Luôn song hành cùng sự hình thành và phát triển của xã hội loài người,
ngành dệt may Việt Nam đã biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng
khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất
nước. Nhất là trong 20 năm đổi mới gần đây, cùng với sự kiện Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO và
“quota dệt may”, ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Từ vị trí đứng thứ hai sau dầu thô, đã vươn lên vị trí thứ nhất về kim ngạch xuất
khẩu.
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINAT EX với vị trí dẫn đầu toàn ngành,
hoạt động dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, đã, đang, và sẽ không ngừng
khẳng định vị trí của mình trên thị trường dệt may thế giới trong thời gian sắp
tới.
36 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2365 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và các biện pháp nâng cao
kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt
May Việt Nam – VINATEX
MỤC LỤC
I- Phần mở đầu
II-Nội dung
Chương 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển
kinh tế xã hội ở Việt Nam
1. Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam
Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu
Gia công là chính
Công nghệ còn lạc hậu
Các nhân tố ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu hang dệt
may Việt Nam
Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên ngoài
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội Việt Nam
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam
sang mô hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu
chính của VINATEX
3.Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX
những năm gần đây
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu hang dệt may
của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Định hướng` xuất khẩu đến năm 2020
1.1 Định hướng chung đến năm 2020
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt
May Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn
2.2. Giải pháp về đầu tư
2.3. Giải pháp về thị trường
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu
dệt may vào thị trường thế giới
3.1. Xúc tiến thương mại
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu
III- Kết luận
IV- Danh mục tài liệu tham khảo
V- Phụ lục
I- PHẦN MỞ ĐẦU
Cũng như quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới , trong nền kinh
tế Việt Nam ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, ngành dệt may đóng
một vai trò quan trọng, vừa cung cấp hàng hoá trong nước, vừa tạo điều kiện mở
rộng thương mại quốc tế, thu hút nhiều lao động, tạo ra ưu thế cạnh tranh cho
các sản phẩm xuất khẩu và cũng là ngành nghề có lợi tức tương đối cao, đặc biệt
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới.
Nhìn lại lịch sử phát triển của mình, ngành dệt may Việt Nam đã trải qua
khá nhiều thăng trầm. Song đến những năm gần đây, cùng sự phát triển của
ngành dệt may Thế Giới và khu vực, ngành dệt may Việt Nam thực sự bước sang
thời kì phát triển mới với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng và kim ngạch
xuất khẩu. Năm 2006 tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam
đạt con số 5,3 tỷ USD, trong đó thị trường Mỹ 3 tỷ USD, các nước EU hơn 2 tỷ
USD, ngành công nghiệp dệt may đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra
xuất khẩu và ngày càng khẳng định vai trò “không thể thiếu” trong đời sống kinh
tế - xã hội. Thành công đó có được là do ngành dệt may Việt Nam đã biết tận
dụng cơ hội gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan đem lại, cùng với sự hỗ trợ
của Nhà nước trong vấn đề xúc tiến thương mại, sự giúp đỡ có hiệu quả của Bộ
Công Nghiệp và nỗ lực, cố gắng vươn lên của các doanh nghiệp dệt may trong
toàn ngành thời gian qua.
Bên cạnh vai trò về tính kinh tế trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay,
chúng ta không thể không nói tới yếu tố truyền thống dân tộc của ngành nghề
này. Ngành dệt may Việt Nam đã có lịch sử lâu đời, từ xa xưa cách đây hàng
ngàn năm, cha ông chúng ta đã biết trồng dâu nuôi tằm, trồng bông dệt vải, ươm
tơ dệt lụa,... biết làm ra các sản phẩm dệt may làm đẹp cho đời. Từ những chiếc
khung cửi thủ công thô sơ đến máy may đạp chân, dần dần chúng ta đã có các
thiết bị dệt nhuộm, may mặc cơ khí hiện đại, điện tử, tự động hóa...Bằng chứng
cho sự phát triển này là đến nay vẫn còn tồn tại nhiều làng nghề truyền thống
trên nhiều vùng đất nước như: Lụa Vạn Phúc, Khăn Phùng Xá(Hà Tây); Dệt
Làng Mẹo(Thái Bình); Lành Dệt Liên Tỉnh(Nam Định); Thổ Cẩm Mai
Châu(Hoà Bình)…Tuy vậy, phải đến cuối thế kỷ XIX, ngành dệt may mới manh
nha hình thành và phát triển trong hình hài của một ngành công nghiệp. Đất nước
ta là một nước phương Đông mang đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc không thể
thiếu những ngành nghề truyền thống như gốm sứ, dệt may, điêu khắc… Hơn
nữa dệt may lại đang là ngành nghề mũi nhọn, dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu
trong những năm gần đây. Chính phủ đã phê duyệt “ Chiến lược tăng tốc phát
triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010”. Mục tiêu là kiên quyết vượt qua
thách thức để đưa dệt may Việt Nam lên tầm cao mới. Nhiệm vụ còn lại là của
các nhà doanh nghiệp dệt may thuộc mọi thành phần kinh tế trên khắp mọi miền
của đất nước.
Việt Nam đã gia nhập WTO, sức ép hội nhập kinh tế không cho phép ngành
dệt may Việt Nam chậm chạp, chính vì thế mà chúng ta phải “tăng tốc”, “tăng
tốc” để theo kịp các nước trong khu vực và trên Thế Giới. Thực tế cho thấy
ngành dệt may Việt Nam hiện còn quá nhỏ bé so với tiềm năng của chính nó và
so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên làm thế nào để ngành dệt của chúng ta
“hoà nhập nhưng không hoà tan” đang là một câu hỏi lớn cho chính phủ và các
doanh nghiệp. Chúng ta đã phải rất nỗ lực mới vào được tổ chức thương mại Thế
Giới WTO, trước một hoàn cảnh mới như vậy, Việt Nam nói chung và ngành dệt
may Việt Nam nói riêng phải đối phó với rất nhiều thách thức đe doạ, tuy nhiên
cơ hội cũng có nhiều. Tập Đoàn Dệt May Việt Nam được xem là một tập đoàn
kinh tế lớn của Nhà nước, với các chức năng bao quát từ hoạt động sản xuất,
cung ứng, tiêu thụ đến kinh doanh xuất nhập khẩu các loại sản phẩm thuộc lĩnh
vực dệt may. Trong bản đề án này, em xin đưa ra một số vấn đề liên quan đến
đặc điểm, thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập
Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX - cơ quan đàu tàu của ngành dệt may
nước ta.
Lý do em chọn đề tài này là do có một phần nguyên nhân cá nhân. May mắn
được sinh ra ở một quê hương làng nghề thuộc tỉnh Nam Định. Mặc dù không
được trực tiếp trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải nhưng từ nhỏ đã thường xuyên được
tiếp xúc với các chất liệu len, vải, thổ cẩm đã sớm giúp em hình thành một mối
quan tâm sâu sắc về đề tài này. Cộng thêm niềm đam mê và cảm hứng đối với
lĩnh vực thời trang trong nước và quốc tế, em đã quyết định làm bản đề án môn
học này với hi vọng sẽ áp dụng được những kiến thức kinh tế đã được học trên
trường lớp vào thực tế.
