Do vậy cần có chính sách cởi mở trong quan hệ quốc tế và đầu tư theo nguyên 
tắc đa phương hoá và đa dạng hoá các bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam đây 
là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để tiếp cận công nghệ mới phát triển lực 
lượng sản xuất, đặc biệt các ngành mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ, 
tạo cơ hội cho những bước “ đột biến ” trong phát triển kinh tế.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 29 trang
29 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2386 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản 
thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm 
hai khâu: sản xuất – tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều 
mang hình thái hiện vật. 
Trong nền kinh tế hàng hoá,mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích 
đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn 
bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. 
2. Khái niệm về kinh tế thị trường. 
( kinh tế thị trường là hình thức phát triển của kinh tế hàng hoá ). 
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển; 
kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. 
Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù 
tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm 
những sản xuất đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản 
xuất.Đúng hướng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng hoàn thiện. Mọi quan 
hệ kinh tế trong xã hội đều tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế 
thị trường. 
2.1 Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường. 
Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau: 
Một là: sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Cần 
khẳng định rằng sự xuất hiện hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Ngươi lao 
động của mình và là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác 
Hai là: Phải tích luỹ được một số vốn nhất định để tiến hành sản xuất kinh 
doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận 
Ba là: Kinh tế tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Vì vậy để 
hình thành kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tác dụng ngân hàng tương 
đối phát triển 
Bốn là: Sự hình thành kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng 
tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới bảo đảm cho lưu thông hàng hoá và lưu thồng 
tiền tệ để thuận lợi nhằm mở rộng quan hệ trao đổi 
Năm là: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, đây là vấn 
đề có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường 
Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá 
cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó 
được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách 
đầy đủ. 
3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường . 
Những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường : 
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Đây là đặc trưng quan trọng 
nhất của kinh tế thị trường.Đặc trưng này xuất phát từ đặc điểm khách quan của việc 
tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của 
kinh tế hàng hoá. 
Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú. Người ta tự do mua, bán hàng 
hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người mua. Họ gặp nhau ở 
giá cả thị trường 
Ba là: Giá cả để hình thành ngay trên thị trường.Giá cả thị trường vừa là biểu 
hiện bằng tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan 
hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị trường, giá cả là kết quả của sự 
thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng này phản ánh 
yêu cầu của luật lưu thông hàng hoá 
Bốn là: kinh tế thị trường là một tất yếu của thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở 
những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế 
Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. Nó rất đa dạng, phức tạp và 
được điều hành bởi hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp luật của Nhà nước. 
2. Khái quát thị trường và cơ chế thị trường 
1. Thị trường: 
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá; nó ra đời và 
phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá. Vậy thị 
trường là một địa điểm nhất định, nơi diễn ra các quá trình trao đổi và mua bán hàng 
hoá, thị trường có tính không gian và thời gian theo nghĩa này thị trường có thể là hội 
chợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. 
Sản xuất hàng hoá càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị 
trường ngày càng rồi rào và phong phú, thị trường được mở rộng. 
Được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá 
thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua, người bán tác động qua lại lẫn 
nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường 
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa 
bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng 
Thị trường có thể phân chia thành hai loại: 
Một là: Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ: ở thị trường này người ta mua 
bán nhữ ng tư liệu sinh hoạt như lương thực, thực phẩm, vải vóc, quẩn áo, các phương 
tiện sinh hoạt trong gia đình… ở thị trường này người ta mua bán những hàng hoá là 
kết quả của sản xuất. 
Hai là: Thị trường các yếu tố sản xuất. Trên thị trường này người ta mua bán 
các yếu tố cần thiết cho quá trình sản xuất như các loại nguyên vật liệu, thiết bị máy 
móc, sức lao động . 
Vai trò của thị trường: Thị trường là nơi trực tiếp trả lời các câuhỏi sản xuất cái 
gì?,sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng các 
chủng loại hàng hoá, số lượng hàng hoá , cũng như chất lượng sản phẩm.Thị trường 
kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Trên ý nghĩa đó có 
thể nói thị trường điều tiết sản xuất và là động lực của sản xuất kinh doanh của các 
doanh nghiệp ngày càng năng động hơn, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn thị trường là nơi 
cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội. 
2. Cơ chế thị trường : 
Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu 
thồng hàng hoá, điều tiết sự vận động của kinh tế thị trường. 
Hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Một 
cách khái quát hơn thì cơ chế thị trường chính là “ bộ máy ” kinh tế điều tiết toàn bộ 
sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá 
thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là 
quy luật giá trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất va lưu thông hàng hoá . 
Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện : Giá cả thị trường lên xuống 
xoay quanh giá trị thị trường của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường 
phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường. Ngoài giá trị thị trường sự hình thành giá cả thị 
trường còn chịu tác động của quan hệ cung cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ 
giữa giá cả thị trường với gía trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu 
hiện: 
- Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường 
- Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn gía trị thị trường. 
Sự vận động của gía cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng 
hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống, nó sẽ kích thích mức cầu, 
làm cho mức cầu của thị trường về loại hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm 
xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của 
một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng 
lên. 
Như vậy có thể phân biệt được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan 
hệ cung câù hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa những người bán 
và những người mua cũng như quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Trên 
thị trường, người bán luôn muốn bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại 
luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở gía trị thị trường, giá cả thị trường 
là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hoà 
được quan hệ giữa người mua với người bán. 
Thông qua sự biến động của giá cả trên thị trường, quy luật giá trị có tác dụng 
điều tiết sản xuất và hàng hoá. 
