Hơn thế nữa việc tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cho cán bộ thuế, sẽ giúp cho công tác hoàn thuế được thực hiện
theo đúng quy định, đảm bảo chính xác, tránh tình trạng gian lận hồ sơ của
các doanh nghiệp và phát huy tác dụng của hoàn thuế GTGT, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thuế là một biện pháp hữu hiệu đểxây
dựng một ngành thuế vững mạnh trong sạch góp phần vào việc xây dựng
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng một xã hội công bằng văn
minh.
85 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2334 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng công tác hoàn thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp Công nghiệp trên điạ bàn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a cũng là do người tiêu
dùng hiện nay chưa quen với việc lấy hoá đơn khi mua hàng, đây là cơ hội
để doanh nghiệp lợi dụng.
+ Lập hoá đơn bán hàng ghi số tiền trên liên 1 ít hơn liên 2. (Liên
2 là liên giao cho KH ): Đây cũng là thủ đoạn nhằm khai giảm doanh số để
giảm số thuế đầu ra hòng trốn thuế phải nộp hoặc để xin hoàn thuế.
Thủ đoạn này xảy ra ở phòng công nghiệp – cục thuế Hà nội chỉ đối với
một số ít doanh nghiệp nhưng lại được coi là phổ biến ở các cơ quan thuế
khác. Ví dụ:
Qua xác minh đối chiếu tại cục thuế Bắc Ninh phát hiện 37 hoá
đơn của 4 hộ kinh doanh thì thấy:
Trị giá trên liên 2: 28.161.339.675 đồng.
Trị giá trên liên 1: 11.138.000 đồng.
Tại Quảng Ninh đã phát hiện 1 doanh nghiệp kê khai số tiền
trên liên 1 và liên 2 chênh lệch 60,8 triệu đồng. Tây Ninh đã phát hiện một
hoá đơn có số tiền trên liên 1và liên 2 chênh lệch 43,4 triệu đồng,Thanh hoá
phát hiện hai hoá đơn có số tiền liên 1 và liên 2 chênh lệch nhau 94,5 triệu
đồng.
Gần đây nhất, ở cục thuế Quảng Ngãi phát hiện ra một vụ doanh
nghiệp ghi chênh lệch giữa liên 1 và liên 2 tới 106,2 triệu đồng. Thật vậy,
việc ghi tăng doanh số giữa liên 1 và liên 2 diễn ra ngày càng nghiêm trọng
với quy mô lớn dần, gây ảnh hưởng rất nhiều đến công tác quản lý thuế của
cơ quan thuế.
+ Ghi khống doanh số:
Hình thức này được thể hiện như sau: Doanh nghiệp tiến hành khai
khống doanh số xuất khẩu để xin hoàn thuế (dưới hình thức khai khống
hàng mua vào)
+ In và sử dụng hoá đơn giả: Việc Bộ tài chính cho phép doanh
nghiệp tự in hoá đơn đã tạo ra mặt tích cực, tuy nhiên mặt trái của nó là
58
tình trạng sử dụng hoá đơn giả ngày càng có xu hướng nghiêm trọng hơn
mà cơ quan thuế chưa thể kiểm soát hết được, các doanh nghiệp đã lợi dụng
quy định của cục thuế lấy hoá đơn giả, kê giá trị hàng mua vào để xin hoàn
thuế.
Hiện tượng sử dụng thủ đoạn này ở các doanh nghiệp công nghiệp chỉ
xảy ra vào năm 1999 và đầu năm 2000 khi mới áp dụng luật thuế GTGT và
hoàn thuế GTGT còn hiện nay thì không tồn tại nữa, song hiện tượng này
vẫn tồn tại ở nhiều doanh nghiệp nhất là đối với những doanh nghiệp tư
nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Chỉ tính tại thành phố HCM trong năm 2000 các cơ quan chức năng đã
phát hiện 196 vụ vi phạm hoá đơn với tổng số tiền phạt 843 triệu, 67 vụ sử
dụng hoá đơn giả bất hợp pháp trong các doanh nghiệp với tổng số hơn 500
tờ hoá đơn truy thu và phạt 443 triệu đồng, trong đó có nhiều doanh nghiệp
vi phạm với số lượng lớn, điển hình là công ty TNHH Việt Vạn Đạt
(TPHCM ) xuất cho công ty Bình Phước 05 hoá đơn khống (hưởng 3%), tạo
điều kiện cho công ty Bình Phước chiếm đoạt 77 triệu đồng tiền hoàn thuế;
Công ty Thái Bình Dương xuất 17 hoá đơn khống cho công ty IDC tạo điều
kiện lập hồ sơ khống hoàn 2,7 tỷ đồng tiền hoàn thuế.
Năm 2001, công ty cổ phần Thái Huỳnh xuất 17 hoá đơn khống cho
công ty DC chiếm đoạt 7 tỷ đồng tiền hoàn thuế.
Năm 2002,tháng 10/2002 – cục thuế TPHCM đã phát hiện 57 vụ dùng
hoá đơn giả (tính từ 1/1/2002 – 10/2002) truy thu và phạt 508 triệu đồng.
Qua con số thống kê trên ta có thể thấy rằng, tình trạng gian lận trong
hoàn thuế qua hoá đơn chứng từ rất phổ biến và có nhiều vụ có quy mô lớn,
thử hỏi rằng những vụ này mà không được cơ quan thuế phát hiện kịp thời
thì không biết bao nhiêu tiền của Nhà Nước sẽ rơi vào túi của các doanh
nghiệp mà đúng nhẽ ra tiền đó là của Nhà Nước.
- Thứ ba: Lợi dụng quy định về hoàn thuế đối với TSCĐ. Theo thông tư
122/2000 TT-BTC của bộ tài chính quy định về việc hoàn thuế đối với cơ sở
59
mới thành lập, đầu tư TSCĐ mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ thuế nhưng chưa phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế
GTGT đầu ra, TT quy định rằng nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên
thì được xét hoàn theo từng năm, số thuế hoàn đầu vào được hoàn có giá trị
lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn theo quý, quy định này có ưu
điểm là khuyến khích được các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất kinh
doanh, mở rộng đầu tư, đầu tư chiều sâu...Nhưng mặt trái của nó là bị
doanh nghiệp lợi dụng để rút tiền NSNN thể hiện: TSCĐ do có đặc điểm
thời gian đầu tư dài, cho nên doanh nghiệp có thể sử dụng tài sản này để sản
xuất hàng chịu thuế GTGT, cũng có thể sử dụng tài sản này để sản xuất
hàng chịu thuế TTĐB. Nếu doanh nghiệp sử dụng tài sản này sản xuất hàng
chịu thuế GTGT mà xin hoàn VAT thì không có vấn đề gì, song trong thực
tế nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy định này, dùng tài sản này vào sản xuất
hàng chịu thuế TTĐB mà vẫn xin hoàn thuế VAT, tình trạng này nếu không
được phát hiện kịp thời thì một khoản tiền không nhỏ đáng nhẽ ra là của
Nhà nước sẽ bị rơi vào túi doanh nghiệp.
- Thứ tư: Công tác hoàn thuế còn chậm.
Số thuế được hoàn trong những năm gần đây đã tăng lên, song phải thừa
nhận rằng tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp cho đến bây giờ dù đã khá
hơn trước đây, nhưng tình trạng chung không chỉ với doanh nghiệp công
nghiệp mà còn đối với tất cả các doanh nghiệp khác, hầu như các doanh
nghiệp đều nhận được tiền hoàn thuế chậm hơn so với quy định của Bộ tài
chính (tối đa 15 ngày với trường hợp hoàn trước kiểm sau, 60 ngày với trường
hợp kiểm trước hoàn sau). Việc tiền hoàn thuế đến tay doanh nghiệp chậm
hơn so với quy định có hai nguyên nhân:
- Về phía cơ quan thuế: Theo quy định thì sau khi cơ quan thuế tiếp nhận
hồ sơ của đối tượng nộp thuế sẽ phải chuyển ngay tới bộ phận quản lý để thực
hiện phân loại hồ sơ (hồ sơ nào được kiểm tra trước hoàn sau, hồ sơ nào thuộc
loại hoàn trước kiểm sau) rồi chuyển tới phòng kế hoạch, phòng lãnh đạo
60
duyệt, sau đó chuyển tới phòng máy tính. Như vậy một bộ hồ sơ xin hoàn
thuế phải chuyển qua rất nhiều phòng ban (chưa kể các hồ sơ chưa đủ điều
kiện còn bị xếp đống), trong thực tế thì không phải cứ hồ sơ chuyển tới phòng
ban là được giải quyết ngay, đã không ít hồ sơ bị lơ là bởi sự vô trách nhiệm
của một số cán bộ thuế và đọng lại ở một phòng tới một tuần. Hơn nữa để
được hoàn thuế doanh nghiệp phải làm quá nhiều thủ tục…. Chính điều này
đã dẫn tới việc hoàn thuế cho doanh nghiệp chậm hơn so với quy định.