II- NỘI DUNG
Chương 1. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUÂT KHẨU DỆT MAY
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM.
1.Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam:
1.1. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam :
Ngành dệt may Việt Nam là một trong những ngành có lịch sử phát triển
lâu đời ở Việt Nam. Đặc biệt, ngành dệt sợi đã có từ lâu và phát triển mạnh trong
thời kỳ thực dân Pháp đô hộ. Trước khi thưc dân Pháp xâm lược
Đông Dương đã tồn tại nhiều nhà sản xuất vải tại Việt Nam sử dụng sợi nhập
khẩu. Thực dân Pháp đã tăng thuế nhập khẩu sợi làm cho sản xuất vải tại Việt
Nam gặp nhiều khó khăn. Nhưng trong thời kỳ này nhiều nhà máy dệt hiện đại
do Pháp đầu tư đã được thành lập. Năm 1889, nhà máy dệt đầu tiên tại Việt Nam
được Pháp xây dựng tại Nam Định, tiếp theo là năm 1894 tại Hà Nội và sau đó là
tại Hải Phòng. Năm 1912, ba nhà máy hợp nhất lại thành “Công ty dệt vải Kinh
Đông”. Chính phủ Thực dân Pháp thu được nhiều lợi nhuận từ việc kinh doanh
độc quyền ngành này.
Sau đại chiến thế giới thứ hai, ngành dệt may Việt Nam có những bước
tiến đáng kể. Trong thời gian này, vai trò của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước là rất
quan trọng, kế hoạch và việc sản xuất hàng dệt may được thực hiện theo quy
trình: trước tiên, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho các doanh nghiệp
may về kế hoạch sản xuất, số lượng, giá. Các doanh nghiệp dệt may căn cứ vào
đó tính số lượng nguyên liệu đầu vào trình lên Uỷ ban Kế hoạch về các doanh
nghiệp nhuộm có thể đáp ứng yêu cầu. Sau đó, căn cứ vào những điều kiện sau
này, Uỷ ban Kế hoạch lại giao chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp nhuộm,
ấn định về giá và thời gian giao hang. Dựa vào giá cả và ngày giao hang, các
doanh nghiệp nhuộm lại tính lượng sợi cần thiết rồi trình Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước về nhà sản xuất sợi có thể sản xuất loại sợi theo yêu cầu. Cuối cùng, Uỷ
ban Kế hoạch nhà nước giao chỉ thị cho các doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi
cần thiết như kế hoạch được trình như trên.
Trong nền kinh tế kế hoạch, mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt,
nhuộm và may rất mật thiết. Xét trên toàn ngành, mối quan hệ trực tiếp, lâu dài
giữa các doanh nghiệp và sự chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp đã được
duy trì khá tốt. Tuy nhiên, mối quan hệ khăng khít cùng việc chia sẻ thông tin
giữa các doanh nghiệp khác ngành đã có sự thay đổi lớn từ sau khi có Hiệp định
thương mại gia công uỷ thác (Hiệp định ngày 19/5) được ký kết giữa Chính phủ
Liên Xô và Chính phủ Việt Nam vào năm 1986. Hiệp định này đã làm giảm hẳn
nhu cầu sản phẩm đối với các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối
quan hệ mật thiết giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn nứt. Từ mối quan hệ mật
thiết trước đây trở thành quan hệ đối thủ cạnh tranh của nhau. Người ta cho rằng
đó là nguyên nhân lịch sử chủ yếukhiến cho sự phân ngành trong ngành dệt -
may Việt Nam chưa phát triển.
Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, đặc biệt bước vào thập kỷ 90 của thế
kỷ XX, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Vào đầu những
năm 90, các nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản trở thành thị
trường nhập khẩu chính của Việt Nam , và từ năm 1993 khi Hiệp định thương
mại giữa Việt Nam và EU hình thành thì xuất khẩu dệt may tăng nhanh. Xem xét
sự thay đổi của tổng giá trị sản lượng hang dệt may từ năm 1995 đên năm 1999
cho thấy, trong 5 năm, tổng giá trị sản lượng tăng khoảng 57%, như vậy tỷ lệ
tăng trưởng thực tế bình quân khoảng 12%/năm.
1.2. Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam:
Thứ nhất: chưa chủ động được nguồn nguyên liệu:
Nguồn nguyên phụ liệu cung cấp đầu vào cho ngành dệt may Việt Nam
chủ yếu phải nhập từ nước ngoài. Tỷ lệ nhập khẩu quá cao khiến giá thành hàng
dệt may Việt Nam cao hơn đối với các sản phẩm cùng loại của các nước trong
khu vực từ 10 đến 15%.
Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có những bước tiến
đáng kể, tốc độ tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25-30%/năm, tạo công ăn
viêc làm cho khoảng hơn 25 triệu lao động trực tiếp và lao động gián tiếp trong
sản xuất như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên
phụ liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển của ngành trong thời gian qua. Đây là một nghịch lý đối với một nước
nông nghiệp có ngành dệt may đã trở thành ngành truyền thống hang nghìn năm
nay như Việt Nam.
Ngành dệt may nước ta đã có sự tập trung các xí nghiệp mang quy mô
lớn hàng nghìn công nhân thì lại “quên” không đầu tư cho ngành sản xuất
nguyên phụ liệu. Đối với ngành này khách hàng yêu cầu rất tỷ mỷ từng khâu
thiết kế cho từng cái khuy, màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu.
Tình hình sản xuất nguyên phụ liệu năm 2005
Chỉ tiêu Đơn vị tính Nguyên phụ liệu
1. Bông xơ 1000 tấn 30
2. Xơ sợi tổng hợp 1000 tấn 100
3. Sợi 1000 tấn
4. Vải lụa triệu m2
Tỷ lệ nội địa hoá (%)
Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Nước ta có một lực lượng lao động lớn về số lượng nhưng đối với ngành
này đã chưa tận dụng hết được thế mạnh này, trong khi đó Trung Quốc - nước
láng giềng và cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế giới – hàng
năm sản xuất gần một vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Thứ hai: sử dụng hình thức gia công là chính:
Phần lớn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc được thực hiện dưới dạng
sản xuất lưu thông theo hợp đồng gia công uỷ thác (gia công). Do các doanh
nghiệp Việt Nam chỉ thực hiện 3 công đoạn là cắt (cut), may (make), hoàn thiện
(trim) nên hình thức sản xuất lưu thông này được gọi là CMT. Theo hình thức
này toàn bộ nguyên phụ liệu đêù do khách hang nước ngoài cung cấp cho các
doanh nghiệp may Việt Nam.
Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường áp dụng 2 hình thức
xuất khẩu, ngoài CMT là hình thức “xuất khẩu hang hoá theo điều kiện FOB
(Free On Board)”. Hình thức này trái với CMT, theo hình thức này, chúng ta tự
mua nguyên phụ liệu rồi bán sản phẩm cho khách hàng nước ngoài.
Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu:
Trong nhiều lý do dẫn đến yếu kém về năng lực sản xuất của ngành may
Việt Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Khả năng tự động hoá trong quá trình
sản xuất trong các doanh nghiệp may chỉ đạt mức độ trung bình, công nghệ cắt
Lựu
chọn
nhà
cung
cấp
Mua
nguyên
phụ
liệu
Cắt,
may, tô
điểm
(CMT)
Xuất
khẩu
Thiết
kế sản
phẩm
và may còn lạc hậu. Công nghệ phục vụ các công đoạn phụ trợ, khâu giặt còn bất
cập; công tác thiết kế, công nghệ tạo mẫu của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn
khởi đầu đã làm hạn chế đến chất lượng, mẫu mã, và chủng loại sản phẩm.
Tính đến năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam có 126 xưởng may với
78.000 thiết bị may, cắt và hoàn tất các loại, trong đó các xưởng trình độ tiên tiến
chiếm 20%, xưởng trình độ trung bình khá chiếm 70% và xưởng trình độ trung
bình chiếm 10%. Một số xưởng thuộc công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà
Bè, công ty may Đức Giang, công ty may Phương Đông… đã có sử dụng phần
mềm trong sáng tác mẫu và thiết bị cắt vải của Mỹ, Đức…Ngoài ra còn có
khoảng 200 xưởng may thuộc doanh nghiệp Nhà nước khác có trình độ trung
bình khá và trung bình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuẩt khẩu hàng dệt may Việt Nam:
1.3.1. Các nhân tố bên trong:
Có thể nói về ngành dệt may nói riêng, có rất nhiều các yếu tố bên trong một
doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên ở đây,
với giơí hạn về chiều dài của bản đề án này em chỉ xin đưa ra ba nhân tố chính,
đó là: giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả sản phẩm, công nghệ:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Để tiến hành sản xuất , ngành dệt may
cần các yếu tố đầu vào. Giá cả các yếu tố đầu vào là nguyên nhân trực tiếp ảnh
hưởng tới giá thành sản phẩm. Muốn hạ sía thành sản phẩm thì trước tiên phải
tìm được các nguồn đầu vào với giá rẻ:
- Nguyên phụ liệu: Như đã nói ở trên, nguyên phụ liệu ngành đến
90% là phải nhập khẩu. Phần nguyên phụ liệu mà Việt Nam có thể tự cung cấp
cho ngành dệt may là rất thấp và chất lượng kém. Phần nguyên phụ liệu phải
nhập khẩu với giá cao này là nguyên làm giá cả của hàng hoá dệt may Việt Nam
cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
- Lao động: Có thể nói một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho ngành dệt may Việt Nam là chi phí lao động rẻ. Một đất nước với hơn
80 triệu dân là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho ngành này. Ngoài những
cán bộ có trình độ kỹ thuật thì một số lượng lớn lao động phổ thông vẫn được
ngành dệt may Việt Nam hiện nay sử dụng. Ngành dệt may Việt Nam đang tận
dụng đặc điểm này để hạ giá thành sản phẩm.
Giá cả sản phẩm: Dù xét về phía cung hay cầu thì giá cả bao giờ
cũng là yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định nhất tới sản lượng hàng dệt
may bán ở trong nước hay nước ngoài. Xem xét với hàng dệt may Việt Nam xuất
khẩu: giá cả hàng dệt may Việt Nam vẫn thuộc vào loại cao so với các nước
trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn Độ… Nguyên nhân chính
của tình trạng này là do hàng dệt may của Việt Nam chưa tự túc được nguồn
nguyên phụ liệu và sản xuất với các trang thiết bị còn yếu kém. Trong kinh
doanh xuất nhập khẩu, hai yếu tố hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm
vẫn là điều kiện tiền đề cho hàng dệt may của Việt Nam có chỗ đứng trên thế
giới.
Công nghệ: Trong kinh doanh hiện đại, công nghệ là cách thức để
cắt giảm chi phí doanh nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc
đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, song nhìn chung, công nghệ thiết bị của
ngành dệt may vẫn còn lạc hậu. Thêm nữa công tác quản lý kỹ thuật của ngành
còn thấp nên đã ảnh hưởng tới năng lực sản xuất, chát lượng và giá thành sản
phẩm khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài:
Năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ
chức Thương Mại thế giới WTO, sự kiện này đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ
hội trong kinh doanh hàng hoá nói chung và nhất là hàng hoá xuất khẩu dệt may,
nhưng cũng có không ít những khó khăn mà chúng ta cần tháo gỡ. Khi Việt Nam
xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường nước ngoài, sẽ có rất nhiều yếu tố môi
trường tác động đến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này:
Các hạn ngạch nhập khẩu và chính sách nhà nước đối với hàng nhập
khẩu của các nước nhập khẩu: Đây là yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam nói chung và VINATEX nói riêng cần tìm hiểu trước khi muốn
xuất khẩu hàng sang bất kỳ một quốc gia nào để điều chỉnh cho phù hợp. Sự kiên
“quota dệt may” đã có nhiều tác động thuận lợi cho hàng xuất khẩu dệt may của
Việt Nam .
Thu nhập: thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tới lượng cầu của một
loại hàng hoá. Dựa vào thu nhập mà người ta phân chia hàng hoá ra làm hai loại:
hàng hoá thông thường và hàng hoá cấp thấp. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá
giảm khi thu nhập giảm, thì hàng hoá đó gọi là hàng hoá thông thường. Nếu nhu
cầu về một loại hàng hoá tăng khi thu nhập giảm, thì hàng hoá này được gọi là
hàng hoá cấp thấp.
Một người được cho là ăn mặc đẹp hay ít ra là biết cách ăn mặc thì điều
đầu tiên là họ phải có một mức thu nhập kha khá, sau đó sẽ là các yếu tố về tính
thẩm mỹ. Các yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến sức mua của người dân trong
một quốc gia. Hàng hoá dệt may Việt Nam chủ yếu là phục vụ cho những khách
hàng co mức thu nhập trung bình khá.
Thị hiếu và phong tục tập quán của quốc gia nhập khẩu: Yếu tố rõ
ràng nhất quyết định tới nhu cầu khách hàng là thị hiếu. Qua thực tế, chúng ta có
thể nói rằng: hàng dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được những khách hàng
khó tính nhập khẩu. Một phương trâm xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam là “ việc kinh doanh có tính địa phương”. Có nghĩa là khi xuất khẩu
bất kỳ một sản phẩm dệt may nào thì các doanh nghiệp cũng đều quan tâm tới sở
thích của khách hàng và phong tục tập quán ở các thị trường khác nhau. Ví dụ
như: ở thị trường EU, các sản phẩm của chúng ta luôn cố gắng hoàn thiện ở các
khâu chất lượng, mẫu mã, thiết kế để đáp ứng tốt nhu cầu của những khách hàng
khó tính này.
