Luận văn Thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi

Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hóa. Hội nhập giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp tác cùng có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di chuyển lao động là điều không tránh khỏi. Vấn đề sử dụng lao động nước ngoài ở các nước trên thế giới xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của mỗi nước để phát triển kinh tế - xã hội. Sử dụng lao động nói chung và sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại các cơ sở kinh tế ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia và đặc biệt là ở nước ta. Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam sẽ làm tăng thêm số lượng cũng như làm phong phú thêm lực lượng lao động, đồng thời tăng tính cạnh tranh trên thị trường lao động. Tuy vậy, việc di chuyển của người nước ngoài vào vào Việt Nam sẽ làm cho số lượng và cơ cấu lao động thay đổi. Chính vì vậy, thu thập thông tin, nắm được cung - cầu và sự biến động cung - cầu lao động nói chung và lao động nước ngoài nói riêng làm cơ sở để quyết định chính sách đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời xây dựng chế độ thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, tổ chức có sử dụng lao động nước ngoài, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật lao động. Đây là việc làm thường xuyên và liên tục nhằm uốn nắn những sai lệch, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt nội dung quản lý nhà nước đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài, tác giả phân tích thực trạng quản lý lao động nước ngoài91 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Kết hợp định hướng và mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý lao động nước ngoài trên địa bàn, tác giả đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài trên địa bàn Quảng Ngãi trong thời gian tới. Những giải pháp nêu trên nếu được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi áp dụng trên địa bàn sẽ mang lại lợi ích đối với thực hiện pháp luật về công tác quản lý LĐNN trên địa bàn nhằm thực hiện hiệu quả nghị định 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 về Quy định chi tiết và thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vì vậy lĩnh vực pháp luật này phải dựa vào mô hình quản lý lao động nước ngoài và bảo đảm các nguyên tắc: tôn trọng quyền con người; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động trong nước; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này có nhiều bất cập do các nguyên nhân như: nhà làm luật chưa xác định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài; những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao; thiếu coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý.

pdf104 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tác kiểm tra, giám sát thực tế, các cấp chính quyền tỉnh có giải pháp kịp thời nhằm chấn chỉnh sử dụng LĐNN trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách quản lý LĐNN được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi đặc biệt quan tâm thực hiện, đảm bảo mục tiêu quản lý nhà nước đối với LĐNN đề ra. Trong giai đoạn 2014 - 2016, hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi đều ban hành Quyết định thành lập 01 Đoàn kiểm tra công tác tuyển dụng, quản lý người nước ngoài làm việc trên địa bàn tỉnh và trong năm 2016, Sở đã ban hành Quyết địnht thành lập 01 Đoàn thanh tra do Thanh tra Sở chủ trì phối hợp với các phòng chuyên môn trong đó có phòng Việc làm – An toàn lao động tiến hành thanh tra công tác quản lý đối tượng là người lao động nước ngoài tại 10 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Qua kết quả thanh tra, kiểm tra nhận thấy hồ sơ pháp lý, giấy phép kinh doanh, giấy phép hoạt động của các tổ chức, đơn vị đầy đủ và đảm bảo theo quy định của pháp luật. Công tác quản lý hồ sơ lao động là người nước ngoài được các đơn vị, tổ chức thực hiện khá chặt chẽ và khoa học. Các đơn vị, doanh nghiệp, nhà thầu thực hiện tương đối đầy đủ các qui định của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài 67 tại Việt Nam (Luật Xuất nhập cảnh) về bảo lãnh người nước ngoài (NNN) nhập cảnh, hướng dẫn NNN hoạt động đúng mục đích nhập cảnh, khai báo tạm trú cho NNN... Ngoài ra còn phát hiện một số sai phạm trong việc sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh như sau: Các đơn vị, doanh nghiệp chưa báo cáo định kỳ về tình hình tuyển dụng và sử dụng lao động người nước ngoài theo qui định cho Sở Lao động- Thương binh và Xã hội, cụ thể: Công ty TNHH MTV TM và DV Thái Minh, Công ty TNHH MTV DV Công trình Việt Hưng, Công ty TNHH FOCECA Việt Nam, Công ty Cổ phần Song Phong, Công ty CP Phát triển Giáo dục Bảo Linh, Công ty TNHH Đào tạo IEC, Công ty TNHH Hải Sản Nghi Bông. Lực lượng Quản lý xuất nhập cảnh đã kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và hướng dẫn cho 10 doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các quy định về xuất nhập cảnh. Vẫn còn một số doanh nghiệp chưa quan tâm trong việc nắm bắt đầy đủ các quyền và trách nhiệm của doanh nghiệp và NNN trong quá trình mời, bảo lãnh NNN nhập cảnh, lưu trú và làm việc, báo cáo khi có sự thay đổi hồ sơ pháp nhân; quy định về khai báo tạm trú cho NNN; cũng như việc thông báo thông tin các đoàn, cá nhân người nước ngoài đến làm việc tại doanh nghiệp theo Quyết định số 22/2013/QĐ-UBND ngày 10/05/2013 của UBND tỉnh Quảng Ngãi ban hành Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đáng chú ý, trong quá trình kiểm tra tại Công ty TNHH Hải sản Nghi Bông, lực lượng quản lý xuất nhập cảnh đã phát hiện và lập biên bản, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với một nhân viên quốc tịch Trung Quốc với hình thức xử phạt: 2.000.000 đ vì đã có hành vi “Người nước ngoài không khai báo tạm trú theo quy định từ 15 ngày trở xuống mà không được cơ quan có thẩm quyền cho phép” [36] 68 Số lao động là người nước ngoài làm việc thời hạn trên 3 tháng tại các tổ chức, đơn vị chưa được cấp giấy phép lao động theo quy định tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ còn nhiều. