết
tương thân, tương ái trong cộng đồng, mang đậm tính nhân văn, hoạt động
vì mọi người trên cơ sở đạo đức xã hội và nền tảng pháp luật, nếu thực hiện
tốt công tác này sẽ giúp ổn định xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong
bối cảnh đời sống hiện nay, khi những mâu thuẫn, xích mích, tranh chấp về
quyền lợi phát sinh một cách thường xuyên hơn, công tác hòa giải càng
đóng vai trò quan trọng, giúp hạn chế một phần tình trạng tranh chấp, đơn
thư khiếu kiện do thiếu hiểu biết về pháp luật.
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của công tác hòa
giải, công tác triển khai thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi đã được các cấp, các ngành quan
tâm chỉ đạo. Hoạt động hoà giải ở cơ sở trên địa bàn Thành phố Quảng
Ngãi không ngừng đẩy mạnh phát triển, đã và đang từng bước được nâng
cao về chất lượng, tổ chức và hoạt động ngày càng đi vào nền nếp, có hiệu
quả, đúng quy định của pháp luật. Hầu hết các tổ hòa giải đã được kiện
toàn bảo đảm đúng quy định, chất lượng hòa giải được nâng lên, thể hiện
qua tỷ lệ các vụ hoà giải thành năm sau cao hơn năm trước đã hỗ trợ đắc
lực cho chính quyền địa phương trong việc giải quyết trực tiếp những vụ
việc vi phạm pháp luật, tranh chấp nhỏ trong nhân dân, giữ gìn trật tự an
toàn xã hội, hạn chế đơn thư, khiếu nại vượt cấp, tiết kiệm thời gian và tiền
bạc của cơ quan nhà nước và công dân. Mạng lưới tổ hoà giải được củng
cố, mở rộng thu hút được nhiều thành phần, nhiều lực lượng tham gia.
Toàn thành phố có 234 thôn, tổ dân phố nhưng có đến 239 tổ hoà giải và
không có thôn, tổ dân phố nào trên địa bàn không có tổ hoà giải, có những
thôn, tổ dân phố có đến 2 tổ hoà giải. Công tác tập huấn nâng cao kiến
97
thức, kỹ năng cho hòa giải viên luôn được chú trọng, thực hiện thường
xuyên. Hoạt động hòa giải ở cơ sở đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, hình thành trong mỗi cá nhân ý thức chấp
hành pháp luật, ý thức “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật”; góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, giúp nhau phát triển kinh tế, xóa
đói, giảm nghèo, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, văn minh.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở tại thành
phố Quảng Ngãi vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế như chế độ bồi
dưỡng cho hòa giải viên và điều kiện hoạt động của các tổ hòa giải chưa
được quan tâm đúng mức. Một số cấp ủy đảng, chính quyền địa phương
chưa nhận thức đầy đủ vai trò, tầm quan trọng của công tác hòa giải cơ sở.
Bên cạnh đó, một số xã do biên chế cán bộ ít nhưng lại đảm trách nhiều
công việc nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác hòa giải. Các
Tổ hòa giải thường xuyên thay đổi nhân sự nên việc nắm bắt một số quy
định pháp luật và tích lỹ kinh nghiệm trong công tác hòa giải còn hạn chế...
Để tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả công tác hoà giải cơ sở trong
thời gian tới, rất cần sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hỗ trợ và tạo điều kiện
của cấp ủy, chính quyền các cấp về mọi mặt, nhất là kinh phí, cơ sở vật
chất, con người; bên cạnh đó cần tăng cường vai trò của cơ quan tư pháp
cũng như toàn hệ thống chính trị đối với công tác hoà giải cơ sở, thường
xuyên kiểm tra, khảo sát, kịp thời nắm được những khó khăn, vướng mắc
để có biện pháp giải quyết kịp thời. Đồng thời phải có chế độ đãi ngộ và
khen thưởng xứng đáng cho đội ngũ hoà giải viên cơ sở để kịp thời động
viên, khuyến khích họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần đắc lực trong
việc giải quyết những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư.
98
Qua nghiên cứu lý luận về thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở, kết
hợp với đánh giá thực trạng hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua, luận văn đã góp
phần tổng kết thực tiễn việc thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở trên địa
bàn thành phố Quảng Ngãi, từ đó bổ sung thêm vào lý luận những kinh
nghiệm thực tiễn mới. Qua đó tạo cơ hội vận dụng những lý luận đó vào
thực tiễn công tác để nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động hòa giải ở
cơ sở không chỉ trên địa bàn thành phố Quảng Ngãi mà còn có thể áp dụng
chung cho cả nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2003), Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 (khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật của cán bộ, nhân dân.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2011), Kết luận số 04-KL/TW ngày
19/4/2011 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí
thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán
bộ, nhân dân.
3. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2002), Nghị quyết số 17-NQ/TW
ngày 18/3/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về: “Đổi
mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”.
4. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về
“Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian
tới”.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Bộ Tài chính (2005), Thông tư số 63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005
hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật.
7. Bộ Tư pháp (2010), Cẩm nang bồi dưỡng cho hòa giải viên cơ sở của
chính phủ VN - UNDP- SIDA- NAUY- AILEN - Dự án VIE/02/015
(hỗ trợ thực thi chiến lược phát triển hệ thống PL VN đến năm
2010).
8. Bộ Tư pháp (2011), Chỉ thị số 03/CT-BTP ngày 27/6/2011 về việc tăng
cường công tác hòa giải ở cơ sở.