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam:
Việt Nam đang là nước ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đặc biệt với đường lối chính sách kinh tế mở, ưu tiên chú trọng tới
phát triển xuất khẩu của nhà nước ta đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi
cho sự phát triển của ngành dệt may. Ngành dệt may đã từng bước khẳng định
được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong tiến trình hội
nhập kinh tế, nhất là về xuất khẩu.
Hiện nay, đối với Việt Nam, ngành dệt may có vị trí quan trọng trong quá
trình công nghiệp hoá đất nước. Hiện nay ngành này đang thu hút trên 3 triệu lao
động, trong đó 80% là nữ, lao động trong công nghiệp dệt may chiếm khoảng
15% lao động công nghiệp cả nước. Như vậy việc thu hút nhiều lao động trong
dệt may có ý nghĩa to lớn đối với bối cảnh nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi
sang cơ chế thị trường thì lực lượng lao động thất nghiệp ở nước ta rất lớn, đời
sống nhân dân nhiều nơi còn rất khó khăn. Việc thu hút lao động cho ngành dệt
may đã góp phần nâng cao đời sống dân cư, góp phần tạo sự ổn định tình hình
kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng và lãnh thổ theo hướng
tích cực.
Trong 10 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất nước ta thì công nghiệp
dệt may đứng thứ hai sau dầu thô. Trong thập kỷ 90, giá trị xuất khẩu của ngành
tăng 27,3%/năm từ 178,7 riệu USD năm 1990 lên 1,892 triệ USD năm 2000, giá
trị xuất khẩu ngành dệt may chiếm 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong
cả nước.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của
nhiều ngành công nghiệp khác. Trong đó có ngành cung cấp nguyên liệu và các
ngành sử dụng sản phẩm của ngành dệt may.
Đối với xuất khẩu, xuất khẩu dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ quan
trọng để nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu cần thiết để phục vụ sản xuất
và thực hiện các mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dệt may là ngành khá dễ tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Hiện
nay các nước nhập khẩu đều có ưu đãi cho hàng dệt may, đặc biệt là hàng dệt
may của các nước đang phát triển. Hàng rào mậu dịch đối với các sản phẩm
thuộc ngành này đã được dỡ bỏ và nới lỏng rất nhiều.
Dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn có mặt tại hơn 50 nước trên thế
giới, ngành dệt may không chỉ giữ vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện
đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa
kinh tế, hoà nhập vào khu vực và thế giới, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường
cho mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa kinh tế nước ta và kinh tế thế giới.
Chương 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TẬP ĐOÀN
DỆT MAY VIỆT NAM - VINATEX
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển:
Việt Nam là nước nông nghiệp trồng lúa nước, do vậy ngành dệt may Việt
Nam ra đời muộn hơn so với ngành dệt may của các nước phát triển trên thế giới
. Tuy vậy, từ lâu Việt Nam cũng đã xuất hiện những làng nghề, vùng nghề dệt
may khá phát triển: Vạn Phúc, Hà Đông, Nam Định… Những làng nghề này nổi
tiếng về những sản phẩm dệt, may của mình, và cho đến nay những sản phẩm
của họ vẫn rất được ưa chuộng, nhưng chỉ sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún,
tính tự cung, tự cấp là chính. Để xây dựng một ngành công nghiệp dệt may phát
triển thì cần một trình độ công nghiệp cao mà bản thân những làng nghề, vùng
nghề truyền thống này chỉ để lại một vốn kinh nghiệm về dệt may nhất định.
Trước khi Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam thành lập, để thực hiện chức
năng làm đầu mối quản lý nha nước theo ngành chuyên môn hoá thì cơ quan
được nhà nước giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng Công Ty Dệt May Việt
Nam, đối với ngành may là Liên hiệp sản xuất nhập khẩu may.
Tổng Công Ty Dệt Việt Nam (TETIMEX) được thành lập theo Quyết định
số 149-Cnn/TCLD ngày 4/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ (nay là
Bộ Công nghiệp). Liên hiệp sản xuất nhập khảu may (CONFECTIMEX) được
thành lập theo Quyết định số 518-Cnn/TCLD ngày 29/12/1989.
Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch là Việt Nam National
TEXTILE and CAMENT Coporaton (VINATEX ) được thành lập theo Quyết
định số 253/Ttg của Thủ tướng Chính phủ. VINATEX có đầy đủ quyền và nghĩa
vụ theo pháp luật nước CHXHCN Việt Nam. Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam
được thành lập với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên
môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, nâng cao khả
năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổnh công ty.
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang mô
hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Ngày 8/12/2005 Tổng ciong Ty Dệt May Việt Nam tổ chức lễ công bố
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam VINATEX. Với Quyết định này, từ một Tổng công ty có trên 60 đơn vị
thành viên và công ty liên kết, VINATEX trở thành một Tập đoàn có trên 10
công ty mẹ, công ty con, là công ty 100 % vốn nhà nước, công ty TNHH nhà
nước một thành viên, hoặc công ty cổ phần như Dệt may Hà Nội, May Việt Tiến,
May Nhà Bè, May 10…
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam bao gồm các thành viên có quan hệ lợi ích
khác ngoài vốn, là các đối tác kinh doanh, có quan hệ ràng buộc lợi ích về
thương hiệu, uy tín. Hoạt động theo mô hình tập đoàn, VINATEX còn có chức
năng thực hiện các hoạt động dịch vụ, thương mại, bán lẻ, dịch vụ tư vấn… Dự
kiến sau khi hoạt động theo mô hình tập đoàn, VINATEX phấn đấu đạt một số
mục tiêu sau: tới năm 2010, về doanh số đạt 36.800 tỷ đồng, bằng 217%; về kim
ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD, bằng 191%; vốn điều lệ đạt 8.216 tỷ đồng, bằng
215% so với năm 2005.
Tập đoàn kinh tế Dệt-May là tổ hợp của nhiều doanh nghiệp hoạch toán
độc lập, gồm có công ty mẹ và các công ty con, các công ty liên kết, trong đó
công ty mẹ giữ vai trò chi phối các công ty khác về vốn, thị trường, thương hiệu.
Công ty mẹ thực hiện chức năng vừa là đầu tư, vừa thực hiện kinh doanh và
cung cấp các dịch vụ nghiên cứu, tư vấn, đào tạo chuyên ngành dệt may …
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty mẹ
A
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu
chính của VINATEX:
Dệt may vẫn là một lĩnh vực được các nước trên Thế giới nói chung và các
nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nói riêng rất quan tâm.