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên, Đoàn kiểm tra đã lập biên bản nhắc nhở và yêu cầu các đơn vị kịp thời khắc phục và thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hiện hành trong thời gian 01 tháng (tính từ ngày được kiểm tra). Riêng đối với những lao động người nước ngoài làm việc với thời gian trên 3 tháng Đoàn kiểm tra đã yêu cầu các đơn vị, tổ chức sau 01 tháng (tính từ ngày được kiểm tra) phải hoàn chỉnh thủ tục, hồ sơ đề nghị cơ quan chức năng cấp giấy phép theo quy định tại Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ. Nếu đơn vị, tổ chức nào không thực hiện hoặc thực hiện không đảm bảo theo quy định thì liên ngành Sở Lao động - Thương binh và Xã hội và Công an tỉnh Quảng Ngãi sẽ xử lý hoặc đề nghị xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, Đoàn kiểm tra đề nghị các đơn vị bổ sung các loại giấy tờ, thủ tục còn thiếu, đặc biệt giấy xác nhận không phạm tội do cơ quan có thẩm quyền nước ngoài cấp gửi về Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để bổ sung vào hồ sơ người LĐNN. Việc triển khai thực hiện các quy định về thanh tra, kiểm tra người lao động nước ngoài làm việc tại địa phương với tần suất nêu trên là quá ít so với số lao động nước ngoài đang làm việc tại địa phương hiện nay. Kết quả các cuộc kiểm tra và thanh tra cho thấy chưa chú trọng đến chất lượng các cuộc thanh tra chuyên ngành, kết luận thanh tra còn sơ sài và thiếu chính xác. Việc thực hiện pháp luật lao động của các chủ sử dụng lao động người nước ngoài chưa nghiêm, còn trốn tránh vì vậy nhiều vi phạm chưa được phát hiện kịp thời. Lực lượng thực hiện chức năng thanh tra và kiểm tra còn quá ít, trình độ 69 chuyên môn nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu, thời gian tiến hành thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp quá ít chỉ 1 ngày/ 01 doanh nghiệp nên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này. Mặt khác, công tác phối hợp của các cơ quan chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất đồng bộ. 2.2.2. Đánh giá chung 2.2.2.1. Kết quả đạt được Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là pháp luật lao động. Số lượng người nước ngoài đến Quảng Ngãi làm việc tăng dần qua các năm và theo nhiều hình thức khác nhau (Theo Báo cáo về tình hình sử dụng lao động nước ngoài qua các năm của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Quảng Ngãi). Các quy định pháp luật về lao động nước ngoài làm việc tại Quảng Ngãi phải đảm bảo được những yêu cầu: Một là, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, tổ chức trong tuyển và sử dụng lao động nước ngoài. Nhu cầu sử dụng đối tượng này là một tất yếu vì vậy các quy định về việc sử dụng lao động nước ngoài không được là rào cản. Hai là, tạo thuận lợi cho người lao động nước ngoài, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và khuyến khích những điều kiện có lợi hơn cho họ nhưng cũng không ảnh hưởng đến an ninh việc làm trong nước. Các biện pháp xử lý vi phạm cần mềm dẻo, linh hoạt nhưng vẫn phải đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa. Ba là, tạo thuận lợi cho các cơ quan nhà nước trong việc quản lý lao động nước ngoài. Cần bổ sung trách nhiệm và cụ thể hóa nhiệm vụ của những cơ quan chức năng, đồng thời có sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan này, kiểm soát chặt chẽ các vi phạm. Bốn là, phù hợp với pháp luật các nước, thông lệ quốc tế và đặc biệt, với những cam kết của Việt Nam tại các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là 70 thành viên. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam phải có những thay đổi trong quy định pháp luật để không trái với cam kết đã ký. Năm là, tình hình thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi, qua các đợt kiểm tra, nhận thấy: Các doanh nghiệp đã nhận thức, hiểu rõ các quy định pháp luật của Nhà nước về quản lý và tuyển dụng lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tổ chức quản lý và sử dụng lao động đảm bảo đúng quy trình, thủ tục theo quy định pháp luật. 2.2.2.2 Mặt hạn chế Một là, hạn chế trong quy định của pháp luật: Quy định về trình tự, thủ tục phải tuyển lao động Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển người lao động nước ngoài trước khi tuyển lao động nước ngoài, trong khi pháp luật về đấu thầu quy định các điều kiện để nhà thầu tham gia dự thầu phải có năng lực và kinh nghiệm đã từng thực hiện các dự án tương tự về kỹ thuật và quy mô, thực tế nhà thầu đã có sẵn đội ngũ lao động kỹ thuật, chuyên môn lành nghề và kinh nghiệm để thực hiện dự án trúng thầu; Quy định về điều kiện là chuyên gia và lao động kỹ thuật quá chặt chẽ chưa phù hợp với thông lệ, gây khó khăn cho nhà thầu nước ngoài trong việc tuyển và sử dụng lao động; Về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động còn quy định một số giấy tờ mà người lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu trong thời gian rất ngắn (từ 1 đến 3 tháng, tối đa 6 tháng) khó thực hiện như phiếu lý lịch tư pháp, hợp pháp hóa lãnh sự các giấy tờ, bằng cấp chứng chỉ; Quy định cho phép được chuyển đổi mục đích nhập cảnh nên xảy ra tình trạng người nước ngoài xin thị thực du lịch vào Việt Nam lao động gây khó khăn trong công tác theo dõi, kiểm tra, quản lý; 71 Về chế tài xử phạt hành chính trong vi phạm pháp luật về quản lý lao động nước ngoài chưa đủ mức răn đe và buộc người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện; các biện pháp cưỡng chế chưa kiên quyết; chưa có nhiều biện pháp xử lý triệt để đối với các doanh nghiệp, nhà thầu hay cá nhân lao động nước ngoài cố tình vi phạm pháp luật Việt Nam; Những quy định về điều kiện cấp giấy phép lao động mặt tích cực là bảo vệ việc làm cho lao động Việt Nam, tuy nhiên trong xu thế hội nhập có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư và hạn chế sức cạnh tranh của lao động Việt Nam với lao động nước ngoài; Chưa có quy định riêng về lao động nước ngoài làm việc cho các nhà thầu nước ngoài, quy định thời hạn của hợp đồng lao động chưa phù hợp với thời hạn của giấy phép lao động đối với lao động nước ngoài. Theo quy định mới thì lao động nước ngoài sang Việt Nam làm việc phải có đủ 2 điều kiện là vừa phải có bằng đại học, vừa phải có kinh nghiệm, đảm nhận các vị trí công việc như: Chuyên gia, giám đốc điều hành, nhà quản lý và lao động kỹ thuật. Trong khi, lĩnh vực giầy da, dệt sợi, túi xách có nhiều chuyên gia nước ngoài đã có kinh nghiệm làm việc 15-20 năm, nhưng trình độ chỉ ở mức giấy chứng nhận kinh nghiệm. Vì thế, áp dụng quy định này rất khó cho các doanh nghiệp. Thực tế có nhiều ngành nghề trên địa bàn tỉnh có các chuyên gia nước ngoài sang làm việc rất giỏi nhưng về thủ tục chưa đáp ứng được vì lao động làm việc ở lĩnh vực ngành nghề thủ công, truyền thống vì những lao động này không thể có bằng cấp. Công tác quản lý của các cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý lao động nước ngoài chưa phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhiều đơn vị cùng quản lý nên thông tin không tập trung thống nhất. Việc xử lý vi phạm pháp luật về lao động nước ngoài làm việc không có 72 giấy phép chưa được xử lý triệt để vì sợ ảnh hưởng đến công tác thu hút đầu tư của tỉnh. Hai là, thực hiện các nội dung pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi Một số đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến công tác này, chưa báo cáo định kỳ, đột xuất danh sách lao động người nước ngoài đến công tác, làm việc dưới ba tháng cho cơ quan quản lý lao động tại địa phương. Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của một số nhà thầu và người lao động nước ngoài trong việc tuyển, sử dụng và thực hiện cấp giấy phép lao động; xuất nhập cảnh và cư trú còn hạn chế. Nguyên nhân chủ yếu của những bất cập của pháp luật quản lý lao động nước ngoài Như trên đã nghiên cứu, pháp luật quản lý lao động nước ngoài không chỉ bao gồm tổng thể các nguyên tắc, qui tắc được chứa đựng trong các nguồn pháp luật khác nhau, mà còn bao gồm cả việc thi hành và tổ chức thi hành bởi các nguyên tắc, qui tắc chỉ có thể được xem là pháp luật nếu chúng được đem ra thi hành. Nói cách khác thi hành là một vế quan trọng để minh chứng cho việc các nguyên tắc và qui tắc được xã hội chấp nhận để điều tiết các ứng xử. Vì vậy khi nói tới nguyên nhân của các bất cập của pháp luật quản lý lao động nước ngoài, cần nói tới nguyên nhân của các bất cập về xây dựng các nguyên tắc, qui tắc xử sự, đồng thời nói tới nguyên nhân của các bất cập trong việc thi hành và tổ chức thi hành các nguyên tắc và qui tắc đã được tạo dựng. 73 Về các nguyên nhân của các bất cập về xây dựng pháp luật quản lý lao động nước ngoài Nguyên nhân thứ nhất, cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài, trong khi các nguyên tắc chung của luật lao động không thể áp dụng vừa khớp đối với các quan hệ quản lý lao động nước ngoài bởi mục tiêu sử dụng lao động trong nước và mục tiêu sử dụng lao động nước ngoài không đồng nhất với nhau, đôi khi trái ngược nhau. Biểu hiện của các bất cập này là Bộ luật Lao động 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành không nêu ra các nguyên tắc của lĩnh vực pháp luật này. Do đó rất ít các qui định nói về hành vi quản lý phải hướng tới bảo vệ quyền con người. Chưa lường hết điều kiện thực tế và việc hội nhập quốc tế. Chậm được sửa đổi, bổ sung, hướng dần chưa kỹ. Nguyên nhân thứ hai, những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao. Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động với cơ quan công an bị nhường thẩm quyền cho thông tư liên bộ. Nguyên nhân thứ ba, thiếu coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý. Hầu hết các chế tài được xác định bởi các văn bản pháp luật hiện hành về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam chỉ xác định chế tài hành chính. Đây cũng là hệ quả không hay của việc giao việc soạn thảo luật cho cơ quản quản lý chuyên ngành. Do đó lợi ích cục bộ trong việc xây dựng vai trò và vị trí quan trọng của chuyên ngành lấn át. Về các nguyên nhân của các bất cập về thi hành pháp luật quản lý lao động nước ngoài Việc thực hiện các quy định của pháp luật về lao động nước ngoài ở địa phương chưa nghiêm, theo dõi và quản lý lao động nước ngoài chưa được 74 thực hiện thường xuyên, kịp thời và thiếu sự phối hợp, hỗ trợ giữa Sở Lao động – TB&XH, Công an tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư..., Một số huyện ở địa phương thực hiện chế độ báo cáo không đầy đủ, không đúng quy định, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm còn rất hạn chế, chưa có nhiều đề xuất với Uỷ ban nhân dân tỉnh, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và các cơ quan có liên quan để có những giải pháp quản lý lao động nước ngoài. Người sử dụng lao động nước ngoài chưa thực hiện đúng pháp luật, không làm thủ tục đề nghị cấp, cấp lại giấy phép lao động kịp thời cho lao động nước ngoài, không báo cáo đầy đủ, kịp thời việc sử dụng lao động nước ngoài theo quy định. Người lao động nước ngoài chưa nghiên cứu đầy đủ các quy định của pháp luật lao động Việt Nam do người sử dụng lao động cung cấp; chưa chuẩn bị các giấy tờ cần thiết để làm các thủ tục đề nghị cấp giấy phép lao động [14]. Như vậy các nguyên nhân này được nêu ra khá đầy đủ kể cả về phía người quản lý và người bị quản lý (người sử dụng lao động và người lao động nước ngoài). 75 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 Trong chương 2 của luận văn, tác giả đã đề cập đến thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi, tình hình lao động nước ngoài và quản lý lao động nước ngoài qua đó đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài... thống kê về số lượng lao động, cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, hình thức lao động của LĐNN, vị trí việc làm và giới tính, trình độ chuyên môn của LĐNN theo quy định trong công tác thực hiện pháp luật đối với lao động người nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Những vấn đề lý luận được đề cập trong chương 2 là luận cứ khoa học giúp tác giả luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 cũng như đề xuất phương hướng, mục tiêu, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi trong chương 3 của luận văn. 76 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI Ở TỈNH QUẢNG NGÃI 3.1. Phương hướng thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về lao động - xã hội theo tiêu chuẩn khu vực và quốc tế, trong đó có các tiêu chuẩn lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2020, phê chuẩn các công ước cơ bản còn lại và một số công ước khác của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đến năm 2030, đảm bảo nội luật hóa toàn bộ các cam kết quốc tế về lao động - xã hội. Xây dựng pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã hội. Thứ hai, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu, tham gia vào thị trường lao động khu vực và toàn cầu; tăng cơ hội việc làm có chất lượng cho người lao động nhằm từng bước thay thế nhưng vị trí công việc mà lao động người nước ngoài đang đảm