Nhóm trẻ khiếm thính đƣợc xác định sau can thiệp đã có sự cải thiện có ý nghĩa so
với trƣớc can thiệp cả về trung bình tuổi phát hiện, chẩn đoán xác định, đeo máy
và can thiệp (tƣơng ứng 15,5; 21; 23,7 và 26,5 tháng) lẫn tỉ lệ đƣợc phát hiện, chẩn
đoán, can thiệp sớm trƣớc 12 và 24 tháng (p<0,001). Tỉ lệ trẻ khiếm thính đƣợc
phát hiện sớm bởi cán bộ y tế và giáo viên tăng lên đáng kể (từ 2% lên 23,2%). Tỉ
lệ trẻ khiếm thính đƣợc chẩn đoán ban đầu tại Hải Phòng tăng từ 33,2% lên
87,4%; đƣợc chẩn đoán xác định tăng từ 16,7% lên 65,3% (p<0,001).
- Sau can thiệp, tỉ lệ trẻ khiếm thính đƣợc đeo máy tăng từ 45,9% lên 70,5 %. Trong
đó, số trẻ đƣợc trị liệu ngôn ngữ tăng từ 36,4% lên 61,2 % (p<0,001); số trẻ do gia
đình tự can thiệp giảm từ 63,6% xuống còn 38,8% (p<0,001).
148 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính và đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp tại Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n ban đầu giữa nhóm trẻ ở
khu vực trung tâm và xa trung tâm (p>0,05) (Bảng 3.19); không có sự khác biệt về
tuổi phát hiện giữa các mức độ nghe kém khác nhau của trẻ (Bảng 3.20); và tỉ lệ trẻ
đƣợc phát hiện bởi cán bộ y tế và giáo viên tăng từ 2% lên 23,2% sau can thiệp
(Biểu đồ 3.6).
Tuổi phát hiện giảm không chỉ do hiệu quả của việc sàng lọc và công tác tư
vấn sàng lọc thính lực sơ sinh cho sản phụ và gia đình, mà còn do hiệu quả của
hoạt động truyền thông đối với cộng đồng, giúp gia đình thay đổi nhận thức, chú ý
phát hiện biểu hiện nghe kém của con hơn. Đặc biệt, sau can thiệp, số trẻ KT sinh
năm 2011 đƣợc xác định có 107/190 trẻ, chiếm 56,3% tổng số trẻ sau can thiệp.
Phân tích sự phân bố trẻ nghiên cứu theo năm sinh, cả trƣớc và sau can thiệp, chúng
tôi thấy năm 2011 có sự tăng đột biến về số trẻ KT (117 trẻ) so với những năm khác
(từ 23-35 trẻ). Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Đặng T. Thanh
Huyền: Trong giai đoạn 2008 -2012, Rubella lƣu hành và gây dịch tại Việt Nam, nữ
trong độ tuổi sinh đẻ có nguy cơ cao nhiễm vi rút Rubella; 98,2% trƣờng hợp mắc
Rubella trong giai đoạn này chƣa đƣợc tiêm vắc xin Rubella hoặc không rõ tiền sử
tiêm chủng; riêng năm 2011, số trƣờng hợp mắc Rubella chiếm tới 69,2% tổng số
trƣờng hợp mắc trong cả giai đoạn. Nghiên cứu này cũng khuyến nghị cần sớm đƣa
vắc xin Rubella vào chƣơng trình tiêm chủng mở rộng nhằm khống chế bệnh
Rubella và hội chứng Rubella bẩm sinh [24]. Mặc dù Hải Phòng là địa phƣơng có tỉ
117
lệ mắc Rubella thấp nhƣng số trẻ KT sinh 2011 gia tăng đã cho thấy ảnh hƣởng của
nguyên nhân trƣớc sinh gây KT do vi rút Rubella là rất lớn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, sau khi đƣợc tuyên truyền, rất nhiều gia đình có con sinh năm 2011 đã
quan tâm cho con đi kiểm tra thính lực, nhờ vậy nhiều trẻ KT đã đƣợc chẩn đoán
kịp thời. Điều này cho thấy hoạt động truyền thông đã có vai trò tích cực chuyển
đổi hành vi, giúp trẻ KT được phát hiện sớm, nhất là trẻ có nguy cơ cao.
4.2.2.2. Chẩn đoán sớm
Thời gian trƣớc can thiệp, nhiều trẻ KT đƣợc chẩn đoán muộn do gặp khó
khăn trong tiếp cận dịch vụ chẩn đoán thính học trên địa bàn, đa số gia đình phải
đƣa trẻ đi tuyến trên để xác định. Do vậy sau can thiệp, sự thay đổi được mong đợi
nhất về chẩn đoán là tỉ lệ trẻ KT được chẩn đoán ban đầu và chẩn đoán xác định
tại Hải Phòng đã tăng lên 87,4% và 65,3% so với 33,2% và 16,7% trƣớc can thiệp
(Biểu đồ 3.7; p<0,001). Điều này cho thấy, sau khi đƣợc củng cố và tăng cƣờng,
tính sẵn có và khả năng tiếp cận của hệ thống cung ứng dịch vụ đã đƣợc cải thiện,
đáp ứng đƣợc nhu cầu của trẻ KT và gia đình. Đây là sự thay đổi vô cùng có ý nghĩa
khi cả cơ sở y tế công lập và tƣ nhân đều cung cấp đƣợc dịch vụ chẩn đoán cho trẻ
nhỏ: “Thấy cháu không phản ứng khi được gọi tên, gia đình cho cháu đi đo ở
Trung tâm Thính học, kết quả là cháu bị nghe kém mức độ sâu. gia đình cho cháu
sang Bệnh viện Trẻ em kiểm tra lại cũng đúng như vậy nên cũng không cần đi Hà
Nội nữa. gia đình xác định quyết tâm mua máy trợ thính cho cháu để cháu được học
nghe - nói” (Phụ huynh một trẻ KT). Còn 32,6% trẻ KT đƣợc gia đình đƣa đi
tuyến trên để chẩn đoán hoặc xác định lại cho yên tâm. Kết quả chẩn đoán đồng
nhất giữa 2 tuyến đã cho thấy chất lƣợng của dịch vụ và càng củng cố thêm niềm tin
cho gia đình khi sử dụng dịch vụ tại Hải Phòng: “Sau khi cháu được chẩn đoán
KT mức độ sâu, gia đình rất lo lắng, liền cho cháu lên Bệnh viện Nhi Trung ương
kiểm tra lại. Kết quả kiểm tra cũng tương tự như ở Hải Phòng nên gia đình lại cho
cháu về Hải Phòng mua máy trợ thính cho thuận tiện” (Phụ huynh một trẻ KT).
Một sự thay đổi có ý nghĩa quan trọng nữa là sau can thiệp, trung bình tuổi chẩn
đoán xác định giảm từ 34 tháng xuống còn 21 tháng (p<0,001); đồng thời độ tuổi
đƣợc chẩn đoán xác định cũng sớm hơn. Biểu đồ 3.11 cho thấy trƣớc can thiệp, trẻ
118
KT đƣợc chẩn đoán trong độ tuổi từ 25 - 36 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 38%; tỉ lệ trẻ
đƣợc chẩn đoán sớm ở độ tuổi 0 - 12 tháng và 13 - 24 tháng chỉ chiếm 4,2% và
14,7%. Sau can thiệp, tỉ lệ trẻ đƣợc chẩn đoán sớm tƣơng ứng ở 2 độ tuổi này chiếm
đa số với 23,2% và 42,6%. Việc nhiều trẻ đƣợc chẩn đoán sớm trƣớc 24 tháng có ý
nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, vì trẻ càng đƣợc xác định
sớm và can thiệp kịp thời thì sự chậm trễ phát triển càng đƣợc giảm thiểu. So sánh
thời gian chậm trễ từ chẩn đoán ban đầu chẩn đoán xác định trƣớc và sau can
thiệp ở bảng 3.23 cho thấy thời gian chậm trễ đã giảm nhiều từ 6,4 tháng xuống còn
2 tháng (<0,001). Đó là nhờ sau can thiệp, tính sẵn có của dịch vụ chẩn đoán đƣợc
tăng cƣờng, cũng nhƣ công tác tƣ vấn đƣợc tổ chức tốt nên trẻ có thể đƣợc chỉ định
đo chẩn đoán xác định ngay ở lần đi khám đầu tiên. Tuy nhiên, một số gia đình vẫn
còn chậm trễ chƣa cho con đi khám ngay khi phát hiện con có biểu hiện nghe kém
bởi nhiều lí do nhƣ chƣa nhận thức sâu sắc đƣợc tầm quan trọng của CTS, còn gặp
khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ do khoảng cách địa lí, hoặc đôi khi gia đình
không chấp nhận sự thật nên trẻ vẫn bị chẩn đoán muộn sau 24 tháng.