Điều tiết giá trị hàng hoá được hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và 
sức lao động vào từng ngàng kinh tế 
Nếu gía cả trong một ngành kinh tế nào đó có xu hướng tăng lên thì ngành đó 
sẽ thu hút thêm lao động xã hội, làm cho quy mô sản xuất của ngành này tăng lên. 
Ngược lại nếu giá cả của hàng hoá có xu thế tăng lên sẽ làm cho những người sản xuất 
hàng hoá thu được nhiều lợi nhuận hơn. Điều này tạo ra động lực thúc đẩy kinh tế 
những người sản xuất hàng hoá khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cả 
cao mở rộng quy mô sản xuất. Nếu giá cả giảm xuống thì diễn biến của sản xuất có xu 
hướng ngược lại, nghĩa là giá cả giảm xuống sẽ làm cho quy mô sản xuất thu hẹp lại. 
Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo 
C. Mac, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ ghét cay ghét đắng tình trạng không có 
lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không ”. 
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật gía trị còn có tác dụng 
điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hàng hoá sẽ được vận chuyển từ thị trường 
có giá cả thấp đến những thị trường có giá cả cao. 
Khả năng tách rời giá trị của giá cả không phải là nhược điểm của quy luật giá 
cả mà trái lại nó là vẻ đẹp riêng của quy luật giá trị, là cơ chế hoạt động của quy luật 
giá trị. Nếu giá cả thị trường của hàng hoá luôn ngang bằng với giá trị của nó thì 
không có sự hoạt động của quy luật giá trị, nói cách khác đi điều đó có nghĩa là phủ 
định sự hoạt động của quy luật giá trị. 
Nói đến cơ chế thị trường cần phải nói tới cạnh tranh. 
Đó là sự danh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm dành lại phần sản xuất và tiêu 
thụ hàng hoá có lơị cho mình để thu lợi nhuận cao. 
Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế thị trường nó đòi hỏi mỗi chủ thể 
kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. 
Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khách quan đối với 
những xã hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của kinh tế 
thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. 
Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh 
tranh tự do tư bản chủ nghĩa vì vậy tác động của cơ chế thị trường được phát hiện khá 
sớm. Cơ chế thị trường được coi là “ bàn tây vô hình ” điều tiết sự vận động của nền 
kinh tế hàng hoá. 
Cơ chế thị trường có các ưu thế sau: 
Trước hết cơ chế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, 
tăng năng xuất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất 
Hai là cơ chế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh 
chóng. Vì trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại 
hàng hoá mới và đưa ra sớm nhất thì sẽ thu được lợi nhuận nhiều nhất. 
Ba là trong nền kinh tế thị trường hàng hoá rất phong phú và đa dạng. Do đó nó 
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thoả mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất, 
văn hoá và sự phát triển toàn diện của mọi thành viên xã hội 
- Cơ chế thị trường có những khuyết tật mà bản thân nó không tự giải 
quyết được. 
Thườg xuyên tạo ra mất cân đối, bất hợp lý ở tầng vĩ mô làm giảm hiệu quả 
trên quy mô nền kinh tế quốc dân 
Cơ chế thị trường cũng có những yếu tố làm giảm tốc độ phát triển kinh tế do 
nảy sinh độc quyền từ cạnh tranh tự do và việc giữ bí mật bí quyết kinh doanh của 
từng đơn vị. 
Trong hoạt động thực tiễn của cơ chế thị trường do chạy theo lợi nhuận đơn 
thuần nên khó chánh khỏi các hiện tượng buôn gian, bán lận, đầu cơ, làm hàng giả..., 
và nhiều bệnh trạng xã hội khác như phân hoá giầu nghèo, thất nghiệp, lạm phát, phá 
sản dẫn đến sự phá hoại lực lượng sản xuất, vi phạm đạo đức, lối sống, gây ô nhiễm 
môi trường, phá hoại thiên nhiên... 
Trên phạm vi quốc tế,cơ chế thị trường dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước, 
các trung tâm kinh tế đặc biệt rễ tạo ra trật tự kinh tế bất công giữa nước giầu và nước 
nghèo 
Do những nhược điểm trên cần có sự điều tiết của nhà nước để hạn chế những 
khuyết tật của cơ chế thị trường. 
A. kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 
Đảng cộng sản Việt Nam vẫn khẳng định có tính nguyên tắc là phát triển kinh 
tế thị trường theo định hướng XHCN và theo một cơ chế kinh tế,cơ chế quản lý được 
xác lập thích ứng với nguyên tắc đó. 
I. Các giai đoạn hình thành kinh tế thị trường theo định hướng 
XHCN ở Việt Nam. 
1. Định hướng XHCN của kinh tế thị trường Việt Nam. 
Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó 
là sự định hướng của một XH mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giầu có và sự hạnh 
phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người dựa trên cơ sở “ nhân 
dân lao động làm chủ con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm 
theo năng lực,hưởng theo lao động có cuộc sống ấm no, tự do,hạnh phúc,có điều kiện 
phát triển toàn diện cá nhân ”. (1) Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa 
học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại. 
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của 
đảng, của Nhà nước và nhân dân ta mà còn phản ánh xu thế phát triển khách quan của 
thời đại cũng như quy luật tiến hoá của lịch sử. 
Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính 
khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng 
XHCN. Đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “ cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng 
tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội ’’. Nó chẳng những không đối lập mà 
còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo 
con đường XHCN” (2 ) 
Theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định 
hướng XHCN của kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính sau: 
Một là: Hai mặt kinh tế và xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ 
động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính 
sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vi mô và vĩ mô. 
Hai là: Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của 
đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án 
(1) cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ CNXH ( NXB sự 
thật- 1991) 
(2) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần 8 ( NXB chính trị quốc gia- 
1990) 
đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn pháp luật, chính sách 
môi trường của nhà nước qua từng thời kỳ. 