nhận. Tăng số lượng các nghề đào tạo được các nước công nhận về văn bằng, chứng chỉ phù hợp với yêu cầu chung. Thứ ba, giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Có những trường hợp các nhà thầu phụ của nước ngoài chưa được cấp giấy phép thầu nhưng vẫn hoạt động như bình thường. Đặc biệt, có những trường hợp chủ đầu tư khoán trắng cho nhà thầu chính; nhà thầu chính thuê nhà thầu phụ và mọi hoạt động liên quan đến tuyển dụng, sử dụng lao động nước ngoài do nhà thầu phụ tự quyết định, 77 chính quyền địa phương không có ý kiến, dẫn đến tình trạng các nhà thầu phụ này sử dụng bao nhiêu lao động nước ngoài thì chủ đầu tư và nhà thầu chính cũng không biết. Đây là sự buông lỏng trong quản lý của địa phương và chủ đầu tư. Việc thiếu kết hợp trong công tác xuất nhập cảnh cũng là một trong những kẻ hở cần phải khắc phục. Tuy nhiên nếu quá thổi phồng khuynh hướng xiết chặt quản lý mà không thấy được tiến trình hội nhập quốc tế và nghĩa vụ bắt buộc bảo vệ quyền con người của quốc gia thì đó cũng bị xem là khiếm khuyết, không phù hợp với thời đại và qui luật khách quan. Vì vậy định hướng này đặt ra để kết hợp cả hai khuynh hướng, dù có phần trái ngược, nhưng đều không thể bỏ qua. Việc xa rời sự kết hợp này khó có thể có được các qui định pháp luật quản lý lao động nước ngoài thích hợp. Hơn nữa định hướng mà có sự kết hợp cả hai khuynh hướng này giúp cho chúng ta có cái nhìn tổng thể bao quát để từ đó có được các chính sách tổng thể và có được các qui định pháp luật đầy đủ và hệ thống liên quan tới quản lý lao động nước ngoài nói riêng và người nước ngoài nói chung ở Việt Nam. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật lao động nước ngoài tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng 3.2.1 Củng cố và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam Một là, xây dựng một bộ nguyên tắc cho pháp luật quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam và tách vấn đề xuất khẩu và nhập khẩu lao động để điều tiết riêng biệt. Như trên đã phân tích các nguyên nhân dẫn đến các bất cập của các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam. Nguyên nhân thứ nhất là cơ quan làm luật chưa xác định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài. Thực tế Bộ luật Lao động tại Chương XI, Mục 3 chưa có qui định nào về các nguyên tắc của 78 pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam mà lĩnh vực pháp luật này được qui định cùng với vấn đề đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hai vấn đề lao động này xuất phát từ hai nhu cầu khác nhau của đất nước, chẳng hạn trong giai đoạn hiện nay việc xuất khẩu lao động đối với Việt Nam cần khuyến khích và thực hiện được càng nhiều càng tốt, trong khi đó cần có sự kiểm soát chặt chẽ cả về số lượng đối với lao động nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam. Do đó các nguyên tắc của Bộ luật Lao động 2012 qui định tại Điều 168 không thể là nguyên tắc chung cho hai loại lao động này. Vì vậy cần tách bạch hai loại lao động này để điều tiết riêng. Các nguyên tắc của pháp luật về quản lý lao động nước ngoài hay lao động di trú tại nước sở tại phải được qui định đầy đủ. Các nguyên tắc đó bao gồm: Tôn trọng quyền con người; Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; Bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động bản xứ; Tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Các nguyên tắc này đã được nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn này và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt các qui định của pháp luật quản lý lao động nước ngoài và là chuẩn mực cho việc đánh giá mô hình quản lý và hành vi quản lý. Hai là, qui định cụ thể hơn và chặt chẽ hơn những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài tại Bộ luật Lao động. Hiện nay Bộ luật Lao động 2012 đã dành quá nhiều vấn đề cho các văn bản dưới luật qui định nhất là vấn đề quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Tuy nhiên các văn bản dưới luật chưa thể hiện được đầy đủ mối liên hệ giữa các cơ quan trong việc quản lý lao động nước ngoài, đồng thời giá trị pháp lý của các qui định này thấp. Do vậy cần có qui định cụ thể về mối liên hệ này ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao hơn. Tư tưởng cục bộ trong quản lý nhà nước ở ta vẫn còn nhiều do đó sự chủ trì phối hợp để xây dựng Thông tư trở nên kém hiệu quả và các qui định của Thông tư dễ bị thay 79 đổi. Sự bất cập của pháp luật quản lý lao động nước ngoài là những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao. Việc phối hợp giữa cơ quan quản lý lao động với cơ quan công an bị nhường thẩm quyền cho thông tư liên bộ. Vì vậy giải pháp này là giải pháp cần thiết để khắc phục bất cập nói trên. Ba là, coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý lao động nước ngoài ở Việt Nam. Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp giữ vai trò tối quan trọng vì sự phán quyết của tư pháp luôn nhân danh những gì ở vị trí cao nhất trong một nền tài phán, do đó được cưỡng chế rất mạnh để thi hành. Vì vậy Bộ luật Lao động không thể không đề cập tới vai trò của tư pháp. Việc đề cập này có thể gián tiếp thông qua ấn định các chế tài dân sự, thương mại, hình sự đối với các vi phạm, nhưng cũng có thể qui định trực tiếp thẩm quyền của tòa án đối với các vi phạm như vậy. Tòa án đồng thời là nơi bảo vệ chắc chắn nhất cho quyền con người và quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động. Việc nhường nhiều vấn đề kể cả chế tài cho văn bản dưới luật như hiện nay trong lĩnh vực pháp luật quản lý lao động nước ngoài là không phù hợp vì văn bản dưới luật không có thẩm quyền qui định về tư pháp. Bốn là, thống nhất trong kỹ thuật lập pháp. Các văn bản dưới luật hiện có khuynh hướng xa rời luật bằng lập pháp. Hệ quả là quyền lợi của người lao động không chắc chắn và có thể bị vi phạm bởi cơ quan quản lý. Vì vậy đây là một giải pháp không thể bỏ qua trong khi hoàn thiện pháp luật. Năm là, bổ sung và sử dụng chế tài đặc thù. Việc sử dụng chế tài trục xuất rất hữu ích trong việc quản lý có hiệu quả đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Do đó pháp luật nên qui định: “Người nước ngoài phải chấm dứt lao động không được phép tại 80 Việt Nam ngay khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người nước ngoài có thể bị trục xuất trong trường hợp không thực hiện yêu cầu nói trên hoặc sau khi thực hiện yêu