4.2.2.3. Can thiệp sớm
Sau giai đoạn triển khai can thiệp, trẻ KT đƣợc phát hiện sớm và chẩn đoán
sớm hơn nên trẻ có nhiều cơ hội đƣợc can thiệp hơn so với nhóm trẻ trƣớc can thiệp.
Đồng thời nhận thức của cha mẹ về CTS cũng tốt hơn nên khi đƣợc tƣ vấn bởi các
chuyên gia, cha mẹ trẻ có thêm niềm tin khi đƣa ra quyết định lựa chọn can thiệp cho
trẻ. Vì vậy, tỉ lệ trẻ đƣợc đeo máy trợ thính chiếm 70,5%, cao hơn có ý nghĩa so với
trƣớc can thiệp 45,9% (Biểu đồ 3.5 và 3.12). Trong số đó, tỉ lệ trẻ đƣợc trị liệu ngôn
ngữ chiếm 61,2%, cao hơn trƣớc can thiệp là 36,4% (Biểu đồ 3.15). Biểu đồ 3.14
cũng cho thấy tỉ lệ trẻ đƣợc can thiệp trị liệu ở các độ tuổi trƣớc 36 tháng đều tăng
cao hơn so với trƣớc thời gian can thiệp, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p<0,001. Tỉ lệ trẻ khiếm thính mức độ sâu đƣợc cấy điện cực ốc tai tăng lên 11% so
với 3,1% trƣớc can thiệp cũng cho thấy nhu cầu sử dụng thiết bị trợ thính công nghệ
cao, phù hợp của trẻ KT đã đƣợc cải thiện rất nhiều, cũng không còn tình trạng bỏ
đeo máy phổ biến nhƣ trời gian trƣớc can thiệp. Thời gian chậm trễ giữa các mốc
tuổi nghiên cứu đều giảm so với trƣớc can thiệp (Bảng 3.23) đã cho thấy hiệu quả
119
của các giải pháp can thiệp khi tính sẵn có của dịch vụ đƣợc tăng cƣờng và nhận
thức của cha mẹ trẻ KT đƣợc nâng lên. Tuy nhiên sự khác biệt về thời gian chậm trễ
từ thời điểm chẩn đoán xác định đến khi trẻ đƣợc đeo máy trợ thính giữa hai nhóm
trẻ trƣớc và sau can thiệp không có ý nghĩa thống kê. Điều này phản ánh một thực tế
mặc dù nhận thức của phụ huynh đã đƣợc nâng lên, hiểu biết về CTS và thông tin về
máy trợ thính đã đƣợc cải thiện, nhƣng hoàn cảnh gia đình và điều kiện kinh tế khó
khăn vẫn là một rào cản rất lớn khiến trẻ bị chậm đeo máy.
Hiện nay, sự phát triển vƣợt bậc của khoa học kỹ thuật, nhất là tiến bộ về
thiết bị trợ thính và nhiều thành tựu trong thực hành lâm sàng đã cho chúng ta
những hiểu biết toàn diện hơn về ảnh hƣởng nghiêm trọng của tật KT, cũng nhƣ ý
nghĩa vô cùng to lớn của việc phát hiện sớm và CTS cho trẻ KT. Tại các nƣớc Châu
Âu, trẻ KT đƣợc phát hiện rất sớm (trƣớc 6 tháng tuổi) và đƣợc hỗ trợ nghe một
cách tối đa thông qua các thiết bị hiện đại nhƣ máy trợ thính công suất cao, điện
cực ốc tai Chính vì vậy các trung tâm can thiệp ngôn ngữ cho trẻ KT lại ƣu tiên
hàng đầu cho phƣơng pháp nghe - nói, và không khuyến khích các phƣơng pháp
dấu đi kèm [Trích dẫn từ [47].
Cũng nhƣ ở các nƣớc đang phát triển, đa số trẻ KT ở nƣớc ta đƣợc phát hiện
muộn, thƣờng ở cuối hoặc sau giai đoạn tốt nhất để hình thành ngôn ngữ và không
phải trẻ nào cũng có điều kiện sử dụng thiết bị trợ thính hiện đại để đạt khả năng
nghe tối đa. Do đó, hiệu quả can thiệp theo hƣớng ƣu tiên phát triển ngôn ngữ nghe
- nói cho trẻ còn nhiều hạn chế; cũng không thể chỉ sử dụng đơn thuần một phƣơng
pháp, mà thƣờng phải kết hợp các biện pháp phù hợp với khả năng và điều kiện của
từng trẻ.
Để hạn chế ảnh hƣởng của thực trạng này, chúng tôi chú trọng tổ chức tốt
dịch vụ trị liệu ngôn ngữ tại Trƣờng Khiếm thính và Trung tâm Thính học; chƣơng
trình can thiệp PHCN bao gồm: tƣ vấn cho cha mẹ về cách chăm sóc, huấn luyện
trẻ kỹ năng nghe thông qua nói, đọc hình miệng, kết hợp với các ngôn ngữ có lời và
không lời, kỹ năng giao tiếp tổng hợp, hƣớng dẫn sử dụng và bảo quản máy trợ
thính Qua nghiên cứu ban đầu và thực tế triển khai can thiệp, chúng tôi nhận thấy
phụ huynh có con trong độ tuổi CST thƣờng chỉ chú trọng đến phƣơng pháp can
120
thiệp nghe - nói mà ít quan tâm đến các phƣơng pháp giao tiếp khác. Do vậy, nếu
trẻ không có điều kiện đeo máy trợ thính hoặc đeo máy không hiệu quả nhƣng
không có khả năng cấy điện cực ốc tai thì họ thƣờng chấp nhận con bị tật nguyền.
Khi đó, trẻ sẽ không đƣợc tiếp tục CTS bằng phƣơng pháp giao tiếp khác mà sẽ
đƣợc học chuyên biệt tại Trƣờng Khiếm thính khi lên 6 tuổi (học văn hóa và học
nghề bằng ngôn ngữ kí hiệu). Đây là vấn đề thuộc về điều kiện kinh tế xã hội và
nhận thức của phụ huynh. Ở các nƣớc phát triển, trẻ KT có điều kiện tiếp cận với
tiến bộ về khoa học công nghệ nên vẫn có thể có cơ hội phát triển ngôn ngữ, học
tập và hòa nhập xã hội nhƣ trẻ bình thƣờng, bất luận trẻ bị khiếm thính ở mức độ
nào (nếu đƣợc phát hiện sớm, CTS trƣớc 6 tháng tuổi và không kèm theo tật nào
khác) [122]. Còn ở Việt Nam, các điều kiện hỗ trợ CTS nói chung chƣa tƣơng
xứng với sự phát triển của khoa học công nghệ nên vẫn còn tạo ra khoảng cách rất
lớn với các nƣớc phát triển. Rút ngắn đƣợc khoảng cách này là một điều thực sự
khó khăn, đòi hỏi những nỗ lực rất lớn của toàn xã hội. Trong lúc chờ các điều kiện
kinh tế - văn hoá - xã hội được cải thiện, hệ thống cung cấp dịch vụ CTS cần tăng
cường tính sẵn có và TT - GDSK để có thể giảm nhẹ ảnh hưởng của những rào cản
này và phát huy được vai trò của phụ huynh cùng phối hợp với các nhà chuyên môn
thực hiện tốt công tác CTS.
Một nội dung can thiệp khác là dịch vụ tƣ vấn phụ huynh hỗ trợ gia đình
cũng đƣợc các đơn vị cung cấp liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu của trẻ KT và gia
đình. Các nhà chuyên môn luôn đồng hành cùng phụ huynh trong suốt quá trình can
thiệp, chia sẻ, giải đáp những lo lắng, băn khoăn, vƣớng mắc của phụ huynh dƣới
nhiều hình thức nhƣ tập huấn, tƣ vấn trực tiếp, qua điện thoại hay email Những
băn khoăn của phụ huynh rất thƣờng gặp và đa dạng nhƣ: Có nên cho trẻ đi châm
cứu không? Có nên đợi đến khi có đủ tiền để mua máy tốt mới mua cho trẻ
không?... Thậm chí có những câu hỏi rất thực tế nhƣ: Từ ngày đeo máy trợ thính
vào, cháu hay bị viêm tai giữa và viêm mũi họng, có phải là do đeo máy? Cháu rất
lƣời học từ mới, làm thế nào để cháu chịu khó học nghe nói?... Những câu hỏi thiết
thực này đƣợc giải đáp kịp thời, giúp phụ huynh giải tỏa đƣợc tâm lý, tăng thêm
hiểu biết về KT và CTS đồng thời tránh đƣợc những sai lầm đáng tiếc trong việc
121
lựa chọn phƣơng pháp can thiệp cho con.
Thông qua các hoạt động can thiệp, nhận thức của phụ huynh trẻ KT đã tăng
lên rõ rệt. Cha mẹ trẻ đã dành nhiều thời gian cho con hơn, tin tƣởng và thƣờng
xuyên trao đổi thông tin về trẻ, mạnh dạn bày tỏ những băn khoăn thắc mắc với các
nhà chuyên môn; đồng thời nhiệt tình tham gia đầy đủ các buổi tƣ vấn.