Ngành công nghiệp này có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường
đa dạng ngành nghề và thường xuyên được đặt lên bàn nghị sự của các vòng đàm
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
CƠ QUAN TỔNG GIÁM ĐỐC BAN KIỂM SOÁT
NHOM
NGUYÊN
LIỆU
NHÓM
HOÀN TẤT
NHÓM SỢI NHÓM MAY
NHÓM DỆT
THOI
NHÓM DỆT
KIM
NHÓM BÁN LẺ
NHÓM QUẢN
TRỊ NHÂN LỰC
NHÓM TÀI
CHÍNH
NHÓM KHAI
MỤC KỸ
THUẬT
NHÓM XÚC
TIẾN THƯƠNG
MẠI
VĂN PHÒNG
CÁC CÔNG TY
CON
phán tự do hóa thương mại toàn cầu. Ngành đệt may tạo nhiều việc làm, riêng
Indonesia sử dụng 1,18 triệu công nhân. Công nghiệp dệt may đạt giá trị xuất
khẩu toàn cầu hơn 350 tỷ USD/năm là nguồn thu đáng kể của nhiều nền kinh tế
như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Pakixtan, Hàn Quốc… Trung
Quốc đứng đầu thế giới về xuất khẩu sản phẩm may mặc. Dệt – may chiếm 4%
tổng sản lượng hàng hóa, 4,8% tổng lượng thương mại và 7% việc làm của EU,
177 nghìn công ty với khoảng 2,1 triệu công nhân của ngành này năm 2003 làm
ra đạt giá trị 200 tỷ EUR, so với 115 tỷ trước đó. Cùng với Mỹ, EU đứng đầu thế
giới về kinh doanh dệt – may, đứng đầu về xuất khẩu sản phẩm dệt, đứng thứ hai
về xuất khẩu sản phẩm may mặc, năm 2002 xuất khẩu hàng dệt – may đạt 43,8
tỷ EUR. Nếu đem so sánh những con số trên với thự trạng ngành công nghiệp
dệt may của Việt Nam thì một thưc tế là chúng ta vẫn còn thua kém nhiều các
nước trên Thế giới và trong khu vực.
Theo quy định của vòng đám phán Urugoay (năm 1994) từ ngày 1/1/2005
WTO xóa bỏ hạn ngạch xuất, nhập khẩu đối với sản phẩm dệt may.
Việc xóa bỏ quota đối với hàng dệt may sẽ làm tăng khối lượng hàng dệt và quần
áo từ các nước châu Á vốn đã tăng trưởng mạnh. Thậm chí chỉ cần tăng trưởng
5,3%/năm trong 12 năm tới hoặc 3,2% trong ngành công nghiệp dệt, thị trường
xuất, nhập khẩu toàn cầu hàng dệt và quần áo vẫn có thể đạt 600 tỷ USD vào
năm 2015. Tuy nhiên thị trường dệt may sẽ cạnh tranh quyết liệt. Xóa bỏ quota
buộc các nước phải có những biện pháp để bảo hộ ngành sản xuất trong nước
như kiện chống bán phá giá. Đây là biện pháp không chỉ nước giàu mà cả nước
nghèo cũng áp dụng.
3. Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những
năm gần đây:
Đứng đầu trong các thị trường xuất khẩu dệt may Việt Nam là Mỹ với kim
ngạch hơn 3 tỷ USD (chiếm 55% thị phần); Liên minh châu Âu (EU) xếp thứ hai
với 1,2 tỷ USD (chiếm 20% thị phần); tiếp theo là các thị trường Nhật Bản,
ASEAN, Canada, Nga và một số thị trường khác.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng
qua lên tới 35,6 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý
dệt may đã chính thức vượt dầu thô để trở thành mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu của
cả nước. 9 tháng qua xuất khẩu dệt may đạt 5,8 tỷ USD, trong khi dầu thô mới
chỉ đạt 5,78 tỷ USD. Như vậy vị trí dẫn đầu xuất khẩu của dầu thổ trong suốt
những năm qua đã bị thay thế bởi dệt may. Thực tế, khả năng dẫn đầu của dệt
may xuất khẩu đã được dự báo trước, và có thể sẽ dữ vững vị trí này trong suốt
giai đoạn tới. Dệt may tiếp tục đà tăng trưởng tốt sau khi gia nhập WTO được dỡ
bỏ rào cản hạn ngạch vào Mỹ. Hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ
Việt Nam trong những tháng cuối năm diễn ra sôi động hơn so với những tháng
đầu năm 2007:
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam
so với kim ngạch nhập khẩu của Mỹ từ các nước khác tăng lên 4,53%.
Lượng nhập khẩu các Cát 844, 839, 434, 237, 648, 435, 644, 607,
642, 639… của Mỹ từ Việt Nam tăng rất mạnh.
Hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam trong những
tháng cuối năm diễn ra sôi động hơn so với những tháng đầu năm 2007. theo số
liệu thống kê của cục Hải quan Mỹ, trong tháng 7 và tháng 8/2007, kim ngạch
nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam đạt trung bình 465 triệu
USD/tháng của 6 tháng đầu năm 2007. Tính chung 8 tháng đầu năm 2007, kim
ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam đạt 2,9 tỷ USD, tăng
25,53% so với cùng kỳ năm 2006, cao hơn so với mức tăng 5,23% tổng kim
ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ nhưng thấp hơn so với mức tăng 28,33%
kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Trung Quốc. Hàng dệt may của
Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Mỹ. Bằng chứng là
lượng nhập khẩu nhiều chủng loại hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam chiếm tỷ
trọng ngày càng cao so với tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của nước
này, điển hình là các Cat 844, 839, 434, 237, 648...
Tập đoàn dệt may VINATEX nhìn chung những tháng cuối năm này có
kim ngạch xuất khẩu ước tính với những con số rất khả thi. Tính chung kim
ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm tập đoàn VINATEX đạt 35,2 tỉ USD, bằng
75,4% kế hoạch năm và tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006.
Trong 8 tháng đầu năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam chiếm 4,53%
kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, tăng so với mức 3,8% của 8 tháng
đầu năm 2006.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU
HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEX
1. Định hướng xuất khẩu:
1.1 . Định hướng chung đến năm 2020:
Trong tương lai, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may
Việt Nam. Thị trường Mỹ quả là một thị trường rộng lớn có rất nhiều triển vọng,
đăc biệt mở ra nhiều cơ hội từ sau Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết
(năm 2000) và chính thức thông qua vào tháng 12/2001. Tuy nhiên, việc thâm
nhập vào thị trường mới cần nhiều thời gian và chi phí, và trước mắt việc xuất
vào thị trường này chưa thể gia tăng đột biến. Trong khi đó, EU vẫn là thị trường
quen thuộc, có sức tiêu thụ lớn và trong tầm tay của các doanh nghiệp dệt may
Việt Nam . Việc các doanh nghiệp chỉ tập trung vào Mỹ và AFTA như hiện nay
sẽ tạo ra độ vênh trong quá trình định hướng thị trường, gây mất cân đối trong
chiến lược xuất khẩu . Khi EU dỡ bỏ hạn ngạch hàng dệt may vào đầu năm 2005
cho các nước thành viên của WTO, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh với
nhiều cường quốc xuất khẩu trong khu vực, đặc biệt là về mặt giá cả, mà theo
ước tính sẽ hạ xuống thấp hơn 7%. Tuy nhiên Việt Nam có những ưu thế nhất
định trong cuộc chiến này nhất là khi giá cả không phải là yếu tố quyết định đối
với người tiêu dùng châu Âu, vì họ luôn đặt chất lượng lên hàng đầu. Theo lộ
trình, đến năm 2020, sẽ nâng tỷ lệ nội địa hóa nguồn nguyên liệu lên 75% và kim
ngạch xuất khẩu đạt khoảng 20-22 tỷ USD. “Đây thực sự là một con số đầy tham
vọng khi ngành dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nền sản xuất
khác, nhất là các nước đang phát triển có cùng lợi thế về nhân công và cùng trình
độ sản xuất”.
