Chi nhánh cần tăng cường quan tâm công tác hậu kiểm ở từng bộ phận nghiệp vụ 
tại chi nhánh nhất là khâu tín dụng để phát hiện các sai sót, kịp thời chỉnh sửa. Các 
phòng thực hiện nghiệp vụ cho vay phải phân công lãnh đạo phòng thực hiện kiểm 
tra lại các khoản vay phát sinh và việc khai báo thông tin, số liệu vào hệ thống.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 72 trang
72 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2723 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lỗ do rơi vào thời điểm dịch cúm gia cầm phát sinh; một doanh nghiệp 
vay vốn kinh doanh chứng khoán thua lỗ. Nguồn xử lý rủi ro vượt mức dự phòng 
rủi ro đã trích được NHCTVN phân bổ cho Chi nhánh trích bù bổ sung trong năm 
2007. Tuy nhiên do các khoản vay này đều có tài sản thế chấp nên Chi nhánh đều 
thu hồi được vốn và lãi vào đầu năm 2008. 
Năm 2007, Chi nhánh xử lý được 145 triệu, chủ yếu do khách hàng tự trả nợ, đến 
năm 2008 Chi nhánh xử lý được 2.384 triệu từ nguồn dự phòng (khoản nợ được 
hạch toán ngoại bảng) và thu nợ được 1.761 triệu nên nợ xấu đã giảm đáng kể, tuy 
 48 
nhiên quỹ dự phòng cụ thể đến cuối năm 2008 tại Chi nhánh chỉ còn 449 triệu 
đồng. 
Nhìn chung, những thiệt hại do rủi ro tín dụng tại chi nhánh không lớn. Kết quả 
này một phần do chi nhánh rất coi trọng yếu tố tài sản thế chấp cho các khoản vay. 
Tuy nhiên trước tình hình suy giảm chung của kinh tế thế giới, sự “đóng băng” của 
trường bất động sản, nếu không quan tâm đến công tác quản trị và nâng cao chất 
lượng thẩm định, thì Chi nhánh sẽ có nhiều nguy cơ mất vốn do tài sản thế chấp 
phát mãi thu hồi không đủ. 
2.3.6. Nguyên nhân rủi ro tín dụng tại NHCTVN-CN11 
Qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHCTVN-CN11, cụ thể là 
phân tích tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng thông qua tỷ lệ nợ xấu trên 
tổng dư nợ, nhận thấy có nhiều nguyên nhân chủ quan từ phía chính NHCTVN-
CN11 và nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế nói chung, các cơ quan ban 
ngành có liên quan, và từ phía các khách hàng của ngân hàng, dẫn đến việc phát 
sinh rủi ro tín dụng. Việc nhận biết được nguyên nhân dẫn đến rủi ro để có thể đưa 
ra những giải pháp phù hợp là công việc quan trọng và cần thiết để nâng cao chất 
lượng quản lý rủi ro tín dụng của NHCTVN-CN11. 
2.3.6.1. Nguyên nhân khách quan: 
+ Sự thiếu nhất quán và đồng bộ trong quản lý điều hành của nhà nước và các 
văn bản luật: 
Hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua chịu ảnh hưởng 
không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động 
ngân hàng có sự chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ 
trong đó có các chính sách về xuất nhập khẩu. Như trong thời gian vừa qua, khi 
Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà 
trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất 
hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua 
lỗ, từ đó dẫn đến việc khách hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân 
hàng. 
 49 
Chính sách quy hoạch thiếu nhất quán cũng gây không ít khó khăn cho nhiều 
khách hàng của Chi nhánh. Vốn trước đây, địa bàn hoạt động của các khách hàng 
này đóng tại Quận 11, sau đó do hoạt động sản xuất gây ô nhiễm, theo chủ trương 
của Quận, một số doanh nghiệp phải thực hiện di dời. Tuy nhiên, do điều kiện vốn 
đầu tư còn thấp nên không ít doanh nghiệp đã phải tự di dời vào những khu công 
nghiệp tự phát ở Củ Chi, Bình Tân, Bình Chánh, Long An vào những năm 2000-
2005... Sau một thời gian chưa kịp cho hoạt động ổn định và phát triển, các doanh 
nghiệp này lại phải hoặc đã có kế hoạch tiếp tục di dời vào những khu công nghiệp 
tập trung, nên gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc ổn định sản xuất và làm 
phát sinh thêm các chi phí cho việc tái di dời. 
Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh 
doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị 
trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh 
không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hoá khó 
tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ, khi 
đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi. 
+ Thông tin tín dụng: 
Trong thời gian qua, NHCTVN-CN11 trước khi quyết định cấp tín dụng, nhiều lần 
khai thác thông tin từ CIC, tuy nguồn thông tin do CIC cung cấp đã có nhiều cải 
tiến nhưng vẫn chưa đảm bảo nhanh nhạy, kịp thời, chất lượng thông tin chưa thật 
sự đáp ứng được yêu cầu. 