Tỉ lệ trẻ đƣợc chẩn đoán ở Hải Phòng tăng nhƣng tỉ lệ trẻ không đƣợc can
thiệp vẫn còn nhiều. Điều này cho thấy rào cản về điều kiện kinh tế, địa lý và nhận
thức của phụ huynh vẫn còn rất lớn.
Kết quả phỏng vấn sâu đã ghi nhận nhiều trƣờng hợp gia đình trẻ KT đã tích
cực tạo điều kiện cho trẻ đƣợc can thiệp nhƣ: gia đình cháu Hoàng T.N rời quê ra
trọ gần trung tâm thành phố để vừa đi làm thêm, vừa cho cháu đƣợc trị liệu ngôn
ngữ; gia đình 2 cháu sinh đôi Nguyễn L.B.N và Nguyễn L.G.H dù hoàn cảnh rất
khó khăn, vẫn quyết tâm đầu tƣ thêm tiền để mua máy trợ thính cho cháu đeo và
tham gia trị liệu ngôn ngữ... Điều này phản ánh chƣơng trình can thiệp không
những mang lại cơ hội cho trẻ KT đƣợc phát hiện sớm và CTS, mà còn tác động
sâu sắc đến nhận thức của phụ huynh, giúp họ có thêm niềm tin và động lực vƣợt
qua những trở ngại rất lớn để đƣa ra quyết định quan trọng có ảnh hƣởng tích cực
đến cả tƣơng lai của con mình. Đồng thời chúng ta cũng thấy việc xây dựng những
chế độ, chính sách nhằm hỗ trợ cho những trẻ khuyết tật có hoàn cảnh gia đình khó
khăn là luôn luôn cần thiết và mang đầy tính nhân văn.
4.2.2.4. Hiệu quả thực tế do can thiệp
Trong nhóm trẻ KT trƣớc can thiệp, chúng tôi lựa chọn những trẻ có tuổi <
16 tức là trẻ sinh từ năm 1998 đến năm 2012. Hiệu quả can thiệp về thực trạng trẻ
KT có thể là do tác động của các giải pháp can thiệp, nhƣng cũng có thể do các yếu
tố khác nhƣ hoạt động y tế chung đƣợc cải thiện, các tác động của điều kiện kinh tế
- văn hoá - xã hội khác theo thời gian hoặc trong cùng thời điểm cũng làm cho các
chỉ số thay đổi, những thay đổi này không do can thiệp. Để làm rõ điều này, chúng
tôi đã tiến hành so sánh kết quả về trung bình các tuổi nghiên cứu của nhóm trẻ sau
can thiệp với nhóm trẻ trƣớc can thiệp đƣợc xác định trong giai đoạn từ 2010 –
2012, là thời gian Trung tâm Thính học đã trang bị máy đo sàng lọc OAE và máy
122
chẩn đoán ABR, ASSR. Trong đó, những trẻ KT sinh từ 2008 - 2010, là những trẻ
có tuổi sinh cận kề với nhóm trẻ sau can thiệp (chủ yếu sinh từ 2011 - 2014) đƣợc
lựa chọn để phân tích và so sánh. Kết quả chỉ ra rằng, các tuổi trung bình phát hiện,
chẩn đoán ban đầu, chẩn đoán xác định, lần đầu đeo máy và can thiệp của nhóm trẻ
trƣớc can thiệp sinh từ 2008 - 2010 là cao hơn (muộn hơn) có ý nghĩa thống kê so
với nhóm trẻ sau can thiệp (Biểu đồ 3.16; các giá trị p<0,001 và p = 0,027).
Nhƣ vậy, sự cải thiện về thực trạng trẻ KT là hiệu quả thực tế do can thiệp.
Kết quả này cũng phù hợp với biểu đồ 3.17, so sánh sự khác nhau có ý nghĩa về
trung bình tuổi nghiên cứu của nhóm trẻ đƣợc và không đƣợc sàng lọc thính lực sơ
sinh. Điều này cho thấy sàng lọc thính lực sơ sinh đóng góp phần không nhỏ vào
hiệu quả của can thiệp và càng nhấn mạnh sàng lọc thính lực sơ sinh là một phần
không thể thiếu trong hoạt động CTS.
4.3. Cơ sở thực tiễn và tính hợp lý của các giải pháp can thiệp
Giải pháp can thiệp hệ thống cung ứng dịch vụ CTS cho trẻ KT Hải Phòng
đã đạt đƣợc những kết quả tích cực ban đầu: cải thiện cơ bản tình trạng cung ứng
dịch vụ, tăng cƣờng khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ của trẻ KT và gia đình;
cải thiện đáng kể thực trạng phát hiện, CTS của trẻ KT và tạo ra đƣợc chƣơng trình
CTS mang tính cộng đồng. Với phƣơng pháp luận chặt chẽ, lựa chọn giải pháp can
thiệp xuất phát từ đánh giá và phân tích thực trạng ban đầu, Kết quả nghiên cứu đã
cho thấy rõ cơ sở thực tiễn và tính hợp lý của 3 nhóm giải pháp cùng các nội dung
can thiệp.
4.3.1. Tăng cƣờng sự phối hợp liên ngành
Hệ thống cung cấp dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính ở nƣớc ta nói
chung và tại Hải Phòng nói riêng không phải là hệ thống thống nhất về mặt tổ chức nhƣ
ở các quốc gia phát triển, mà là hệ thống các cơ sở cung cấp dịch vụ trực thuộc các
ngành khác nhau. Do đó, đây là một giải pháp quan trọng thuộc vai trò của các nhà
quản lý. Nó đáp ứng đƣợc yêu cầu trƣớc mắt đặt ra là phải có một hình thức tổ chức
phối hợp hoạt động phù hợp với chức năng nhiệm vụ, nhu cầu phát triển của các cơ sở
cung ứng dịch vụ và cần có sự gắn kết để hệ thống sẵn có này hoạt động hiệu quả, thiết
thực hơn nữa với cộng đồng.
123
Thực tế, mỗi mô hình dịch vụ của nhà nƣớc, tƣ nhân đều chƣa đáp ứng đƣợc
hết nhu cầu của trẻ KT, do đó rất cần sự tham gia của cả cộng đồng xã hội. Trong
nghiên cứu này, nguyên nhân khiến các cơ sở công lập hạn chế về khả năng cung
ứng các dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán chủ yếu là do sự bất cập về cơ cấu, phân bổ
nguồn lực và thiếu sự quan tâm đầu tƣ phát triển. Vì vậy việc phối hợp liên ngành,
kết hợp công - tƣ là giải pháp hợp lý nhằm huy động đƣợc nguồn lực cần thiết, bù
lấp đƣợc những khoảng trống cơ bản trong hoạt động cung ứng dịch vụ và tạo sự
liên hoàn trong hệ thống nhằm tăng cƣờng tính sẵn có. Điều này hoàn toàn phù hợp
với chủ trƣơng xã hội hóa công tác y tế và giáo dục của Đảng và Nhà nƣớc ta [11-
13]. Sự phối hợp liên ngành cũng là động lực để tạo sự chuyển biến tích cực trong
mỗi đơn vị về cơ cấu nguồn lực và chất lƣợng dịch vụ để phát huy tốt vai trò của
mình trong hệ thống cung ứng.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các đơn vị đã phối hợp xây dựng Chƣơng
trình hỗ trợ can thiệp sớm cho trẻ KT với những kế hoạch cụ thể, đƣợc triển khai
đồng bộ, lồng ghép với nhau theo chức năng và nhiệm của từng bên (Hình 2.3). Bên
cạnh đó, hoạt động giám sát cũng đƣợc các đơn vị cùng phối hợp thực hiện và họp
rút kinh nghiệm 3 tháng một lần hoặc mỗi khi có vấn đề phát sinh để chỉ đạo kịp
thời các hoạt động CTS. Sự phối hợp không chỉ đòi hỏi chặt chẽ giữa các ngành, mà
còn cần chặt chẽ giữa các lĩnh vực trong cùng một ngành.
Các đơn vị đã phối hợp với nhau bằng rất nhiều hình thức, từ hợp tác bằng
văn bản, chia sẻ thông tin, cho tới họp bàn rồi cùng đứng ra tổ chức các hoạt động
mang tính sự kiện cũng nhƣ các hoạt động sinh hoạt chuyên môn. Để thuận tiện cho
hoạt động quản lý, theo dõi, và hỗ trợ phụ huynh, một biểu mẫu chung thu thập số
liệu về trẻ KT đƣợc xây dựng; thông tin từ khi phát hiện, chẩn đoán cho đên quá
trình can thiệp của trẻ KT đƣợc chia sẻ giữa các đơn vị. Sự đa dạng và thống nhất
trong tổ chức hoạt động đã cho thấy sự phối hợp giữa các đơn vị rất chặt chẽ và
chắc chắn. Điều này vô cùng cần thiết để tạo nên tổng thể các dịch vụ mang tính
toàn diện, liên thông, thuận lợi cho gia đình trẻ KT tiếp cận và đảm bảo cho hiệu
quả của công tác CTS.