- Về phía doanh nghiệp: Mặc dù luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống
được hơn 4 năm, công tác về chứng từ, hồ sơ đã dần đi vào nề nếp (thể hiện
qua bảng: năm 1999 có 6 hồ sơ tồn đọng, năm 2000 –6 hồ sơ, đến năm 2001
thì không còn hồ sơ nào), song cho đến nay vẫn còn có những doanh nghiệp
phạm vào sai sót trong việc kê khai chứng từ hồ sơ xin hoàn thuế, cơ quan
thuế cho biết: khi tiếp nhận hồ sơ từ phía doanh nghiệp, qua kiểm tra còn
nhiều hồ sơ phải yêu cầu doanh nghiệp giải trình lại vì nhiều dữ liệu kê khai
sai so với yêu cầu, số thuế xin hoàn không khớp nhau giữa bảng kê tổng hợp
với bảng kê trên hàng hoá, dịch vụ.., đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm cho doanh nghiệp nhận được tiền hoàn thuế muộn, hay chính doanh
nghiệp gây ra việc doanh nghiệp nhận được tiền hoàn thuế chậm hơn so với
dự định, ảnh hưởng đến kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thứ năm: Vấn đề được coi là nan giải với các doanh nghiệp không chỉ
đối với các doanh nghiệp công nghiệp mà còn đối với tất cả các doanh
nghiệp.
Theo quy định hiện nay cơ quan thuế chỉ thực hiện hoàn thuế cho
những đối tượng xuất khẩu có tài khoản ở ngân hàng và phải thực hiện
thanh toán qua ngân hàng - Điều này dẫn đến một hiện tượng là:
- Nhiều doanh nghiệp thực sự có xuất khẩu nhưng lại không có tài
khoản để thanh toán qua ngân hàng do đó vẫn không được hoàn thuế.
Tình trạng này xảy ra với các doanh nghiệp công nghiệp khối nhà nước
là ít hơn rất nhiều so với các đơn vị khác, bởi vì đa số các doanh nghiệp công
61
nghiệp quốc doanh đã có tài khoản ở ngân hàng chỉ còn một số ít là chưa có
còn gặp phải vướng mắc các doanh nghiệp gặp phải vướng mắc lớn nhất
hiện nay là các doanh nghiệp xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản, những doanh
nghiệp này đại đa số là sử dụng phương thức thanh toán trực tiếp từ trước
tới nay, chính vì vậy theo quy định hiện nay các doanh nghiệp này gặp rất
nhiều khó khăn. Điển hình cho khó khăn này là doanh nghiệp bánh đậu
xanh Hải dương, trong tháng 1/2003 vừa qua, bánh đậu xanh Hải dương
liên tục gửi hồ sơ xin hoàn thuế và những thắc mắc về vấn đề hoàn thuế hiện
nay, tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn chưa được hoàn thuế vì các doanh
nghiệp này chưa có tài khoản ở ngân hàng, thật vậy hầu hết các doanh
nghiệp này đều bị ứ đọng vốn, song quyết định này vẫn cứ phải thực hiện để
hạn chế hiện tượng gian lận trong hoàn thuế.
. Nguyên nhân
Nguyên lý chung của thuế GTGT là người kinh doanh XK được áp
dụng thuế suất 0%, sau khi XK hàng hoá, doanh nghiệp được hoàn lại toàn
bộ số thuế GTGT đã nộp ở khâu trước của hàng xuất khẩu. Việc hoàn thuế
cũng có thể xảy ra đối với trường hợp thuế GTGT của hàng bán ra nhỏ hơn
thuế GTGT của hàng mua vào. Thuế được hoàn có tác dụng giảm chi phí,
đẩy mạnh xuất khẩu, tạo điều kiện cho hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh
thuận lợi trên thị trường quốc tế đồng thời có tác dụng khuyến khích đầu tư
sản xuất...
Có thể nói đó là chính sách hỗ trợ và khuyến khích của Chính phủ đối
với các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chính sách trên
một số doanh nghiệp đã làm bộ chứng từ khống thông đồng với một số cá
nhân trong cơ quan quản lý Nhà Nước hoặc lợi dụng quy định thiếu chặt
chẽ của cơ quan thuế để rút tiền NSNN thông qua hoàn thuế GTGT, vậy
nguyên nhân của tình trạng này là do đâu? có thể kể ra một số nguyên nhân
sau đây:
62
- Thứ nhất: Ý thức chấp hành pháp luật của đối tượng nộp thuế chưa
tốt.
Hiện nay nhiều doanh nghiệp vì ham lợi nên đã bất chấp quy định của
cơ quan thuế cũng như lợi dụng sơ hở của luật thuế để bòn rút tiền của
NSNN. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân, công ty
TNHH và công ty cổ phần.
Thực tế việc bòn rút tiền NSNN hay những vi phạm trong hoàn thuế
chủ yếu xuất phát từ hành vi thiếu tôn trọng pháp luật của doanh nghiệp.
- Thứ hai: Năng lực của đội ngũ cán bộ thuế còn hạn chế:
Hiện nay đội ngũ cán bộ thuế của phòng có trình độ đại học còn rất
khiêm tốn 26,4%, nhiều cán bộ đã không cập nhật dược với quy trình quản
lý của luật thuế mới, đã không ít cán bộ rất “ lúng túng “ trong việc kiểm
tra đối tượng nộp thuế, đôi lúc còn kiểm tra cho qua chuyện, trong khi đó
các đối tượng nộp thuế thì có quá nhiều thủ đoạn tinh vi trong việc chiếm
đoạt tiền NSNN khiến cán bộ thuế nhiều khi không thể phát hiện ra hoặc
không biết xử lý như thế nào, đây cũng là một kẽ hở để đối tượng nộp thuế
bòn rút tiền NSNN.
- Thứ ba: Công tác quản lý đối tượng nộp thuế còn lỏng lẻo:
Thực tế hiện nay công tác quản lý đối tượng nộp thuế còn nhiều thiếu
sót,việc kiểm tra, kiểm soát có nơi có lúc còn buông lỏng... Luật doanh
nghiệp cũng đã thông thoáng hơn chính vì vậy nhiều “ công ty ma “ đã nổi
lên, cơ quan thuế đôi lúc cũng không kiểm tra kĩ càng xem doanh nghiệp có
tồn tại hay không mà vẫn cho hoàn thuế, có khi kiểm tra để lấy lệ. Đó là một
trong những nguyên nhân để đối tượng nộp thuế lợi dụng rút ruột nhà
nước.
- Thứ tư: Công tác quản lý sử dụng hoá đơn GTGT còn nhiều kẽ hở.
Chế độ quản lý, sử dụng, kiểm tra, kiểm soát về hoá đơn còn chưa hiện
đại, mức độ sử lý vi phạm còn chưa thật hiệu quả, chính từ nơi đây đã tạo
63
nhiều kẽ hở cho các hành vi vi phạm có cơ hội ngày một gia tăng đối tượng
cũng như mức độ nguy hiểm.