9. Bộ Tư pháp (2012), Sổ tay đào tạo giảng viên hòa giải cơ sở, (tài liệu
vụ phục vụ Đề án 2 “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong công tác PBGDPL, đáp ứng yêu cầu đổi
mới, phát triển của đất nước”.
10. Bộ trưởng Bộ Tư pháp (2014), Quyết định số 889/QĐ-BTP ngày
21/4/2014 về mẫu sổ theo dõi hoạt động hòa giải ở cơ sở.
11. Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính (2014), Thông tư liên tịch số
100/2014/TTLT-BTP-BTC ngày 30/7 quy định việc lập dư toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực
hiện công tác hòa giải ở cơ sở, Hà Nội.
12. Chính phủ (2014), Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở, Hà
Nội.
13. Chính phủ (2014), Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hòa giải ở cơ sở,
Hà Nội.
14. Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2014),
Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày
18/11 hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp
luật về hòa giải ở cơ sở, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
18. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2011) Giáo
trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
19. Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2015), Nghị quyết số
06/2015/NQ-HĐND ngày 22/4/2015 quy định một số mức chi cho
công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
20. Vũ Trọng Hùng, Nguyễn Đăng Dung, Vũ Trọng Khả, Phan Thăng
(đồng chủ biên), Từ điển pháp luật Anh-Việt.
21. Dương Bạch Long (2009), Cẩm nang công tác hòa giải ở cơ sở, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Tố Nga (2014), Sổ tay pháp luật về hòa giải ở cơ sở do
chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội.
23. Những quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở,
(2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Phòng Tư pháp thành phố Quảng Ngãi (2017), Báo cáo kết quả 5 năm
thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở, rà
soát, hệ thống hóa và thẩm định văn bản Quy phạm pháp luật (2010-
2015) nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho 5 năm đến (2015-2020).
25. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992.
26. Quốc Hội (2013), Luật Hòa giải ở cơ sở, Hà Nội.
27. Quốc Hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
28. Quốc Hội (2015), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội
29. Sở Tư pháp Quảng Ngãi (2009), Sổ tay nghiệp vụ về tuyên truyền và
hòa giải.
30. Sở Tư pháp Quảng Ngãi (2008), 30 tình huống hòa giải thường gặp,
Sở Tư pháp Quảng Ngãi.
31. Nguyễn Phương Thảo (2007), Hòa giải ở cơ sở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
32. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày
07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
33. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg ngày
07/01/1998 về việc ban hành Kế hoạch triển khai công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998 đến năm 2002 và thành lập
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật.
34. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg ngày 17
tháng 01 năm 2003 của Phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo
dục pháp luật từ năm 2003 đến năm 2007.
35. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg ngày
16/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình
hành động quốc gia phổ biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị
trấn từ năm 2005 - 2010.
36. Thủ tướng Chính phủ (2006), Quyết định số 28/2006/QĐ-TTg ngày
28/01/2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Đề án chi tiết
thuộc Chương trình hành động quốc gia phổ biến, giáo dục phát
luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ, nhân
dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 đến năm 2010.
37. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 37/2008/QĐ-TTg ngày 12
tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương
trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012.
38. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định 270/QĐ-TTg ngày 27/2/2009
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Củng cố, kiện toàn
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến
giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới, phát triển của đất
nước” thuộc Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật của
Chính phủ từ năm 2008 đến năm 2012.
39. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày
04/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tuyên
truyền phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân nông thôn và
đồng bào dân tộc thiểu số từ 2009 đến năm 2012.
40. Trường Đại học Luật Hà Nội (2003), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
41. Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (2008), Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội.
42. Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
43. Từ điển Tiếng Việt (2001), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
44. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Quảng Ngãi (2011), Báo cáo
tổng kết 15 năm thực hiện cuộc vận động: "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”.
45. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Phước (2017), Báo cáo tổng kết 03 năm
thực hiện Luật Hoà giải ở cơ sở.
46. Uỷ ban nhân dân tỉnh Gia lai (2017), Báo cáo tổng kết 03 năm thực
hiện Luật Hoà giải ở cơ sở.
47. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2008), Báo cáo tổng kết 10 năm thi
hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở.
48. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2009), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2009, nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội năm 2010.
49. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2009), Báo cáo tổng kết công tác
hòa giải ở cơ sở giai đoạn năm 2009-2011.
50. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội năm 2017.
51. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo sơ kết 03 năm thực
hiện Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
52. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2011), Chỉ thị số 02/CT-UBND
ngày 07/01/2011 về việc tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
53. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2014), Kế hoạch số 268/KH-
UBND ngày 21/01/2014 của UBND tỉnh Quảng Ngãi về triển
khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi.
54. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2013), Quyết định số 57/2013/QĐ-
UBND ngày 24/12/2013 về quy định mức chi có tính chất đặc thù
cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
55. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi (2015), Quyết định số 18/2013/QĐ-
UBND ngày 13/5/2015 quy định một số mức chi cho công tác hòa
giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
56. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh số 09/1998/PL-
UBTVQH về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.
57. Nguyễn Tất Viễn (2011), Hòa giải - nét đẹp văn hóa của người Việt.
58. Văn hiến Quảng Ngãi truyền thống và hiện đại (2006), Nxb Văn hóa
dân tộc.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_hoa_giai_o_co_so_tren_dia_ba.pdf