124
Tôn trọng những đặc thù chuyên môn riêng của từng đơn vị nhƣng vẫn đảm
bảo tính thống nhất trong chỉ đạo là một điều rất khó. Để giải quyết tốt điều này, các
đơn vị đã thống nhất cơ chế phối hợp nhƣ sau: Quỹ BTTE giữ vai trò điều hành
chung, chuyên khoa Tai Mũi Họng tham mƣu về chuyên môn; nhƣng khi triển khai
một hoạt động liên quan đến chuyên môn sâu của đơn vị nào thì đơn vị đó đứng ra
chủ động tổ chức triển khai, các đơn vị khác phối hợp cùng thực hiện. Thực tế cho
thấy Quỹ BTTE với chức năng hoạt động xã hội trong lĩnh vực chăm sóc bảo vệ trẻ
em, đồng thời cũng có ƣu thế rất nhiều trong việc mở rộng các hoạt động truyền
thông. Với sự năng động và kinh nghiệm trong công tác cộng đồng, Ban Lãnh đạo
Quỹ đã nhiệt tình ủng hộ ý tƣởng nghiên cứu đồng thời liên kết với các đơn vị để
cùng triển khai thực hiện. Trong khi các cơ sở y tế và giáo dục tập trung tăng cƣờng
các hoạt động chuyên môn kỹ thuật thì Quỹ BTTE đã đảm nhiệm tốt vai trò là đầu
mối liên kết các đơn vị và vận động nguồn lực xã hội. Nhƣ vậy, không nhất thiết
phải là các cơ sở y tế hay giáo dục giữ vai trò khởi xƣớng và chỉ đạo mà các cơ sở
bảo trợ xã hội cũng có thể đóng vai trò chủ đạo trong phối hợp tổ chức thực hiện
công tác CTS. Kết quả thực tế khẳng định tính đúng đắn của giải pháp can thiệp:
Tăng cường phối hợp liên ngành là điều kiện tiên quyết.
4.3.2. Tăng cƣờng hoạt động truyền thông và vận động xã hội
Truyền thông giáo dục sức khỏe là một hoạt động quan trọng hàng đầu góp
phần giải quyết các vấn đề bệnh tật, sức khỏe và nâng cao sức khỏe. Khiếm thính là
một tật ẩn, trong khi hiểu biết của ngƣời dân về CTS còn nhiều hạn chế, sự quan
tâm của cộng đồng còn chƣa cao. Do vậy, hoạt động truyền thông và vận động xã
hội đƣợc coi là một nội dung quan trọng cần triển khai trong chƣơng trình can thiệp
của chúng tôi. Mục tiêu chung của TT - GDSK là cung cấp thông tin, kiến thức và
kỹ năng về CTS cho trẻ KT rộng rãi tới mọi đối tƣợng trong cộng đồng, từ đó giúp
cho mọi ngƣời nhận rõ lợi ích của việc CTS đối với trẻ KT cũng nhƣ trách nhiệm
của mình và lựa chọn các biện pháp tham gia, giải quyết phù hợp với từng hoàn
cảnh, điều kiện. Vì vậy khi lập kế hoạch TT - GDSK nhằm thay đổi hành vi về
CTS, chúng tôi đã quan tâm nhiều khía cạnh liên quan đến mọi vấn đề của hoạt
động này nhƣ đối tƣợng, nội dung thông điệp, phƣơng tiện và phƣơng pháp TT -
125
GDSK, phạm vi và thời gian tiến hành...
Hoạt động truyền thông đƣợc triển khai kết hợp cả gián tiếp và trực tiếp với hai
phạm vi:
Phạm vi trên toàn cộng đồng qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng.
Mục tiêu: Giúp mọi ngƣời hiểu đƣợc: Nguyên nhân, ảnh hƣởng của KT; sự cần
thiết và lợi ích của việc phát hiện sớm, CTS đối với trẻ sơ sinh và gia đình cũng nhƣ
những chính sách của Đảng, Chính phủ đối với trẻ KT.
Truyền thông tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng: tập trung chủ yếu cho đối
tƣợng là sản phụ cùng gia đình và nhân viên y tế liên quan đến hoạt động sàng lọc
tại bệnh viện.
Mục tiêu: Giúp toàn thể nhân viên bệnh viện nhận thức tốt hơn về lợi ích của việc
phát hiện sớm, ý nghĩa của công tác sàng lọc đối với cộng đồng và vai trò của sàng lọc
khiếm thính trong công tác chẩn đoán trƣớc sinh và sơ sinh. Từ đó hoạt động sàng lọc
sẽ có đƣợc sự đồng thuận cao của các khoa phòng.
Công tác truyền thông đƣợc tổ chức tốt qua nhiều kênh: Tờ rơi, pa nô, áp
phíc quảng cáo, và tƣ vấn trực tiếp. Đặc biệt, sản phụ và gia đình sẽ đƣợc tƣ vấn
trực tiếp nhiều lần bởi các nhân viên y tế nên có thể đón nhận và tham gia một cách
tự nguyện.
Mục tiêu chung là: Thử nghiệm sàng lọc thính lực sơ sinh đƣợc xem nhƣ một
xét nghiệm thƣờng quy trong nhận thức của nhân viên y tế và gia đình sản phụ.
Để có thể thực hiện TT - GDSK ở các phạm vi khác nhau và tăng hiệu quả
tuyên truyền, chúng tôi xác định tất cả nhân viên của các đơn vị đều có trách nhiệm
tham gia, đều cần phải nâng cao kiến thức, kỹ năng và tích lũy kinh nghiệm để có
thể thực hiện đƣợc nhiệm vụ tƣ vấn cho mọi ngƣời, nhất là cho gia đình trẻ KT.
Sau “Hội thảo chuyên đề Hoạt động truyền thông Can thiệp sớm cho trẻ
khiếm thính” đƣợc tổ chức, các nguồn lực và phƣơng tiện sẵn có tại địa phƣơng đã
đƣợc khai thác tối đa để thực hiện công tác TT - GDSK. Đó vừa là một nội dung
vận động xã hội, vừa là giải pháp để tăng hiệu quả của truyền thông mà các đơn vị
đã lên kế hoạch phối hợp thực hiện; đồng thời đó cũng là một hình thức báo cáo với
lãnh đạo các cấp các ngành và các cơ quan hữu quan. Các ý kiến tham gia đóng góp
126
xây dựng từ phía các cơ quan ban ngành, cùng những ý kiến chỉ đạo, định hƣớng
của đại diện lãnh đạo cấp sở các ngành tại Hội thảo có tác dụng vừa động viên, vừa
tạo sự đồng thuận cao giữa các lĩnh vực trong cùng ngành, giữa các ngành với nhau,
và đồng thuận trong cộng đồng về phát triển công tác CTS. Nhờ vậy, có thể huy
động đƣợc sự tham gia ngày càng rộng rãi của cộng đồng.
Ngoài ra, hoạt động truyền thông cũng đƣợc lồng ghép chặt chẽ trong các
hoạt động khác nhƣ: tập huấn chuyên môn, khám TMH và tƣ vấn trực tiếp cho phụ
huynh, các buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ cha mẹ trẻ Thông qua các hoạt động
này, các thông điệp truyền thông đã đƣợc truyền tải tốt; hiểu biết, kiến thức, kĩ
năng, của giáo viên và phụ huynh về CTS đã đƣợc nâng cao.
Sự tham gia của các ban ngành, các tổ chức và nhà hảo tâm vào các hoạt
động can thiệp đã cho thấy công tác vận động xã hội đã đạt đƣợc hiệu quả tích cực.
Phòng cách âm đƣợc lắp đặt ở Trƣờng Khiếm thính có ý nghĩa vừa tăng cƣờng cơ
sở vật chất tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động trị liệu, vừa có ý nghĩa tạo tiền đề
và động viên các đơn vị cùng những ngƣời thực hiện chƣơng trình thêm tin tƣởng
vào sự tham gia của cộng đồng. Việc hỗ trợ tiền mua máy trợ thính cho các cháu có
hoàn cảnh gia đình khó khăn tham gia can thiệp sớm đã góp phần giảm nhẹ gánh
nặng trƣớc mắt cho gia đình, đồng thời cũng giúp cha mẹ trẻ nhận thức đƣợc sâu
sắc hơn ý nghĩa của chƣơng trình, vai trò trung tâm của gia đình với thành công của
can thiệp. Một kinh nghiệm chúng tôi đã rút ra trong việc hỗ trợ gia đình là: Nếu trẻ
đƣợc đeo máy trợ thính nhƣng không đƣợc trị liệu ngôn ngữ thì sẽ không hiệu quả.
