Dạy học là một quá trình thống nhất biện chúng giữa hoạt động dạy và hoạt động
học của thầy giáo và sinh viên. Trong mối quan hệ biện chứng này, thầy giáo giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn, lãnh đạo, điều khiển; sinh viên tích cực chủ động,
sáng tạo thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng học tập của sinh viên nói
riêng cần phải cải tiến phương pháp học tập của người sinh viên và cải tiến phương
pháp giảng dạy của thầy giáo. Đó là hai mặt của một vấn đề, cùng được quan tâm.
Việc hoàn thiện hoạt động học tập của người sinh viên, trong đó có hoạt động tự
học bộ môn Giáo dục học của họ là một điều kiện có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng
đến kết quả học tập của người sinh viên. Để nâng cao chất lượng học tập bộ môn Giáo
dục học cho sinh viên, cần phải tuân theo một số phương hướng sau :
1.Cải tiến phương pháp giảng dạy của người giáo viên
Cải tiến phương pháp giảng dạy là một công việc phức tạp nhưng nó có tác dụng
quyết định chất lượng đào tạo, nhưng không thể giải quyết gọn trong một thời gian
ngắn. Để cải tiến phương pháp giảng dạy của thầy, có thể triển khai một số biện pháp sau đây :
- Loại bỏ dần hình thức giảng dạy độc thoại.
- Giảm số giờ học lý thuyết.
100 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1391 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng, hệ thống biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tự học môn Giáo dục học của sinh viên Cao đẳng sư phạm An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, chính xác nội dung bài giảng của thầy giáo.
Lĩnh hội được phương pháp trình bày vấn đề, phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái quát hóa vấn đề của thầy giáo.
- Ngoài việc nghe giảng trên lớp, người sinh viên cần đọc thêm tài liệu tham
khảo
+ Tài liệu tham khảo phải được lựa chọn sát hợp với nội dung học tập.
+ Có phương pháp đọc sách tích cực : Đọc với tư thế của người nghiên cứu. phải
có cách ghi chép những nội dung cần thiết, để bổ sung cho kiến thức đã thu nhận thêm
trong lớp thêm phong phú.
+ Tài liệu đọc thêm phải đọc ngay sau khi nghe giảng, đọc càng sớm càng tốt vì
nếu để lâu, kiến thức sẽ rơi rụng khó tái hiện.
-Để hiểu thấu đáo tài liệu, bài giảng cần tăng cường trao đổi, thảo luận về nội
dung bài họ và các vấn đề có liên quan đến nội dung đó.
- Tranh luận, trao đổi dưới các hình thức :
+ Tranh luận tay đôi
+ Tranh luận theo nhóm bạn bè
+ Tranh luận theo lớp học
Thảo luận trên lớp thường xãy ra trường hợp sau đây:
+ Sinh viên thường ngại phát biểu ý kiến .
+ Có phát biểu chỉ là miễn cưỡng.
+ Nói lại những ý thầy đã giảng.
+ Chỉ có ý nghĩa ôn bài, thuộc bài xuôi chiều.
+ Không giúp sinh viên hiểu kỹ, hiểu sâu bài giảng .
Thảo luận trên lớp của người sinh viên, yêu cầu họ làm được một số việc sau đây
:
+ Sinh viên phải chủ động, tự giác, tích cực phát biểu ý kiến, trình bày hiểu biết
của mình về vấn đề thảo luận.
+ Khi trình bày nhận thức của mình, sinh viên phải tìm ra những nét đặc sắc, độc
đáo, không chỉ đơn thuần dựa trên bài giảng của thầy hay đề cương thầy đã vạch ra.
+ Không nhất thiết phải sử dụng những lập luận thầy đã sử dụng.
+ Không nhắc lại những điều mà người trước đã phân tích.
+ Mỗi người phải có cách lập luận riêng, một con đường riêng để tiếp cận chân
lý.
Những lập luận đưa ra có thể chưa hoàn chỉnh, thậm chí sai lầm song không vì
thế mà không mạnh dạn phát biểu ý kiến.
Qua phát biểu ý kiến, qua thảo luận mới biết được nhận thức của mình về vấn đề
đó đứng hay sai, từ đó kịp thời bổ sung, hoàn chỉnh.
Qua phát hiểu, người sinh viên còn rèn luyện được cho mình cách trình bày quan
điểm của mình một cách rõ ràng, mạch lạc.
- Sau khi thảo luận, cần ghi lại một cách tóm tắc những kết luận mà thầy giáo đã
tổng kết hoặc chính bản thân người sinh viên tự tổng kết.
- Sinh viên có phương pháp ôn tập tích cực
Ôn tập sau khi học bài trên lớp, ôn thi trước mỗi kỳ thi có ý nghĩa rất lớn đối với
việc nâng cao chất lượng học tập. Khi tiến hành việc ôn tập, cần xác định rõ :
+ Không phải nhằm mục đích trả bài.
+ Không phải để qua một kỳ thi.
+ Ôn tập nhằm mục đích khái quát hóa, hệ thống hóa toàn bộ kiến thức đã học,
tìm hiểu các vấn đề đã học trong mối liên hệ với nhau qua lại với nhau như các bộ
phận tạo thành của một hệ thống, thống nhất.
+ Ôn phải biết xâu chuỗi các vấn đề đã học bằng chất kết dính nội tại với lôgích
khoa học, chặt chẽ, có như vậy kiến thức thu nhận được mới toàn diện, đầy đủ, chặt
chẽ .
Để ôn tập đạt được các yêu cầu nêu trên đây, cần có phương pháp ôn tập tích cực
sau đây :
+ Ôn tập toàn diện. Để nắm được nội dung tổng hợp các bộ môn, sau đó trên mặt
bằng kiến thức cơ bản, đi sâu phân tích, ôn tập các nội dung chủ yếu các vấn đề coi là
trọng tâm, trọng điểm. Không nên ngay từ đầu đã ôn vào các trọng tâm, trọng điểm.
Nếu làm như vậy, kiến thức thu được sẽ thiếu tính hệ thống, rời rạc, thiếu cơ sở khoa
học, lừ đó dẫn đến kết quả ôn tập sẽ thu được không cao, ảnh hưởng đến kết quả bài
thi.
+ Ôn tập có hệ thống
Trong môn học có nhiều nội dung cơ bản và những nội dung này nằm trong một
số bài. Do đó khi ôn tập, phải biết thu thập, khái quát, tổng hợp các nội dung đó lại
thành các chuyên đề riêng hoặc cùng chuyên đề. Nếu có thể, cần xây dựng các đề
cường chi tiết, các hồ sơ khái quát, làm được điều đó sẽ giúp người sinh viên hiểu kỷ,
nhớ lâu nội dung môn học .
Đề cương do chính mình xây dựng sẽ giúp ta dễ nhớ, dễ hiểu, dễ trình bày hơn
đề cương vay mượn của thầy, của bạn bè.
+ Ôn tập thường xuyên, chủ động, thường xuyên ôn tập đến những kiến thức đã
học.
Ôn tập theo phương châm: học đến đâu, ôn đến đó. Học bài nào, xào bài ấy.
Tránh-đến tình trạng sắp đến kỳ thi kiểm tra, kỳ học mới lao vào ôn tập. Đó là
kiểu ôn tập nước rút, theo mùa, kiến thức thu được sẽ không vững chắc, sẽ bị rơi rụng
sau khi thi cử xong.
- Rèn luyện bản lĩnh trong khi thi cử.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của người sinh viên sẽ giúp cho nhà trường,
gia đình, xã hội, bản thân người sinh viên nắm được thực trạng và kết quả học tập và
giảng (lạy dĩa chính người sinh viên và người giáo viên. Nó giúp cho người sinh viên
đánh giá được khả năng và trình độ của mình.
Kiểm tra, đánh giá còn giúp cho việc rèn luyện của người sinh viên lựa chọn
những phương án tự lực giải quyết các vấn đề, phản ứng nhanh nhạy, linh hoạt trước
các tình huống phức tạp, phát triển tư duy lôgích, biện chứng.., Để đạt được các yêu
cầu trên, đòi hỏi người sinh viên :
+ Sinh viên phải hoàn toàn độc lập, tụ chủ trong lúc làm bài.