Như vậy, nếu như trong thời gian tới Việt Nam tiếp tục tận dụng được những
ưu thế về giá nhân công, kỹ thuật lao động, đồng thời tiếp tục cải cách phương
thức quản lý hạn ngạch, giảm chi phí lưu thông… thì chắc chắn các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều khả năng lấn át các đối thủ cạnh tranh
trong khu vực và trên thế giới, kể cả hai cường quốc về dệt may như Trung Quốc
và Indonesia.
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020:
Theo Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, có thể đưa ra mục tiêu cho những năm
tới như sau:
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2010 và 2015
Chỉ tiêu Đơn vị tính
Mục tiêu toàn ngành
2010 2015
Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 8.000 16.000
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với những nước xuất khẩu chính mà Việt Nam đã, đang, và sẽ xuất khẩu
hàng dệt may của mình sang, cạnh tranh trên thị trường này sẽ còn có nhiều
những thuận lợi, nhưng sẽ phải đương đầu với rất nhiều đối thủ mạnh. Môi
trường cạnh tranh càng tự do bao nhiêu thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
càng phải nỗ lực bấy nhiêu thì mới mong giành được phần thắng trong cuộc đua
đầy thử thách này.
VINATEX chủ trương sẽ vẫn giữ vững thị trường cũ, khai thác thêm thị
trường mới, nên trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu sẽ theo hướng: thị
trường Mỹ, Nhật Bản kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao, tăng cường và
chú trọng hơn đối với các nước khu vực EU, đồng thời một số thị trường mới ở
Trung Đông, Mỹ La Tinh…cũng sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
Chỉ tiêu 2005 2010 2015
Kim ngạch xuất khẩu 800 triệu
USD
2.000 triệu
USD
3.500 triệu
USD
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với bảng số liệu dự tính trên, mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu
sang thị trường EU đạt 3.500 triệu USD không phải là con số quá cao mà dệt
may Việt Nam không thể đạt được ở thị trường EU. Với mục tiêu này thì, kim
ngạch xuất khẩu sang thị trường EU sẽ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất
khẩu sang thị trường thế giới . Tuy giá trị tương đối giảm (từ 40% xuống khoảng
25%) nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng cao.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng có lợi thế
của Việt Nam: áo sơ mi, áo jacket, quần áo thể thao…Khi đã gia nhập WTO, với
sự kiện “quota dệt may” thì các mặt hàng này sẽ có kim ngạch xuất khẩu tăng rất
nhiều trong những năm tới.
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt
May Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới:
Để thâm nhập được vào thị trường các nước trên thế giới như đã nói ở trên,
và đạt được các mục tiêu đã đề ra, ngành dệt may Việt Nam cũng phải tiến hành
những giải pháp chung để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành.
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn:
Để có thể thực hiện triển khai tăng tốc, vốn là một yếu tố rất quan trọng dẫn
đến thành công. Nhưng điều khó khăn là làm sao xác định được nguồn vốn tài
trợ cho ngành cũng là một khâu kế hoạch quan trọng. Sau đây là bảng đề xuất
nhu cấu vốn cho giai đoạn tới:
Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành dệt may giai đoạn 2006-2010:
Đơn vị: tỷ đồng
Nhu cầu vốn đầu tư Toàn ngành VINATEX
Tổng mức đầu tư, trong đó:
- Vốn đầu tư cho mở rộng:
- Vốn cho đầu tư chiều sâu:
Theo hình thức vốn gồm có:
- Vốn cho xây lắp:
- Vốn cho thiết bị:
- Chi phí khác:
- Chi phí dự phòng:
- Vốn lưu động:
30.000
20.000
10.000
2.550
18.000
1.500
1.500
6.450
9.100
1.800
7.300
800
5.500
500
500
1.800
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Có thể thấy rằng: tỷ lệ tín dụng hỗ trợ đầu tư phát triển và cấp vốn lưu động từ
ngân sách thấp, ngân sách hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu phát triển còn hạn chế,
việc xúc tién thương mại triển khai chậm. Đặc biệt cho tới nay, việc áp dụng cơ
chế xuất khẩu tại chỗ cho vải và phụ liệu sản xuất trong nước nằm trong sản
phẩm may xuất khẩu còn chưa được thực hiện. Cụ thể, đối với Tập Đoàn Dệt
May Việt Nam, tỷ lệ hỗ trợ cho đầu tư phát triển chỉ đạt 20,3% nhu cầu; mục tiêu
cấp vốn lưu động đủ 30% yêu cầu cho VINATEX chỉ đạt 3,8%; ngân sách hỗ trợ
cho đào tạo và nghiên cứu phát triển còn hạn chế, mới đáp ứng khoảng 50% yêu
cầu. Do vậy không thể trông chờ hoàn toàn nguồn vốn từ ngân sách mà Tập
Đoàn Dệt May Việt Nam cần phải nghiên cứu và huy động các giải pháp huy
động vón khác nữa như: nguồn vốn nội lực, phát hành cổ phiếu trái phiếu, keu
gọi đầu tư nước ngoài, vốn vay tín dụng, vốn ngân sách…
2.2. Giải pháp về đầu tư:
Đầu tư vào công nghệ: Công nghệ yếu kém là một đặc điểm quan trọng
của ngành dệt may Việt Nam. Muốn có công nghệ tiên tiến thì việc tìm giải pháp
đầu tư để đổi mới công nghệ là rẩt cần thiết. Tuỳ vào tình hình và thực trạng của
mỗi doanh nghiệp dệt may để có các giải pháp cho phù hợp. Có thể đầu tư công
nghệ đã qua sử dụng, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ từ một số nước
có uy tín trên thế giới, đầu tư vào nhiều chủng loại trang thiết bị khác nhau….
Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu:Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 90%
nhu cầu về bông và 100% nhu cầu về xơ sợi tổng hợp. Nguyên liệu nhập khẩu
lớn là nguyên nhân chính phải có hướng đầu tư phát triển nguyên liệu một cách
hợp lý. Việc mở rộng diện tích quy hoạch trồng bông là có giới hạn do diện tích
đất nông nghiệp không thể mở rộng được nhiều. Do đó để tăng sản lượng bông,
thì đây lại là một bài toán nan giải cho Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn.
Trên thực tế, chúng ta cũng đã thực hiện tót các biện pháp nâng cao sản lương
bông như: trồng xen canh với các loại cây khác (ngô, đậu…); khuyến khích nông
dân trồng bông và hình thành những khu trồng bông lớn với chất lượng tốt…
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Trong việc đẩy mạnh đào tạo nhân lực
cho công nghiệp dệt sợi, cần chú ý đến hai vấn đề lớn là đảm bảo yêu cầu cân
đối trên cả hai mặt cơ cấu nhành nghề, cơ cấu trình độ và chất lượng đào tạo.