Hệ thống thông tin quản lý thuế hiện tại chưa có khả năng thực hiện
việc tự động kiểm tra chéo hoá đơn chứng từ theo kê khai của các doanh
nghiệp. Mà cụ thế là: việc kiểm tra đối chiếu giữa tờ khai thuế và bản kê
hoá đơn mua bán hàng hoá, dịch vụ vẫn phải thực hiện thủ công nên khó
phát hiện được sự trùng lặp trong việc sử dụng hoá đơn bán hàng. Chính vì
vậy, các cán bộ thuế rất khó phát hiện ra các hoá đơn không hợp lệ, không
thuộc cơ quan thuế quản lý hay là việc kiểm tra đối chiếu chéo hoá đơn để
phục vụ hoàn thuế cũng rất thủ công.
Bên cạnh đó, quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng tháng các
doanh nghiệp phải nộp cho cơ quan quản lý thuế: Tờ khai thuế GTGT, các
bản kê hoá đơn chứng từ hàng hoá dịch vụ bán ra và mua vào báo cáo tình
hình sử dụng hoá đơn; Các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về
những số liệu báo cáo, cơ quan quản lý thuế chỉ kiểm tra khi có nhu cầu
(nghi ngờ có sự gian lận hoặc sai sót trong số liệu báo cáo khi xét duyệt hoàn
thuế). Cách làm này thể hiện đúng tư tưởng hậu kiểm tra của luật doanh
nghiệp mới, thể hiện sự tin tưởng của các cơ quan quản lý vào sự trung thực
của doanh nghiệp, đồng thời làm giảm sự phiền hà cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quá trình triển khai này đã bộc lộ một số nhược điểm: khi
cơ quan thuế nhận được tờ khai, hồ sơ hoàn thuế của doanh nghiệp, bộ
phận nhập số liệu sẽ phải nhập lại các số liệu từ các báo cáo đó, đây là sự
lãng phí về thời gian, công sức và tiềm ẩn các lỗi nhập số liệu. Thêm vào đó,
do số lượng dữ liệu về hoá đơn trên các bảng kê hoá đơn hàng hoá dịch vụ
mua vào bán ra quá lớn nên các cục thuế khó khăn trong việc đối chiếu.
Có thể nói đây là những bức xúc và vướng mắc khi thực hiện quản lý
hoá đơn chứng từ. Những khó khăn này là một trong những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tình trạng có nhiều vi phạm gian lận qua hoàn thuế như hiện
nay.
64
- Thứ năm: Việc quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế
còn nhiều điểm chưa hợp lý. Thêm vào đó việc chấp hành các quy định xử
phạt này trên thực tế được thực hiện không nghiêm gây tâm lý coi thường
kỷ cương phép nước. Trong thực tế, mỗi năm Cục thuế Hà nội đã kiểm tra
phát hiện nhiều vụ vi phạm có những vụ phải truy thu và phạt hàng tỷ đồng
nhưng số vụ phải ra hầu toà còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân
quan trọng là nước ta chưa có toà án thuế, còn cơ quan thuế lại không được
giao thẩm quyền khởi tố các vụ án kinh tế. Đây là vấn đề tạo môi trường sản
xuất kinh doanh không lành mạnh đối với các doanh nghiệp.
- Thứ sáu: Do sự thiếu đạo đức của cán bộ thực thi nhiệm vụ
Ông cục trưởng cục cảnh sát kinh tế đã đặt vấn đề: Nếu không có sự
tiếp tay của cán bộ ngành thuế, hải quan thì khó có thể lọt lưới nhiều vụ việc
hoàn thuế như vậy.
Gần đây trong thông báo tình hình thực hiện luật thuế GTGT, báo cáo
của tổng cục thuế cũng đã thừa nhận: “Chưa có giải pháp phù hợp để quản
lý chặt chẽ hoạt động XNK, đặc biệt là XNK qua đường biên giới đất liền,
một số cán bộ ngành thuế, hải quan thiếu tinh thần trách nhiệm trong quản
lý, có một số cán bộ thoái hoá, biến chất đã thông đồng, tiếp tay cho các đối
tượng gian lận thuế “. Tình trạng này là nguyên nhân dẫn đến việc gian lận
trong hoàn thuế GTGT, đặc biệt là hoạt động XNK ngày càng gia tăng với
quy mô lớn.
- Thứ bảy: Công tác kiểm tra thanh tra sau hoàn thuế còn nhiều bất
cập.
Hậu kiểm tra sau hoàn thuế là việc làm cấp thiết không thể thiếu được
trong quá trình quản lý tài chính hiện nay. Một trong những công tác quan
trọng nhất trong quá trình kiểm tra thanh tra sau hoàn thuế là công tác
kiểm tra, đối chiếu xác minh hoá đơn đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp.
Tuy nhiên vấn đề khó khăn mà hầu hết các cơ quan thuế gặp phải, kể cả
phòng Công nghiệpt là số lượng hoá đơn cần xác minh quá lớn, trong khi
65
quá trình tiến hành xác minh lại mất nhiều thời gian nên công việc thường
tồn đọng nhiều, ảnh hưởng đến công tác thanh tra, kiểm tra của cục thuế.
Nhiều cán bộ quản lý thu nói rằng công việc xác minh hoá đơn đã chiếm đến
50 % thời gian làm việc của họ.
Hơn nữa việc xác minh hoá đơn không chỉ dừng lại ở phạm vi trong
nước, đối với hoạt động XNK hàng hoá, việc xác minh hoá đơn đã lan ra
phạm vi ngoài quốc gia, chính vì vậy cơ quan thuế không thể kiểm tra kiểm
soát hết được và việc kiểm tra, kiểm soát sau hoàn thuế cũng không đảm
bảo tính kịp thời. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng những yếu kém này mà
rút tiền NSNN. Tình trạng này hiện nay đang rất bức xúc nhưng vẫn chưa
có giải pháp thực sự hiệu quả cho nó. Trên đây là những nguyên nhân dẫn
đến hành vi vi phạm trong hoàn thuế GTGT với tính chất ngày càng nghiêm
trọng mà đòi hỏi phải có phương hướng giải quyết kịp thời để ngăn chặn
tình trạng đó. Trong thời gian tới, cần hạn chế tình trạng “rút ruột “ nhà
nước của các đơn vị kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh giữa
các doanh nghiệp, đồng thời phát huy được mặt tích cực của luật thuế
GTGT.
66
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC HOÀN THUẾ GTGT ĐỐI VỚI CÁC
DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN
ĐỊA BÀN HÀ NỘI.
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC HOÀN THUẾ
TRONG NHỮNG NĂM TỚI (TỪ NAY TỚI 2010)
3.1.1. Yêu cầu của thuế GTGT trong giai đoạn từ nay đến
năm 2010
3.1.1.1. Quan điểm cơ bản về mục tiêu của cải cách thuế
Quan điểm cơ bản của chiến lược cải cách thuế đến năm 2010 là tiếp tục
hoàn thiện các mục tiêu cải cách thuế bước II. Việc động viên qua thuế và phí
vào ngân sách Nhà Nước phải vừa giải quyết hài hoà về lợi ích kinh tế giữa
Nhà Nước và xã hội, vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà Nước thực hiện
các chức năng điều chỉnh vi mô nền kinh tế thực hiện chính sách xã hội, bảo
vệ an ninh quốc phòng.
Từ quan điểm cơ bản đó, mục tiêu cải cách thuế từ nay đến năm 2010
là:...
- Thuế và lệ phí là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, mức độ huy động
20-21% GDP.
- Thuế góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất
khẩu, phát triển kinh tế nông nghiệp, kinh tế trang trại để tăng sản lượng sản
phẩm nông nghiệp, khuyến khích hoạt động chế biến nông sản, sử dụng
nguồn nhiên liệu trong nước phục vụ cho mục tiêu đẩy mạnh sản xuất hàng
xuất khẩu, khuyến khích đầu tư vào ngành lợi thế, giải quyết nhiều lao động
cho các vùng trọng điểm phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
67
-Thuế đảm bảo bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế, đảm
bảo tính rõ ràng, ổn định.
- Thuế đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi
thực hiện hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới.
- Nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế và hoàn thiện thủ tục hành
chính về thuế cho phù hợp với các yêu cầu của giai đoạn này nhằm tăng
cường sự tuân thủ nghĩa vụ thuế đối với các đối tượng nộp thuế.