+ Cần chú ý phân tích nội dung, yêu cầu của đề thi.
+ Viết sơ lược đề cương phân bố lượng kiến thức vào mỗi nội dung.
+ Bố trí thời gian hợp lý khi làm bài.
+ Khi giải quyết đề thi phải suy nghĩ về phương án, đáp án, lựa chọn nhanh và
đúng đáp án tối ưu, không nên bị động trước những quan điểm xung quanh.
Khi trả bài, sinh viên cần xem xét kỹ lời phê, những lỗi thầy sữa chữa để biết
những sai xót và có những biện pháp học tập, bổ sung kiến thức, rút kinh nghiệm làm
những bài thi khác cho tốt hơn.
2.1.3.3 Giúp sinh viên quản lý tốt thời gian tự học
Thời gian là một nhân tố vô cùng quan trọng trong hoạt động của những người
lao động trí óc, trong đó bao gồm cả sinh viên của các trường đại học và cao đẳng.
Hoạt động học tập của người sinh viên ở trường Cao đẳng, đại học là một quá
trình làm việc rất căng thẳng, đòi hỏi người sinh viên phải hoàn thành một khối lượng
công việc khá nặng nề và đa dạng trong một khoảng thời gian rất hạn chế.
Do đó, cần phải giúp họ biết sử dụng tiết kiệm và hiệu quả qũi thời gian hiện có,
trên cơ sở đó phân phối nó theo công việc một cách hợp lý và khoa học.
Nếu làm được việc này, người sinh viên sẽ giảm bớt sức ép của tình trạng quá tải
trong học tập, mà điền này thường hay xảy ra trong thời kỳ cuối năm, chuyển giai
đoạn, hết học phần... Họ sẽ duy trì được hoạt động học tập một cách dẻo dai, bền bỉ
trong suốt năm học, khoa học đồng thời vẫn giữ được sức khỏe tốt, họ có thể tham gia
vào các hoạt động bổ ích khác như:
+ Thể dục thể thao
+ Văn học nghệ thuật
+ Vui chơi giải trí
+ Hoạt động xã hội...
Thói quen làm việc một cách khoa học cũng sẽ giúp cho người cán bộ khoa học
tương lai trong công tác sau này.
Theo quan điểm tâm lý sư phạm và lứa tuổi, quá trình học tập của người sinh
viên bao gồm ba yếu tố sau :
+ Khối lượng tri thức phải nắm vững
+ Mức độ nắm vững tri thức .
+ Thời gian học tập cần thiết.
Như vậy, để nâng cao chất lượng học tập ở trường Cao đẳng sư phạm, phải chú ý
đầy đủ đến cả ba yếu tố trên, trong đó yếu tố thời gian (phân bổ, quản lý, sử dụng) là
một yếu tố rất quan trọng.
Điều đó đòi hỏi nhà trường và chính người sinh viên cần biết cách phân phối, sử
dụng hợp lý thời gian học tập, trong đó có thời gian tự học để góp phần nâng cao hiệu
quả học tập tốt hơn.
Vấn đề cần đặt ra là phải hướng dẫn người sinh viên phân phối thời gian hợp lý
và thực hiện công việc đó như thế nào?
- Khi phân phối thời gian học tập cho sinh viên, cần quan tâm đến các vấn đề sau
đây :
Hướng dẫn người sinh viên phân phối thời gian hợp lý trong công tác học tập, kể
cả việc tự học.
Thực chất của vấn đề này là giúp người sinh viên phân chia quỹ thời gian thực tế
thành những khoảng thời gian cụ thể đáp ứng các nhu cầu làm việc, sinh hoạt của bản
thân người sinh viên, trong đó thời gian dành cho việc học tập phải là nhiều nhất và
phải được ưu tiên bố trí vào các thời điểm có thuận lợi nhất cho hoạt động trí tuệ.
Như vậy, để phân phối thời gian hợp lý, cần phải dựa vào các yêu cầu sau đây:
Phân phối thời gian trên cơ sở kế hoạch học tập đã xác đinh trước.
Việc phân phối thời gian như vậy phải đảm bảo thực hiện đầy đủ khối lượng
công việc cần thiết, giữ sự cân đối giữa các đầu công việc học tập cũng như giữa hoạt
động học tập và các hoạt động khác như vui chơi giải trí, thể dục thể thao, lao động,
sinh hoạt tập thể...
Trong các hoạt động của người sinh viên, hoạt động học tập phải được ưu tiên
cao nhất trong lịch trình thời gian của mỗi ngày, trong đó phải chú ý các tỷ lệ tương
đương thời gian cần thiết sau đây:
- Tổng số thời gian tự học phải nhiều hơn tổng số thời gian học tập có sự hướng
dẫn của người giáo viên.
Theo một số công trình nghiên cứu thì, hiện nay tỷ lệ tương quan giữa thời gian
tự học và thời gian lên lớp của sinh viên nước ta là 1/1, có thể còn nhỏ hơn. Trong khi
đó, sinh viên thế giới phổ biến là 2/1 ( 2 giờ tự học có 1 giờ giáo viên hướng dẫn).
Còn ở cấp sau đại học, tỷ lệ này còn cao hơn (3/1). Do đó tổng thời gian đào tạo qui
định ở ta rất lớn so với thế giới (đối với khóa đại học 4 năm, ở Việt Nam là 3200-3600
giờ, còn ở đại học thế giới nhỏ hơn 2000 giờ).
Bằng cách đầu tư thêm điều kiện vật chất, sử dụng các phương pháp giảng dạy
tiến bộ, chúng ta sẽ giảm bớt thời gian qui định cho đào tạo đại học. Đó là một việc
cần phải làm,.
Hiện nay ở nước ta, 1 đơn vị học trình của ta và 1 credit của nhiều nước trên thế
giới đều được qui định tương đương 15 giờ lý thuyết. Tuy nhiên vì tỷ lệ giờ tự học của
sinh viên Việt nam với giờ lên lớp thấp hơn nên thực chất một đơn vị học trình của ta
non hơn 1 cređit, cỡ bằng 2/3.
Điều này đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu đưa tỷ lệ thời gian tự học và thời gian
học trên lớp (có thể trong điều kiện nước ta hiện nay, tỷ lệ có thể là 1.5/1 là thích hợp
nhất) cho phù hợp hơn với thế giới.
- Tổng số thời gian dùng cho việc học tập (cả công tác tự học và học tập có
hướng dẫn của người giáo viên) của người sinh viên cũng phải đảm bảo cân đối với
tổng số thời gian dành cho các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi giải trí
+ Hoạt động lao động
+ Hoạt động thể dục thể thao
+ Thời gian nghĩ ngơi.
Phải căn cứ vào khả năng làm việc của con người trong chu kì ngày đêm (24
giờ).
Các nhà khoa học, dựa vào công trình nghiên cứu của mình, đã rút ra các kết
luận sau đây :
Khả năng lao động trí óc của con người trong thời gian 24 giờ không phải đều
như nhau mà có sự biến thiên.
Thời gian con người lao động trí óc có thể đạt được kết quả cao nhất là từ
khoảng 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa (từ 12 giờ đến J4 giờ trưa), sau đó khả năng này lại
tăng lên trong khoảng thời gian từ 14 giờ chiều đến 17 giờ chiều. Sau thời gian này,
khả năng làm việc của con người giảm rất nhanh vào buổi tối và thấp nhất vào ban
đêm, nguyên nhân là do có sự thấm mệt sau một ngày làm việc căng thẳng.
Điều này đòi hỏi, người sinh viên phải biết cố gắng bố trí hoạt động tự học vào
thời gian hợp lý, có căn cứ vào giờ học trên lớp, để đạt được hiệu suất cao nhất.
Trong thực tế, vào các kỳ thi học kỳ, thi học phần cuối năm, thi tốt nghiệp thì có
những sinh viên có thể học tập vào bất cứ thời gian nào, có khi học tới 1-2 giờ khuya,
dậy học từ 3 giờ sáng...Cách học tập như vậy chắc chắn có hại cho sức khởe và khó có
thể đạt kết quả cao như chính họ mong muốn.