Vì vậy những trẻ đƣợc ƣu tiên hỗ trợ là những trẻ không chỉ có điều kiện/hoàn cảnh
gia đình khó khăn, mà gia đình còn phải cam kết quyết tâm phối hợp với các nhà
chuyên môn, cho con tham gia trị liệu.
Có thể khẳng định, hoạt động truyền thông, vận động xã hội đa dạng về hình
thức, phong phú về nội dung, đã tác động đƣợc sâu rộng đến các đối tƣợng trong
cộng đồng; đã bổ sung, cải thiện kiến thức của ngƣời dân xung quanh vấn đề phát
hiện sớm, CTS; huy động đƣợc sự tham gia của nhiều lực lƣợng. Điều này nhấn
mạnh: tăng cường công tác truyền thông và vận động xã hội là giải pháp mang tính
chiến lược, có tác dụng trước mắt và lâu dài nhằm huy động nguồn lực và tạo môi
127
trường xã hội thuận lợi cho công tác CTS, đồng thời góp phần thúc đẩy việc xây
dựng chính sách.
4.3.3. Tăng cƣờng các hoạt động dịch vụ chuyên môn kỹ thuật can thiệp sớm
Đây là giải pháp can thiệp thứ 3 đƣợc triển khai mang tính đồng bộ. Giải
pháp này tập trung vào các hoạt động:
- Phối hợp tổ chức sàng lọc thính lực cho toàn bộ trẻ sơ sinh sinh tại Bệnh
viện Phụ sản Hải Phòng;
- Tổ chức tập huấn, bồi dƣỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho giáo
viên, cán bộ y tế tham gia CTS và phụ huynh trẻ KT;
- Tổ chức tƣ vấn, hỗ trợ gia đình;
- Tổ chức trị liệu ngôn ngữ phục hồi chức năng cho trẻ.
Việc sàng lọc phát hiện sớm khiếm thính từ giai đoạn sơ sinh là thành tố
quan trọng trƣớc tiên đảm bảo cho hiệu quả của công tác CTS, nhƣng hiện tại hệ
thống cung ứng dịch vụ hoàn toàn chƣa có hoạt động này. Do đó, đây đƣợc coi là
một nội dung quan trọng trong giải pháp can thiệp.
Riêng với trẻ sơ sinh, ý nghĩa của giải pháp nhằm: Giúp trẻ đƣợc phát hiện
sớm thực sự, không bị bỏ qua “giai đoạn vàng” phát triển ngôn ngữ; từ đó trẻ có cơ
hội đƣợc CTS bằng phƣơng pháp nghe - nói (với sự hỗ trợ của thiết bị trợ thính) để
có thể phát triển ngôn ngữ, lời nói và hoà nhập xã hội tốt nhất. Kết quả thực tế cho
thấy việc sàng lọc đã làm giảm đáng kể tuổi phát hiện, chẩn đoán và can thiệp, đồng
thời làm tăng tỷ lệ trẻ đƣợc can thiệp trị liệu ngôn ngữ. Việc đo sàng lọc thính lực
bằng OAE đơn giản, nhanh chóng, không tốn kém và đầu tƣ kinh phí không lớn.
Theo chúng tôi, chỉ cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo cùng với sự phối hợp
giữa chuyên ngành Sản khoa với TMH hoặc với một trung tâm thính học là có thể
triển khai đƣợc việc sàng lọc thính lực sơ sinh với những lợi ích thiết thực.
Để công tác CTS đƣợc hiệu quả, việc bồi dƣỡng và nâng cao kiến thức
chuyên môn cho đội ngũ chuyên gia CTS là vấn đề quan trọng. Cán bộ CTS cần đạt
đƣợc những yêu cầu sau:
- Có thái độ đúng đắn và tích cực với trẻ KT và gia đình trẻ.
128
- Có những kiến thức và kỹ năng cơ bản để giáo dục sớm cho trẻ KT. Có kĩ
năng thực hành và chuyển tải kiến thức CTS cho phụ huynh.
- Có khả năng tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cộng đồng về vấn đề
chăm sóc và giáo dục sớm trẻ KT tại địa phƣơng. Có năng lực hợp tác để có thể làm
việc với các ngành liên quan.
- Áp dụng đƣợc các phƣơng pháp CTS phù hợp với đặc điểm khác nhau về
khả năng, nhu cầu, sở thích của trẻ.
Tính chất đặc thù của trẻ KT đòi hỏi ngƣời giáo viên ngoài năng lực sƣ
phạm còn phải có kĩ năng CTS; hiểu biết về tâm lí trẻ, về thính học, về hƣớng dẫn
phụ huynh [34], [123]... Do đó, việc tập huấn, bồi dƣỡng chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ y tế và giáo viên tham gia công tác CTS sẽ giúp cho các nhà chuyên môn
nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc với phụ huynh và trẻ KT. Bên cạnh đó, nâng
cao nhận thức và kỹ năng của các bậc cha mẹ về vấn đề chăm sóc - giáo dục trẻ KT
cũng là yếu tố quan trọng góp phần vào thành công của CTS. Điều này đáp ứng
đƣợc nhu cầu thực tế, tăng cƣờng chất lƣợng của nguồn nhân lực, đồng thời phát
huy đƣợc vai trò của phụ huynh. Trƣờng Khiếm thính đã gửi công văn cho Khoa
Giáo dục đặc biệt Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Trung tâm Thính học và Trị
liệu ngôn ngữ trẻ em - Bệnh viện Nhi Trung ƣơng đề nghị cử chuyên gia hỗ trợ về
chuyên môn kĩ thuật tại Hải Phòng. Các buổi hội thảo, tập huấn do các chuyên gia
thính học và âm ngữ trị liệu đến từ tuyến trên và các hãng thiết bị trợ thính đƣợc tổ
chức theo các chuyên đề: khiếm thính và thính học, thực hành phƣơng pháp dạy
nghe - nói, tƣ vấn sử dụng máy trợ thính..., đã truyền tải các kiến thức và kĩ năng
thực hành cơ bản, thiết thực nhất cho giáo viên và phụ huynh. Bên cạnh đó, các cán
bộ y tế, giáo viên dạy CTS và phụ huynh cũng tham dự các buổi hội thảo, và khóa
tập huấn chuyên môn CTS do tổ chức Quỹ Toàn cầu dành cho trẻ khiếm thính kết
hợp với Bệnh viện Nhi Trung ƣơng và Trƣờng Đại học Sƣ phạm tổ chức tại Hà Nội.
Các hoạt động này thực sự hữu ích và nâng cao đƣợc khả năng giáo dục trẻ KT của
các nhà chuyên môn và phụ huynh.
Để giúp phụ huynh nhận thức đúng và thực hiện tốt vai trò trung tâm của
mình trong sự thành công của chƣơng trình CTS, hoạt động tƣ vấn, hỗ trợ cho gia
129
đình đƣợc quan tâm tổ chức liên tục. Hình thức gồm cả tƣ vấn tập thể thông qua các
buổi tập huấn và tƣ vấn cá nhân: trao đổi trực tiếp, qua điện thoại, email...bất cứ khi
nào phụ huynh cần. Ý nghĩa hơn cả là các chuyên gia luôn đồng hành cùng phụ
huynh trong suốt quá trình can thiệp. Phụ huynh đƣợc chia sẻ và đƣợc cung cấp
thông tin. Gia đình thƣờng thiếu thông tin về dịch vụ, thiếu kiến thức về những nhu
cầu, năng lực của trẻ cũng nhƣ phƣơng pháp can thiệp. Nhiều tài liệu với nội dung
phong phú, hữu ích đã đƣợc cung cấp cho giáo viên và phụ huynh nhƣ: tài liệu hỗ
trợ cách tiếp cận nghe - nói cho trẻ khiếm thính [26], [33], [41]; chia sẻ cách dạy
con với phƣơng pháp nghe - nói dành cho bé từ 6 - 18 tháng tuổi nghe [38], [39],
[60]; tài liệu hƣớng dẫn phụ huynh trẻ khiếm thính [42], [43], [45]; tài liệu hƣớng
dẫn về sàng lọc thính lực sơ sinh [50]; về thính học [25], [36] Các tài liệu và sự
hỗ trợ của các chuyên gia đã nâng cao năng lực cho phụ huynh, giúp phụ huynh chú
trọng nội dung CTS tại gia đình, biết cách tạo môi trƣờng thuận lợi nhất để trẻ phát
triển khả năng giao tiếp.
Với sự thành lập Câu lạc bộ Cha mẹ trẻ khiếm thính, các phụ huynh và trẻ KT
có cơ hội gặp gỡ với nhau, với các nhà chuyên môn, đƣợc tận tình hỗ trợ về mặt tình
cảm, tinh thần, kinh nghiệm và kĩ năng CTS. Bên cạnh đó, Câu lạc bộ cũng là nơi gắn
kết nhiều hoàn cảnh lại với nhau để phụ huynh và các em đƣợc chia sẻ, đồng cảm
cùng mọi ngƣời trong bầu không khí nhân ái. Các đơn vị luôn tƣ vấn, hỗ trợ Ban Chủ
nhiệm Câu lạc bộ để tổ chức tốt các buổi sinh hoạt, giao lƣu giúp phụ huynh và các
em trải nghiệm nhiều cảm xúc tích cực, có thêm động lực để vƣợt qua khó khăn trở
ngại. Điều đó đã thể hiện đƣợc phần nào tính nhân văn của chƣơng trình can thiệp.