3.1.1.2. Yêu cầu của thuế GTGT từ nay đến năm 2010
Việc thực hiện cắt giảm thuế quan (CEPT) đang trong quá trình hoàn
thiện ( đến năm 2006 ) thuế suất thuế nhập khẩu các mặt hàng chủ yếu sẽ chỉ
còn tối đa 5%.
Việt Nam tiếp tục mở rộng và tham ra hội nhập với khu vực và trên thế
giới, tiến tới các ngành dịch vụ sẽ phát triển. Đầu tư nước ngoài tăng...
Thu về thuế GTGT là nguồn thu quan trọng trong NSNN, tăng về tỷ
trọng trong tổng số thuế gián thu nói riêng và thu NSNN nói chung để đảm
bảo phù hợp với tình hình cắt giảm thuế nhập khẩu. Trong quá trình tham gia
hội nhập quốc tế là rất cần thiết.
Thuế GTGT phát huy vai trò khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất và
dịch vụ đặc biệt là xuất khẩu. Thực hiện ưu đãi với các ngành có tiềm năng
phát triển và có khả năng cạnh tranh, là thế mạnh của ngành sản xuất trong
nước. Mặt khác, phát huy vai trò của một trong những loại thuế gián thu để
điều tiết tiêu dùng từ đó gián tiếp điều chỉnh nhập khẩu thực hiện mục tiêu
cân bằng XNK vào năm 2010.
Thuế GTGT phải đảm bảo thúc đẩy tăng trưởng và ổn định các chỉ tiêu
kinh tế xã hội. Một mặt, thuế GTGT thực hiện vai trò bảo hộ sản xuất trong
nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, mặt khác thuế GTGT thể hiện là một
trong những nhân tố chính đầu tư nước ngoài.
68
3.1.2. Yêu cầu của hoàn thuế GTGT từ nay tới 2010
Hoàn thuế GTGT là công tác rất quan trọng, nó không chỉ liên quan đến
việc quyết định số thu cho NSNN mà nó còn liên quan đến sự phát triển của
toàn bộ nền kinh tế, khi công tác hoàn thuế được thực hiện tốt sẽ là động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển và tạo ra một nền kinh tế lành mạnh.
chính vì vậy việc hoàn thuế trong thời gian tới phải đảm bảo yêu cầu sau:
- Hoàn thuế GTGT phải đảm bảo khuyến khích xuất khẩu phát triển.
- Hoàn thuế phải đẩy mạnh được hoạt động đầu tư xây dựng, thành lập
doanh nghiệp mới.
- Hoàn thuế phải tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp
trong nền kinh tế.
- Hoàn thuế phải đảm bảo số thu cao nhất cho NSNN, đúng với thực tế
phát sinh…….
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC HOÀN THUẾ VAT ĐỐI
VỚI DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
3.2.1. Giải pháp về cơ chế chính sách
- Luật công ty, luật doanh nghiệp nên quy định những tiêu chuẩn cụ thể
trong vấn đề thành lập doanh nghiệp, chẳng hạn Giám đốc phải có bằng đại
học chuyên ngành trở lên… Quy định này sẽ tránh trường hợp thành lập
doanh nghiệp tràn lan, hạn chế việc lợi dụng sự thông thoáng của luật doanh
nghiệp để bòn rút NSNN.
3.2.2. Tiếp tục thay đổi việc hoàn thuế
Hoàn thuế hợp lý vừa tạo điều kiện thuận lợi cho DN trong hoạt động
sản xuất kinh doanh lại vừa tạo ra hiệu quả đối với ngành thuế trong quá trình
hành thu. Chính vì vậy thay đổi việc hoàn thuế cho phù hợp là một yêu cầu
cần thiết đối với ngành thuế hiện nay.
69
Nếu như trước đây, mọi DN đều được áp dụng theo quy trình hoàn thuế
là: Hoàn trước kiểm sau, nay phòng tiến hành phân loại DN thành hai loại để
kiểm tra hồ sơ và tiến hành hoàn thuế đối với những DN nào hiện nay đang
thực hiện tốt quy định về sổ sách kế toán, chấp hành chính sách thuế tốt
không có hành vi vi phạm sẽ được hoàn thuế theo quy trình hoàn trước kiểm
sau. Còn đối với những doanh nghiệp thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ
không tốt, đã có hành vi trốn thuế thì sẽ kiểm tra xong rồi mới hoàn thuế
(kiểm tra trước-hoàn sau).
Việc phân loại này một mặt sẽ đẩy nhanh tốc độ hoàn thuế giúp doanh
nghiệp nhanh chóng thu hồi được số vốn đã bỏ ra đối với những doanh nghiệp
thực hiện chế độ sổ sách kế toán tốt, mặt khác có thể hạn chế những gian lận
trong hoàn thuế đối với những doanh nghiệp có hành vi vi phạm ( thông qua
công tác kiểm tra trước khi hoàn).
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý và sử dụng hoá đơn
Một trong những nguyên nhân khiến số tiền NSNN “ra đi” ngày càng
nhiều thông qua công tác hoàn thuế là do công tác quản lý và sử dụng hoá đơn
còn nhiều bất cập, bất cập này được nảy sinh cả từ hai phía, từ phía doanh
nghiệp do ham lợi nên tiến hành vi phạm, còn từ phía ngành thuế thì có rất
nhiều nguyên nhân do trình độ cán bộ thuế, do cơ sở vật chất kỹ thuật...
Vậy nên để hạn chế được tình trạng gian lận trong hoàn thuế thông qua
hoá đơn chứng từ, trước hết chúng ta phải có quy trình quản lý hoá đơn chứng
từ phù hợp. Đây chính là lý do cần phải tăng cường công tác quản lý-sử dụng
hoá đơn trong thời gian tới.
-Thứ nhất: Về thủ tục mua bán hoá đơn lần đầu do bộ tài chính phát
hành.
Kể từ ngày 2/1/ 2003, có một số thay đổi về thủ tục mua bán hoá đơn lần
đầu do bộ tài chính phát hành. Theo đó, đối với tổ chức, cá nhân mua bán hoá
đơn cần các thủ tục sau: Giấy giới thiệu mua bán hoá đơn do người đứng đầu
70
tổ chức ký, công văn mua hoá đơn đối với tổ chức do người đứng đầu ký, đơn
đề nghị mua hoá đơn đối với hộ gia đình sản xuất do chủ hộ ký, xuất trình
chứng minh thư nhân dân của người trực tiếp mua hoá đơn, giấy chứng nhận
đăng ký thuế kèm theo bản photocopy, sơ đồ các địa điểm sản xuất kinh
doanh, phòng giao dịch do tổ chức, cá nhân vẽ có xác nhận và cam kết của
người đứng đầu tổ chức, khi thay đổi địa điểm để sản xuất kinh doanh thì
trong vòng 10 ngày, tổ chức và cá nhân thuê địa điểm mới phải gửi cho cơ
quan thuế sơ đồ địa điểm mới đính kèm hợp đồng thuê nhà. Doanh nghiệp
nếu không kê khai thuế hoặc có kê khai nhưng không có doanh thu sau một
tháng mua hoá đơn thì không được tiếp tục mua hoá đơn do cơ quan thuế phát
hành. Quy định này một mặt sẽ kiểm tra được sự tồn tại của doanh nghiệp,
mặt khác hạn chế được tình trạng kinh doanh hoá đơn đối với các doanh
nghiệp.
- Thứ hai: Tăng cường ứng dụng tin học vào trong công tác quản lý hoá
đơn: Sau hơn 4 năm thực hiện hoàn thuế GTGT, tuy đã có nhiều cố gắng
nhưng công tác quản lý hoá đơn chứng từ không tránh khỏi những kẽ hở
khiến cho một số phần tử có cơ hội lợi dụng để bòn rút NSNN, hiện nay trên
thị trường tồn tại rất nhiều loại hoá đơn nên việc quản lý hoá đơn chứng từ
không phải là đơn giản đặc biệt tình trạng hoá đơn “giả”, “thật” lẫn lộn gây
khó khăn cho cán bộ quản lý. Chính vì vậy, để quản lý hoá đơn chứng từ có
hiệu quả nhất thì chỉ bằng cách nối mạng tin học toàn ngành thuế trên phạm vi
cả nước. Việc làm này sẽ giúp rất nhiều cho cơ quan thuế trong công tác quản
lý hoá đơn chứng từ cũng như công tác xác minh hoá đơn.