Các NHTM nói chung và NHCTVN-CN11 nói riêng hiện nay chưa nhận được sự 
phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi 
cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản. 
Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHCTVN-CN11 cũng còn lệ thuộc khá 
nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông 
tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các ngân hàng và 
khách hàng vay . 
2.3.6.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHCTVN-CN11: 
+ Cán bộ tín dụng: 
 50 
Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại NHCTVN-
CN11 hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù tất cả các cán bộ tín 
dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi 
của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, phần lớn vừa được tuyển dụng, còn ít kinh 
nghiệm nên cần phải có thêm thời gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều 
kinh nghiệm. Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức 
tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện 
công việc một cách thụ động. 
Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của 
NHCTVN-CN11 hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh nên 
dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào 
một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Cho nên 
đối với những dự án đòi hỏi phải thẩm định liên quan đến các yếu tố về kỹ thuật, 
cán bộ tín dụng chưa thể đáp ứng được yêu cầu.. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi 
chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp 
chí chuyên ngành, qua mạng internet. 
Ngoài ra, do khối lượng công việc nhiều trong khi đòi hỏi thời gian giải quyết cho 
vay phải nhanh chóng để phục vụ khách hàng nên cũng không thể tránh khỏi sơ 
suất trong tác nghiệp của cán bô tín dụng. 
+ Thông tin tín dụng: 
Việc thu thập thông tin của chi nhánh về khách hàng, về ngành nghề, về môi 
trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động còn nhiều hạn chế, chủ yếu thông 
qua ( CIC ), chi nhánh chưa quan tâm đến công tác lưu trữ và phân tích các thông 
tin về khách hàng, về tình hình diễn biến giá cả, thị trường trong và ngoài nước 
một cách hệ thống và thường xuyên. 
+ Tài sản bảo dảm: 
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHCTVN-CN11 trong thời gian qua tuy 
không nhiều nhưng khi cần đến phát mãi tài sản thế chấp Chi nhánh cũng gặp 
không ít khó khăn liên quan đến TSBĐ. 
 51 
- Người vay không phải là người chủ sở hữu của tài sản thế chấp mà cũng không 
phải là tài sản thế chấp của bên thứ 3. Trường hợp này, người vay vốn được chủ 
sở hữu tài sản uỷ quyền để sử dụng tài sản trong đó có quyền được thế chấp.Về 
khía cạnh pháp lý khi thế chấp và vay vốn là không sai, và các cơ quan công 
chứng cũng chấp nhận chứng thực vào hợp đồng thế chấp, nhưng khi cần phát mãi 
thì người chủ sở hữu gây khó khăn cho Ngân hàng và làm kéo dài thời gian tố 
tụng. Lý do chủ sở hữu tài sản viện dẫn là không uỷ quyền việc bán tài sản hoặc 
người được uỷ quyền thế chấp tài sản đã sử dụng vốn vay không phù hợp với thoả 
thuận với người uỷ quyền. 
- Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được các cán bộ 
tín dụng làm thường xuyên và định kỳ hàng năm, thậm chí việc định giá lại tài sản 
đảm bảo chỉ làm chiếu lệ, thường là đánh giá bằng với mức trước đây để hợp pháp 
hoá cho khoản vay còn dư nợ tại thời điểm định giá lại. Nên có một số trường hợp 
khi phát mãi, xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định 
ban đầu, không đủ thu hồi lãi, buộc Chi nhánh phải thực hiện giảm và xóa lãi cho 
người vay. 
- Quá trình định giá trị TSBĐ được chi nhánh thực hiện theo cách các bên tự thoả 
thuận, sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở tham khảo bảng 
giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số cán bộ tín dụng tại 
NHCTVN-CN11 còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên chưa được trang bị 
đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định giá cũng như sự thông thạo 
về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Chính vì vậy, khi 
tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các 
cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách 
hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng 
thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán. 
- Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa 
vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được 
trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải 
bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh 
 52 
doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ 
làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được 
hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, 
khách hàng không uy tín. 
- Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên không 
tránh khỏi việc cán bộ tín dụng không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của 
tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị chuyên 
dụng. Thêm vào đó là tình trạng thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ 
giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Vì khi thế chấp, 
cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản. Chính vì vậy, 
khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn. 
- Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các vấn đề liên 
quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho ngân hàng 
+ Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và mô hình tổ chức: 
Song song với việc thực hiện đề án hiện đại hóa ngân hàng do NHCTVN triển 
khai, bên cạnh việc áp dụng công nghệ quản lý hiện đại, NHCTVN đã ban hành, 
đổi mới nhiều quy định, quy trình cho vay và giám sát cho vay..., đồng thời 
NHCTVN cũng xây dựng và triển khai mô hình hoạt động mới, điểm nổi bật là đã 
thay đổi căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống bằng 
mô hình hiện đại. Tại các chi nhánh trong hệ thống NHCTVN, phòng tín dụng 
được tách ra thành các phòng khách hàng doanh nghiệp và phòng khách hàng cá 
nhân. Ngoài ra thành lập thêm phòng thẩm định rủi ro độc lập đảm bảo hai chức 
năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là chức năng quan hệ khách hàng và 
chức năng quản lý rủi ro. Mô hình mới được thực hiện theo Quyết định 063/QĐ-
HĐQT-NHCT1 ngày 29/03/2006, nhưng mãi đến 01/07/2007 Chi nhánh mới 
thành lập được Tổ quản lý rủi ro, nhưng nhân sự đến nay vẫn chưa ổn định. Kể từ 
khi mô hình mới đi vào hoạt động, tính hiệu quả của quy trình chưa cao vì thực 
chất ý kiến đề xuất cho vay của phòng khách hàng vẫn có tính quyết định trong xét 
duyệt cho vay. Tổ quản lý rủi ro chủ yếu hợp thức hóa quy trình cho vay, chưa 
 53 
phát huy vai trò của mình, một phần do kinh nghiệm còn hạn chế một phần do nễ 
nang chưa có những ý kiến, đề xuất thực sự độc lập. 
+ Công tác thẩm định: 
Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và ảnh 
hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu công tác 
thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng phải 
tiến hành thẩm định cả yếu tố uy tín, năng lực quản lý và năng lực quản trị của 
khách hàng. 
Tuy nhiên, hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là vấn đề thật 
sự khó khăn khi nguồn thông tin của khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi 
đánh giá, chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong 
quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối 
với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín 
dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong 
khi đó, đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là 
khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây 
dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò 
của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là 
việc giới thiệu các thành viên cho thị trường, nên đã dẫn đến việc thu thập thông 
tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn. 
Về năng lực quản trị, mặc dù nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự 
thành bại của doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn 
của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo 
của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và 
số năm công tác. Kết quả là việc đánh giá năng lực quản lý của khách hàng chỉ 
mang tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất. 
Về năng lực tài chính, công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc 
phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. 
 54 
Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ 
tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các doanh 
nghiệp tư nhân. Ngân hàng dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng 
không dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu 
chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng 
thực chất năng lực tài chính của khách hàng. 
Đối với các dự án/phương án, thẩm định tính hiệu quả là khâu quan trọng, ảnh 
hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Tuy nhiên do có nhiều 
nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá 
phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả: 
- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định các khía cạnh như 
yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án. 
Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của 
Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên thị trường hiện 
nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó, 
khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải 
dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,… 
- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu 
hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu. 
- Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên 
thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra 
nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định 
liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, … 
- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, xếp loại doanh nghiệp giữa 
các ngân hàng chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định kỳ, 
một số ngân hàng còn xem việc này chỉ mang tính hình thức. 
Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều kiện 
trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu. 
+ Công tác kiểm tra cho vay: 
 55 
- Công tác kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của chi nhánh còn sơ sài và hình 
thức, đặc biệt là việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn và phân tích đảm bảo nợ. 
Phần lớn, các biên bản kiểm tra đều không có chứng từ chứng minh cho việc sử 
dụng vốn mà chỉ liệt kê danh mục hàng hóa mua vào dựa theo mục đích và 
phương án vay để kết luận là sử dụng vốn đúng mục đích, nhiều biên bản kiểm tra 
không có chữ ký của lãnh đạo các phòng cho vay. 
Việc phân tích đảm bảo không thực hiện đúng quy định của NHCTVN, do không 
loại trừ các khoản mục phải loại trừ khi tính toán nên hầu hết các khoản vay đều 
có đủ tài sản đảm bảo trong khi có một số khách hàng có tình hình nợ phải thu khó 
đòi và hàng hóa chậm luân chuyển. 
- Đối với bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ, tuy đã phát huy vai trò kiểm tra kiểm 
soát tại chi nhánh, phát hiện và kiến nghị chấn chỉnh nhiều sai sót nhưng nhìn 
chung vẫn còn hiện tượng nễ nang, chưa thật sự kiên quyết trong việc khắc phục 
và chấn chỉnh của chi nhánh. 