Hoạt động trị liệu ngôn ngữ trƣớc thời gian can thiệp chƣa đƣợc tổ chức tốt,
ngay cả ở Trƣờng Khiếm thính. Sau can thiệp, hoạt động này đƣợc quan tâm tổ
chức bài bản và chất lƣợng theo hƣớng hòa nhập. Tiếp theo dịch vụ phát hiện, chẩn
đoán sớm thì can thiệp trị liệu ngôn ngữ có vai trò quan trọng nhằm giúp cho trẻ KT
đƣợc can thiệp kịp thời, có thêm cơ hội tốt để phát triển ngôn ngữ, lời nói và hoà
nhập xã hội.
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ bình thƣờng dựa trên cơ sở thính giác, cơ sở
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong giai đoạn 6 – 8 tháng tuổi, trẻ bắt đầu hiểu ngôn ngữ
130
giao tiếp đơn giản, ngôn ngữ thụ động đã bắt đầu phát triển. Nhờ thính giác, trẻ tiếp
thu đƣợc lời nói của ngƣời xung quanh, bắt trƣớc lời nói ấy, tự trẻ bình thƣờng bắt
đầu học nói. Còn trẻ khiếm thính chỉ bắt đầu nghe và học nói khi có sự hỗ trợ của
máy trợ thính phù hợp [45]. Những trẻ này một thời gian dài không đƣợc tri giác thế
giới âm thanh, trẻ gần nhƣ không biết, không hiểu xung quanh là thế giới âm thanh
muôn hình, muôn vẻ, trẻ không có ý thức và thói quen nghe. Hơn nữa, sau một thời
gian dài trẻ không nói, lƣỡi bị cứng lại, hơi thở yếu, các cơ quan cấu âm không đƣợc
hoạt động, không đƣợc làm đúng chức năng vốn có của nó nên ngôn ngữ nói của
những em này bị méo mó, khó hiểu. Do đó, việc khôi phục lại chức năng nghe cho
trẻ, phục hồi lại sự mềm dẻo của lƣỡi, hơi thở đều, sâu, môi, dây thanh trở lại hoạt
động nhịp nhàng khi nói là rất khó khăn và mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, trẻ cần
đƣợc hƣớng dẫn tỉ mỉ từ cách phát hiện, phân biệt và hiểu âm thanh lời nói, từ đó phát
triển ngôn ngữ tiếp nhận và ngôn ngữ biểu đạt. Bên cạnh những đặc điểm hạn chế:
hiểu chậm, quên nhanh, tƣ duy cụ thể, phân biệt kém, thời gian chú ý kém, vốn từ ít,
phát âm không chuẩn, khó khăn khi nghe hiểu lời nói ngƣời khác, trẻ khiếm thính
còn có những ƣu điểm: khả năng ghi nhớ qua thị giác rất tốt, tập trung vào mắt để
quan sát rất nhanh, có thể nhận thức đƣợc thế giới xung quanh không cần thính giác.
Do đó, việc tổ chức can thiệp trị liệu cũng nhằm khắc phục những đặc điểm hạn chế,
và khuyến khích những ƣu điểm về thị giác của trẻ. Bằng sự chuẩn bị đầy đủ đồ
dùng, đồ chơi phù hợp trƣớc khi dạy học, kết hợp các kĩ năng học chú ý lắng nghe
với những hình ảnh, hành động cụ thể sẽ giúp trẻ khiếm thính quan sát, nhận biết rất
nhanh giúp các em lĩnh hội bài học đƣợc tốt hơn; đồng thời tạo ra động cơ học tập tốt
và giúp trẻ tập trung hơn.
Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ khiếm thính nói chung và thực hiện
thông qua tiết trị liệu cá nhân nói riêng là một công việc khó khăn, đòi hỏi nhà giáo
dục phải kiên trì, bền bỉ với mục tiêu này. Bởi với trẻ khiếm thính, đây là trở ngại lớn
nhất, vƣợt qua trở ngại này, trẻ sẽ có đƣợc chìa khóa mở ra tƣơng lai tƣơi sáng [45].
Việc tổ chức cung cấp dịch vụ trị liệu ngôn ngữ cho trẻ có ý nghĩa rất lớn bởi
việc trị liệu đòi hỏi mất rất nhiều thời gian, ngay cả khi trẻ đi học hòa nhập. Gia
đình không phải đƣa trẻ đi tuyến trên để trị liệu nhƣ trƣớc kia. Vì vậy, việc tiếp cận
131
và duy trì trị liệu thƣờng xuyên, đều đặn trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn rất nhiều
cho gia đình trẻ. Đồng thời việc phối hợp chăm sóc thính học, hiệu chỉnh máy trợ
thính kịp thời, đảm bảo tiến bộ của trẻ trong quá trình trị liệu giữa các nhà chuyên
môn và phụ huynh cũng tốt hơn.
Các nội dung can thiệp cũng đã tạo sự chuyển biến rõ rệt về năng lực, trình
độ kỹ thuật, thái độ phục vụ của cán bộ y tế và giáo viên cung cấp dịch vụ CTS, bao
gồm cả thực hiện tƣ vấn trƣớc khi sử dụng dịch vụ, theo dõi và chăm sóc, hỗ trợ
trong suốt quá trình can thiệp. Đồng thời, chính sự tin tƣởng, chia sẻ cũng nhƣ nhu
cầu sử dụng dịch vụ của gia đình trẻ KT đã tác động trở lại khiến các nhà chuyên
môn phải nỗ lực hơn để đáp ứng đƣợc nhu cầu, nguyện vọng của trẻ và gia đình.
Nhƣ vậy, có thể thấy: Tăng cường các hoạt động dịch vụ chuyên môn kỹ
thuật can thiệp sớm với 4 nội dung nêu trên là giải pháp điều kiện, cơ bản để tăng
cường hệ thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính.
Giải pháp can thiệp hệ thống cung ứng dịch vụ CTS cho trẻ KT Hải Phòng đã
đạt đƣợc những kết quả tích cực ban đầu: cải thiện cơ bản tình trạng cung ứng dịch
vụ, tăng cƣờng khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ của trẻ KT và gia đình; cải
thiện đáng kể thực trạng phát hiện, CTS của trẻ KT và tạo ra đƣợc chƣơng trình CTS
mang tính cộng đồng. Có đƣợc kết quả nhƣ vậy là nhờ các yếu tố: (1) Trƣớc hết nhờ
vào nhận thức của lãnh đạo các đơn vị về tính cấp thiết, tính nhân văn của vấn đề
CTS cùng với sự tâm huyết của những ngƣời trực tiếp tham gia thực hiện. Với vai
trò của các nhà quản lý, điều này có ý nghĩa rất quan trọng; có nhận thức tốt mới có
thể cùng phối hợp chặt chẽ để tổ chức các hoạt động CTS theo một chƣơng trình hệ
thống và đồng bộ giữa các ban ngành, đảm bảo tính khoa học, khả thi và bền vững.
Đồng thời cũng đảm bảo cho các hoạt động CTS đƣợc chỉ đạo sát sao và nằm trong
sự điều phối tổng thể. (2) Tiếp đó là nhờ thực hiện giải pháp can thiệp một cách
đồng bộ và toàn diện: Tăng cường phối hợp liên ngành là giải pháp tiên quyết; TT -
GDSK, vận động xã hội là giải pháp chiến lược và Tăng cường các hoạt động
dịch vụ chuyên môn kỹ thuật can thiệp sớm là giải pháp điều kiện, cơ bản. (3) Quá
trình triển khai can thiệp đã thực hiện toàn diện các nội dung CTS, tập trung mọi nỗ
lực để tăng cƣờng khả năng tiếp cận và nâng cao chất lƣợng dịch vụ CTS: tăng
132
cƣờng gắn kết các dịch vụ sàng lọc, chẩn đoán, can thiệp trị liệu ngôn ngữ với tƣ
vấn, hỗ trợ gia đình và TT - GDSK nâng cao nhận thức cộng đồng; chú trọng việc
quản lý, theo dõi giám sát và can thiệp kịp thời, phù hợp với từng trẻ và gia đình.
Nhìn vào bức tranh toàn cảnh CTS ở thời điểm trƣớc can thiệp, chúng ta thấy
còn nhiều khoảng trống và những điểm mờ nhạt. Đó là những khoảng trống của sự
thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nhân lực và kinh phí hoạt động của các
cơ sở cung cấp dịch vụ. Đó là những điểm mờ nhạt của sự thiếu vắng các dịch vụ có
chất lƣợng, sự phối hợp liên ngành thiếu chặt chẽ và hoạt động truyền thông nâng
cao nhận thức cộng đồng chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu của công tác CTS. Đó cũng là
những thách thức chung mà ngành y tế, giáo dục nƣớc ta đang đang phải đối mặt.