cầu lại tái vi phạm”. Chế tài này dùng để xử lý các vi phạm kèm theo các chế tài áp dụng cho người sử dụng lao động nước ngoài không được phép hoặc để xử lý đối với người lao động tự tiến hành các công việc kiếm tiền trong lãnh thổ Việt Nam mà không được phép. Các hợp đồng lao động ký với người lao động nước ngoài không được phép phải bị tuyên vô hiệu tuyệt đối. Pháp luật nên buộc bên sử dụng lao động phải bồi thường cho người lao động nước ngoài không được phép các chi phí bỏ sức lao động, chi phí ăn ở và đi lại ở Việt Nam và trở về nước của họ. Chế tài này phù hợp với mô hình quản lý lao động nước ngoài đặt trọng tâm vào quản lý doanh nghiệp hay người sử dụng lao động. Hậu quả pháp lý của hợp đồng lao động vô hiệu tuyệt đối trong trường hợp này có tác dụng cảnh báo và ngăn cản hữu hiệu việc sử dụng lao động nước ngoài trái phép. Sự cân nhắc lợi ích liên quan tới việc sử dụng lao động nước ngoài có thể khiến doanh nghiệp hay người sử dụng lao động lựa chọn việc tuân thủ pháp luật. Thứ sáu, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý lao động người nước ngoài tại Việt Nam nói chung và địa phương Quảng Ngãi nói riêng: Hiện nay, còn một số vướng mắc trong các quy định của pháp luật dẫn đến tình trạng khó thực hiện pháp luật. Nghị định 11/2016/NĐ-CP quy định, người sử dụng lao động nếu muốn tuyển dụng lao động là người nước ngoài thì tuyển dụng lao động Việt Nam vào các vị trí công việc mà doanh nghiệp, nhà thầu có nhu cầu tuyển, trường hợp không tuyển được thì mới sử dụng lao động người nước ngoài. Điều này khó thực hiện và chưa thực tế bởi quy trình tiêu chuẩn, việc chọn lựa lao động phù hợp cho từng công 81 việc là quyền quyết định của người sử dụng lao động. Quy định này vừa mang tính hình thức, vừa không chứng minh được việc tuyển LĐNN là do không có lao động Việt Nam thay thế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Một số quy định của pháp luật còn thiếu thực tế. Chẳng hạn như quy định về cấp lại giấy phép lao động chỉ áp dụng đối với giấy phép bị hỏng hoặc mất nhưng không quy định hướng xử lý đối với trường hợp có sự thay đổi về mặt nội dung trên giấy phép như số hộ chiếu, chức danh công việc, tên doanh nghiệp. Đối với trường hợp di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp, điều động đến làm việc tại Việt Nam, một trong những điều kiện cần phải có là phải có văn bản chứng minh thời gian làm việc tại công ty mẹ 24 tháng hoặc văn bản xác nhận đóng bảo hiểm, thuế thu nhập tại nước sở tại, trình tự thủ tục này doanh nghiệp thực hiện mất rất nhiều thời gian. Thời hạn tối đa quy định thời gian làm việc của người nước ngoài tại địa phương theo đề nghị của chủ sử dụng lao động nhưng không quá 2 năm, hết thời gian nêu trên nếu doanh nghiệp có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì phải có báo cáo giải trình cho UBND tỉnh chấp thuận sử dụng lại lao động nước ngoài. Việc này gây khó khăn đối với doanh nghiệp hoạt động trong một số lĩnh vực ngành nghề truyền thống đòi hỏi lao động phải có tay nghề lâu năm và làm việc lâu dài tại doanh nghiệp. Những doanh nghiệp chỉ có nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong thời gian dưới 6 tháng để thực hiện các dự án bảo dưỡng kỹ thuật về lĩnh vực lọc hóa dầu, dịch vụ dầu kí, khí hóa lỏng tại Khu kinh tế Dung Quất. Mặc dù, thời gian sử dụng lao động nước ngoài ngắn nhưng cũng phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật về cấp phép lao động. Điều này làm cho nhiều doanh nghiệp chọn hình thức lách luật thực hiện bảo lãnh người lao động vào làm việc dưới 3 tháng sau đó xuất cảnh sang các nước lân cận như Lào, 82 Campuchia...thời gian xuất cảnh chỉ 1-2 ngày, sau đó tiếp tục thực hiện thủ tục bảo lãnh dưới 3 tháng để thực hiện hoàn tất công việc tại địa phương. Đây là kẻ hở của pháp luật cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời để việc quản lý lao động là người nước ngoài tại địa phương được chặt chẽ. Đối với những trường hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại địa phương với các vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để thực hiện chào bán dịch vụ; vào Việt Nam với thời hạn dưới 03 tháng để xử lý những sự cố, tình huống kỹ thuật, công nghệ phức tạp nảy sinh làm ảnh hưởng hoặc có nguy cơ ảnh hưởng tới sản xuất, kinh doanh mà các chuyên gia Việt Nam và các chuyên gia nước ngoài hiện đang ở Việt Nam không xử lý được. Pháp luật không quy định trách nhiệm của Sở Lao động – TB&XH tỉnh phải xác nhận những trường hợp trên không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Tuy nhiên, trên thực tế nhu cầu sử dụng những đối tượng thuộc diện lao động này tại khu kinh tế Dung Quất (Nhà máy lọc dầu Dung Quất) là rất lớn từ 300-500 lao động, cơ quan xuất nhập cảnh yêu cầu doanh nghiệp liên hệ với Sở Lao động – TB&XH tại đại phương để được xác nhận tình hình sử dụng lao động. Đây là sự bất cập trong công tác phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong việc quản lý lao động là người nước ngoài, pháp luật cần có hướng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. 3.2.2 Nhóm giải pháp cho các cơ quan quản lý Thứ nhất, Nâng cao năng lực thể chế, khả năng tổ chức thực hiện, thúc đẩy hoạt động quản lý LĐNN một cách có hiệu quả tại địa phương. Nâng cao năng lực của bộ máy quản lý LĐNN là làm cho những cơ chế, thể chế, những phương thức quản lý trong nội bộ bộ máy nhà nước khoa học, hợp lý hơn; những khả năng hành chính và kỹ thuật chuyên môn của cán bộ 83 công chức cao hơn; những quy tắc, sự kiềm chế và kiểm soát để đảm bảo cho cán bộ công chức có khả năng linh hoạt để hoạt động tốt hơn vì tập thể, tránh những hành động độc đoán chuyên quyền, tham nhũng, quan liêu, cửa quyền và những tiêu cực khác. Người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị quản lý lao động nước ngoài tại địa phương, các khâu của quá trình cấp giấy phép lao động đối với LĐNN trên địa bàn tỉnh phải là người am hiểu sâu sắc về chuyên môn, khá về ngoại ngữ; có tầm nhìn dài hạn, có phương pháp và phong cách lãnh đạo, điều hành khoa học; có sự đồng cảm sâu sắc với những người lao động nước ngoài làm việc tại địa phương cụ thể: Đối với UBND tỉnh: Xem xét và chấp thuận cho doanh nghiệp, tổ chức được sử dụng lao động người nước ngoài đảm nhận những vị trí công việc mà lao động trong nước chưa đáp ứng được. Thường xuyên chỉ đạo triển khai công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quản lý lao động nước ngoài. Kiên quyết xử lý vi phạm những trường hợp lao động nước ngoài vào làm việc tại tỉnh bằng thị thực du lịch không vì môi trường đầu tư mà bỏ qua nhưng quy định của pháp luật. Xây dựng kế hoạch trung và dài hạn nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chỉ đạo các cơ quan có chức năng đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu về lao động ở địa phương, đặc biệt là nhu cầu của các nhà thầu nước ngoài nhằm thay thế bằng sử dụng lao động trong nước Đối với Sở Kế hoạch và Đầu tư: Trong quá trình thẩm định hồ sơ cấp giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cần nắm bắt nhu cầu dự kiến sử dụng lao động trong nước và lao động nước ngoài, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn FDI. 84 Thường xuyên trao đổi thông tin, phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội để nắm bắt tình hình số lượng lao động người nước ngoài là chủ doanh nghiệp. Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật liên quan để nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật cho người sử dụng lao động, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ngoài trúng các gói thầu lớn tại Quảng Ngãi đây là một khâu quan trọng trong tổ chức thực hiện pháp luật nhằm hạn chế những vi phạm của các đơn vị sử dụng LĐNN là do thiếu nhận thức về các quy định của pháp luật Việt Nam liên quan và sự thiếu ý thức pháp luật trong việc chấp hành những quy định này. Tổ chức thẩm định chặt chẽ các vị trí công việc mà doanh nghiệp, tổ chức không tuyển được lao động trong nước nhưng do nhu cầu sản xuất kinh doanh nên phải sử dụng lao động nước ngoài. Thực hiện cấp, cấp lại giấy phép lao động đối với những hồ sơ đề nghị cấp phép đảm bảo theo quy định. Khuyến khích, vận động doanh nghiệp, nhà thầu đăng ký cấp giấy phép lao động qua mạng điện tử. Đối với Công an tỉnh: Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất nhập cảnh, Phòng Quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh thường xuyên phối hợp với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức tập huấn cho các doanh nghiệp, nhà thầu có sử dụng lao động người nước ngoài. Để người nước ngoài hiểu và chấp hành tốt pháp luật Việt Nam khi làm đến làm việc, cư trú tại tỉnh, công tác tuyên truyền, hướng dẫn cần phải được tăng cường triển khai. Đặc biệt, Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam số 47/2014/QH2013 ban hành ngày 16/6/2014 có hiệu lực thi hành từ 85 ngày 1/1/2015 thay thế toàn bộ Pháp lệnh về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam số 24/1999/PL-UBTVQH10 có nhiều điểm mới rất cần người lao động nước ngoài nắm rõ để thực hiện, chấp hành đúng khi làm việc, lưu trú trên địa bàn tỉnh. Để công tác quản lý người lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, các cơ quan chức năng cần có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa, trong đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hướng dẫn người lao động nước ngoài, cơ quan, doanh nghiệp, thực hiện đúng luật; tăng cường công tác thanh, kiểm tra, nghiêm túc xử lý những trường hợp vi phạm trên cơ sở đảm bảo ổn định sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo an toàn về an ninh, trật tự xã hội tại địa phương. Thứ hai: tiến hành tổng rà soát và dự toán nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi nói riêng và cả nước nói chung. Việc xây dựng hoạch định, quyết định chính sách và chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian tới làm trên căn bản nắm chắc nhu cầu thật của nền kinh tế đối với sử dụng lao động nước ngoài trong hiện tại và tương lai, và trên cơ sở các kinh nghiệm quản lý lao động nước ngoài làm việc tại địa phương Quảng Ngãi. Các kinh nghiệm này chỉ có được nếu như chúng ta tiến hành một cuộc tổng rà soát và phân tích kỹ lưỡng việc đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài, hiệu quả của việc sử dụng và hiệu quả của công tác quản lý theo các mô hình quản lý cụ thể. Trên cơ sở của dự báo và định hướng phát triển kinh tế, xã hội cùng với các yếu tố khác, chúng ta dự báo nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài trong từng giai đoạn. Thứ ba, hạn chế đúng mức việc sử dụng lao động nước ngoài ở một số địa bàn nhạy cảm như đảo Lý Sơn... Ở khu vực biên giới, hải đảo, khu vực rừng đầu nguồn, khu vực quan trọng đối với an ninh, quốc phòng hay những nơi thường xảy ra xung đột về 86 tôn giáo, sắc tộc cần có những hạn chế đúng mức đối với việc sử dụng lao động nước ngoài. Việc hạn chế này có thể với các cách thức khác nhau, tuy nhiên vẫn phải bảo đảm các nguyên tắc quản lý lao động nước ngoài đã nghiên cứu ở các chương trên. Thư tư, phát huy vai trò tư vấn pháp luật và tuyên truyền pháp luật lao động tại địa phương cho người lao động nước ngoài Nguyên nhân dẫn đến không tuân thủ pháp luật của nhiều người lao động nước ngoài là thiếu thông tin và hiểu biết về pháp luật. Vì vậy bên cạnh hoạt động tuyên truyền đến từng người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam, cần thiết đẩy mạnh hoạt động tư vấn pháp luật của các công ty luật và các trung tâm trợ giúp pháp lý. Thứ năm, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của người lao động và người sử dụng lao động nước ngoài là một hoạt động rất quan trọng trong việc nhận được các thông tin phản hồi về việc thi hành các chính sách và các qui định pháp luật. Phương thức thanh tra, kiểm tra hiện cần tiến hành là phối hợp thành lập các tổ công tác liên ngành để kiểm tra, thanh tra và chấn chỉnh những vi phạm khi sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại địa phương. Ngoài ra cần tăng cường thanh, kiểm tra theo chuyên đề, như chuyên đề tuyển chọn lao động, chuyên đề về đăng ký, khai báo và xin giấy phép lao động, chuyên đề sử dụng lao động Những trường hợp không đủ điều kiện làm việc thì buộc xuất cảnh hoặc trục xuất theo qui định, kịp thời giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến hoạt động sử dụng lao động nước ngoài. Thứ sáu, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng trực tuyến đồng bộ hóa dữ liệu. 87 Hệ thống ứng dụng trực tuyến được đưa vào sử dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước. Đây là những điều mà ngành lao động xã hội tại địa phương rất nỗ lực để thực hiện. Việc trao đổi thông tin cho nhau thường xuyên sẽ giúp các cơ quan quản lý lao động nước ngoài tại địa phương đạt hiệu