+ Công nghệ quản lý: 
- Hệ thống INCAS quá nhiều giao diện dẫn đến truy cập và khai báo thông tin 
chậm gây khó khăn cho hoạt động kiểm soát 
- Giao dịch một cửa có những ưu việt của nó tuy nhiên việc để một giao dịch viên 
phải làm nhiều nghiệp vụ kể cả thủ quỹ, dễ dẫn đến thất thoát trước áp lực giao 
dịch ngày càng nhiều. Hơn nữa có khẻ hở trong quản lý hiện nay là: Khi đến hạn 
trả nợ nếu chỉ cần thông đồng giữa các bộ tín dụng, khách hàng và giao dịch viên, 
thì có thể thực hiện đảo nợ cho khách, khách hàng không cần mang tiền mặt đến 
mà chỉ cần giao dịch viên làm các lệnh thu khống và chi khống (về mặt nguyên tắc 
lãnh đạo phòng kế toán phải kiểm soát và phê duyệt các giao dịch nhưng không 
thể kiểm tra quỹ của giao dịch viên liên tục được vì ảnh hưởng đến việc phục vụ 
khách hàng), xem như món vay đã trả nợ và vay lại trong ngày. Như vậy khó đánh 
giá chính xác được chất lượng của khoản vay. Quy trình trước khi áp dụng giao 
dịch một cửa chặt chẻ hơn hiện nay. Trong quy trình trước đây, để trả nợ thì khách 
hàng phải sang phòng ngân quỹ để nộp tiền, sau đó mang giấy nộp tiền cho giao 
 56 
dịch viên để hạch toán (việc thông đồng giữa nhân viên kiểm ngân và giao dịch 
viên khó thực hiện hơn) 
- Hệ thống quản lý bằng các chương trình là xu hướng tất yếu, nhưng nếu dữ liệu 
nhập không chính xác, hoặc không đầy đủ sẽ dẫn đến sai sót, cần những con người 
kỹ lưỡng và giám sát chặt chẻ. 
- Trong hệ thống INCAS, một số màn hình, khi khai báo các thông tin vào hệ 
thống, có những thông tin khai báo sai, thậm chí không khai báo (ví dụ không khai 
báo lãi suất cho vay) hệ thống chỉ cảnh báo và nếu người nhập liệu đồng ý thì hệ 
thống vẫn chấp nhận.Trong chương trình MISAC trước đây phải yêu cầu nhập liệu 
đầy đủ và chính xác, hệ thống mới chấp nhận. 
- Nghiệp vụ cho vay qua phát hành thẻ tín dụng, nếu hệ thống máy có sự cố, khách 
hàng có thể rút vượt quá số dư mà ngân hàng không thể kiểm soát được. 
+ Nguyên nhân khác: 
Do áp lực phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, chạy theo thành tích muốn 
tăng nhanh dư nợ vào thời gian những tháng cuối năm, không chỉ riêng NHCTVN-
CN11 mà hầu hết các NHTM đều xảy ra tình trạng hạ thấp điều kiện tín dụng để 
thu hút khách hàng, dẫn đến việc cạnh tranh thiếu lành mạnh. Công tác thẩm định 
chỉ được thực hiện mang tính hình thức, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát trước, 
trong và sau khi cho vay. 
2.3.6.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn: 
+ Đối với khách hàng là doanh nghiệp: 
Trong thực tế hoạt động tín dụng tại NHCTVN-CN11, rủi ro tín dụng xuất phát từ 
phía khách hàng là doanh nghiệp thường do các nguyên nhân: 
- Sau khi nhận được vốn vay, các doanh nghiệp thường có động cơ sử dụng vốn 
vào các mục đích rủi ro với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, vấn đề các doanh nghiệp 
sử dụng vốn vay không đúng mục đích không chỉ do ý chí chủ quan của doanh 
nghiệp mà còn xuất phát từ công tác giám sát khách hàng sau khi cho vay của 
ngân hàng chưa thật sự chặt chẽ. 
- Hầu hết các khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ 
và chính xác để phục vụ cho việc cấp tín dụng: các báo cáo tài chính thường thiếu 
 57 
sự minh bạch, trung thực, không được kiểm toán hoặc một số doanh nghiệp tuy có 
thực hiện kiểm toán nhưng chậm so với thời gian ngân hàng cần có để sử dụng cho 
quá trình phân tích. 
- Công tác quản lý, điều hành của một số doanh nghiệp chưa hiệu quả. Năng lực 
điều hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm và tầm nhìn 
về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về quản lý kinh tế 
yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh rõ ràng, 
cụ thể, không có kế hoạch kinh doanh được triển khai, không chủ động trong việc 
tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị trường, ngành hàng, về tình hình 
hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp không có 
khả năng thích ứng kịp thời với sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng 
của thị trường và môi trường kinh doanh, cũng như các sản phẩm làm ra không có 
sự gắn kết, không đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng... 
- Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn 
đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp. 
- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chuyên môn, tay nghề, kỷ thuật và 
kỹ luật lao động. 
- Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy lĩnh vực nào có hiệu 
quả, các doanh nghiệp thường đổ xô đầu tư mà không xem xét đầy đủ mọi khía 
cạnh. 
- Công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp không tạo ra được những sản 
phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban lãnh đạo chưa đủ tầm 
nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và 
công nghệ. 
- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường 
kinh tế - xã hội… 
+ Đối với khách hàng là cá nhân: 
Với các khách hàng là cá nhân, nguyên nhân dẫn đến rủi ro cho NHCTVN-CN11 
do: 
 58 
- Hoạt động kinh doanh của khách hàng không gặp thuận lợi, khả năng quản lý 
tình hình tài chính yếu kém. 
- Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc, 
chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động. 
- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống nên phải sử dụng một số 
tiền lớn do đó ảnh hưởng khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. 
- Đạo đức cá nhân không tốt: sử dụng vốn sai mục đích, cố tình chây ỳ không trả 
nợ 
 59 
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÒNG NGỪA, HẠN CHẾ RỦI 
RO TÍN DỤNG 
3.1. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân hàng 
Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,...): 
3.1.1. Các vấn đề liên quan đến quản lý vĩ mô: 
Chính Phủ cùng với các cơ quan ngang bộ (như NHNN, Bộ Tài Chính, Bộ Tài 
Nguyên Môi Trường,...) cần xem xét, rà soát lại tất cả các văn bản liên quan đến 
hoạt động tín dụng, đảm bảo tính chặt chẽ, hợp lý, rõ ràng và không có sự chồng 
chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản Luật thông qua việc ban hành các văn bản mới 
để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế các văn bản có những điều khoản chưa hợp lý. 
Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để các NHTM có cơ sở cho 
việc dẫn chiếu các căn cứ pháp lý. 
Bên cạnh đó, Chính Phủ và các cơ quan ngang Bộ cần nghiên cứu ban hành các 
văn bản Luật, các quy định về những vấn đề mới, mang tính cấp thiết đối với hoạt 
động tín dụng như: 
- Ban hành các văn bản quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh 
nghiệp, đặc biệt đối với các công ty cổ phần để các NHTM dựa vào đó quy định 
báo cáo tài chính của các công ty khi vay vốn phải có xác nhận của tổ chức kiểm 
toán độc lập, là điều kiện không thể thiếu khi vay vốn. 
- Xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng 
các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ 
bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án. 
3.1.2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 
Chính Phủ và NHNN cần quan tâm đến việc nâng cấp và phát triển Trung tâm 
thông tin tín dụng (CIC) trở thành trung tâm dữ liệu hàng đầu quốc gia: 
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nên xây dựng phần mềm đa năng ứng dụng 
thống nhất cho các ngân hàng, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng công nghệ tin 
học trong công tác phân tích, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, cập nhật lưu trữ 
thông tin khách hàng, đảm bảo tính chính xác, rút ngắn thời gian thẩm định. Phải 
 60 
có chế độ kiểm tra, biện pháp chế tài đối với những ngân hàng không chuyển số 
liệu về Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) theo quy định. 
- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp 
dụng công nghệ mới, hiện đại hóa và tự động hóa tất cả các công đoạn xử lý 
nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin, đẩy mạnh việc thu thập, xử lý và 
cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả đối với hoạt động của các ngân hàng 
và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sâu phân tích, đánh 
giá, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro 
tín dụng. 
- Để tạo tiền đề cho những bước phát triển mới trong hoạt động nghiệp vụ, phân 
tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm tín dụng, 
Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cần thực hiện nghiên cứu đề án: thay đổi mở 
rộng việc phân ngành kinh tế, mở rộng hơn các đối tượng được sử dụng thông tin 
phân tích, kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, bổ sung và lượng hóa một số 
chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, các chỉ tiêu về dư nợ. 
Bên cạnh đó, Chính Phủ cần nghiên cứu cho phép thành lập các trung tâm thông 
tin tín dụng tư nhân để tăng cường khả năng tiếp cận tài chính ở Việt Nam. Đây là 
một lĩnh vực khá mới, cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ trong giai đoạn đầu thực 
hiện. Để có được một trung tâm thông tin tín dụng tư nhân hoạt động hiệu quả, 
cần: 
- Xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp. 
- Có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các tổ chức tài 
chính lớn. 
- Có sự hợp tác giữa khu vực công-tư và sự hiểu biết của toàn xã hội. 
- Tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế. 
Ngoài ra, NHNN cũng cần ban hành các quy định cụ thể và chế tài đối với các 
NHTM trong việc bắt buộc các NHTM phải khai thác, sử dụng thông tin như là 
điều kiện cần phải có trong quy trình cấp tín dụng và cung cấp thông tin về cho 
Trung tâm thông tín dụng (CIC) chính xác và kịp thời. Thanh tra NHNN, NHNN 
chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung tâm thông tin tín dụng 
 61 
phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các NHTM, đồng 
thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đơn vị vi phạm chế độ 
báo cáo thông tin tín dụng. 