Phải xây dựng một kế hoạch phân phối thời gian cụ thể phù hợp công việc và
nếp sinh hoạt của từng cá nhân.
Kế hoạch phân phối thời gian này phải dựa vào các cơ sở nói trên nhằm tạo ra
một nhịp điệu thời gian ổn định trong chu kỳ 24 giờ (ngày đêm) làm việc.
Nếu tiến trình của nhịp điệu 24 giờ càng đều đặn, thường xuyên bao nhiêu, có
tính chất ổn định thì kết quả làm việc càng tốt bấy nhiêu.
Kế hoạch phân phối thời gian này sẽ tốt với điều kiện là nhịp điệu đó phải được
chọn lọc chính xác, có căn cứ.
- Một trong các yếu tố giúp cho người sinh viên đạt kết quả cao và ổn định chất
lượng học tập là người sinh viên phải biết quản lý và sử dụng hợp lý có chất lượng
quỹ thời gian hằng ngày.
Thực tế hiện nay, rất nhiều sinh viên, đặt biệt là sinh viên năm thứ nhất còn thiếu
hiểu biết và kỹ năng cần thiết để làm chủ quỹ thời gian của mình. Chính vì thế, khoa,
trường cần giúp cho người sinh viên biết phân phối và sử dụng quỹ thời gian học tập,
đặt biệt là hoạt động tự học hợp lý, có hiệu quả. Đây có thể coi là một biện pháp phát
huy tính tích cực học tập của học sinh nhằm nâng cao chất lượng học tập nói riêng,
chất lượng dạy học nói chung của trường Cao đẳng Sư phạm An giang.
2.1.3.4. Xây dựng cho học sinh có kỹ năng đọc sách, giáo trình, tài
liêu tham khảo, báo chí...
Sách giáo khoa, giáo trình học tập phản ánh một cách đầy đủ, chi tiết, có hệ
thống những nội dung dạy học, nó phù hợp với logic môn học và logic quá trình nhận
thức của người học sinh, sinh viên.
Việc đọc sách báo, tài liệu tham khảo là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt
động học tập của người sinh viên trong trường sư phạm. Nó góp phần nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác đào tạo trong trường học.
Theo điền tra thăm dò ý kiến của các giáo viên giảng dạy tại trường Cao đẳng sư
phạm An giang và giáo sinh các khóa 21,22 của trường trong thời gian vừa qua, kết
quả cho thấy hầu hết các giáo viên và sinh viên của trường đều cho rằng sự cần thiết
phải đọc sách báo, tài liệu tham khảo trong quá trình học tập ở trường và họ cũng đã
có ý thức (nhất là giáo viên) trong việc sử dụng sách để bổ sung trí thức. Theo ý kiến
của các giáo viên giảng dạy tại trường, việc giảng dạy trên lớp không thể có đủ thời
gian để cung cấp hết tri thức cho học sinh được.
Điều đó phải được bổ sung bằng việc đọc thêm giáo trình, sách báo, tài liệu cần
thiết.
Đã có những giáo viên trong quá trình lên lớp đã trình bày những nội dung chủ
yếu, phần còn lại là giới thiệu cho giáo sinh tài liệu để sinh viên tự đọc.
Về phía sinh viên, đã có nhiều sinh viên biết lựa chọn và đọc tài liệu có liên quan
đến bài giảng của thầy giáo nhằm củng cố tri thức đã tiếp thu trên lớp.
Theo đánh giá chung của giáo viên và sinh viên của trường thì đa số sinh viên
chưa có kỹ năng đọc sách, làm việc với sách, nếu có thì còn rất yếu.
Họ còn gặp rất nhiều khó khăn ở hầu hết các khâu của hoạt động đọc sách từ
khâu:
- Xác định mục đích, nhiệm vụ đọc sách báo, tài liệu
- Lựa chọn sách
- Tra thư mục tìm sách, báo
- Có kế hoạch đọc sách, báo
- Tổ chức việc học sách báo
- Phương pháp đọc sách báo, tài liệu
- Ghi chép tư liệu
- Xử lý thông tin thu được
- Ứng dụng trí thức đọc được vào giải quyết nhiệm vụ học tập
- Xây dựng nề nếp thói quen tự đọc sách, tài liệu
Việc đọc sách và tài liệu tham khảo của người sinh viên không có kế hoạch, hệ
thống, không có một qui trình hợp lý. Họ đọc sách tùy hứng thú.
Thời gian đọc sách của người sinh viên còn quá ít, chưa có thói quen đọc sách
báo hàng ngày.
Sinh viên có dành thời gian nhất đinh cho viêc dóc sách báo, tài liệu tham khảo
nhưng lại chưa biết cách ghi chép tích lũy tư liệu và đặc biệt ứng dụng tri thức thu
được để được giải quyết các nhiệm vụ, bài tập nhận thức.
Nói chung, qua điều tra, quan sát tình hình làm việc với sách của giáo sinh, có
thể rút ra một số điểm cần lưu ý :
- Giữa nhận thức và kỹ năng đọc sách của người sinh viên chưa có sự tương ứng
và phù hợp .
- Hiệu quả, chất lượng làm việc với sách của sinh viên chứa cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu đào tạo.
- Sinh viên còn yếu kém trong hầu hết trong các khâu của qui trình làm việc với
sách báo tài liệu.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của học tập nói chung, kết quả đọc sách và tài
liệu, người giáo viên và cán bộ thư viện cần hướng dẫn sinh viên có kỹ năng đọc sách
như sau :
Chọn sách hợp lý
Có mục đích rõ ràng
Có phương pháp đọc sách
Trong quá trình đọc sách, người sinh viên phải biết cách ghi chép cụ thể là :
- Ghi nhật ký nhằm giúp người đọc tích lũy được những tri thức một cách khái
quái về cuốn sách của mình đã đọc.
- Trích ghi giúp người đọc ghi lại những câu, những đoạn văn hay đáp ứng yêu
cầu học tập.
Trích ghi cần ghi rõ : Tác giả, tác phẩm, nhà xuất bản, nơi xuất bản, năm xuất
bản, số trang...
- Lập dàn ý, xây dựng đề cương giúp cho người đọc có thể khái quát hóa, hệ
thống hóa, có điểm tựa để ghi nhớ để khi cần thiết có thể trình bày lại...
- Ghi tóm tắt giúp người đọc ghi lại những ý cơ bản nhất, chủ yếu nhất, phản ảnh
được nội dung cơ bản của tài liệu dưới dạng ngắn gọn nhất.
2.1.3.5 Xây dựng và giao bài tập về nhà cho sinh viên
Giáo dục học là bộ môn nghiệp vụ trong trường sư phạm. Việc nắm vững tri
thức lí thuyết là rất quan trọng. Nhưng việc nắm tri thức sẽ được củng cố, bổ sung khi
học sinh biết vận dụng những tri thức tiếp thu được để giải quyết các bài tập nhận thức
mà người giáo viên giao cho. Việc giao bài tập về nhà cho sinh viên có ý nghĩa :
- Nâng cao tính tích cực học tập cho sinh viên.
- Phát huy được vai trò chủ thể nhận thức trong hoạt động học tập cho sinh viên.
- Phát triển tư duy cho sinh viên .
- Củng cố, mở rộng, đào sâu tri thức, củng cố kỹ năng, kỹ xảo mà người sinh
viên đã tích lũy được.
- Giúp sinh viên sử dụng hiệu quả, hợp lý hơn thời gian tự học ở nhà.
- Bồi dưỡng cho sinh viên khả năng vận dụng trí thức vào thực tế...
Bài tập về nhà cho sinh viên bao gồm các dạng sau đây :
- Bài tập nhằm lĩnh hội tri thức mới.
- Bài tập nhằm củng cố tri thức, kỹ năng, kỹ xảo.
- Bài tập nhằm mở rộng, đào sâu trí thức,
- Bài tập nhằm rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo.
- Bài tập tìm tòi sáng tạo.
Việc thiết kế, giao bài tập về nhà cho sinh viên phải đáp ứng được các yêu cầu
sau đây:
- Phù hợp mục đích, nhiệm vụ dạy học của môn học.