Ba là; Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ 
phát triển cao. Nếu như nền kinh tế tiền tệ, kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và 
thu nhập quốc dân thấp kém dẫn tới mức thu nhập bình quân của dân cư còn thấp 
không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN được. 
Bốn là: Định hướng XHCN còn được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta. Để 
có định hướng XHCN, kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng 
với nền kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế. 
Năm là: Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giầu 
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong thời kỳ chuyển sang kinh tế thị trường, 
nhà nước ta thực hiện vai trò “ bà đở ” tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế thị trường 
phát triển đúng hướng.Vai trò đó được thể hiện bằng hệ thống pháp luật, bảo vệ quyền 
tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân. 
Sáu là: Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với 
kinh tế quốc tế. Với xu hướng kinh tế mở, nội dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó 
phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta về vị trí địa lý về lao động và về 
tài nguyên thiên nhiên.Mặt khác nó làm cho nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập 
vào nền kinh tế khu vực và thị trường thế giới, từ đó có điều kiện tiếp thu những thành 
tựu mới của khoa học- kỹ thuật, công nghệ thế giới, thực hiện công nghiệp hoá và 
hiện đại hoá đất nước. 
2. Các giai đoạn và biện pháp hình thành nền kinh tế thị trường theo định 
hướng XHCN ở Việt Nam. 
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mới kinh tế, chúng ta đã khẳng định những thành tựu 
to lớn trong phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, Việt Nam đã ra 
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện vàđang 
bước vào thời kỳ mới như đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: thời kỳ tiếp 
tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá thực hiện mục tiêu dân giầu nước 
mạnh, xã hội công bằng, văn minh; vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải 
giải quyết một loạt vấn đề quan trọng, trong đó có vấn đề lựa chọn mô hình kinh tế thị 
trường theo định hướng XHCN: Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đúng 
đắn; xác định hướng chuỷển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá như cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu kinh tế vúng lãnh thổ, xây 
dựng và thực hiện đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định 
hướng XHCN. Để thực hiện mục tiêu cuối cùng là vững bước đi lên CNXH, quá trình 
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN cần được tiến hành qua 3 
giai đọan sau: 
2.1. Giai đoạn thứ nhất; giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá 
nhiều thành phần theo định hướng XHCN về mặt lịch sử giai đoạn này rất quan 
trọng là nghị quyết hội nghị BCH trung ương lần thứ VI ( khoá IV ) tháng 9- 
1979. Về mặt logic giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những 
đơn vị sản xuất những đội sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối 
quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất 
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao 
đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường. 
Nội dung được thực hiện với một số giải pháp sau: 
- Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển 
quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. 
- Đẩy mạnh phân cồng lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường 
- Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa 
dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. 
- Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều 
dọc, sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.Trong các chính sách kinh tế 
chúng ta đặc biệt quan tâm tới chính sách giá cả. 
2.2. Giai đoạn hai: Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành 
phần theo định hướng XHCN. 
Đại hội đảng VI năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát 
triển kinh tế hàng hoá nhiêù thành phần ở nước ta. Quan điểm này đã được khẳng định 
rõ hơn tại đại hội lần VII và VIII của Đảng ta. 
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là: phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá 
tiền tệ tạo điều kiện tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. 
Chúng ta đang thực hiện những giải pháp sau: 
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. 
- Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng các yếu tố thị trường, phát 
huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thơì hạn chế những mặt tiêu 
cực của thị trường 
- Hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ 
nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân 
phối và phân phối lại thu nhập quốc dân tạo nhập sự ổn định về tiền tệ, về giá và tỷ 
giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá 
phù hợp với cơ chế thị trường. 
- Bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của thị 
trường 
- Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm phát huy những ưu thế 
và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. 
2.3. Giai đoạn ba: Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị 
trường theo định hướng XHCN. 
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế, tạo lập 
cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy một cách đầy đủ 
tác dụng, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới. 
- Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. 
Đây là giải pháp có tính thời đại cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên 
nhiều mặt theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quyền nước ta. 
- Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm 
đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản 
xuất 
- Thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước 
- Lựa chọn chính xác khoa học công nghệ và mục tiêu phát triển.Cần 
quan niêm khoa học và công nghệ là biến số có ý nghĩa chiến lược của sự phát 
triển. 
Trên đây là các giai đoạn và một số phương hướng then chốt cho từng giai 
đoạn. Nước ta đã và đang thực hiện các giai đoạn này dần dần hình thành nền kinh tế 
thị trường theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của 
Nhà nước 
II. Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
theo định hướng XHCN ở Việt Nam. 