Chính Phủ cần khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề để tạo ra sự gắn 
kết trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu nối giữa các 
doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài – trong đó có bên cung ứng 
vốn là ngân hàng. Các hiệp hội sẽ thực hiện các nhiệm vụ: nghiên cứu thị trường, 
xúc tiến đầu tư, dự báo phát triển ngành, tiếp cận thị trường mới, đánh giá và xếp 
loại các doanh nghiệp trong ngành,… Để hoạt động có hiệu quả, các hiệp hội nên 
hoạt động độc lập về mặt chính trị với mục tiêu là phục vụ cho sự phát triển đi lên 
của ngành. 
NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần có những định hướng cụ thể trong việc thiết lập 
hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chung cho cả hệ thống ngân hàng. Vì nếu hoạt 
động xếp hạng tín dụng nội bộ không tạo được tiếng nói chung trong toàn hệ 
thống sẽ dẫn đến những khó khăn trong tương lai tương tự như việc độc lập thiết 
lập các hệ thống thanh toán thẻ ATM của từng ngân hàng. 
Các NHTM, ngành ngân hàng cần sớm nhận thấy khó khăn tiềm ẩn khi độc lập 
phát triển các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Hay nói cách khác, 
mặc dù là “nội bộ”, thông tin xếp hạng tín dụng nội bộ của một NHTM phải có thể 
“so sánh được” (tương thích) với thông tin xếp hạng của các NHTM khác. 
Muốn vậy, các NHTM cần phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí 
đánh giá được thừa nhận rộng rãi trong việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Công bố 
công khai các phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí sử dụng để đánh giá, xếp hạng, 
trong đó phải nêu rõ các hạng mức đánh giá tự thiết lập tương đương mức độ nào 
với những hạn mức đánh giá đã được thừa nhận rộng rãi (của các NHTM khác 
hoặc của những tổ chức đánh giá độc lập, kể cả trong và ngoài nước). Do đó, có 
thể nói vai trò “nhạc trưởng” của NHNN, Hiệp hội ngân hàng là rất quan trọng 
trong việc tổ chức các hội thảo chuyên đề, giới thiệu phương pháp, kỹ thuật, tiêu 
chí đánh giá, xếp hạng tín dụng của các NHTM hay tổ chức đánh giá độc lập có uy 
tín trên thế giới để các NHTM áp dụng. 
 62 
3.1.3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: 
+ Về đăng ký giao dịch bảo đảm: 
 Do quy định hiện nay, việc đăng ký giao dịch đảm bảo thực hiện phân tán tại 
nhiều cơ quan như:Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm thuộc cục Đăng ký giao 
dịch bảo đảm ( thuộc Bộ tư pháp ); văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ( thuộc 
cơ quan quản lý nhà đất ); cục hàng không dân dụng lại đăng ký thế chấp máy bay; 
Cục hàng hải thực hiện đăng ký thế chấp tàu biển… sự phân tán này đã gây nên 
hàng loạt kẽ hở trong quản lý, tiềm ẩn rủi ro đối với các ngân hàng thương mại khi 
cho vay có giá trị lớn. Chẳng hạn: Tài sản đã được sử dụng để đảm bảo thực hiện 
nghĩa vụ vay, nhưng cơ quan quản lý nhà nước vẫn làm thủ tục pháp lý để chuyển 
tài sản; xe ô tô đăng ký ở phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh, thành phố, 
nhưng khi cầm cố lại được đăng ký ở Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.. 
Trong thực tế đã từng xảy ra trường hợp ngân hàng cho vay vốn giữ giấy tờ xe bản 
chính, còn chủ xe lại báo mất giấy đăng ký xe và xin cấp lại để bán và làm thủ tục 
sang xe. Vì vậy việc đăng ký giao dịch đảm bảo cần được tập trung đăng ký tại 
một cơ quan, và cơ quan này có khả năng quản lý về nguồn gốc sở hữu và thực 
trạng giao dịch của tài sản, khắc phục tình trạng cơ quan đăng ký giao dịch không 
cập nhật được tình trạng của tài sản. 
+ Hoạt động thẩm định giá: 
Nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho hoạt động thẩm định giá, 
tạo điều kiện dễ dàng hơn để thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá. Do vai trò 
của công tác thẩm định giá đối với hoạt động của các ngân hàng ngày càng quan 
trọng nên việc thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá là cần thiết trong thời 
gian sắp tới. Doanh nghiệp thẩm định giá với khả năng chuyên môn sâu và rộng 
của mình sẽ thay cho các ngân hàng chịu trách nhiệm về việc thẩm định giá trị các 
tài sản thế chấp, cầm cố, các dự án đầu tư, giá trị doanh nghiệp,...một cách chính 
xác, trung thực, hợp pháp,...nhằm giải quyết toàn bộ những khó khăn mà các ngân 
hàng đang gặp phải. Ngoài ra cần có các biện pháp chế tài đối với chức năng kinh 
doanh của loại hình dịch vụ này để đảm bảo việc tính toán, định giá chính xác, phù 
hợp với giá thị trường, trách tình trạng thông đồng với khách hàng để đẩy giá trị 
 63 
tài sản thế chấp lên cao để được vay vốn nhiều. Nếu xãy ra rủi ro thì các công ty 
định giá lại không phải chịu trách nhiệm liên đới. 