quả hơn và có thể kiểm soát tối đa các trường hợp làm việc "chui" thông qua visa du lịch. Hiện nay, thủ tục cấp giấy phép lao động qua mạng điện tử đang được Quảng Ngãi triển khai qua cổng thông tin điện tử: dvc.vieclamvietnam.gov.vn. 3.2.3 Các giải pháp đối với người sử dụng lao động và người lao động Các giải pháp đối với người lao động Đối với người LĐNN, chúng ta là cơ quan quản lý nhà nước cần bảo vệ người LĐNN (trong quan hệ LĐNN) ngăn chặn mọi sự xâm hại có thể xảy ra đối với họ khi tham gia quan hệ LĐNN. Với ý nghĩa đó, “bảo vệ người LĐNN” có nghĩa rộng hơn và bao trùm “bảo đảm các quyền cho người LĐNN”. Đây là đặc trưng của pháp luật LĐNN của bất kỳ quốc gia nào có cơ chế thị trường. Bởi lẽ, người LĐNN luôn ở thế yếu hơn so với người sử dụng LĐNN. Đó cũng là tư tưởng xuyên suốt của hoạt động quản lý LĐNN trong các doanh nghiệp ở nước ta. Các giải pháp đối với người sử dụng lao động Người sử dụng LĐNN (ở đây là doanh nghiệp) là chủ thể bỏ vốn, đầu tư kinh doanh và thu hút LĐNN, giải quyết việc làm cho lao động tại địa phương. Do đó, Nhà nước cũng cần bảo đảm các quyền tuyển chọn, sử dụng LĐNN. Nếu như người LĐNN có quyền lựa chọn việc làm thì người sử dụng LĐNN cũng có quyền tuyển chọn LĐNN, quyền tăng giảm LĐNN theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh và theo quy định pháp luật. Vì vậy, cùng với việc bảo đảm hài hòa lợi ích người LĐNN - người sử dụng LĐNN thì bảo vệ quyền của người sử dụng LĐNN cũng là một trong những nguyên tắc của 88 quản lý LĐNN trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng, người sử dụng lao động phải ưu tiên sử dụng lao động trong nước , trường hợp không tuyển được lao động trong nước ở vị trí công việc có nguy cơ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh thi mới tuyển dụng LĐNN. Thực hiện đúng chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động nước ngoài để tạo điều kiện cho việc quản lý tốt người lao động nước ngoài làm việc tại tỉnh. 89 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 Những yêu cầu đặt ra và cơ sở của việc củng cố hoàn thiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở tỉnh Quảng Ngãi; phương hướng hoàn thiện, giải pháp thực hiện pháp luật về quản lý lao động ở tỉnh Quảng Ngãi từ đó hoàn thiện và tổ chức thực hiện các quy định của luật pháp liên quan đến người nước ngoài làm việc tại Việt Nam và về lâu dài cần nghiên cứu, xây dựng, ban hành luật về người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, trong đó có quy định về quyền, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động, các cơ quan liên quan tới các hình thức đi làm việc của người LĐNN và người sử dụng lao động nước ngoài. Trên cơ sở đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý lao động nước ngoài tại tỉnh Quảng Ngãi cho những năm tiếp theo. Chương 3 đã đề cập tới những nội dung chính như: Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật về quản lý lao động nước ngoài, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, thực hiện đúng chế độ báo cáo tình hình sử dụng lao động nước ngoài, xây dựng và đưa vào sử dụng ứng dụng trực tuyến đồng bộ hóa dữ liệu. 90 KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan trong xu thế toàn cầu hóa. Hội nhập giúp các quốc gia xích lại gần nhau hơn trong sự hợp tác cùng có lợi nhưng cũng khiến các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức. Trong xu thế đó, cùng với dòng di chuyển của hàng hóa và vốn, di chuyển lao động là điều không tránh khỏi. Vấn đề sử dụng lao động nước ngoài ở các nước trên thế giới xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của mỗi nước để phát triển kinh tế - xã hội. Sử dụng lao động nói chung và sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại các cơ sở kinh tế ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề quan trọng trong việc sử dụng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển của mỗi quốc gia và đặc biệt là ở nước ta. Người nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam sẽ làm tăng thêm số lượng cũng như làm phong phú thêm lực lượng lao động, đồng thời tăng tính cạnh tranh trên thị trường lao động. Tuy vậy, việc di chuyển của người nước ngoài vào vào Việt Nam sẽ làm cho số lượng và cơ cấu lao động thay đổi. Chính vì vậy, thu thập thông tin, nắm được cung - cầu và sự biến động cung - cầu lao động nói chung và lao động nước ngoài nói riêng làm cơ sở để quyết định chính sách đối với lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng lao động nước ngoài tại Việt Nam, đồng thời xây dựng chế độ thanh tra, kiểm tra đối với doanh nghiệp, tổ chức có sử dụng lao động nước ngoài, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật lao động. Đây là việc làm thường xuyên và liên tục nhằm uốn nắn những sai lệch, giải quyết vướng mắc trong quá trình thực hiện nhằm thực hiện tốt nội dung quản lý nhà nước đối với người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài, tác giả phân tích thực trạng quản lý lao động nước ngoài 91 trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Kết hợp định hướng và mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý lao động nước ngoài trên địa bàn, tác giả đã đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật đối với lao động nước ngoài trên địa bàn Quảng Ngãi trong thời gian tới. Những giải pháp nêu trên nếu được các cấp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi áp dụng trên địa bàn sẽ mang lại lợi ích đối với thực hiện pháp luật về công tác quản lý LĐNN trên địa bàn nhằm thực hiện hiệu quả nghị định 11/2016/NĐ-CP ngày 3/2/2016 về Quy định chi tiết và thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vì vậy lĩnh vực pháp luật này phải dựa vào mô hình quản lý lao động nước ngoài và bảo đảm các nguyên tắc: tôn trọng quyền con người; bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; bảo đảm hiệu quả kinh tế và bảo vệ việc làm cho người lao động trong nước; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động nước ngoài. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này có nhiều bất cập do các nguyên nhân như: nhà làm luật chưa xác định được đầy đủ các nguyên tắc của pháp luật quản lý lao động nước ngoài; những mối liên hệ giữa các chủ thể quản lý lao động nước ngoài chưa được cụ thể hóa ở tầm văn bản có giá trị pháp lý cao; thiếu coi trọng vai trò của tư pháp trong hoạt động hỗ trợ quản lý. Do đó, việc củng cố hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này cần có định hướng như xây dựng pháp luật quản lý lao động nước ngoài nhằm tới các mục tiêu đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động nước ngoài một cách hợp lý và gắn việc sử dụng lao động nước ngoài của từng người sử dụng lao động với lợi ích chung của toàn xã hội, và giữ vững chủ quyền, an ninh chính trị đồng thời bảo đảm hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Đi cùng với định hướng này cần có các giải pháp liên quan tới kinh tế, xã hội và giải pháp pháp lý. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí Thư (2010), Chỉ thị số 40-CT-TW ngày 20/01/2010 về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam. 2. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2008), Thông tư số 08/2008/TT- BLĐTBXH ngày 10/6/2008 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 3. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2009) Thông tư số 13/2009/TT- BLĐTBXH ngày 06/5/2009 hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. 4. Bộ Lao động – Thông binh và Xã hội (2011), Thông tư số 31/2011/TT- BLĐTBXH ngày 03/11/2011 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 5. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2014), Thông tư số 03/2014/TT- BLĐTBXH ngày 20/01/2014 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư số 40/2016/TT- BLĐTBXH ngày 25/10/2016 hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2012), Văn bản số 1581/UBND- VX ngày 09/8/2012 của về tăng cường quản lý lao động nước ngoài. 8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Công văn số 5233/LĐTBXH-VL ngày 29/12/2016 9. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2017), Đề tài cơ sở : Tình hình quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam 10. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006. 11. Chính phủ (2008), Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 12. Chính phủ (2011) Nghị định số 46/2011/NĐ-CP ngày 17/6/2011 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2008/NĐ-CP ngày 25/3/2008 của Chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 13. Chính phủ (2013), Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 14. Chính phủ (2016), Nghị định số 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 quy định chi tiết một số điều của Bộ Luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 15. Chính phủ (2013), Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động. 16. Chính phủ (2015), Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động. 17. Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966. 18. Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966. 19. Công ước quốc tế về việc bảo vệ quyền của tất cả người lao động di trú và thành viên gia đình họ năm 1990. 20. Công ước số 97 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). 21. Công ước số 143 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). 22. Công ước số 150 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). 23. Phan Huy Đường (2011), Quản lý nhà nước đối với lao động nước ngoài ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ. 24. Phạm Thị Hương Giang (2015), Hoàn thiện Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. 25. Phạm Thị Hương Giang (2016), Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (www.tcdcpl.moj.gov.vn) 26. Nguyễn Thị Thu Hương và Nguyễn Thị Bích Thủy (2012), Chuyên đề Lao động nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và những vấn đề đặt ra. 27. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2009), Bảo vệ người lao động di trú, Nxb. Lao động, Hà Nội. 28. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền của người lao động di trú (Công ước của Liên hiệp quốc và những văn kiện quan tọng của ASEAN), Sách tham khảo, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2- 2010. 29. Bùi Sỹ Lợi (2016), “Một số định hướng sửa đổi, bổ sung Pháp luật lao động”, Tạp chí Lao động và Xã hội số 529 ngày 16-30/6/2016 (Tr. 5) 30. Lưu Bình Nhưỡng (2009), “Một số vấn đề pháp lý về người nước ngoài đến làm việc tại Việt Nam” (tr. 1 – 10), Tạp chí Luật học, Số 9/2009. 31. Lê Hồng Huyên (VNH3.TB5.791), “Tác động của di chuyển lao động quốc tế đối vứi sự phát triển kinh tế xã hội - Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế”, www.hids.hochiminhcity.gov.vn. 32. Lê Phương (2015), “Quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam: Hài hòa giữa yêu cầu và lợi ích”, Báo Lao động, thứ Bảy ngày 12/09/ 2015. 33. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước cộng hòa XHCN Việt Nam. 34. Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Bộ Luật lao động. 35. C.Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, trang 23 36. Sở Lao động – Thương binh và Xã hội và một số Sở, ngành liên quan (2015), Các báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra tình hình lao động nước ngoài làm việc trên địa bàn tình Quảng Ngãi của Đoàn kiểm tra liên ngành qua các năm 2013, 2014, 2015. 37. Lê Thị Hoài Thu (2013), “Bảo đảm quyền của người lao động di trú trong pháp luật lao động Việt Nam” (tr. 201 – 224), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 38. Phạm Công Trứ (2013), “Quyền của người lao động trong các văn kiện pháp lý quốc tế: Một bộ phận cấu thành hệ thống các quyền con người” (tr. 11 – 22), Bảo đảm quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 39. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948. 40. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2014), Văn bản số 2920/UBND-VX ngày 25/04/2014 của về tăng cường quản lý lao động nước ngoài Chính phủ Việt Nam. 41. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Công văn số 321/UBND-KGVX ngày 18/01/2017 của về tăng cường công tác quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. 42. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội số 133/BC-UBND ngày 26/7/2016. 43. Viện Nhà nước và Pháp luật (2017), Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài ở Việt Nam của tác giả Phạm Thị Hương Giang Tiếng Anh 44. ASEAN (2014), Asean Conference on Globalization and Labor Administration: Cross-Border Labor Mobility, Social Security and Regional Integration, Manila, Philippines, November 19-21,2014.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_thuc_hien_phap_luat_ve_quan_ly_lao_dong_nuoc_ngoai.pdf
Luận văn liên quan