1. Nhà nước là 1 hiện tượng lịch sử, ngay từ khi ra đời nó đã có vai trò to 
lớn trong xã hội có giai cấp và trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Nhà 
nước,một mặt, nó là tổ chức xã hội;mặt khác, chính thông qua quản lý xã hội có 
hiệu quả mà nó thực hiện được sự thống trị của giai cấp thống trị đối với toàn xã 
hội. Bất cứ nhà nước nào cũng đều thực hiện chức năng hai mặt của nó. Mặc dù, 
nhà nước có định hướng cho sự phát triển và của xã hội nhưng bản thân xã hội lại 
vận động theo những quy luật khách quan của nó, quy luật vận động của đời sống 
sản xuất vật chất và tinh thần, tạo ra cơ sở mới, điều kiện mới,do đó,đòi hỏi có sự 
thay đổi tương ứng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thì quản lý 
nhà nước mới có hiệu quả, nhà nước mới có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh 
tế- xã hôi 
Từ đại hội đảng lần thứ VI của đảng ( 1986) Việt Nam đã chuyển sang phát 
triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của 
nhà nước, thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống xã hội; hoà nhập khu vực 
Trong tư tưởng của các nhà kinh điển Mac-Lênin về vai trò của nhà nước cần 
đặc biệt chú ý tới hai luận điểm quan trọng: 
1.1. Ph. Ang ghen đã từng nêu nguyên tắc có tính phương pháp luận 
về sự tác động của nhà nước đối với nền kinh tế rằng: sự tác động của nhà 
nước nếu là hợp quy luật thì sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển ngược lại,nếu là sự 
tác động trái quy luật thì sẽ gây ra khủng hoảng và lãng phí cho xã hội. Đó là 
nguyên tắc đúng đắn, phổ biến đối với hoạt động quản lý của mọi kiểu nhà 
nước. Đối với nhà nước XHCN nói chung,nhà nươca Việt Nam nói riêng, 
chúng ta có thể tìm hiểu ví dụ trong hoạt động của nó để minh hoạ cho hai cách 
tác động nói trên của nhà nước. Từ đó có thể dẫn đến kết luận: Nếu muốn bộ 
máy nhà nước quản lý có hiệu lực, hiệu quả thì phải tuân theo quy luật vận 
động khách quan của xã hội, trước hết là các quy luật kinh tế. 
1.2. Nhà nước ta là nhà nước dân chủ;mà nhà nước dân chủ nếu muốn 
quản lý có hiệu lực, hiệu quả thì phải thu hút được nhân dân lao động tham gia 
một cách rộng rãi và thực sự bình đẳng vào quản lý công việc của nhà nước và 
xã hội. Theo C.Mac, chế độ dân chủ thực chất là chế độ “ do dân tự quy định 
chế độ nhà nước, hướng tới con người hiện thực và được xác định là sự nghiệp 
của bản thân nhân dân và ở đây là chế độ nhà nước xuất hiện với dân chủ đã 
làm đảo lộn mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân không còn là “ thần dân 
của nhà nước ” mà là “ nhà nước của nhân dân ” Do đó chế độ dân chủ là xuất 
phát từ con người và không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà là nhân 
dân tạo ra chế độ nhà nước. Do vậy, trong nhà nước dân chủ này vai trò của 
nhà nước đối với xã hội về thực chất là vai trò tổ chức lại các quá trình dân chủ 
hoá. Thật ra, khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhà nước đã 
đóng vai trò tổ chức theo hướng dân chủ.Do đó, xuầt hiện quá trình dân chủ 
hoá trên lĩnh vực kinh tế, khẳng định quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, 
quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền thừa kế tài sản hợp pháp của 
công dân. 
Nhưng ở đây ta muốn nói đến vai trò tổng thể của nhà nước trong sự quản lý 
của nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. 
2. Từ phần lý luận trên, tính tất yếu khách quan của sự quản lý nhà nước 
trong nền kinh tế nườc ta được thể hiện như sau: 
ậ Việt Nam, vai trò kinh tế của nhà nước được thể hiện thồng qua nhiệm vụ tổ 
chức quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở tầm kinh tế vi mô và vĩ mô, trong đó 
quản lý kinh tế vĩ mô là chủ yếu. 
Sở dĩ nhà nước ta có vai trò kinh tế mới trên là vì: 
Một là: Nhà nước ta là nhà nước do dân, vì dân, vi dân, là người đại diện cho 
toàn dân,cho toàn xã hội có nhiệm vụ quản lý đất nước về mặt hành chính -kinh tế. 
Hai là: Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất, có 
nhiệm vụ quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực k inh tế nhà nước. 
Ba là: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị 
trường, cùng với những mặt tích cực của nó không thể tránh khỏi được các khuyết tật 
vốn có.Bởi vậy, sự quản lý nhà nước sẽ góp phần khắc phục các khuyết tật, phát huy 
mặt tích cực của cơ chế thị trường và là một tất yếu khách quan. 
Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình nhằm các mục tiêu sau: 
- Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững chánh những đột 
biến sấu. 
- Đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội cao, thực hiện mục tiêu phát triển 
kinh tế kết hợp với công bằng và tiến bộ xã hội. 
- Thực hiện nhiệm vụ quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của đảng, 
đưa nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. 
3. Vai trò kinh tế của nhà nước. 
Với tư cách là người quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường nhà nước giữ vai 
trò đặc biệt quan trọng trong việc định hướng nền kinh tế thị trường theo chủ nghĩa xã 
hội. Vai trò kinh tế nói trên được thể hiện ở những điểm sau: 
Thứ nhất: Nhà nước phát huy cao độ mặt tích cực của nền kinh tế thị trường để 
phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân 
giầu, nước mạnh, mục đích cuối cùng của sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Nhà 
nước lợi dụng cơ chế cạnh tranh của thị trường và tụ do hoá sản xuất kinh doanh để 
giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, khơi dậy các tiềm năng của mọi cá nhân, 
tập thể lao động và các cộng đồng dân tộc theo hướng hiện đại, phù hợp xu thế phát 
triển khoa học và công nghệ, thực hiện dân giầu nước mạnh – xã hội văn minh. Muốn 
vậy nhà nước cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính để cho hoạt động thị 
trường được đưa ra chủ yếu trên sự hướng dẫn của các quy luật của kinh tế thị trường. 