Đồng thời các doanh nghiệp đăng ký theo phương pháp khấu trừ đều
phải đưa hoá đơn GTGT vào đĩa để ngành thuế truy cập khi đối chiếu. Hiện
tại, với phương pháp thủ công việc xác minh đối chiếu hoá đơn chứng từ gặp
rất nhiều khó khăn mà độ chính xác lại không cao. Nếu như thực hiện được
việc nối mạng tin học của toàn ngành thuế thì công tác quản lý hoá đơn chứng
71
từ chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn, hạn chế được tình trạng lợi dụng hoá đơn để
moi tiền NSNN.
- Thứ ba: Tiếp tục khuyến khích sử dụng hoá đơn tự in
Thời gian qua các doanh nghiệp tự in hoá đơn đã quản lý khá tốt, tự giác
và chịu trách nhiệm cao trước pháp luật. Hoá đơn tự in rất thuận lợi vì nó vừa
hạn chế được tệ nạn mua bán hoá đơn, sử dụng hoá đơn giả, hơn nữa hoá đơn
được thiết kế phù hợp với nhu cầu, mục đích kinh doanh, giới thiệu quảng bá
sản phẩm của từng doanh nghiệp. Trên tờ hoá đơn còn ghi rõ tên, địa chỉ cua
doanh nghiệp đã giúp họ tự khẳng định và tự chịu trách nhiệm với khách hàng
và trước pháp luật bảo đảm cả về công tác hoạch toán, kế toán trong việc sử
dụng hoá đơn.... Với những ưu điểm này ngành thuế đã có chủ trương duy trì
việc khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn cùng với việc trang bị máy
tính cho ngành thuế nối mạng để quản lý, sử dụng và đối chiếu chéo trong cả
nước, để kiểm tra phát hiện sai phạm thì việc khuyến khích sử dụng hoá đơn
tự in sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường nội bộ để quản lý, sử dụng hoá
đơn và ngăn ngừa các trường hợp sử dụng hoá đơn bất hợp pháp của đơn vị
khác.
- Thứ tư: Cải tiến cơ chế quản lý về hoá đơn.
Đây là một giải pháp nhằm hạn chế tình trạng khai giảm doanh thu,
giảm thuế GTGT đầu ra để được hoàn thuế.
+ Áp dụng cơ chế thẻ giảm giá cho người mua lẻ khi lấy hoá đơn mục
đích chính là quyền lợi của người mua với nghĩa vụ nộp thuế của họ. Thuế
GTGT đánh vào người mua nhưng họ không có quyền lợi gì và biện pháp gì
giám sát các trung gian nộp hộ (các nhà cung cấp) khi nộp thuế cho nhà nước,
tất yếu người mua thờ ơ với quy định lấy hoá đơn khi mua hàng-việc áp dụng
cơ chế thẻ giảm giá sẽ khuyến khích người mua lẻ lấy hoá đơn và do đó giúp
cho cơ quan thuế có thể xác định được doanh số bán ra thực của doanh nghiệp
+ Thiết kế lại hoá đơn tài chính cho nhỏ gọn và bổ sung một số nội
dung cho phù hợp điều này sẽ giúp cho việc kê khai đầy đủ đồng thời giúp
72
cho công tác xác minh hoá đơn được thực hiện dễ dàng tiết kiệm thời gian,
chi phí đối với cơ quan thuế kích thước hoá đơn có thể đa dạng theo các cỡ
hay khổ giấy in hoá đơn trên các máy bán hàng siêu thị và máy in văn phòng
(có thể là khổ 4cm; 6cm; 12cm và 21cm). Theo đó có thể thiết kế và bổ sung
hoá đơn như sau:
Nội dung được bổ sung 2 điểm: số chứng minh thư cho người tiêu dùng
cá nhân, chiết khấu cho người mua sẽ ghi theo tỷ lệ quy định giảm giá cho
người mua là người tiêu dùng cá nhân, còn các doanh nghiệp đã được khấu
trừ khi hoạch toán thuê ở đơn vị mình. Ví dụ: thuế GTGT 10%...Ngược lại,
nếu người bán hàng ghi giá trị hoá đơn thấp hơn giá trị thật hay không xuất
hoá đơn thì quyền lợi người mua bị xâm hại nên tự người mua sẽ yêu cầu
người bán thực hiện nghiêm chỉnh việc ghi hoá đơn khi xuất hàng. Người bán
hàng cũng không thể thu thập được số lượng lớn số chứng minh thư hay chữ
HOÁ ĐƠN BÁN HÁNG
Liên:............
Ng
y, tháng
Số hoá đơn:.........
Đơn vị bán, địa chỉ, điện thoại, mã số thuế:
Họ tên người mua, địa chỉ, mã số thuế, số chứng minh thư...
Hình thức thanh toán:
Tên hÁng, số lượng, đơn giá, thÁnh tiền:
Số tiền:
THUẾ GTGT:
Chiết khấu cho người mua:
Cộng tiền thanh toán:
NgÁy tháng, chữ ký vÁ dấu
73
ký của người mua cho nhiều tờ hoá đơn. Như vậy khi áp dụng đồng bộ các
biện pháp sẽ khuyến khích mọi người sử dụng hoá đơn và giảm thiểu khối
lượng và bộ máy kiểm tra, giám sát của cơ quan thuế đồng thời các biện pháp
quản lý đồng bộ vẫn đảm bảo tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho những
người kinh doanh để phát triển kinh tế.
- Thứ năm: Bắt buộc các đơn vị kinh doanh nếu không sử dụng hoá đơn
tự in khi mua hoá đơn do bộ tài chính phát hành để sử dụng phải ghi (đóng
dấu) đầy đủ: Tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao cho khách hàng)
của từng số hoá đơn trước khi mang ra cơ quan thuế. Đây là một biện pháp rất
tốt để hạn chế các trường hợp vi phạm chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn chứng
từ. Việc ghi các chỉ tiêu trên liên hoá đơn là công việc mà người kinh doanh
dù trước hay sau khi mua đều phải thực hiện. Nhưng với quy định này giúp
cho cơ quan thuế cũng như đối tượng mua hoá đơn kiểm tra kịp thời số lượng
hoá đơn cấp có đầy đủ, hư hỏng hay không, đề cao trách nhiệm của đối tượng
sử dụng hoá đơn trong việc bảo quản, sử dụng tốt hơn, đồng thời hạn chế tình
trạng kinh doanh gây thất thoát cho NSNN trong thanh toán cũng như trong
hoàn thuế. Để thực hiện tốt việc ghi trên hoá đơn như quy định cơ quan thuế
cần phải:
- Thường xuyên phổ biến tuyên truyền rõ ràng, sâu rộng về có ý nghĩa
của việc ghi hoá đơn theo quy định để đối tượng mua hoá đơn yên tâm thực
hiện. Cơ quan thuế cần thường xuyên theo dõi, chỉ đạo công tác ghi trên hoá
đơn theo quy định để thuận lợi cho công tác kiểm tra, chống hoá đơn giả.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi về không gian, thời gian và các công cụ,
dụng cụ liên quan đến việc đóng dấu.
- Phải quy định rõ trách nhiệm kiểm tra hoạt động đóng dấu của cán bộ
để hạn chế đối tượng đóng dấu sót số hoá đơn.
Trên đây là các giải pháp về tăng cường quản lý công tác phát hành và sử
dụng hoá đơn, nếu việc quản lý được thực hiện tốt thì công tác hoàn thuế sẽ
đem lại hiệu quả cao và ngược lại.