Phải đảm bảo đào tạo đủ số lượng lao động theo các khâu của quá trình công
nghệ. Phải phát triển đội ngũ công nhân kỹ thuật, và đặc biệt coi trọng đào tạo
đội ngũ cán bộ khoa học và công nghiệp có trình độ cao.
Ngoài ra cần chú trọng cải thiện điều kiện làm việc, giảm nhẹ cường độ
lao động bằng việc đầu tư trang thiết bị hiện đại, các thiết bị xử lý chất thải, đảm
bảo vệ sinh công nghiệp …Đây cũng là một biện pháp tốt để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực.
Đầu tư thiết bị bảo vệ và xử lý môi trường: Trong những năm tiếp theo, để
hạn chế hàng may mặc xuất khẩu, các nước công nghiệp phát triến sẽ tăng cường
các loại hàng rào phi thuế quan để hạn chấ hàng nhập khẩu từ các nước đang
phát triển như yêu cầu về nhãn và nhãn sinh thái, yêu cầu về môi trường và điều
kiện làm việc, yeu cầu chống phá giá… Đây cũng là vấn đề khó khăn cho các
doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Do đòi hỏi phải có các biện pháp tích cực trong
bảo vệ môi trường, phấn đấu trong 5 năm tới, tất cả mọi chất thải từ các nhà máy
dệt phải được xử lý theo đúng tiêu chuẩn trước khi thải ra môi trường sinh thái
xung quanh.
2.3. Giải pháp về thị trường:
Thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng
điểm như EU, Mỹ… Để làm được điều này, Hiệp hội Dệt may, Tập Đoàn Dệt
May Việt Nam và các doanh nghiệp dệt may cần tự mình đưa ra cơ chế nhằm
khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường
trọng yếu đó. Hệ thống mạng thương mại cần thiết nhiều đầu mối trên sân nhà
của mình, đặc biệt là sử dụng các công ty luật của nước ngoài có mặt tại Việt
Nam để làm tư vấn pháp luật cho hoạt động xuất khẩu.
Mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dệt may hoặc thương mại dịch vụ
dệt may cần coi trọng việc thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp. Đặc biệt là
xây dựng cho bản thân mỗi đơn vị có phong cách và nhãn hiệu lâu dài, và các bộ
sưu tập theo từng mùa như phương pháp kinh doanh của các tập đoàn phân phối
hàng dệt may lớn trên thế giới.
Cần coi trọng việc xây dựng và đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm.
Đầu tư nhiều vào quảng bá tên, nhãn hiệu, truyền thông của công ty không
những ở thị trường nội địa mà ngay tại các thị trường xuất khẩu. Để làm được
điều này, các đơn vị dệt may cần có biện pháp sử dụng và khai thác tốt các
phương tiện thông tin hiện đại ngày nay, đặc biệt là hình thức kinh doanh trên
mạng.
Với tiềm lực và vai trò chủ lực của mình, Tập Đoàn Dệt May Việt Nam đã
và đang triển khai xây dựng mạng xúc tiến thương mại toàn cầu. Đó sẽ là những
địa chỉ đáng tin cậy cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhằm thâm nhập,
củng cố và mở rộng thị trường thương mại của mình.
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành:
- Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại
nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp dệt may. Cần có sự
thống nhất thực hiện từ phía các cấp, các ngành, từ trong Đảng đến Chính quyền
và các tổ chức quần chúng khác. Giám đốc là người chịu trách nhiệm mọi mặt
của công ty, do vậy giám đốc cần được trao các quyền cần thiết để thực thi
nhiệm vụ của mình theo đúng pháp luật.
- Các doanh nghiệp dệt may cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông
tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý xí nghiệp.
Đây là một phương pháp điều hành tiên tiến hiện nay.
- Để có thể tiếp nhận các công nghệ phù hợp, nhận các loại thiết bị tương
thích thì việc củng cố các viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật
chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm
đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả.
- Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để
bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu tư
mới sau khi đã qua khoá đào tạo ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
- Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết
các khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới.
- Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền
văn hoá doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho ngành dệt may.
- Củng cố viện nghiên cứu chuyên ngành còn nhằm mục đích thay mặt cho
ngành dệt may phối hợp với các cơ quan hải quan, cơ quan thuế thực hiện các
thủ tục hải quan và thuế sao cho có lợi đối với các sản phẩm dệt may Việt Nam.
- Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nâng cao hiệu quả đào tạo (
kể cả việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để đáp ứng nhu cầu tăng vọt
để cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu dệt
may vào thị trường thế giới:
3.1. Xúc tiến thương mại:
- Xúc tiến các quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới, đặc biệt là các
thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Theo định hướng dến năm 2020, EU
và Mỹ sẽ là hai thị trường chính của hang dệt may Việt Nam, do đó trong việc
xuc tiến thương mại trên thế giới phải đặc biệt chú ý đến hai thị trường này. Mục
đích trong các cuộc xúc tiến thương mại này là tạo điều kiện cho xuất khẩu hang
dệt may Việt Nam sang thị trường này được thuận lợi hơn.
- Tổ chức các cuộc triển lãm, giới thiệu đất nước, con người, văn hoá Việt
Nam sang thị trường các nước trên thế giới.Quảng bá mạnh thương hiệu Việt
Nam với thế giới nói chung và thị trường các nước xuất khẩu dệt may của Việt
Nam nói riêng. Những việc này chỉ có thể tiến hành ở cấp Chính phủ giữa Việt
Nam và các nước.
- Trích phí quota để hỗ trợ một phần kinh phí trong việc khia thác và thâm
nhập thị trường.
- Thường xuyên cung cấp thông tin cập nhật về thị trường EU, Mỹ, AFTA…
cho các doanh nghiệp, ví dụ: các thủ tục mới, quy chế về hạn ngạch mới, tiêu
chuẩn kỹ thuật mới…từ các nước trên thế giới.
- Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu nhằm rút ngắn thời gian giao hang và thanh
lý hợp đồng.
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư:
- Giải pháp về đầu tư công nghệ mới nhất, với trang thiết bị hiện đại nhằm tạo
một bước nhảy vọt về chất lượng và sản lượng. Mặt khác cần coi trọng tận dụng
các trang thiết bị đã qua sử dụng, với công nghệ tiêntiến từ các nước công nghiệp
hoá, thế hệ những năm 90 trở lại đây.
- Thực hiện ưu đãi đầu tư đối với 10 cụm công nghiệp mới:
+ Chính phủ chỉ đạo các tỉnh, thành phố cấp đất (không thu phí) để xây
dựng các cụm công nghiệp dệt may nói trên.
+ Các tỉnh thành phố phối hợp với Tập Đoàn Dệt May Việt Nam xây dựng
hạ tầng và quy hoách sản xuât ở các cụm này.