Qua bức tranh toàn cảnh, chúng ta cũng thấy đƣợc những khó khăn của cán bộ y tế,
giáo viên khi tiến hành CTS trong điều kiện còn nhiều rào cản để giúp đỡ cho
những trẻ KT và gia đình trên con đƣờng tìm lại âm thanh.
Sau can thiệp, những sự chuyển biến tích cực của các đơn vị về cơ cấu
nguồn lực, chất lƣợng dịch vụ đã làm nên sự thay đổi có ý nghĩa của cả hệ thống,
cải thiện thực trạng phát hiện và CTS của trẻ KT, tạo niềm tin cho gia đình và ảnh
hƣởng tích cực với cộng đồng. Bức tranh toàn cảnh CTS đã khởi sắc hơn. Tuy nhiên
trong thời gian tiếp theo, để chƣơng trình can thiệp đƣợc phát triển rộng và sâu hơn
nữa, rất cần sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp các ngành, sự tiếp tục tham
gia tích cực của các đơn vị, sự nỗ lực của gia đình có con bị KT và sự sẻ chia, chung
tay của cộng đồng.
4.3.4. Ƣu điểm của đề tài
Chƣơng trình can thiệp hệ thống cung ứng dịch vụ CTS cho trẻ KT Hải
Phòng với hƣớng tiếp cận đa ngành, không chỉ tỏ rõ hiệu quả ở các ƣu điểm về tính
phù hợp và khả thi; tính hiệu quả và bền vững; tính tiếp cận, đồng bộ và toàn diện
(đã trình bày ở mục 2.4.6.2), mà còn thể hiện tính khoa học đảm bảo đạt hiệu quả.
- Tính khoa học thể hiện hoạt động tuân theo chu trình quản lý: Lập kế hoạch hoạt
động, thực hiện kế hoạch và đánh giá hoạt động.
- Tính khoa học thể hiện đảm bảo các nguyên lý cơ bản của quy trình can thiệp
sớm (phát hiện, chẩn đoán và can thiệp); đảm bảo những nguyên tắc để CTS
133
thành công: theo nhu cầu, can thiệp toàn diện, có hệ thống và phối hợp đa ngành.
- Tính khoa học thể hiện đảm bảo các nguyên lý cơ bản của TT - GDSK: Xác định
hành vi sức khỏe, chọn đối tƣợng đích, lập kế hoạch, phối hợp phƣơng pháp
truyền thông trực tiếp và gián tiếp, trong đó phƣơng pháp trực tiếp là chủ đạo,
giám sát hoạt động để duy trì hiệu quả.
- Tính khoa học thể hiện ở sự phối hợp liên ngành, vận động sự tham gia của cộng
đồng để tạo điều kiện cho hoạt động thực sự là của cộng đồng, do cộng đồng chứ
không áp đặt từ trên xuống, từ bên ngoài vào
Nhƣ vậy, đề tài nghiên cứu đã tập hợp đƣợc các nhân tố quan trọng đảm bảo
cho chƣơng trình có thể duy trì bền vững và đạt hiệu quả lâu dài.
4.3.5. Ứng dụng thực tiễn và khả năng mở rộng của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đƣợc thực hiện đã đánh giá đƣợc thực trạng của hệ thống
cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ tại Hải Phòng; xác định đƣợc nhu cầu và
một số giải pháp can thiệp hệ thống. Nghiên cứu đƣợc triển khai nhằm tăng cƣờng
khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ CTS của trẻ KT và gia đình, giúp trẻ đƣợc phát
hiện sớm và can thiệp kịp thời. Kết quả nghiên cứu cũng là những căn cứ khoa học
cho việc lập kế hoạch xây dựng chiến lƣợc và triển khai công tác CTS cho trẻ KT ở
Hải Phòng một cách hiệu quả.
Giải pháp can thiệp phù hợp với nhu cầu của phụ huynh và trẻ KT, phù hợp
với chính sách y tế, giáo dục của Đảng và Nhà nƣớc về chăm sóc giáo dục trẻ
khuyết tật nói chung, trẻ KT nói riêng, phù hợp với xu hƣớng phát triển chung hiện
nay. Có thể mở rộng áp dụng với nhiều địa phƣơng khác có điều kiện tƣơng tự.
4.3.6. Những hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu có một số hạn chế sau đây:
- Đây là một nghiên cứu đánh giá thực trạng của hệ thống cung cấp dịch vụ
nhƣng là hệ thống phối hợp đa ngành với những đặc trƣng khác nhau về chức năng,
nhiệm vụ và không đồng nhất cả về các tiêu chí nguồn lực, trang thiết bị, dịch vụ
giữa các ngành và giữa các lĩnh vực trong cùng một ngành Đây cũng là nghiên
cứu đầu tiên tiến hành can thiệp trên phạm vi cộng đồng để tổ chức thực hiện CTS
cho trẻ khiếm thính một cách toàn diện và đồng bộ theo hƣớng tiếp cận đa ngành. Vì
134
vậy, việc tham khảo tài liệu và so sánh kết quả với các nghiên cứu khác trong và
ngoài nƣớc gặp nhiều khó khăn. Tổ chức thực hiện can thiệp sớm đòi hỏi phải tiến
hành đồng bộ các giải pháp và theo chu trình từ phát hiện tới chẩn đoán, can thiệp.
Nhƣng cũng rất khó để có thể đánh giá hiệu quả riêng rẽ của từng giải pháp. Để khắc
phục hạn chế này, chúng tôi lựa chọn những tiêu chí chung nhất của các đơn vị liên
quan đến các dịch vụ CTS và các kết quả liên quan đến đối tƣợng chính đƣợc hƣởng
lợi để khảo sát và đánh giá. Đó là các tiêu chí về nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết
bị, các dịch vụ, hoạt động phối hợp liên ngành và thực trạng trẻ KT.
- Do nhiều điều kiện khách quan, việc sàng lọc thính lực sơ sinh toàn bộ mới
chỉ đƣợc tiến hành tại Bệnh viện Phụ sản Hải Phòng mà chƣa triển khai đƣợc rộng
rãi tới các cơ sở ở quận/huyện. Nếu việc sàng lọc đƣợc triển khai rộng rãi thì kết quả
can thiệp sẽ còn cao hơn.
- Nghiên cứu đã nhận đƣợc sự hƣởng ứng tích cực của các đơn vị tham gia.
Sau khi đƣợc báo cáo từ các cơ sở, lãnh đạo các ngành liên quan đã ủng hộ và có ý
kiến định hƣớng, chỉ đạo các đơn vị tiếp tục tăng cƣờng phối hợp liên ngành để triển
khai hoạt động can thiệp. Tuy nhiên, nếu có sự tham gia trực tiếp của lãnh đạo cấp
sở các ngành cùng họp bàn, phối hợp tổ chức và chỉ đạo bằng văn bản cụ thể thì sẽ
thuận lợi hơn cho việc phát triển và mở rộng chƣơng trình. Đây cũng là mục tiêu kế
hoạch của các đơn vị tiến tới xây dựng đề tài nghiên cứu khoa học cấp thành phố để
có thể tranh thủ sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và nguồn kinh phí cho phát triển
chƣơng trình.
- Việc tƣ vấn thông qua TT – GDSK sinh sản cho đối tƣợng thanh niên chƣa
đƣợc thực hiện nhƣ dự định do một số nguyên nhân khách quan. Tuy nhiên trong kế
hoạch hàng năm, các đơn vị vẫn xây dựng chƣơng trình phối hợp thực hiện để làm
tốt công tác phòng bệnh.
- Nghiên cứu này chỉ đề cập đƣợc giai đoạn đầu của chƣơng trình can thiệp
sớm khi trẻ chƣa học mẫu giáo hòa nhập, không có điều kiện đánh giá lâu dài về kết
quả của các giải pháp can thiệp toàn diện, cũng nhƣ hiệu quả trị liệu ngôn ngữ trên
từng trẻ, chỉ tiến hành điều tra đánh giá kết quả can thiệp cắt ngang ngay sau khi kết
thúc thời gian can thiệp. Do vậy, kết quả can thiệp đƣợc phát hiện trong nghiên cứu
135
này mới là bƣớc đầu của chƣơng trình can thiệp. Tuy nhiên, hiệu quả của các giải
pháp can thiệp còn duy trì trong những năm tiếp theo, sẽ còn có nhiều trẻ khiếm
thính và gia đình đƣợc hƣởng lợi ích từ chƣơng trình can thiệp. Đồng thời, hạn chế
này cũng là gợi ý cho những hƣớng nghiên cứu tiếp theo.