74
3.2.4. Tiếp tục đổi mới cơ chế thanh toán trong hoạt động
mua bán, nhất là hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) đối với đối
tượng nộp thuế
Nhìn lại các văn bản pháp quy ban hành về việc thực hiện thuế GTGT
trong thời gian qua, có thể dễ dàng nhận thấy, không giống các văn bản pháp
quy khác, Nghị định chờ thông tư, Thông tư chờ chỉ thị, quyết định và các văn
bản hướng dẫn của các cấp các ngành, Tổng cục thuế quá bức xúc trước tình
trạng “rút ruột nhà nước” thông qua hoàn thuế nên ngay trong tháng 9 vừa
qua đã có nhiều văn bản được ban hành kịp thời. Cụ thể ngay trong ngày ký
nghị định 76 (ngày 13/9/2002). Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải đã yêu
cầu các bộ ngành như: Bộ tài chính, bộ tư pháp, bộ công an, Ngân hàng Nhà
nước, chủ tịch UBND cấp tỉnh, viện kiểm soát, toà án nhân dân tối cao và các
cơ quan thông tin đại chúng từ trung ương tới địa phương phải bắt tay ngay
vào việc tăng cường công tác quản lý thu thuế. Trong đó, Thủ tướng Chính
phủ đã chỉ ra rằng: Đối với hàng xuất khẩu có hoá đơn GTGT, doanh nghiệp
đã đăng ký mã số thuế kinh doanh thì chỉ nên hoàn thuế cho lượng hàng hoá
xuất khẩu thực thu ngoại tệ qua ngân hàng. Mặc dù lấy tiêu chí “phải thanh
toán qua Ngân hàng mới được hoàn thuế” ban đầu có gây khó khăn cho nhiều
doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp thuộc khối thương nghiệp, xuất khẩu
nông, lâm, thuỷ sản là chính, thanh toán bằng tiền mặt là chủ yếu. Song để
hạn chế gian lận trong hoàn thuế thì buộc phải có điều kiện này, bởi vì thanh
toán qua Ngân hàng sẽ giúp cơ quan thuế kiểm soát được số lượng hàng hoá
thực xuất khẩu bằng việc chứng minh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp,
tờ khai hải quan và đặc biệt là số tiền từ Ngân hàng đối phương chuyển sang.
Thực tế ở nước ta hiện nay mới chỉ áp dụng việc thanh toán qua Ngân hàng
đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Tuy nhiên theo thông báo dự thảo của
tổng cục thuế thì trong thời gian tới bắt buộc tất cả các doanh nghiệp kể cả
các doanh nghiệp thực hiện mua bán nội địa cũng phải thực hiện thanh toán
qua Ngân hàng mới được hoàn thuế.
75
3.2.5. Cần chú trọng hơn nữa công tác kiểm tra hoàn thuế
Luật thuế GTGT ra đời đã khuyến khích sự phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo động lực cho sự phát triển của DN, tránh được tính trùng... và một
trong những ưu điểm nổi bật so với thuế doanh thu là luật thuế GTGT cho
phép DN tự kê khai, tự tính và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế, tuy
nhiên chính vì công tác tự kê khai tự tính nên đã để lại không ít những hạn
chế đối với công tác hoàn thuế, một số doanh nghiệp đã lợi dụng công tác tự
tính, kê khai để kê khai tăng số thuế GTGT đầu vào hoặc ghi giảm doanh thu
hàng bán ra hay giảm số thuế GTGT đầu ra. Thật vậy công tác thanh tra, kiểm
tra hoàn thuế hết sức quan trọng. Nếu buông lỏng công tác thanh tra, kiểm tra
sẽ là khe hở cho các DN có cơ hội trốn lậu thuế và số tiền NSNN ra đi sẽ ngày
một lớn. Để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế GTGT phải
làm tốt các công việc sau:
Kiểm tra tính đầy đủ, hợp lý của bộ hồ sơ hoàn thuế.
Một bộ hồ sơ hoàn thuế được coi là đầy đủ, hợp lý thì đầu tiên trách
nhiệm thuộc về phía DN. Bên cạnh sự giúp đỡ của cán bộ thuế DN phải tự tìm
hiểu luật thuế, tự xác định mình thuộc đối tượng, trường hợp nào. Từ đó tiến
hành lập hồ sơ hoàn thuế, đặc biệt các đơn vị phải có ý thức tự giác trong việc
kê khai hoàn thuế theo đúng nghiệp vụ phát sinh.
Đối với cơ quan thuế khi xét hồ sơ hoàn thuế cần chú ý một số điểm sau:
- Đối với thuế đầu vào:
+ Các trường hợp được tính khấu trừ đối với hàng hoá xuất khẩu phải
kiểm tra xác định mối quan hệ giữa hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá dịch vụ
mua vào.
+ Những chứng từ có ghi giá thanh toán bao gồm cả thuế GTGT thì
phải xác định giá không thuế và thuế đầu vào.
+ Thuế đầu vào của tài sản cố định được khấu trừ nếu có sự thay đổi
mục đích sử dụng thì phải xác định lại phần được khấu trừ.
- Đối với thuế đầu ra:
76
+ Xác định đúng doanh thu bán hàng và thuế suất áp dụng cho từng
mặt hàng, dịch vụ theo đúng chế độ hiện hành và theo đặc điểm của ngành
nghề đối với kinh doanh.
+ Cơ quan thuế cần thường xuyên nhắc nhở khẳng định hơn nữa trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với các số liệu kê khai trên hồ sơ hoàn thuế dần
tạo thành một thói quen trong kê khai đối với đối tượng này.
- Ngành thuế nên thiết kế mẫu tờ khai hoàn thuế với đầy đủ thông tin cần
kiểm tra, đặc biệt có thể đưa lên mạng vi tính những dữ liệu cần thiết hơn để
đơn giản và rút ngắn thời gian kiểm tra từ đó xác định ra việc sử dụng hoá
đơn giả, khai man số liệu để trốn thuế, hoàn thuế. Đồng thời, khi đã hết hạn
quy định xét hoàn thuế (theo quy định của Nhà Nước) mà cơ quan thuế vẫn
chưa kiểm tra xong hồ sơ xin hoàn thuế của doanh nghiệp thì cứ tiến hành
hoàn thuế theo kê khai của doanh nghiệp rồi sẽ kiểm tra sau, doanh nghiệp
phải tự chịu trách nhiệm về các chứng từ họ gửi tới xin hoàn thuế.
Những công việc trên đây là bước đầu tiên xác định tính chính xác trong
số hoàn, là bước đầu để cán bộ thuế xây dựng kế hoạch kiểm tra sau hoàn
thuế, nếu những công việc này thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác kiểm tra sau hoàn thuế:
Tăng cường công tác kiểm tra sau hoàn thuế.
Hiện nay công tác kiểm tra hoàn thuế GTGT chủ yếu được thực hiện sau.
Tuy nhiên, việc kiểm tra sau hoàn thuế GTGT được thực hiện rất ít. Nếu công
tác kiểm tra sau hoàn thuế không được đẩy mạnh thì sẽ không phát hiện được
hết những vi phạm của doanh nghiệp. Trên thực tế chính công tác này đã bị
doanh nghiệp lợi dụng, vì doanh nghiệp nắm được rằng việc thực hiện kiểm
tra sau hoàn thuế rất khó đối với cán bộ thuế. Ông Phạm Văn Huyến cũng
phải thừa nhận rằng: Việc kiểm tra sau hoàn thuế thực sự là rất khó đối với
cán bộ thuế bởi nó phải bắt đầu từ công tác xác minh hoá đơn...
77
Song để hạn chế được hành vi trong hoàn thuế buộc phải tăng cường
kiểm tra sau hoàn thuế và muốn thực hiện việc kiểm tra sau hoàn thuế tốt cần
phải:
- Cần khuyến khích các doanh nghiệp thanh toán qua ngân hàng, hiện
nay ở nước ta việc thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ lệ thấp, xấp xỉ
30% trong tổng số thanh toán vì vậy việc kiểm tra doanh thu bán hàng là rất
hạn chế, việc thanh toán qua ngân hàng không những giúp ngành thuế nắm rõ
được tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của các doanh nghiệp
mà còn giúp cho việc thu thuế được thực hiện nhanh chóng hơn.