Giáo dục học là khoa học xã hội, bên cạnh việc cung cấp tri thức khoa học cho
sinh viên , người giáo viên cần phải đưa ta cho họ các bài tập thực hành, bài tập tình
huống để hướng dẫn sinh viên giải các bài tập có tính chất cố định (có các bài tập về
nhà mà người giáo viên giao cho người sinh viên nhằm mục đích giúp cho người sinh
viên nắm được :
- Nắm được một cách hệ thống các kiến thức cơ bản về giáo dục học (các khái
niệm, các phạm trù cơ bản của giáo dục học) về hoạt động dạy học, hoạt động giáo
dục, nghiên cứu khoa học, công tác kiến tập, thực tập sư phạm và thực tế hoạt động
giảng dạy trong trường phổ thông cơ sở.
- Làm quen biết cách nghiên cứu, nắm bắt được các vấn đề về lí luận của giáo
dục học.
Quá trình giáo dục.
Tổ chức thực hiện các nội dung giáo đục.
Biết cách theo dõi và sưu tập các tài liệu về các dạng hoạt động thực tiễn giáo
dục : hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục, biết cách ghi nhận kinh nghiệm các kinh
nghiệm giáo dục, học tập của bản thân có liên quan đến việc tu dưỡng, rèn luyện về
nghề nghiệp.
- Hình thành cho người sinh viên hệ thống các kiến thức - kỹ năng - thái độ cần
thiết của người giáo viên phổ thông (đó là năng lực sư phạm), sẩn sàng tham gia các
hoạt động nghề nghiệp sau này.
Các bài tập thực hành về dạy học sẽ giúp cho người sinh viên tập vận đụng lí
thuyết dạy học để hình thành các kỹ năng dạy học theo hướng chủ động, tích cực,
sáng tạo, độc lập (kể cả việc nắm được các yêu cầu sử dụng các phương tiện dạy học,
các kỹ năng kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động dạy học ở trường trung học cơ sở.
Các bài tập thực hành về công tác giáo dục học sinh sẽ giúp sinh viên vận dụng
kiến thức cơ bản trong lí luận giáo dục vào công tác giáo dục, qua đó hình thành các
kỹ năng hoạt động giáo dục theo đúng yêu cầu giáo đục (biết tổ chức, vận dụng
phương pháp giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục, có thái độ đứng đắn, nghiêm túc
trong học tập và rèn luyện tay nghề, biết cách tổ chức (bước đầu) kết hợp với gia đình,
các tổ chức xã hội trong việc giáo dục trẻ em..)
- Các bài tập về nhà cho sinh viên phải được xây dựng với yêu cầu mức độ khó
ngày càng cao.
Lý luận dạy học hiện đại đã khẳng định rằng: dạy học phải đi trước và phải kéo
theo sự phát triển trí tuệ của người học.
Để thực hiện được tư tưởng này, trong công tác giáo dục phải đảm bảo nguyên
tắc thống nhất tính vừa sức chung và vừa sức riêng và nhiệm vụ nhận thức ngày càng
cao hơn, khó hơn.
Điều này có nghĩa là, trong dạy học, các yêu cầu nhiệm vụ dạy học đề ra phải
phù hợp với vùng phát triển trí tuệ gần nhất còn thuộc phạm vi tiềm năng và nó có khả
năng biến thành hiện thực nếu như có sự nỗ lực cao nhất vê trí tuệ cũng như thể lực
của học sinh.
Vì vậy, hệ thống các bài tập mà người giáo viên giao cho sinh viên hoàn thành
phải nhằm mục đích phát triển trí tuệ, hoàn chỉnh dần hệ thống tri thức bộ môn giáo
dục học ở sinh viên .
Bài tập về nhà phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao,
tạo thành một hệ thống bài tập hoàn chỉnh. Mỗi bài tập đều phải chứa đựng những cái
mới, mà với nổ lực và năng lực của mình, người sinh viên có thể giải quyết được.
Chính các bài tập này sẽ giúp người sinh viên tự hoàn thiện tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
phát triển năng lực trí tuệ và kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của họ trong
quá trình học tập và rèn luyện.
- Bài tập về nhà giao cho sinh viên phải phù hợp với số thời gian tự học và vốn
hiểu biết của họ.
Người sinh viên, ngoài thời gian nghe giảng trên lớp, thời gian tự học, còn thực
hiện các hoạt động khác như: sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội, hoạt động thể dục
thể thao, văn nghệ... Do vậy, số lượng bài tập và các yêu cầu của nó được đưa ra cho
sinh viên đáp ứng yêu cầu :
Căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ môn giáo dục học.
Căn cứ vào quỹ thời gian tự học của người sinh viên.
Căn cứ vào các điều kiện khác.
Các bài tập về nhà phải đảm cho người sinh viên có thể hoàn thành được nó và
các nhiệm vụ học tập khác.
Thời gian tự học của người sinh viên phải được phân chia có sự cân đối giữa các
hoạt động học tập và các hoạt động khác, giữa các môn học với nhau.
Người giáo viên bộ môn giáo dục học khi ra bài tập về nhà cho sinh viên phải
chú ý đến việc liên hệ với các giáo viên bộ môn để khối lượng bài tập không bị quá
tải, sinh viên có thể hoàn thành được các nhiệm vụ mà các bộ môn đưa ra cho họ.
Cần lưu ý:
Số lượng bài tập và những nội dung đưa ra cho người sinh viên của bộ môn giáo
dục học (và có lẻ không chỉ có môn giáo dục học) cần được tăng dần lên theo thời
gian để giúp cho người sinh viên có thể huy động được tối đa những tri thức, kỹ năng,
kỹ xảo cũng như trí tuệ của mình vào giải quyết các bài tập. Qua đó, người sinh viên
cũng bổ sung tri thức mới vào hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo hiện có của họ.
Bài tập về nhà cho sinh viên phải phù hợp với lôgíc quá trình dạy học. Theo lý
luận dạy học, lôgíc của quá trình dạy học là trình tự vận động hợp qui luật của nó đảm
bảo cho người học đi từ trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, sự phát triển năng lực hoạt
động trí tuệ tương ứng với lúc ban đầu nghiên cứu môn học (hay 1 chường, một mục)
nào đó đến trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phát triển trí tuệ tương ứng với lúc kết
thúc môn học (hay một chương, một mục) nào đó.
Nhận thức của người sinh viên là quá trình phát triển lôgíc và biện chứng từ
thấp đến cao. Nội dung khoa học của bộ môn nói chung, môn giáo dục học nói riêng
cũng là một hệ thống có lôgíc chặt chẽ các khái niệm khoa học và phát triển một cách
biện chúng từ tri thức đến kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ.
Lôgíc của quá trình dạy học là hợp kim lôgíc môn học và lô gíc quá trình nhận
thức của người học.
Hệ thống các bài tập về nhà cho sinh viên phải đảm bảo yêu cầu phù hợp qui luật
nhận thức của người sinh viên và lôgíc khoa học của môn giáo dục học (nói riêng). Có
nghĩa là các bài tập về nhà cho sinh viên phải được xây đựng theo các khâu sau đây :
- Hình thành thái độ tích cực giải bài tập về nhà cho sinh viên. Các bài tập về
nhà mà người giáo viên đưa ra cho sinh viên phải có tác dụng kích thích tính tích cực
học tập của họ. Như vậy phải xây dựng bài tập về nhà như là một tình huống có vấn
đề và chuỗi tình huống có vấn đề.
Các bài tập về nhà được xây dựng nếu gắn liền với thực tiễn nghề nghiệp tương
lai dạy học của người sinh viên thì nó sẽ tạo ra cho người sinh viên có hứng thú với
việc học tập và rèn luyện hơn,
- Thông qua việc giải các bài tập về nhà mà người sinh viên sẽ tiếp thu được một
khối lượng tri thức mới nhất định.
Bài tập về nhà của sinh viên phải được xây dựng như là một tình huống có vấn
đề sao cho họ có thể độc lập giải từ những bài tập tương tự đến bài tập mới mẻ, đi từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cái mới mà người sinh viên tìm hiểu để giải
quyết phải nảy sinh một cách tự nhiên trong quá trình người sinh viên đi tìm lời giải
bài toán.