+ Thành lập thêm các trung tâm bán đấu giá: 
Hiện tại do nhu cầu xử lý nợ tồn đọng cao trong khi theo quy định mỗi tỉnh, thành 
phố chỉ được thành lập một công ty bán đấu giá nên tốc độ xử lý nợ chậm. 
3.2. Nhóm giải pháp đối với NHCTVN – CN 11: 
3.2.1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng: 
3.2.1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng: 
Mỗi cán bộ tín dụng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức 
trách nhiệm trong công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao, càng phải thể hiện sự 
gương mẫu. 
Ngoài ra, bên cạnh việc thường xuyên phải nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực 
hiện đúng các quy định hiện hành, mỗi cán bộ tín dụng còn phải không ngừng 
nâng cao năng lực công tác thông qua học hỏi kinh nghiệm nhất là khả năng phát 
hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. Cán bộ tín dụng phải 
nắm bắt thật kỹ các nghiệp vụ chuyên môn: quy trình cấp tín dụng, kỹ thuật thẩm 
định dự án đầu tư, đánh giá khách hàng, các biện pháp quản lý rủi ro, cách thức 
phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro... Thường xuyên cập nhật các kiến thức về 
kinh tế, luật pháp, thông tin thị trường,...trao dồi khả năng ngoại ngữ và tin học vì 
nghiệp vụ ngân hàng phát triển với tốc độ rất cao mà nguồn cung cấp kiến thức 
chủ yếu từ nguồn tài nguyên tri thức của thế giới. 
3.2.1.2. Đối với ngân hàng: 
Nâng cao nhận thức của từng cán bộ tín dụng: giúp các cán bộ hiểu rõ về bản chất 
các loại rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng mà ngân hàng luôn phải đối mặt; những 
nguyên nhân gây ra rủi ro; những hậu quả mà rủi ro có thể đưa đến cho ngân hàng; 
những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro... 
Đưa ra các quy tắc đạo đức trong quá trình thực hiện nghiệp vụ: 
- Trung thực, minh bạch và công khai khi thực hiện nhiệm vụ được giao. 
- Hết lòng phục vụ khách hàng, song bảo đảm không đặt ngân hàng hoặc các cán 
bộ khác vào những mối quan hệ có mâu thuẫn về lợi ích. 
 64 
- Không tham gia vào các hoạt động bị cấm. 
- Không cung cấp thông tin nội bộ cho hoạt động bên ngoài ngân hàng. 
- Không sử dụng tài sản, thông tin của ngân hàng phục vụ cho các mục đích cá 
nhân. 
- Có tinh thần trách nhiệm cao và tự chịu trách nhiệm trong tất cả các quyết định. 
Vì chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng bậc nhất trong 
việc quản lý rủi ro tín dụng nên ngân hàng cần phối hợp với các đơn vị có liên 
quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để nâng cao 
năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro tín dụng cho cán bộ tín dụng. 
Thường xuyên kiểm tra, quản lý cán bộ tín dụng khi thấy có những biểu hiện bất 
thường đáng quan tâm trong sinh hoạt hàng ngày…Vì với kinh nghiệm và hiểu 
biết, một số cán bộ tín dụng dễ tìm cách thông đồng với khách hàng, chia phần 
trăm trên số vốn được vay, hay các hành vi lừa đảo khác. 
Có chính sách thưởng, phạt công bằng để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”, 
tạo kỷ cương trong hoạt động tín dụng. Đối với cán bộ có thành tích xuất sắc, cần 
biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ 
mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm nhiệm ở vị trí cao 
hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xử lý kỷ 
luật hoặc thuyên chuyển sang những công việc khác. 
Có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đề bạt, phân công, bố trí công việc 
phù hợp với năng lực và trình độ của từng cán bộ tín dụng: 
- Đảm bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm; phân phối thu nhập phải căn 
cứ vào chất lượng công việc. 
- Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào những vị trí 
quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người. 
- Có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích tinh thần, trách 
nhiệm, ý thức vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ. 
3.2.2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng: 
Để phối hợp với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) hoàn thiện và phát triển hệ 
thống thông tin tín dụng, NHCTVN-CN11 cần tăng cường việc chỉ đạo, theo dõi 
 65 
đôn đốc và kiểm soát việc báo cáo kịp thời đầy đủ, chính xác số lượng và chất 
lượng thông tin tín dụng về Trung tâm thông tin tín dụng NHCTVN và Trung tâm 
thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN. 