Nhà nước xây dựng thị trường thống nhất trong các nước, có tính đến đặc thù và trình 
độ phát triển không đồng đều của các vùng từng bước tích cực xây dựng hệ thống thị 
trường đồng bộ, nhanh chóng tiếp cận thị trường quốc tế. Trong quá trình xây dựng 
thị trường cần phải tuân thủ nguyên tắc là tốt thì để cho thị trường tự điều tiết. Nhà chỉ 
can thiệp khi hoạt động vi mô ảnh hưởng đến toàn cục, khi thị trường có những biểu 
hiện tiêu cực cần ngăn chặn nhà nước lợi dụng các phương tiện và công cụ của thị 
trường, kể cả kinh nghiệm kinh doanh và phương thức quản lý tiến bộ của chủ nghĩa 
tư bản vào mục tiêu XHCN. 
Thứ hai: Nhà nước ở tầm vĩ mô trên cơ sở nắm vững thị trường để điều tiết 
kinh tế và hạn chế những mặt trái kinh tế thị trường, kinh tế thị trường luôn thể hiện 
tính hai mặt: Một là động lực cho sự phát triển, mặt khác là khuyết tật như khủng 
hoảng kinh tế, lãng phí tài nguyên, phân hoá giầu nghèo... Từ tính chất hai mặt của 
kinh tế thị trường, Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng và điều 
tiết nền kinh tế thị trường nhằm ổn định và tăng trưởng ở nước ta. Nhà nước xây dựng 
các chính sách công cụ kinh tế vĩ mô để định hướng và điều tiết tổng thể nền kinh tế. 
Mục tiêu chính sách để công cụ kinh tế vĩ mô là hướng sức mạnh của thị trường đi 
đúng hướng, dựa vào luật pháp để tạo ra môi trường và hành lang năng động có trật tự 
cho các chủ thể kinh doanh, làm lành mạnh các quan hệ thị trường. Các chính sách 
công cụ kinh tế vĩ mô tác động vào kinh tế thị trường nước ta rất đa dạng trong đó có 
những chính sách công cụ lớn như luật pháp, tài chính,đầu tư... Thông qua chính sách 
công cụ nhà nước giảm đến mức thấp nhất mặt tiêu cực và hậu quả kinh tế xã hội do 
cạnh tranh gây ra nhằm đảm bảo phúc lợi cộng đồng cũng như công bằng xã hội và 
bảo vệ môi trường. Nhà nước gắn kế hoạch vĩ mô định hướng với các chính sách và 
chương trình kinh tế tạo môi trường cho thị trường phát triển mạnh, đồng thời sử dụng 
các biện pháp hành chính cần thiết để hạn chế các mặt trái của kinh tế thị trường. Vây 
bằng các biện pháp và chính sách công cụ quản lý,điều tiết, nhà nước phục vụ mục 
tiêu xã hội, đây là nhiệm vụ trọng tâm và là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu 
dân giầu, nước mạnh, xã hội văn minh. Kinh tế thị trường luôn luôn vận động và phát 
triển do đó các chính sách kinh tế vĩ mô nhà nước phải thường xuyên được bổ sung 
hoàn thiện thì mới thực sự có hiệu quả. 
Thứ ba: Nhà nước điều tiết kinh tế và xây dựng thực hiện hệ thống chính sách 
xã hội sao cho bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và hiệu quả xã hội, 
khác với nền kinh tế thị trường ở nước ta, ngay từ đầu nhà nước đã tham gia điều tiết 
vừa hạn chế mặt tiêu cực tự phát vừa bảo vệ lợi ích của xã hội, của con người. 
Nhà nườc điều tiết nền kinh tế qua các quan hệ sản xuất và phân phối từ tư liện 
sản xuất đến vốn, kỹ thuật, công nghệ, lao động, tiền lương, phúc lợi xã hội... 
Để vừa phát triển kinh tế; vừa đảm bảo công bằng xã hội phù hợp với điều kiện 
xã hội ở nước ta. Sự điều tiết của nhà nước vừa nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế 
tăng trưởng ổn định, vừa nhằm đảm bảo lợi ích của người lao động, đảm bảo công 
bằng xã hội. Điều quan trọng là nhà nước cần xây dựng và thực hiện hệ thống chính 
sách xã hội nhằm kích thích được con người sáng tạo không ngừng sử lý được sự 
phân hoá giầu nghèo quá đáng, thực hiện được các vấn đề xã hội, phúc lợi xã hội và y 
tế xã hội, văn hoá phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế.Thông qua ngân 
sách, Nhà nước thực hiện điều tiết và tái phân phối hợp lý để vừa khuyến khích mọi 
người làm giầu chính đáng, vừa có nguồn để thực hiện các chính sách xã hội. 
Thứ tư: Nhà nước phải xây dựng được hệ thống kinh tế quốc doanh mạnh vì 
kinh tế quốc doanh là nhân tố kinh tế quy định và đảm bảo tính định hướng xã hội chủ 
nghĩa: Thể hiện đầy đủ nhất tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản đảm bảo sự thống 
nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bắng xã hội, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi 
trường sinh thái, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Nhà nước vừa 
phải tôn trọng tính bình đẳng của các chủ thể kinh tế không kể họ ở thành phần nào, 
vừa phải có ý thức đầy đủ đến việc phát triển kinh tế quốc doanh để nó thực sự giữ vai 
trò chủ đạo.Nhà nước bằng các chính sách, biện pháp kinh tế để sao cho: 
- Kinh tế quốc doanh phải chiếm được các vị trí kinh tế then chốt có liên 
quan đến hoạt động của toàn nền kinh tế cũng như an ninh, quốc phòng và các 
hoạt động cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không 
muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc ít lãi. Kinh tế quốc doanh phải chiếm được các 
ngành kinh tế có kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tạo ra kiểu mẫu về năng suất, chất 
lượng, hiệu quả để lôi cuốn các thành phần kinh tế khác theo quỹ đạo của chủ 
nghĩa xã hội. 