- Việc giải hệ thống các bài tập về nhà của sinh viên phải giúp họ củng cố được
trí thức, kỹ năng, kỹ xảo,
Điều này thể hiện ở chỗ cái mới mà người sinh viên tìm ra ở bài lập trước phải là
cơ sở để họ sử dụng vào giải các bài tập san và cứ tiếp tục như vậy.
Nếu làm được như vậy người sinh viên sẽ hiểu rõ hơn giá trị của việc tìm ra cái
mới, hiểu sâu sắc hơn, ghi nhớ sẽ đẽ dàng hơn, tri thức của họ sẽ được bổ sung phong
phu và việc vận dụng tri thức vào giải các bài tập sẽ giúp họ rèn luyện cho mình
những kỹ năng, kỹ xảo nhất định.
- Giúp học sinh tự kiểm tra bài giải của mình.
Để giúp sinh viên tự kiểm tra lời giải bài tập của mình, ở cuối mỗi bài nên cho
biết đáp số, để sinh viên đối chiếu. Bài tập không những giúp cho sinh viên vận dụng
tri thức vào các tình huống khác nhau mà còn tạo điều kiện cho sinh viên kiểm
nghiệm lại và chính xác hóa những tri thức đã lĩnh hội được ở trên lớp.
Bài tập nên xây dựng sao cho chúng thể hiện được nhiều cách nhìn khác nhau,
nhiều quan điểm, nhiều ý kiến về cùng một vấn đề nào đó, nhiều con đường, nhiều
phương pháp khác nhau đi tới cùng một mục đích, một kết quả.
Để việc giải bài tập về nhà của sinh viên đạt kết quả như mong muốn, tạo điều
kiện cho họ phát triển được trí tuệ nói chung, tư duy tích cực nói riêng cần phải đảm
bảo được các yêu cầu trên.
2.1.3.6 Tổ chức cho sinh viên tập dợt nghiên cứu khoa học giáo dục.
Hoạt động học tập của sinh viên và nghiên cứu khoa học đều là hoạt động nhận
thức nhằm phát hiện ra chân lý.
Hoạt động học tập của học sinh cũng diễn ra theo đứng con đường nhận thức của
loài người nhằm phát hiện ra chân lý mới (có tính chủ quan) nhưng có sự giúp đỡ, cố
vấn của người giáo viên. Trong quá trình dạy học, người giáo viên phải biết dẫn dắt
người sinh viên khám phá thế giới giống như quá trình nghiên cứu của các nhà khoa
học nhưng không phải là toàn bộ mà chỉ là một phần, một đoạn được người giáo viên
lựa chọn theo yêu cầu mục đích dạy học.
Trong quá trình tập dợt nghiên cứu khoa học, người sinh viên sẽ phát hiện ra
chân lý mới, bổ sung vào tri thức của chính mình. Đặc trưng của hoạt động dạy học ở
đại học là giáo viên tổ chức cho sinh viên lĩnh hội thông qua hoạt động tìm tòi, khám
phá độc lập từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp...
Để việc học tập của sinh viên mang tính nghiên cứu khoa học, đòi hỏi người sinh
viên phải:
- Nắm vững tri thức, kĩ năng, kĩ xảo môn học phương pháp nghiên cứu khoa học
giáo dục.
- Tự tổ chức quá trình nghiên cứu, tìm đọc sách báo, tài liệu phục vụ cho nghiên
cứu.
Việc tổ chức cho sinh viên nghiên cứu khoa học ở mức độ nhất định có ý nghĩa
to lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lương tự học nói
riêng, hình thành cho người sinh viên năng lực độc lập, sáng tạo, linh hoạt..
Để sinh viên tập dợt nghiên cứu khoa học đạt kết quả, họ phải đạt một số điều
kiện sau :
- Các kỹ năng làm việc tự học cơ bản
Nhóm kỹ năng này đảm bảo cho người sinh viên hoạt động trí tuệ một cách độc
lập, có hiệu quả. Nhóm kỹ năng này giúp cho người sinh viên tiến hành thành công
trong việc thu thập, xử lí thông tin lý luận. Bao gồm các kỹ năng sau :
Kỹ năng xây dựng kế hoạch
Kỹ năng đọc sách và tài liệu
Kỹ năng hệ thống hóa và khái quát hóa tài liệu.
Kỹ năng ghi chép tài liệu : đòi hỏi người sinh viên khi đọc sách báo, tài liệu học
tập phải biết cách ghi chép như trích ghi, lập dàn ý, xây dựng đề cương, viết tóm tắt..
Kỹ năng giải quyết các bài tập về nhà,
Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, tự điều chỉnh.
- Nắm được phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu khoa học.
Đây là một trong những yêu cầu quan trọng đối với sinh viên để giúp họ có thể
tiến hành nghiên cứu khoa học thành công.
Người sinh viên cần phải nắm được một số hiểu biết sau đây về phương pháp
nghiên cứu khoa học giáo dục :
+ Xác định đề tài nghiên cứu
Đề tài khoa học là một vấn đề khoa học được xây dựng trên cơ sở phát hiện các
mâu thuẫn trong lí thuyết hoặc trong thực tiễn, với kiến thức và kinh nghiệm đã có
không có thể giải thích được.
+ Xây dựng đề cương nghiên cứu khoa học
Trong đề cương nghiên cứu cần phải trình bày được các vấn đề sau đây :
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Giả thuyết khoa học
Nhiệm vụ nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu...
Thu thập xử lý thông tin lý luận
Sinh viên biết đọc sách báo, tài liệu tham khảo, khái quát hóa, hệ thống hóa, gạt
bỏ những thông tin không cần thiết, phê phán những sai lầm, sắp xếp chúng thành hệ
thống theo yêu cầu nghiên cứu, dùng suy luận lôgíc để rút ra những kết luận khoa học
phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Các phương pháp thu thập xử lý thông tin thực tiễn.
Để thu thập được các tài liệu thực tiễn, sinh viên phải dùng các phương pháp
trực tiếp quan sát, điều tra, thực nghiệm khoa học, tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu
sản phẩm hoạt động...
Bằng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, sinh viên sẽ thu được những tài liệu
xác định, chân thực, phục vụ cho đề tài làm toát lên chủ đề tư tưởng, làm rõ đối tượng
nghiên cứu đã được khám phá từ thực tiễn.
Các phương pháp kiểm nghiệm kết quả nghiên cứu
Sinh viên phải biết cách xây dựng chương trình, tổ chức thực hiện ứng dụng một
luận điểm, một phương pháp giáo dục xuất phát từ cơ sở lý thuyết và cơ sở thực tiễn...
Các phương pháp phân tích, xử lý và trình bày kết quả nghiên cứu
Đó là phương pháp toán học thống kê để phân tích các số liệu, từ đó rút ra các
nhận xét, kết luận có căn cứ khoa học lượng hóa bằng số liệu cụ thể.
Thể hiện kết quả nghiên cứu bằng văn bản khoa học.
Văn bản khoa học phải được trình bày có nội dung khoa học với độ chính xác
cao, vừa có tư tưởng học thuật. Người sinh viên phải biết cách trình bày văn bản khoa
học .
Kỹ năng sử dụng, vận hành các thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc nghiên cứu.
Sinh viên phải biết cách sử dụng các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ
cho việc ngiên cứu...
- Tổ chức cho sinh viên thực hiện các chuyên đề, luận văn tốt nghiệp. Sinh viên
cần nắm được một số quy định chung và đầy đủ các yêu cầu đối với một bản chuyên
đề, luận văn tốt nghiệp từ hình thức, cách trình bày, nội dung khoa học...
Trước khi giao cho sinh viên làm bài tập, luận văn tốt nghiệp, cần phải cung cấp
cho họ những hiểu biết nhất định về phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.
Cần hướng dẫn cho sinh viên và có quy định chặt chẻ đối với việc tham khảo tài
liệu trong khi viết chuyên đề, luận văn để tránh những đáng tiếc có thể xảy ra.