- Tăng cường phương tiện phục vụ cho công tác kiểm tra sau hoàn thuế
trong đó chú trọng việc áp dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ thống
khai thác thông tin trên phạm vi toàn quốc, điều này sẽ giúp cho công tác xác
minh hoá đơn nhanh hơn, chính xác hơn, giúp cho quá trình thanh tra, kiểm
tra hiệu quả hơn.
- Nên thành lập một đội ngũ thanh tra, kiểm tra riêng.
Một trong những nguyên nhân khiến công tác thanh tra, kiểm tra sau
hoàn thuế được thực hiện ít và kém hiệu quả là vì mỗi cán bộ thuế đều có một
nghiệp vụ chuyên môn nhất định nên vừa phải thu thuế vừa phải thực hiện
thanh tra, nhiều khi sẽ làm cho họ trở nên lúng túng không biết mình phải làm
những gì trong công tác thanh tra, kiểm tra dẫn đến việc thanh tra, kiểm tra
sau hoàn thuế đem lại hiệu quả thấp. Chính vì vậy việc hình thành một đội
ngũ thanh tra, kiểm tra riêng là rất cần thiết.
- Công tác thanh tra sau hoàn thuế phải luôn được tiến hành kịp thời,
nhanh chóng tránh gây phiền hà, ách tắc cho doanh nghiệp trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Phải có biện pháp xử lý thích đáng đối với các trường hợp vi phạm,
việc này cũng nhằm để dăn đe đối với các đối tượng khác.
78
3.2.6. Tăng cường xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm trong
hoàn thuế
Cho đến nay việc kiểm tra hoàn thuế chủ yếu được thực hiện sau khi đã
hoàn thuế cho doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp chấp hành đúng theo
quy định của luật thuế, song bên cạnh đó còn một số đơn vị luôn tìm cách để
chiếm đoạt tiền của NSNN, những đơn vị này nếu không bị phát hiện thì đó
là một cơ hội tốt để chiếm dụng trái phép tiền của NSNN, còn nếu bị phát
hiện họ sẽ nộp phạt và chỉ nộp phạt “vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoàn
thuế”... chính vì việc sử lý thiếu nghiêm chưa kiên quyết, xử lý còn nương
nhẹ nên đối tượng vi phạm vẫn coi thường pháp luật và tiếp tục bòn rút
NSNN.
Để giảm bớt tình trạng gian lận trong hoàn thuế, ngành thuế và các cơ
quan chức năng cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các trường
hợp vi phạm đồng thời cũng xử lý theo theo pháp luật đối với những cán bộ
có hành vi ăn hối lộ, tiếp tay cho đối tượng vi phạm.
Ngoài ra để các vụ vi phạm được xử lý có hiệu quả thì cần phải trao thêm
quyền hạn cho cơ quan thuế, bởi vì nhiều khi cơ quan thuế phát hiện ra hành
vi vi phạm nhưng lại không được quyền xử lý chính điều này đã tạo ra kẽ hở
cho những đối tượng gian lận len lỏi vào.
3.2.7. Đẩy mạnh việc hình thành dịch vụ tư vấn thuế
Việc thất thoát tiền của NSNN thông qua công tác hoàn thuế không hẳn
là do hành vi ham lợi của doanh nghiệp. Tất nhiên phần lớn là do hành vi ham
lợi của doanh nghiệp, song bên cạnh đó còn có một số đơn vị chưa nắm rõ,
chưa biết hết yêu cầu của luật thuế mà kê khai nhầm..., điều này cũng có thể
gây thất thoát cho NSNN.
Mặc dù hiện nay pháp luật về thuế GTGT đang ngày được hoàn chỉnh,
quy trình quản lý thuế ngày càng được cải tiến theo nguyên tắc đối tượng nộp
thuế tự kê khai, tự tính và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế vụ.
79
Nhưng không phải tất cả các đối tượng đều nắm chắc và hiểu biết đầy đủ về
pháp luật thuế để thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình. Hơn nữa, các sắc thuế
mới được áp dụng ở nước ta, thuế GTGT còn là vấn đề bỡ ngỡ gây lúng túng
cho doanh nghiệp do đó tư vấn thuế chính là một chức năng cơ bản của các cơ
quan chức năng thuế nhằm tăng cường ý thức tự giác, tự nguyện thực hiện các
luật thuế của đối tượng nộp thuế, đảm bảo việc kê khai đúng, đầy đủ và kịp
thời.
Mặt khác sự phát triển của dịch vụ tư vấn thuế sẽ góp phần làm giảm
nhân viên ngành thuế và chính là một phần của công tác cải cách hành chính
trong lĩnh vực thuế. ở Nhật Bản, từ năm 1950 đến nay, số nhân viên tong
ngành thuế không những không tăng mà còn giảm (năm 1955 là 57000 người
so với 62.000 người năm 1950); Trong khi ở nước ta, số nhân viên ngành thuế
ngày càng lớn, nhưng hiệu quả thực hiện công tác thuế vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu; Thời gian gần đây các cơ quan thuế đã tuyên truyền, phổ biến
kiến thức, pháp luật thuế GTGT thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng( chuyên mục về thuế trên truyền hình, trên các ấn phẩm...) đã tổ chức
các lớp bồi dưỡng, tập huấn về thuế cho doanh nghiệp...
Tuy nhiên, những hoạt động trên chưa nhiều và quan trọng là chưa có độ
sâu cần thiết, nên chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến chưa cao không
ít cơ quan thuế, cán bộ thuế còn quan liêu, sách nhiễu khi doanh nghiệp tìm
đến để giải đáp thắc mắc về thuế. Hiện nay dịch vụ tư vấn về thuế mới chỉ
được thành lập ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM. Song các chuyên
gia tư vấn thuế hiện nay thì không chỉ thiếu về số lượng mà năng lực tư vấn
thuế cũng còn là một vấn đề bất cập. Thực tế đó khiến cho nhiều doanh
nghiệp vướng mắc về thuế mà không biết hỏi ai.
Hơn nữa hình thức dịch vụ tư vấn thuế còn đơn điệu, chưa đáp ứng kịp
thời nhu cầu tư vấn đa dạng của doanh nghiệp. Các hình thức tư vấn mới
thông qua các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại chưa được áp dụng
phổ biến (như tư vấn qua điện thoại, fax, tư vấn qua mạng thông tin
80
Internet...). Nội dung tư vấn cũng mới chỉ dừng lại ở việc thông tin về thuế
suất, thủ tục đăng ký, khai nộp thuế. Tư vấn thuế chưa thực sự thể hiện tính
cách một quá trình hỗ trợ doanh nghiệp từ khâu lập sổ sách kế toán, nhập hoá
đơn chứng từ...
Như vậy thúc đẩy dịch vụ tư vấn thuế phát triển trong điều kiện nền kinh
tế thị trường hiện nay đang trở thành một yêu cầu bức thiết, nhằm hạn chế
tình trạng tiền từ NSNN “chảy” vào túi của doanh nghiệp bất hợp pháp.
Để làm được điều này, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ trên các
mặt: Thể chế hoá bằng văn bản các dịch vụ tư vấn thuế nói chung tư vấn thuế
GTGT nói riêng; khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các tổ chức tư
vấn thuế; Hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho các chuyên gia, cán bộ làm
công tác tư vấn thuế, cải thiện các điều kiện tiếp cận thông tin cho các tổ
chức, các nhà tư vấn; Đẩy mạnh hội nhập trong lĩnh vực tư vấn bằng việc tạo
điều kiện cho các tổ chức tư vấn nước thuê chuyên gia nước ngoài vào làm
việc; Tăng cường công tác tuyên truyền cho các doanh nghiệp sử dụng tư vấn
thuế trong hoạt động của mình như là một biện pháp minh bạch hoá tình hình
tài chính doanh nghiệp và chấp hành tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
3.2.8. Tuyên truyền, giáo dục về thuế GTGT, đặc biệt là
hoàn thuế GTGT.