- Đối với các doanh nghiệp mới thành lập trong các cụm này được hưởng
chính sách ưu đãi đầu tư, cụ thể là:
+ Giảm 50% phí hạ tầng trong 5 năm đầu
+ Miễn thuế thunhập trong 5 năm đầu và giảm 50% trong 5 năm tiếp theo.
- Ban hành chính sách hỗ trợ đầu tư giúp các địa phương có truyền thống dệt
may để các địa phương này pgát huy thế mạnh sẵn có. Ví dụ: Nam Định, Hà
Đông, Vạn Phúc…
- Cải thiện cơ sở hạ tầng đồng thời kiện toàn các thủ tục xuất nhập khẩu để
không ngừng thu hút đầu tư nước ngoài. Hiện nay cơ sở hạ tầng của Việt Nam
còn yếu, chi phí vận chuyển, viễn thông, thuế áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài
còn rất cao so với các nước trong khu vực, sự thiếu thốn về loại hình dịch vụ
trong thông tin lien lạc đang làm giảm hiệu quả sản xuất – kinh doanh không
những của riêng công ty mà đối với toàn ngành nói chung. Các thủ tục hải quan
rườm rà, tăng chi phí cho doanh nghiệp trong việc giảm giá thành sản phẩm.
Hiện nay, chi phí và thời gian là hai vấn đề chính mà các nhà sản xuất hang may
mặc rất quan tâm. Vì vậy, việc chậm trễ thanh lý tờ khai hải quan trong việc
nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho ngành dệt may sẽ gây ra chậm trễ trong
việc giao hang và gây nhiều tổn thất không tính trước cho các công ty. Vì vậy
Chính phủ cần gấp rút cải thiện cơ sở hạ tầng và đơn giản hoá các thủ tục hải
quan.
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu:
Nguyên nhân chính của tình trạng hang dệt may Việt Nam chủ yếu là xuất
khẩu gián tiếp qua nước thứ ba, tỷ lệ gia công chiếm cao là do Việt Nam chưa tự
túc được nguồn nguyên phụ liệu. Nguyên phụ liệu chủ yếu vẫn phải nhập khẩu
từ nước ngoài, làm hạ thấp giá trị gia tăng, lợi nhuận nhỏ. Vì vậy Chính phủ nên
có chính sách tập trung phát triển các nguồn nguyên liệu như bong, tơ tằm, xơ
sợi tổng hợp cùng với việc phát triển công hoá dầu. Việc nâng cao tỷ lệ giá trị
xuất xứ nội địa trên sản phẩm dệt may vừa là một yêu cầu bắt buộc của thị
trường nhập khẩu, vừa là mục tiêu chiến lược “tăng tốc” nhằm nâng cao phần lợi
nhuận cho ngành và cho đất nước.. Cụ thể:
Yêu cầu đối với đầu ra sản xuất vải và nguyên phụ liệu trong nước cung cấp
cho xuất khẩu:
- Áp dụng thuế VAT bằng 0% cho vải sản xuất tại Việt Nam cung cấp cho
may xuất khẩu .
- Hỗ trợ di dời và hiện đại hoá các nhà máy dệt may tại các đô thị lớn.
Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ đẩy mạnh sản xuất bông:
- Hỗ trợ thực hiện các chương trình thuỷ lợi tại một số vùng trọng điểm
canh tác bông có tưới như: Bình Thuân, Ninh Thuận, Quảng Nam, Quảng
Ngãi…
- Khấu trừ thuế VAT đầu vào cho việc chếbiến bông. Tránh tình trang
thuế chồng thuế làm đội giá thành.
- Cho phép ngành trồng bông áp dụng công nghệ sinh học.
- Cần có chính sách vay vốn ưu đãi, nhất là cho các dự án xây dựng các cơ
sở sản xuất, chế biến bông.
- Lập quỹ phát triển cây bông để trợ giá thu mua bông với giá thấp phù
hợp.
- Nhà nước cần có các chính sách thuế và quản lý “quota” nhập khẩu bông
để kiểm soát bông nhập khẩu, khuyến khích sử dụng bông trong nước.
Giải pháp hỗ trợ dâu tằm tơ:
- Thúc đẩy quá trình đưa tiến bộ kỹ thuật dâu và tằm vào sản xuất để có
diều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Đôn đốc các địa phương làm tốt công tác quy hoạch dâu tằm gần với quy
hoạch công nghiệp chế biến tơ lụa, chấm dứt tình trạng tranh mua tranh bán
khiến người nông dân không thực hiện đúng kỹ thuật nuôi tằm.
III- KẾT LUẬN
Luôn song hành cùng sự hình thành và phát triển của xã hội loài người,
ngành dệt may Việt Nam đã biết kế thừa và phát huy truyền thống để ngày càng
khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn cho sự phát triển của kinh tế đất
nước. Nhất là trong 20 năm đổi mới gần đây, cùng với sự kiện Việt Nam chính
thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương Mại Thế Giới WTO và
“quota dệt may”, ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Từ vị trí đứng thứ hai sau dầu thô, đã vươn lên vị trí thứ nhất về kim ngạch xuất
khẩu.
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINAT EX với vị trí dẫn đầu toàn ngành,
hoạt động dưới hình thức công ty mẹ - công ty con, đã, đang, và sẽ không ngừng
khẳng định vị trí của mình trên thị trường dệt may thế giới trong thời gian sắp
tới.
Cùng với sự cố gắng không ngừng của các doanh nghiệp, các chính sách
Nhà nước đóng một vai trò không nhỏ trong việc tạo điều kiện cho hàng xuất
khẩu dệt may Việt Nam sang các nước được thuận lợi. Do có một vị trí quan
trọng trong sự phát triến kinh tế đất nước với kim ngạch xuất khẩu hàng năm
đứng vị trí thứ nhất trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước cũng đã có
những ưu tiên nhất định cho ngành công nghiệp nhẹ này.
IV. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dệt May Việt Nam - Cơ hội và thách thức – NXB chính trị quốc gia
Hà Nội – 2003.
2. Đánh giá năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam sau Hiệp
định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ - Hiệp hội dệt may Việt Nam.
3. Chính sách công nghiệp và thương mại của Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập - Đại học Kinh Tế Quốc dân.
4. Báo cáo đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công nghiệp Việt
Nam.
5. Chiến lược tăng tốc ngành dệt may Việt Nam.
6. Thời báo kinh tế đầu tư.
7. Trang vietnamnet.com.vn, các số liệu của Tập Đoàn Dệt May Việt
Nam, ngày 26/11/2007.
V- PHỤ LỤC
Sơ đồ quá trình sản xuất và phân phối hàng
dệt may Việt Nam
Nguồn: Tập đoàn Dệt – May Việt Nam
Thiết kế sợi
Nhuộm sợi
Dệt, đan
Nhuộm màu, in văn
hoa
Cắt vải
May
Hoàn thiện
Thị trường, bán lẻ
Dệt
Phụ liệu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61117_7537.pdf