Việc tổ chức cho sinh viên thực hiện các chuyên đề, luận văn khoa học đạt hiệu
quả, cần tiến hành theo các giai đoạn sau đây:
+ Giao đề tài cho sinh viên.
+ Giúp sinh viên xây đựng đè cương nghiên cứu.
+ Hướng đẫn sinh viên thu thập tài liệu cho đề tài nghiên cứu.
+ Hướng dẫn sinh viên thu thập tài liêu lí luận, tài liệu thực tiễn và hướng dẫn
sinh viên thực nghiệm khoa học để chúng minh cho giả thuyết khoa học.
+ Hướng dẫn sinh viên xây dựng đề cương chi tiết, là bước giáo viên giúp sinh
viên phân loại, xử lý các tài liệu theo yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
+ Tổ chức cho sinh viên hoàn thiện đề tài và nghiệm thu kết quả hoàn thành.
Việc tổ chức cho sinh viên tập dượt nghiên cứu khoa học nếu đạt được kết quả sẽ
kích thích tích cực nhận thức của họ, sẽ nâng cao được chất lượng hiệu quả trong học
tập và tự học.
2.1.4. Nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc học tập và giảng
dạy của giáo viên và sinh viên.
Trong tình hình chung hiện nay, nhà trường cần tạo những điêu kiện tốt nhất cho
hoạt động dạy học của thầy và trò, cụ thể như sau:
- Có chương trình khuyến khích đội ngũ giáo viên của trường học tập bồi dưỡng
thường xuyên để nâng cao trí thức và nghề nghiệp. Trong hai năm học vừa qua,
trường Cao đẳng sư phạm An Giang đều tổ chức cho giáo viên trong trường học tập
các chuyên đề dừng cho sau đại học được giảng dạy bởi các giáo sư của trường đại
học quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Đó là các chuyên đề:
+ Lý luận dạy học ở đại học.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
+ Lịch sử triết học.
Ngoài ra, trường còn khuyến khích giáo viên của trường theo học cao học tại Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Nhà trường rất quan tâm đến việc cung cấp giáo trình, tài liệu, báo chí, tập san
nghiên cứu khoa học giáo dục, báo giáo dục thời đại,... đặc biệt là giáo trình chính
thống.
- Quan tâm đến việc xây đựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy học của
thầy và trò.
+ Ký túc xá
+ Phòng học
+ Phòng đọc sách
+ Thư viện
Tăng cường và đa dạng hoạt động ngoại khóa cho sinh viên, đó là các hoạt động:
+ Văn hóa văn nghệ
+ Thể dục thể thao
+ Tham quan du lịch
+ Vui chơi giải trí
2.1.5. Đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt và học tốt theo lời dạy của
Bác Hồ.
Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt như lời Bác
Hồ căn dặn.
Trên đây là một số biện pháp nhằm cải tiến phương pháp dạy học của giáo viên
và học sinh, đặc biệt là hoạt động tự học của người sinh viên nhằm phát huy tính tích
cực, độc lập, tự giác, sáng tạo của họ và đạt kết quả học tập cao nhất.
2.2. THỰC NGHIỆM VÀ KẾT QUẢ
Do thời gian và khả năng của bản thân còn hạn chế nên trong luận văn này,
chúng tôi tiến hành thực nghiệm theo phương hướng thứ nhất:
Cải tiến phương pháp giảng dạy của người giáo viên trong quá trình dạy học bộ
môn Giáo dục học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của sinh viên.
2.2.1. Quá trình thực nghiệm
UĐối tượng tham gia thức nghiệm
Sinh viên năm thứ 2 khoa Tự nhiên khóa 22: số sinh viên này đang theo học lớp:
Lớp22Al : Toán-tin
Lớp22Bl : Hóa sinh
UChất lượng ban đầu của 2 lớp này được biểu diễn dưới sơ đồ sau đây:
U
- Cả hai lớp đều có chất lượng học tập tương đối bằng nhau, điều đó cho phép
tiến hành thực nghiệm nhằm đạt kết quả tốt nhất.
Tiến hành thực nghiêm
Với lớp 22B1, chúng tôi dạy theo phương pháp truyền thống.
Với lớp 22A1, chúng tôi tiến hành giảng dạy theo hướng mới, mục đích là phát
huy vai trò độc lập, tích cực, tự giác của sinh viên trong quá trình dạy học kết hợp với
lãnh đạo của giáo viên.
Nội dung : Phần tổ chức hoạt động dạy học ở trường Trung học cơ sở
Phương pháp tiến hành theo các bước sau đây :
Bước 1 :
- Giới thiệu nội dung bài, mục đích yêu cầu bài, số tiết dành cho bài học.
- Giới thiệu giáo trình, tài liệu tham khảo có liên quan đến bài học đó, để sinh
viên nghiên cứu đọc trước (từ 1 - 2 tuần).
- Hướng dẫn học sinh đọc giáo trình, tài liệu tham khảo; có thể nêu trọng tâm
của bài, hướng dẫn học sinh biết cách ghi chép bài khi đọc tài liệu hoặc giáo trình.
- Tổ chức cho học sinh trình bài thu hoạch của mình sau khi đọc giáo trình, tài
liệu học tập. Đề xuất thắc mắc, những phần khó hiểu hoặc không hiểu khi đọc giáo
trình.
Bước hai:
Nghe giảng trên lớp
Thời gian giảng dạy trên kíp chia làm hai phần :
- Phần đầu tiết học :
Sinh viên cử đại diện trình bày các vấn đề mà họ đã tiếp thu được khi đọc giáo
trình và tài liệu học tập liên quan.
Cả lớp nghe và góp ý về bài chuẩn bị của bạn, nêu các thắc mắc, các phần khó
hiển, vấn đề mới, nêu trọng tâm bài học, tiếp tục giải đáp các thắc mắc của sinh viên.
Hướng dẫn sinh viên trả lời các câu hỏi trong giáo trình. Đưa ra các tình huống
bài tập giáo dục để sinh viên dựa vào bài học giải quyết.
Bước 3 :
Kiểm tra kết quả học tập của sinh viên bằng bài làm sau khi học xong (một bài,
một chương) phần lí luận dạy học. Bài kiểm tra có 2 câu hỏi:
Câu 1 yêu cầu sinh viên tái hiện lại tài liệu đã học.
Câu 2 yêu cầu sinh viên hệ thống hóa, vận dụng tri thức vào thực tiễn giảng dạy.
Để đánh giá việc nắm vững tri thức và vận dụng vào thực tiễn của sinh viên
trong bài kiểm tra, chúng tôi dùng thang điểm 10 và phân chia làm 4 mức độ:
- Loại giỏi:
Điểm 9 và l0
- Loại khá:
Điểm 7 và 8
- Loại trung bình :
Điểm 5 và 6
-Loại yếu :
Dưới điểm 5
Kết quả bài làm của sinh viên được thống kê ở bảng sau :
2.2.2. Phân tích kết qủa thực nghiệm
UVề mặt định lượng
Kết quả thực nghiệm được thể hiện ở kết quả bài kiểm tra mà sinh viên thực
hiện.
- Về mức độ đạt được của cả 2 lớp thực nghiệm 22A1 và lớp đối chứng 22B1
Loại giỏi : cả hai lớp thực nghiệm và đối chứng đều không có sinh viên nào loại
giỏi cả.
Loại khá : số sinh viên đạt loại khá của lớp thực nghiệm khá cao so với lớp đối
chứng (là 16 so với 6).
Loại trung bình : ở lớp thực nghiệm là 18 so với lớp đối chứng là 22 em.
Loại yếu : ở lớp thực nghiệm, các em đạt loại này chỉ có 4 em, chiếm tỉ lệ 1
0,53%.
Ở lớp đối chứng, các em đạt loại yếu khá nhiều, đó là 8 em, chiếm tỉ lệ 22,22%.
Qua bảng thống kê trên, có thể thấy điểm trung bình cộng của sinh viên lớp thực
nghiệm cao hơn (6,13 so với 5,52/) so với trung bình cộng của lớp đối chứng.