136
KẾT LUẬN
Kết quả thu đƣợc theo mục tiêu nghiên cứu cho phép rút ra những kết luận sau:
1. Thực trạng hệ thống cung ứng dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại
Hải Phòng năm 2012
1.1. Vẫn còn tình trạng bất cập giữa khả năng cung ứng của các cơ sở cung cấp dịch
vụ về cả cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực, sự phối hợp liên ngành trong hoạt
động cũng nhƣ hạn chế về nhận thức của cộng đồng với nhu cầu đƣợc phát hiện
sớm, can thiệp sớm của trẻ khiếm thính. Việc đầu tƣ phát triển chuyên môn thính học
nói chung và sàng lọc thính lực sơ sinh nói riêng chƣa đƣợc quan tâm đúng mức vì
nguồn lực có hạn và còn nhiều lĩnh vực chuyên môn ƣu tiên khác.
1.2. Thực trạng trẻ khiếm thính đƣợc phát hiện, chẩn đoán và can thiệp rất muộn, do
đó hiệu quả can thiệp bị hạn chế: Tuổi phát hiện, chẩn đoán và can thiệp (tƣơng ứng
22,3; 34 và 32,5 tháng) muộn hơn rất nhiều so với khuyến cáo của Ủy ban Hợp nhất
về thính lực trẻ sơ sinh Mỹ. Sự khác biệt về các tuổi này giữa nhóm trẻ ở khu vực
trung tâm và xa trung tâm là có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Hầu hết (98%) trẻ khiếm
thính đƣợc phát hiện bởi gia đình và đa số đƣợc chẩn đoán xác định tại các bệnh viện
tuyến Trung ƣơng (76,8%). Tỉ lệ trẻ đƣợc đeo máy trợ thính thấp (45,9%), chỉ có
36,4% số trẻ đeo máy đƣợc trị liệu ngôn ngữ, còn lại hoàn toàn do gia đình tự can
thiệp (63,6%), nhiều trẻ đã bỏ đeo máy sau một thời gian sử dụng.
Bên cạnh những bất cập về cung cấp dịch vụ can thiệp sớm thì nhận thức của
cha mẹ còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế khó khăn và khoảng cách
địa lý là những nguyên nhân khiến 54,1% số trẻ không đƣợc đeo máy trợ thính và
nhiều trẻ không đƣợc phát hiện, can thiệp kịp thời.
2. Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp hệ thống
2.1. Những thay đổi về tính sẵn có của nguồn lực và dịch vụ
- Việc thực hiện các nội dung can thiệp đã tạo bƣớc chuyển biến thật sự ý nghĩa đối
với các cơ sở cung ứng dịch vụ (nhất là các cơ sở công lập) về cơ cấu nguồn lực,
chất lƣợng dịch vụ và xây dựng kế hoạch phát triển cho can thiệp sớm. Các đơn vị
đã cùng phối hợp chặt chẽ với nhiều hình thức trong tất cả các hoạt động can thiệp
sớm. Với sự tăng cƣờng cung ứng dịch vụ của hệ thống, trẻ khiếm thính và gia đình
137
có thêm thông tin, cơ hội tiếp cận và lựa chọn dịch vụ dễ dàng, thuận tiện hơn nhiều
so với trƣớc can thiệp.
- Các hoạt động TT - GDSK đƣợc triển khai sâu, rộng, đồng bộ cả trực tiếp và gián
tiếp đã góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng và cha mẹ trẻ khiếm thính.
2.2. Những thay đổi về thực trạng của trẻ KT và nhu cầu sử dụng dịch vụ
- Nhóm trẻ khiếm thính đƣợc xác định sau can thiệp đã có sự cải thiện có ý nghĩa so
với trƣớc can thiệp cả về trung bình tuổi phát hiện, chẩn đoán xác định, đeo máy
và can thiệp (tƣơng ứng 15,5; 21; 23,7 và 26,5 tháng) lẫn tỉ lệ đƣợc phát hiện, chẩn
đoán, can thiệp sớm trƣớc 12 và 24 tháng (p<0,001). Tỉ lệ trẻ khiếm thính đƣợc
phát hiện sớm bởi cán bộ y tế và giáo viên tăng lên đáng kể (từ 2% lên 23,2%). Tỉ
lệ trẻ khiếm thính đƣợc chẩn đoán ban đầu tại Hải Phòng tăng từ 33,2% lên
87,4%; đƣợc chẩn đoán xác định tăng từ 16,7% lên 65,3% (p<0,001).
- Sau can thiệp, tỉ lệ trẻ khiếm thính đƣợc đeo máy tăng từ 45,9% lên 70,5 %. Trong
đó, số trẻ đƣợc trị liệu ngôn ngữ tăng từ 36,4% lên 61,2 % (p<0,001); số trẻ do gia
đình tự can thiệp giảm từ 63,6% xuống còn 38,8% (p<0,001).
- Chƣơng trình vận động xã hội đã hỗ trợ can thiệp sớm cho 30 trẻ khiếm thính có
hoàn cảnh khó khăn tiền mua máy trợ thính và học nghe nói 20 triệu đồng/cháu.
- Chƣơng trình can thiệp đã tạo đƣợc niềm tin cho gia đình trẻ khiếm thính vào các
nhà chuyên môn, vào khả năng phát triển của trẻ, từ đó góp phần không nhỏ tới
thành công của quá trình can thiệp. Những thay đổi của hệ thống cung ứng dịch vụ
can thiệp sớm tại Hải Phòng đã thực sự mang lại cơ hội tốt hơn cho nhiều trẻ
khiếm thính đƣợc học tập, phát triển và hòa nhập xã hội.
2.3. Khả năng mở rộng ứng dụng của đề tài
Chƣơng trình can thiệp với một số giải pháp mang tính tổng thể và toàn diện,
với cách tiếp cận liên ngành, lấy trẻ và gia đình làm trung tâm đã cho thấy hiệu quả
với tính khoa học, khả thi, tính bền vững cao và có ý nghĩa thực tiễn lớn, có thể mở
rộng áp dụng cho các địa phƣơng khác có điều kiện tƣơng tự.
138
KIẾN NGHỊ
Xuất phát từ các phát hiện sau nghiên cứu thực trạng các cơ sở cung ứng
dịch vụ can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính tại Hải Phòng và kết quả triển khai
một số biện pháp can thiệp, chúng tôi đề xuất những kiến nghị sau:
1. Cần tiếp tục duy trì, phát triển mô hình phối hợp liên ngành tổ chức can thiệp
sớm cho trẻ khiếm thính có hiệu quả nhằm đáp ứng tốt nhu cầu thực tế.
Trong đó chú trọng những hoạt động:
- Tăng cƣờng phối hợp liên ngành, có sự chỉ đạo của cấp trên về cơ chế hỗ
trợ kỹ thuật thƣờng xuyên và cơ chế chỉ đạo giám sát công tác can thiệp sớm
tới các cơ sở, đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, thống nhất và bền vững của
chƣơng trình can thiệp sớm.
- Quan tâm đầu tƣ phát triển chuyên môn thính học tại các cơ sở chuyên
khoa Tai Mũi Họng, đào tạo bồi dƣỡng giáo viên dạy can thiệp sớm nhằm
tăng cƣờng nguồn lực, đảm bảo tính sẵn có trong hoạt động cung ứng dịch
vụ, từ sàng lọc phát hiện sớm cho tới can thiệp trị liệu.
- Tiếp tục tăng cƣờng công tác truyền thông tới tất cả các đối tƣợng trong
cộng đồng về ý nghĩa, lợi ích của can thiệp sớm. Đồng thời cần có chính sách
và các hoạt động hỗ trợ xã hội cho trẻ khiếm thính, huy động sự tham gia của
cộng đồng tốt hơn nữa, là những giải pháp mang tính chiến lƣợc trƣớc mắt và
lâu dài trong công tác dự phòng và can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính.
2. Cần có thêm những nghiên cứu tiếp theo nhằm đánh giá hiệu quả lâu dài của
giải pháp can thiệp để chia sẻ, phổ biến kinh nghiệm áp dụng cho các địa
phƣơng khác. Đó cũng là bƣớc cần thiết trong lộ trình tiến tới xây dựng và
triển khai chƣơng trình can thiệp sớm cho trẻ khiếm thính ở qui mô quốc gia.
DANH MỤC
CÁC BÀI BÁO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Ngọc Hà, Nguyễn Anh Dũng và Võ Thanh Quang (2015), "Tuổi
phát hiện, chẩn đoán và đeo máy của học sinh Trƣờng Khiếm thính Hải
Phòng", Tạp chí Y học dự phòng, tập XXV, số 8 (168), tr 420-425..
2. Nguyễn Ngọc Hà, Nguyễn Tuyết Xƣơng, Nguyễn Anh Dũng và Võ
Thanh Quang (2016), "Thực trạng phát hiện và can thiệp sớm của trẻ khiếm
thính Hải Phòng", Tạp chí Y học dự phòng, tập XXVI, số 10 (183), tr 204-
214.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bcbbef53_9b80_44c3_bd73_8a1fbafb604a_8278_2112357.pdf