- Kinh tế quốc doanh phải tạo ra kết cấu hạ tầng đáp ứng được yêu cầu 
phát triển của nền kinh tế thị trường, có giá trị tổng sản lượng và tỷ trọng hàng hoá 
ngày càng t ăng, đóng góp tỷ lệ cao trong ngân sách nhà nước không ngừng nâng 
cao trình độ và đời sống của người lao động. 
- Kinh tế quốc doanh phải tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, bảo 
đảm tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững có hiệu quả và công bằng. 
Vởy là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra những 
nhiệm vụ cụ thể cho nhà nước mới hoàn thành được nhiệm vụ định hướng xã hội chủ 
nghiã nền kinh tế thị trường nước ta. 
B. Thực trạng nền kinh tế ở Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền 
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
I. Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam những năm qua ( khi 
chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ). 
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là: đất 
nước đã và đang từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa 
phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp đất nước lại 
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực 
dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập chung quan liêu 
bao cấp. 
Với những đặc điểm xuất phát như trên, có thể nhân xét rằng. Nền kinh tế nước 
ta không hoàn toàn là kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc, nhưng cũng chưa phải là kinh tế 
hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác,do đó có sự đổi mới về mặt kinh tế nước ta 
cũng không còn là nền kinh tế chỉ huy.Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi 
chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển,còn mang nặng 
tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp . 
Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây: 
1. Kinh tế hàng hoá kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính tự cấp 
tự túc. 
Sự yếu kém củakinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có 
tính điển hình dưới đây: 
- Trình độ cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. 
- Hệ thống cơ cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để 
phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu 
với thị trường quốc tế. 
- Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. 
- Chưa có thị trường đúng nghĩa của nó. 
- Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn 
thấp. 
Phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá còn kém phát triển. 
Do trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản 
xuất và dịch vụ xã hội còn kém: cơ cấu kinh tế còn mất cân đối; Thị trường trong 
nước chưa phát triển... cho nên năng xuất lao động và thu nhập bình quân tính theo 
đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp kém. Tình hình này được phản ánh qua các 
số liệu sau đây: 
Theo giá hiện 
hành ( tỷ đồng ) 
1998 1989 1990 1991 1992 
GNP 
Tổng đầu tư 
Tiêu dùng (C ) 
Tiết kiệm (S ) 
13.266 
1.906 
13.291 
- 25 
2.308 
2.817 
24.358 
- 50 
2.308 
2.817 
24.356 
- 10 
69.959 
66.610 
3.349 
101.870 
94.883 
6.987 
( Nguồn : Tình hình kinh tế Việt Nam 1986- 1991. Niên giám thống kê - 92) 
Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 1991 thì mức thu nhập bình 
quân tính theo đầu ngươì của nước ta so với các nước đang phát triển ở đông nam ắ 
vào loại thấp nhất. Theo sự tính toán của các nhà kinh tế Việt Nam thì mức CNP, 
người mua của nước ta hiện nay là 200 USD. Trong khi đó GNO/ người vào năm 
1990 của trung quốc là 370 USD, Iindonesia là 570 USD ấn độ là 350 USD, philippin 
730 USD. Thái lan là 1420 USD, Malayxia là 2320 USD, Nam triều tiên là 5400 
USD. 
2. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu 
bao cấp. 
Do nhận thức chủ quan duy ý trí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho nên trong 
nhiều thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập 
trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có 
nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị 
trường. 
Hai cơ chế cũ và mới ( cơ chế tập trung quan liêu bao cấp được gọi là cơ chế 
cũ, còn cơ chế thị trường được gọi là cơ chế mới ) có nhiều điểm khác nhau, trong đó 
có điểm khác nhau căn bản là ở chỗ. Cơ chế cũ hình thành trên cơ sở thu hẹp hoặc gần 
như xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm cho nền kinh tế bị “ hiện vật hoá ”. Cơ chế 
mới hình thành trên cơ sở mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ. ậ cơ chế cũ đó là cơ chế 
lệnh kế hoạch, kèm theo lệnh giá cả kinh doanh tài chính kinh doanh, tín dụng kinh 
doanh, tín dụng kinh doanh phục vụ nhu cầu mua bán của các chủ thể sản xuất theo 
nguyên tắc hoạch toán kinh tế. Như vây, trong cơ chế cũ phạm trù giá cả, tài chính, 
lưu thông tiền tệ là phạm trù vốn, có cửa kinh tế hàng hoá mặc dù có được sử dụng 
như chỉ là hình thức. 
Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự 
hạn chế quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kinh 
tế, kìm hãm nhân tố mới, do đó làm cho nhà nước không thể làm chủ những quá trình 
kinh tế khách quan mặc dù trong tay nhà nước có thực lực kinh tế to lớn. Vì vậy, Đại 
hội lần thứ VII của Đảng ta khẳng định “ xoá bỏ chiệt để cơ chế quản lý tập trung 
quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp 
luật kế hoạch chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị 
trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động... thực hiện giao lưu 
kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới ” (1). 
3. Thực chất quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị 
trường theo định hướng XHCN. 
(1) Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB sự thật 
1991. 
3.1. Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển 
sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận thực chất của quá trình chuyển nền 
kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình 
kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang tính tự cấp tự túc sang nền kinh tế 
hàng hóa tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung 
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền kinh tế nhỏ sang nền kinh tế 
lớn nếu thiếu “ đòn xeo ” là kinh tế hàng hoá. Chính C. Mac đã coi sự phát triển của 
kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được 
đối với sự ra đời và sự phát triển của nền sản xuất lớn TBCN. Nội chiến kết thúc, 
Lênin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới ( NEP ) về thực chất, đó là sự 
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhằm khơi dậy sự sống động của nền 
kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ 
kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hóa tiền tệ trên thị trường. 