Qua các tham số thống kê ở trên cho phép chúng ta khẳng định: kết quả học tập
của lớp thực nghiệm với phương pháp giảng dạy và học tập tích cực đã thu được khá
hơn so với lớp đối chứng với giảng dạy và học tập theo phương pháp truyền thống.
Về mặt định tính
Chúng tôi nghiên cứu chất lượng tri thức mà sinh viên nắm được qua bài kiểm
tra và có thể rút ra một số kết luận sau :
Khi có những thay đổi về phương pháp dạy và học của thầy và trò trong bộ môn
Giáo dục học, bước đầu thấy kết quả học tập của sinh viên có tiến bộ rõ rệt.
Quan trọng hơn nữa là người sinh viên trong quá trình học tập đã tự rèn luyện
cho mình một số phẩm chất và năng lực học tập tích cực :
- Người sinh viên đã tích cực, chủ động, sáng tạo, độc lập trong quá trình chiếm
lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
- Do được nghiên cứu kĩ lưỡng tài liệu, giáo trình trước khi nghe giảng trên lớp
nên tri thức mà họ lĩnh hội được đầy đủ, chính xác, vững chắc.
- Sinh viên ngoài việc nắm tri thức lý thuyết vững chắc, họ còn biết vận dụng tri
thức vào việc giải các bài tập tình huống và thực tiễn, lấy ví dụ minh họa cho phần lý
thuyết (tuy đạt được ở mức độ nhất định).
- Sinh viên tự rèn luyện cho mình phương pháp đọc sách và tài liệu, biết cách ghi
chép tư liệu cần thiết và sử dụng nó khi cần...
Qua thực nghiệm, người giáo viên cũng có những biến đổi nhất định :
+ Nếu trước kia phương pháp giảng dạy của thầy là đọc bài giảng (thuyết giảng)
cho sinh viên thì nay người giáo viên cũng phải tích cực hơn, năng động hơn. Thầy
phải đọc sách báo, tài liệu tham khảo nhiều hơn. Dành nhiều thời gian cho việc hướng
dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu...
2.2.3 Kết luận:
Để sinh viên nâng cao chất lượng học tập nói chung, chất lượng của công tác tự
học nói riêng cần phải thay đổi cả trong nhận thức, hành động của cả giáo viên và sinh
viên. Nó đòi hỏi phải tổ chức hợp lý, khoa học một số biện pháp :
- Xây dựng cho người sinh viên động cơ, thái độ học tập tích cực, chủ động, tự
giác.
- Hình thành và phát triển cho họ các năng lực tự học, tự nghiên cứu.
- Thường xuyên, vận dụng tri thức vào giải các bài tập về nhà mà giáo viên đưa
ra.
- Tổ chức cho sinh viên tích cực đọc sách, báo, tài liệu có liên quan đến môn
học.
KẾT LUẬN
Dạy học là một quá trình thống nhất biện chúng giữa hoạt động dạy và hoạt động
học của thầy giáo và sinh viên. Trong mối quan hệ biện chứng này, thầy giáo giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn, lãnh đạo, điều khiển; sinh viên tích cực chủ động,
sáng tạo thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học.
Để nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng học tập của sinh viên nói
riêng cần phải cải tiến phương pháp học tập của người sinh viên và cải tiến phương
pháp giảng dạy của thầy giáo. Đó là hai mặt của một vấn đề, cùng được quan tâm.
Việc hoàn thiện hoạt động học tập của người sinh viên, trong đó có hoạt động tự
học bộ môn Giáo dục học của họ là một điều kiện có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng
đến kết quả học tập của người sinh viên. Để nâng cao chất lượng học tập bộ môn Giáo
dục học cho sinh viên, cần phải tuân theo một số phương hướng sau :
1.Cải tiến phương pháp giảng dạy của người giáo viên
Cải tiến phương pháp giảng dạy là một công việc phức tạp nhưng nó có tác dụng
quyết định chất lượng đào tạo, nhưng không thể giải quyết gọn trong một thời gian
ngắn. Để cải tiến phương pháp giảng dạy của thầy, có thể triển khai một số biện pháp
sau đây :
- Loại bỏ dần hình thức giảng dạy độc thoại.
- Giảm số giờ học lý thuyết.
- Tăng cường số tiết dạy thực hành và hình thức dạy học đòi hỏi người học tích
cực học tập.
- Tổ chức biên soạn, in ấn các tài liệu học tập.
- Sử dụng rộng rãi các phương tiện nghe nhìn phục vụ cho công tác giảng dạy.
2.Cải tiến phương pháp kiểm tra, đánh giá
- Đánh giá kết quả học tập theo quá trình.
- Đa dạng hóa các hình thức thi hết môn.
-Khuyến khích người dạy thay đổi nội dung kiểm tra, đánh giá môn học theo
hướng giảm yêu cầu về trí nhớ thuộc lòng, nhấn mạnh yếu tố hiểu bài, khêu gợi khả
năng vận dụng sáng tạo của người học.
3.Cải tiến hoạt động học tập, trong đó có công tác tự học cho sinh viên
- Xây dựng thái độ học tập đúng đắn cho sinh viên .
- Giúp sinh viên xây dựng cho mình phương pháp học tập khoa học.
- Giúp sinh viên quản lý tốt thời gian tự học.
4.Xây dựng bài tập về nhà cho sinh viên.
5.Tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và học tập của thầy và trò
- Cung cấp đủ giáo trình, tài liệu, điều kiện ăn ở...
- Tăng cường các hoạt động ngoại khóa...
6. Đẩy mạnh phong trào thi đua dạy tốt - học tốt trong thầy giáo và sinh
viên theo lời dạy của Bác Hồ
Kết quả thực nghiệm đã phần nào chứng minh rằng nếu người giáo viên giảng
dạy theo phương pháp kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, sinh
viên sẽ có thay đổi cơ bản trong hoạt động tự học và chất lượng học tập tăng lên rõ rệt.
Do thời gian thực hiện công trình ngắn, đối tượng thực nghiệm với số lượng còn
ít, diện thực nghiệm hẹp khả năng của bản thân còn hạn chế nên kết quả thu được còn
hạn chế. Nó cần được kiểm nghiệm trên diện rộng hơn để rút ra những kết luận có tính
thuyết phục hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Lê Khánh Bằng (Chủ biên) - Một số vấn đề nâng cao hiệu quả của qúa trình
dạy và học ở Đại học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Tập 1, Hà Nội 1989.
2.Nguyễn Hữu Dũng - Định hướng đổi mới phương pháp đào tạo và bồi dưỡng
giáo viên.
3.Đỗ Ngọc Đạt - Toán thống kê ứng dụng trong nghiên cứu khoa học giáo dục
và xã hội học. Nhà xuất bản trường Đại Học sư phạm Hà Nội I 1994.
4.Hà Thị Đức - Hoạt động tự học của sinh viên các truồng đại học hiện nay. Tạp
chí Nghiên cứu giáo dục, số 2 - 1993
5.Hà Thị Đức - Nguyên Thị Lợi - về hoạt động tự học của sinh viên Cao Đẳng
Sư Phạm Hà Bắc - nghiên cứu giáo dục 10 - 93.
6.Hà Thị Đức - Nhữtag yêu câu đối với việc thiết kế bài tập về nhà cho sinh
viên. Nghiên cứu giáo dục 9 - 93
7.Phạm Hoàng Gia - Xây dựng phong cách học tập mới - Nhà xuất bản giáo dục,
Hà Nội - 1968.
8.Phạm Minh Hạc - Giáo dục và chất lượng. Nghiên cứu giáo dục, số 3 - 1985.
9.Phạm Minh Hạc - Tâm lý học tập 1,2,3 - Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội 1988.
10.Lê Trọng Hành - Học cách nào nhớ lâu - Nhà xuất bản khoa học, Hà Nội -
1962.
11.Trần Đá Hoành - Dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nghiên cứu giáo dục,
số 1 -1994.
12.Đặng Vũ Hoạt - Hà thị Đức - Hoạt động tự học của sinh viên ở Đại học - Hà
Nội 1990.