Mặc dù luật thuế GTGT đã đi vào thực tế cuộc sống được hơn 4 năm, tuy
nhiên luật thuế GTGT vẫn là một luật thuế mới mẻ do vậy công tác giáo dục
tuyên truyền để đối tượng nộp thuế nắm bắt được nội dung các quy định của
luật thuế, yêu cầu của luật thuế là công việc rất cần thiết phải tiến hành
thường xuyên liên tục, tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp thuộc mọi
quy mô kinh doanh nắm chắc những việc thật cụ thể mà họ phải làm từ quá
trình kê khai, đăng ký thuế, đến việc đăng ký kê khai mua hoá đơn, viết, ghi
chép hoá đơn.
81
Đối với mỗi đối tượng nộp thuế khi đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp
thuế, đăng ký mã số đơn vị nộp thuế, cơ quan thuế và cơ quan chức năng khác
phải phát cho họ những tài liệu liên quan tới các hoạt động sản xuất kinh
doanh, các văn bản pháp luật những tài liệu hướng dẫn, tuyên truyền về các
luật thuế, trách nhiệm và nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế trong sản xuất, các
tài liệu này có thể gửi kèm với các giấy phép của đối tượng nộp thuế để đối
tượng nộp thuế nắm bắt kịp thời.
Phải nhanh chóng hình thành dịch vụ tư vấn thuế cho đối tượng nộp thuế.
Ngoài ra cần quan tâm giới thiệu đến những hình thức xử lý vi phạm điển
hình có tính chất giáo dục răn đe, ngăn ngừa vi phạm về thủ tục khai báo,
quản lý và sử dụng hoá đơn, kế toán, về trốn lậu thuế...
Công tác tuyên truyền không chỉ dừng lại ở đối tượng nộp thuế mà phải
rộng rãi tuyên truyền đến mọi người dân, đặc biệt là về hoá đơn chứng từ,
nhằm bảo đảm sự nhận thức cơ bản của người dân về sử dụng hoá đơn, tương
lai có thể coi đó là cơ sở để hình thành thói quen lấy hoá đơn khi mua hàng
của người dân, hình thành một tâm lý chung của toàn xã hội. Bước đầu để
hình thành thói quen này, đề nghị tổng cục thuế nghiên cứu có hình thức
thưởng bằng lợi ích vật chất đối với hoá đơn mua hàng của người tiêu dùng
cuối cùng để khuyến khích họ yêu cầu người bán hàng phải lập hoá đơn...Đây
là biện pháp tăng thu, chống khai man, trốn thuế và có tác dụng tích cực trong
việc giáo dục ý thức chấp hành chính sách thuế đối với người dân.
3.2.9. Tiếp tục nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ thuế
Thuế GTGT là một luật thuế mới, cho nên đội ngũ cán bộ thuế nhiều khi
vẫn còn rất lúng túng trong việc xử lý tình huống xảy ra, có thể nói rằng một
số cán bộ thuế chưa cập nhật được với những kiến thức về luật thuế mới.
Chính vì vậy việc mở các lớp tập huấn cho cán bộ thuế là hết sức cần thiết,
đặc biệt cần thiết hơn đối với công tác hoàn thuế GTGT. Nếu như trình độ
nghiệp vụ của cán bộ thuế được nâng cao thì việc kiểm tra xem xét hồ sơ sẽ
82
tiến hành nhanh chóng và chính xác. Hiện nay hiện tượng gian lận trong hoàn
thuế ngày càng gia tăng với thủ đoạn rất tinh vi, nâng cao nghiệp vụ của cán
bộ thuế sẽ giúp cán bộ thuế phát hiện ra những kẽ hở lợi dụng hoàn thuế của
doanh nghiệp.
Hơn thế nữa việc tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ
chuyên môn cho cán bộ thuế, sẽ giúp cho công tác hoàn thuế được thực hiện
theo đúng quy định, đảm bảo chính xác, tránh tình trạng gian lận hồ sơ của
các doanh nghiệp và phát huy tác dụng của hoàn thuế GTGT, tạo điều kiện
cho doanh nghiệp có thể mở rộng sản xuất kinh doanh.
Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thuế là một biện pháp hữu hiệu để xây
dựng một ngành thuế vững mạnh trong sạch góp phần vào việc xây dựng
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng một xã hội công bằng văn
minh.
3.3. NHỮNG KIẾN NGHỊ
1. Cần mở rộng đối tượng áp dụng luật thuế GTGT.
2. Cần bổ sung lý lịch thân nhân (lý lịch tư pháp) của người muốn thành
lập doanh nghiệp vào hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp.
3. Mở rộng diện mua bán diện thanh toán hàng hoá thông qua các tài
khoản ngân hàng, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu hàng
hoá, làm căn cứ cho việc tính thuế được chính xác.
4. Hiện đại hoá công tác quản lý, thu thuế và thực hiện “xã hội hoá” hoạt
động chống gian lận bằng hoá đơn thông qua mạng vi tính.
5. Ngoài việc tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ thuế, ngành thuế
nên thành lập đội đặc nhiệm để kiểm tra phá các vụ trốn lậu thuế và ngành
thuế cũng cần được tạo thêm quyền xử lý đối với các vụ gian lận thuế.
6. Bên cạnh việc tuyên truyền thông tin đại chúng như bấy lâu nay chúng
ta vẫn làm, cần nghiên cứu đưa môn học thuế vào các trường, khối kinh tế vì
chính những con người tốt nghiệp các trường này sẽ là những đại diện cho các
83
tổ chức hoặc cá nhân làm công tác kê khai, tự tính thuế và làm nghĩa vụ thuế
đối với Nhà Nước sau này những biện pháp tuyên truyền, giáo dục này sẽ
làm nhân tố góp phần làm cho ý thức trách nhiệm về thuế tăng lên và do đó
góp phần làm giảm tối thiểu hiện tượng trốn thuế trong xã hội.
84
KẾT LUẬN
Nền Công nghiệp trên địa bàn Hà Nội trong những năm qua đã khẳng
định được vị trí của mình.- là khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước, với
mức tăng trưởng đạt loại khá. Luôn đi đầu trong công tác nộp nghĩa vụ với
NSNN. Trong những năm qua ngành này đã cung cấp cho ngân sách Nhà
nước một khoản thu không nhỏ từ thuế GTGT, chiếm tỷ trọng lớn trong
nguồn thu từ thuế của NSNN. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác
thực hiện luật thuế GTGT, nhưng do đây là một luật thuế mới nên không
tránh khỏi những lúng túng trong công tác thực hiện kê khai, nộp thuế hoá
đơn chứng từ...Đặc biệt là đối với công tác hoàn thuế đa số các doanh nghiệp
đã thực hiện đúng quy định của luật thuế, song bên cạnh đó còn có một số
đơn vị lợi dụng việc hoàn thuế GTGT để bòn rút tiền NSNN. Tình trạng này
đang được coi là vấn đề “Nóng bỏng” không chỉ đối với cục thuế Hà nội - mà
đối với tất cả các cơ quan thuế, đòi hỏi phải có biện pháp để hạn chế thấp nhất
hành vi vi phạm trong hoàn thuế GTGT.
Trong đề tài này nhằm đưa ra thực trạng hoàn thuế GTGT của doanh
nghiệp Công nghiệp tại cục thuế Hà nội từ đó đưa ra những tồn tại, nguyên
nhân và hướng giải pháp. Song những giải pháp trong Luận văn này còn nặng
tính chủ quan của một sinh viên không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất
định. Do đó em rất mong nhận được sự đóng góp quý báu của các Thầy, các
Cô và các Cán bộ dày dạn kinh nghiệm trong ngành.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Nguyễn Thị Hương
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo thực trạng công tác hoàn thuế GTGT phòng công nghiệp
4năm: 1999, 2000, 2001, 2002.
2. Chiến lược cải cách thuế 2001- 2010 của tổng cục thuế.
3. Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam-Nguyễn Xuân Nhạt.
4. Tạp chí thuế Nhà Nước: 12/2001, 12/2002.
5. Tạp chí kinh tế Sài Gòn.
6. Tạp chí tài chính doanh nghiệp.
7. Tạp chí thương mại: Số 9 +15+26+27+32/2002.
8. Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán.
9. Thời báo tài chính đặc san năm 2002.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10473_4238.pdf