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với 
các nước đông âu và Liên xô ( cũ ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển. Nền 
kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên, tự cấp tự túc như nền kinh tế nước 
ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình 
chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hoá 
nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ 
chế hoạch hoá tập trung. Cơ chế này đã được phân tích ở phần trên,Nó gần như đối 
lập với thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm 
sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy, quá trình chuyển nền kinh tế 
nước ta sang kinh tế thị trường là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, 
hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. 
3.2. Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường đồng 
thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, kinh tế “ đóng”, “ khép kín ” thường 
gắn với nền kinh tế sáng kiến gắn với sản xuất nhỏ mang nặng tính cục bộ, địa 
phương chủ nghĩa và với tình trạng “ bế quan toả cảng ”. Chíh sự xuất hiện và phát 
triển của sản xuất hàng hoá đã phá vỡ các quan hệ kinh tế khép kín. Sự phát triển của 
chủ nghĩa tư bản đã khẳng định. Kinh tế hàng hoá đã làm cho thị trường dân tộc gắn 
bó và hoà nhập với thị trường thế giới. Chính giao lưu hàng hoá đã làm cho các quan 
hệ kinh tế được mở rộng khỏi phạm vi quốc gia, đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển 
nhanh chóng. 
Kinh tế là đặc điểm và là xu thế của thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia 
nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh 
dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây, 
một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều 
kiện mới. 
Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan hệ kinh tế 
quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt 
chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp và công việc 
nội bộ của nhau. 
Trong những năm gần đây, thực hiện quan điểm về kinh tế đối ngoại nói trên, 
hoạt động kinh tế quốc tế của nước ta đã có những tiến bộ hơn. Xuất khẩu hàng 
hoá,tăng nhanh với nhịp độ trên dưới 20% hàng năm ( 1986- 1992 ) bảo đảm nhập 
khẩu các loại vật tư và công nghệ chủ yếu cải thiện dần cán cân thanh toán quốc tế, 
chúng ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hẫng hụt về nguồn vốn 
và thị trường từ các nước SNG và Đông âu. 
Hàng hoá xuất khẩu của nước ta đã tìm được những thị trường mới trong khu 
vực đông nam ắ và Tây âu. Nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam cũng tăng 
nhanh./ 
Trong khi hòa nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt động ngoại 
thương cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sanhs. Từ đó cân nhắc và quyết 
định cụ thể xem nên sản xuất loại hàng hoá nào, với số lượng bao nhiêu,từ đó xác 
định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp. 
ậ nước ta, lợi thế so sánh bắt đầu được phát huy cần khẳng định bản sắc dân tộc 
và xác định khu vực mới tạo điều kiện tốt để hội nhập. Lợi thế so sánh của nước ta 
được thể hiện ở các mặt sau đây: nguồn tài nguyên thiên nhiên khá phong phú, nguồn 
nhân lực rồi rào với tiền công thấp, vị trí lãnh thổ thuận lợi, Đồng thời nhà nước đã có 
chính sách đầu tư hấp dẫn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. 
Chúng ta tiếp tục coi trọng các thị trường chuyền thống, nhanh chóng thâm 
nhập vào thị trường mới mở rộng thị trường khu vực, cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo 
hướng tăng tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như 
dầu mỏ, nông – lâm – thuỷ sản... chú ý phát triển dịch vụ, vận tải hàng không, thông 
tin bưu điện quốc tế... 
Xuất phát từ lợi thế và khả năng thực tế trong nước, phương hướng mở rộng 
kinh tế quốc tế nền tập trung vào những vấn đề cơ bản: 
Nhà nước cần có chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các 
ngành kinh tế phát triển, thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ 
bên ngoài, ngăn chặn việc nhập khẩu những hàng hoá trong nước có khả năng sản 
xuất. 
Nhà nước cần duy trì sự ổn định về mặt chính trị, kinh tế và xã hội nhằm tạo ra 
môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần 
kinh tế hoạt động, qua đó thúc đẩy hàng hoá phát triển. 
II Phương hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế ở 
nước ta. 
1. Nhận thức về cơ cấu kinh tế mới ở nước ta: 
Đại hội lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định những nhận thức 
cơ bản về cơ chế kinh tế mới ở nước ta là: 
- Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tịu phát triển của nền văn 
minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả 
khi CNXH đã được xây dựng 
- Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường theo định 
hướng XHCN ở nước ta là một thể thống nhất với nhiều lực lượng tham gia sản 
xuất lưu thông trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thị trường trong nước 
gắn với thị trường thế giới. 
- Thị trường vừa là căn cứ vừa là đối tượng của kế hoạch, kế hoạch chủ yếu mang 
tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên bình diện vĩ mô. Thị trường có vai trò 
trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án 
tổ chức sản xuất kinh doanh. 
- Vận dụng cơ chế thị trườn đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà 
nước, đồng thời xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh 
nhằm phat huy tác động tích cực đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục 
những mặt tiêu cực của thị trường bằng pháp luật kế hoạch, cơ chế chính sách, các 
công cụ đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của kinh tế nhà nước. 