13.Đặng Vũ Hoạt - Một số nét về thực trạng phương pháp dạy học ở đại học (in
trong một số vấn đề nâng cao hiệu quả dạy và học ở đại học và trung học chuyên
nghiệp. Tập 1 Nhà xuất bản trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội I, 1989)
14. Đặng Vũ Hoạt - Nguyên Sinh Huy - Hà Thị Đức - Giáo dọc học đại cương 2
-Hà Nội 1996
15.Trần Văn Hiếu - về vấn đề tóm việc độc lập với sách cởâ sinh viên - Nghiên
cứu giáo dục số l0 - 96
16.Nguyên Kỳ - Phương pháp tích cực. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 1994,
trang 30
17. Nguyễn Kỳ - Biến qúa trình dạy học thành quá trình tự học, Nghiên cứu Giáo
dục, số 3- 1996.
18.Lê Nguyên Long – Một số phương hướng cải tiến phương pháp dạy học. Nhà
xuất bản bản Giáo dục. Hà Nội 1984.
19.Nguyễn Văn Lê - Nguyễn Sinh Huy - Giáo đục học đại cương tập 1 - Nhà
xuất bản Giáo dục Hà Nội 1996.
20.Nguyễn Văn Lê - Nguyên Sinh Huy - Giáo dục học đại cương - Nhà xuất bản
Giáo dục-Hà Nội -1997.
21.Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt - Giáo dục học, tập 1, Nhà xuất bản giáo dục -
1987.
22.Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt - Giáo dục học, tập 2. Nhà xuất bản Giáo dục -
1987-1988.
23.Nguyễn Cảnh Toàn - Mấy suy nghĩ về kinh nghiệm tự học của sinh viên.
Nghiên cứu giáo dục, số 1 - 1975.
24.Nguyễn Cảnh Toàn - Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo -
trường Đại Học Hà Nội 1969.
25.Nguyễn Cảnh Toàn - phương pháp giáo dục tích cực - Bàn về học và nghiên
cứu khoa học. NCGD Số 9 -1996.
26.Thái Duy Tuyên - Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Nghiên cứu
Giáo dục, số 2- 1990.
27.Tôn Thân - Vai trò của người giáo viên trong quá trình dạy học - Nghiên cứu
Giáo đục, số II - 1996.
28.Trịnh Quang Từ - về việc tự học của sinh viên các trường quân sự. Nghiên
cứu Giáo đục, số 10- 1993.
29.Phạm Viết Vượng - Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Hà Nội -
1996.
30.Phạm Viết Vượng - Giáo dục học đại cương - Nhà xuất bản Đại học Quốc
Gia Hà Nội - 1996.
31.Phạm Viết Vượng - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học - Nhà xuất bản
Đại học Quốc Gia Hà Nội 1997.
TÀI LIỆU DỊCH
32.Ê XI PỐP B.P chủ biên - Những cơ sở của lý luận dạy học. Tập 1. Nhà xuất
bán Giáo dục. Hà Nội 1977.
33.Ê XI PỐP B.P - Những cơ sở của lý luận dạy học - tập 2. Nhà xuất bản giáo
dục –Hà Nội 1997.
34. Ê XI PỐP B.P - Những cơ sở của lý luận dạy học. Tập 3. Nhà xuất bản Giáo
dục -Hà Nội 1.997.
35.Kharla mốp - I.F - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào -
Tập 1 - Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội 1978
36. Kharla mốp - I.F - Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào.
Tập 2. Nhà xuất bản giáo đục, Hà Nội 1978
37.Léc ne - Dạy học nêu vân để - Nhà xuâìt bản Giáo dục, Hà Nội 1977
38.Ma chiu skin A.M - Các tình huống có vấn đề trong tư duy và trong dạy học.
Tư liệu của trường Đại học Sư Phạm, Hà Nội. 1986.
39.MaKiguchi - giáo dục vì cuộc sống sáng tạo - Trường Đại học tổng hợp
Thành Phố Hồ Chí Minh - 1994.
40.Motiboc A.G - Các vấn đề tổ chức lao động sư phạm theo khoa học ở trường
đại học. Tư liệu của trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội I
41.Ô KÔN V - Những cơ sở của dạy học nêu vấn đề. Nhà xuất bản giáo đục. Hà
Nội 1976.
42.Priacốpxki A.P- Phương pháp đọc sách. Nhà xuất bản giáo dục-Hà Nội 1976.
43.Retzke R._ Học tập hợp lý_ Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên
nghiệp -Hà Nội 1973.
PHỤ LỤC
1. Phiếu điều tra sinh viên
VỀ CÔNG TÁC TỰ HỌC CỦA SINH VIÊN
1. Anh (chị) đã sử dụng hình thức tự học nào trong các hình thức sau đánh dấu
+)
- Học theo vở ghi
- Nghe giáo viên phụ đạo
- Tham gia ngoại khóa
-Thảo luận
- Hình thức khác
2.Phương pháp tự học nào được anh chị sử dụng?
- Đọc làm bài ghi chép
- Lập dàn ý
- Học vở ghi kết hợp đọc tài liệu
- Trước khi lên lớp nghe giảng đọc giáo trình
- Phối hợp các cách
3.Cách ghi bài trên lớp của anh (chị) là :
- Ghi từng câu chữ của thầy
- Ghi tóm tắt theo cách hiểu riêng
4.Khi đọc sách tài liệu, anh (chị) ghi chép theo cách nào ?
- Theo đề mục sách
- Theo ý chính (tóm tắt)
-Ghi nhật ký
-Trích ghi
- Lập dàn ý, xây dựng đề cương
5.Hình thức đọc tài liệu
- Đọc một mạch
- Đọc nghiên cứu
6.Anh (chị) dành thời gian cho tự học :
- Học hàng ngày - Có môn học
- Có bài kiểm tra - Kỳ thi hết học phần
7.Nguyên nhân ảnh hưởng kết quả tự học
Tích cực Tiêu cực
- Bài giảng hấp dẫn, dễ hiểu - Bài giảng khó hiểu, không hay
- Nội dung mới, bổ ích - Nội dung bài không thiết thực
- Đủ tài liệu, giáo trình - Thiếu giáo trình..
- Đủ thời gian tự học - Thiếu thời gian
2. Phiếu điều tra đối với giáo viên
PHIẾU ĐIỀU TRA
(Đối với giáo viên)
Xin đồng chí cho biết công tác tự học của sinh viên
1. Trong quá trình giảng dạy đồng chí giúp đỡ sinh viên biện pháp tự học nào ?
(xếp theo thứ tự 1,2,3...)
- Tổ chức tự học theo nhóm tổ
- Tự học cá nhân
- Hướng dẫn sinh viên đọc tài liệu
- Xây dựng đề cương, dàn ý...
- Ra bài tập
..
2. Theo đồng chí, sinh viên đã xây đựng cho mình kế hoạch tự học (đánh dấu +)
-Có -Không
3.Những nguyên nhân ảnh hưởng đến công tác tự học của sinh viên (đánh dấu
theo thứ tự quan trọng giảm dần 1, 2, 3 . )
- Do thấy giáo
- Tài liệu
- Thời gian tự học
- Cách đánh giá kết quả
- Phương pháp lự học
- Nguyên nhân khác
4.Để nâng cao chất lượng công tác tự học của sinh viên, theo đồng chí phải chú ý
đến biện pháp nào sau dây :
1 / Về phía giáo viên
2/ Về phía sinh viên..
3/ Về phía nhà trường
Xin chân thành cám ơn đồng chí
3.Đề bài kiểm tra phần lý luận dạy học cho sinh viên hai lớp đối chứng,
thực nghiệm
Câu 1: Phương pháp trình bày trực quan là gì ? Cách thực hiện chung khi sử
dụng phương tiện trực quan. Các yêu cầu khi sử dụng phương tiện trực quan trong dạy
học
Câu 2 : Trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông, người giáo viên thường sử
dụng các phương tiện nào ? Hãy kể tên các phương tiện trực quan mà các anh (chị) đã
gặp trong quá trình học tập ở phổ thông
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuc_trang_he_thong_bien_phap_nang_cao_chat_luong_hieu_qua_hoat_dong_tu_hoc_mon_giao_duc_hoc_cua_sin.pdf