2. Những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế nước ta. 
Mục tiêu của việc đổi mới cơ chế kinh tế đến năm 2000 nhà Đại hội Đảng lần 
thứ VIII, Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định là xoá bỏ cơ chế tập trung quan 
liêu bao cấp hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý nhà 
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Để đạt được mục tiêu đó cần phải giải quyết tốt một số vấn đề sau đây: 
Trước tiên chúng ta phải chủ động tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, phát 
huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế các mặt tiêu 
cực của thị trường. Cụ thể hơn, chúng ta phải phát triển mạnh thị trường hàng 
hoá và dịch vụ; tổ chức quản lý và hướng dẫn việc thuê và sử dụng lao động; 
quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản;xây dựng thị trường vốn và 
từng bước hình thành thị trường chứng khoán. 
Thứ hai phải hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế để thể chế hoá cương 
lĩnh, chiến lược và các chủ trương chính sách của đảng,hình thành khuôn khổ 
pháp lý đồng bộ cần thiết cho các hoạt động kinh tế. Kinh tế thị trường là một 
nền kinh t ế còn mang tính tự phát và cạnh tranh, thậm chí còn khốc liệt với 
những đặc trưng đó, nó cần được kiểm soát bởi một hành lang pháp lý đó là hệ 
thống pháp luật. Bắt nguồn từ đó, việc xây dựng một hệ thống pháp luật hàm 
chứa các yếu tố: hướng dẫn,kiểm soát và định hướng sẽ gây ra tác động biến 
chứng của thượng tầng kiến trúc đến cơ sở hạ tầng trong quá trình vận động 
của cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. 
Ba là hoàn thiện và đổi mới đồng thời tăng cường vận dụng các chính sách tài 
chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu 
phát triển; sau đó cần nhanh chóng hình thành thị trường tiền vốn. 
Chính sách tài chính phải nhằm mục tiêu thúc đẩy sản xuất phát triển:huy động 
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tăng cường tích luỹ để tạo vốn đầu tư 
phát triển, đáp ứng những nhu cầu thật sự cần thiết cấp bách, đảm bảo quản lý 
thống nhất nền tài chính quốc gia; giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế 
và kiểm soát lạm phát. 
Chuyển mạnh chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng phù hợp với cơ chế thị 
trường, góp phần ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, kìm chế lạm phát ở 
mức thấp, huy động và cho vay vốn có hiệu quả; đồng thời tiếp tục hoàn thiện 
hệ thống giá cả và đổi mới công tác quản lý giá. 
Thứ tư là phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân, 
đây là giải pháp có tính thời đại cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên 
các mặt; kinh tế, môi trường, công nghệ theo hướng đảm bảo lợi thế so sánh và 
chủ quyền nước ta. 
Do vậy cần có chính sách cởi mở trong quan hệ quốc tế và đầu tư theo nguyên 
tắc đa phương hoá và đa dạng hoá các bên cùng có lợi. Đối với Việt Nam đây 
là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để tiếp cận công nghệ mới phát triển lực 
lượng sản xuất, đặc biệt các ngành mũi nhọn của tiến bộ khoa học công nghệ, 
tạo cơ hội cho những bước “ đột biến ” trong phát triển kinh tế. Nếu chúng ta 
đóng cửa hoặc chỉ hé mở, thì những cơ hội nhập, nắm bắt đón đầu các vận hội 
cho chuyển hoá về chất của nền kinh tế sẽ bị xoá bỏ qua và rõ ràng không thể 
tránh khỏi tụt hậu được cảnh báo. Điều đó cúng có nghĩa là khó thực hiện được 
cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất như định hướng. Do đó cần phải có một 
chiến lược kinh tế đối ngoại thích ứng, hội nhập và mang tính thời đại, nhằm 
nhanh chóng hiện đại hoá LLSX và đẩy nhanh quá trình xã hội hoá các quan hệ 
sở hữu. 
Năm là, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước. Quản lý 
nhà nước.Quản lý nhà nước về kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường có 
nhiều khác biệt so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Quản lý nhà nước về 
kinh tế trong thời kỳ này ngoài hoạch định chiến lược, chính sách, chế độ và sử 
dụng hệ thống pháp luật phải lấy phương pháp kinh tế làm chính. Thực chất 
của phương pháp này là sử dụng các công cụ kinh tế ở tầm vĩ mô ( nội dung 
chủ yếu của cơ chế kinh tế quản lý ) để điều tiết các quan hệ kinh tế theo định 
hướng của nhà nước. Phương pháp này được coi như đặc tính vốn dĩ đầy hiêu 
lực trong điều hành kinh tế thị trường. Do vậy, việc xây dựng một cơ chế quản 
lý kinh tế đồng bộ thực hiện đồng thời ba chức năng: kích thích điều tiết, kiểm 
soát các quan hệ kinh tế có ý nghĩa tích cực trong việc thúc đẩy LLSX nhìn 
theo góc độ về sự thích ứng của nó với quan hệ sản xuất. Để thực hiện giải 
pháp này, văn kiện đại hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Nhà 
nước phải thực hiện tốt nhiệm vụ định hướng sự phát triển; trực tếp đầu tư vào 
một số lĩnh vực cần thiết, thiết lập khuôn khổ lập pháp, hệ thống chính sách 
nhất quán, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện tốt các chính 
sách xã hội, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh 
tế xã hội. Cán bộ và các cấp chính quyền không can thiệp vào chức năng quản 
trị kinh doanh và quyền tự chủ hoạch toán của doanh nghiệp. 
Những giải pháp trên đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật 
đông đảo và tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp xây dựng đất nước. 
Tóm lại, quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định 
hướng XHCN ở nước ta là một quan hệ phức tạp, có nhiều khó khăn, không 
nên quan niệm giản đơn và nóng vội, 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.pdf LUẬN VĂN- Thực trạng nền kinh tế Việt Nam những năm qua và giải pháp cho nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.pdf