NHCTVN-CN11 cần ứng dụng thông tin, thiết lập phần mềm để quản lý khách 
hàng, thống kê, lưu trữ thông tin làm cơ sở phân tích đánh giá khách hàng cho 
những lần cấp tín dụng sau. Quy định cụ thể, chặt chẽ về lưu trữ, bảo quản và quản 
lý hồ sơ tín dụng như một tài sản quan trọng của ngân hàng. 
Ngoài ra, do nguồn thông tin khách hàng cung cấp có thể chưa đảm bảo tính chính 
xác và đầy đủ nên NHCTVN-CN11 cần phải thu thập thêm nhiều thông tin hơn 
nữa từ các nguồn thông tin bên ngoài về quá trình phát triển của khách hàng, và 
ngành nghề kinh doanh của khách hàng để dự đoán được khuynh hướng phát triển, 
áp lực cạnh tranh từ các đối thủ của khách hàng, qua đó đánh giá khả năng kinh 
doanh và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. 
Nguồn thông tin từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách hàng 
vay một cách toàn diện. Đây chính là thông tin tín dụng được cung cấp từ các cơ 
quan thông tin tín dụng trong và ngoài nước, các cơ quan ban ngành có liên quan 
như cơ quan thuế, các tạp chí chuyên ngành, các cơ quan thông tin đại chúng, 
internet... 
Bên cạnh đó, NHCTVN-CN11 cần tăng cường hợp tác, trao đổi, chia sẻ thông tin 
với các NHTM trên cùng địa bàn và thực hiện khai thác thông tin tín dụng từ 
Trung tâm thông tin tín dụng của NHCTVN và NHNN (CIC). 
Đặc biệt, NHCTVN-CN11 cần thiết lập một bộ phận độc lập chuyên nghiên cứu, 
phân tích diễn biến và dự báo tình hình thị trường dựa trên tất cả các kênh thông 
tin, đặc biệt là các thông tin về thị trường xuất nhập khẩu: giá cả, kim ngạch,...các 
lịnh vực ngân hàng đang và sẽ đầu tư như: hạ tầng, văn phòng cho thuê, dệt may, 
nhuộm, thép... 
3.2.3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: 
Để có thể hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra, đối với vấn đề TSBĐ, các cán bộ tín dụng 
NHCTVN-CN11 cần thiết phải thực hiện: 
 66 
- Hoàn thiện hồ sơ thế chấp, hồ sơ pháp lý (chứng thư sở hữu của tài sản, đăng ký 
giao dịch đảm bảo, công chứng chứng thực, các thoả thuận trong hợp đồng…) vì 
đây là vấn đề quyết định đến quyền tài sản và quyền truy đòi nợ của ngân hàng. 
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá giá trị của tài sản, định kỳ tổ chức định giá lại 
TSBĐ, khắc phục việc định giá TSBĐ mang tính chủ quan, thiếu căn cứ khoa học, 
chưa áp dụng thích hợp các phương pháp định giá. Đối với những TSBĐ có giá trị 
lớn, ngân hàng nên thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá. Việc 
thuê định giá tuy tiêu tốn một khoản chi phí nhưng sẽ giúp khắc phục được tính 
chủ quan của cán bộ trong quá trình định giá, ngoài ra việc định giá còn mang tính 
khoa học. 
- Hạn chế tâm lý lạm dụng vào TSBĐ. 
- Nghiên cứu áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng mới. 
- Thường xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật của Nhà nước liên quan 
đến TSBĐ. 
3.2.4. Các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách, quy trình tín dụng: 
Để quy trình tín dụng mới thật sự phát huy hiệu quả như mong muốn, kiểm soát 
rủi ro một cách chặt chẽ hơn, NHCTVN-CN11 cần tuân thủ nghiêm các bước của 
quy trình. Từng bộ phận nghiệp vụ tham gia quy trình tín dụng cần thực hiện tốt 
chức năng, nhiệm vụ của mình, cụ thể: 
- Phòng quan hệ khách hàng: với chức năng là đầu mối thiết lập, duy trì và không 
ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, 
nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng 
thị phần của NHCTVN. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là: 
 * Xác định thị trường kinh doanh và đối tượng khách hàng mục tiêu trên cơ sở 
thường xuyên thu thập và đánh giá thông tin từ thị trường (theo ngành, lĩnh vực, 
khu vực địa lý, nhóm khách hàng, nhóm sản phẩm), đề xuất và trình cấp có thẩm 
quyền phê duyệt. 
 * Phối hợp cùng các phòng ban có liên quan xây dựng chính sách khách hàng 
hàng năm, bao gồm việc xác định các loại sản phẩm dịch vụ và giá trị từng loại 
sản phẩm dịch vụ dự kiến cung ứng. 
 67 
 * Trực tiếp triển khai các biện pháp Marketing giới thiệu cho khách hàng về 
các sản phẩm, dịch vụ mà NHCTVN có lợi thế, có thể cung ứng: duy trì liên lạc 
thường xuyên với khách hàng nhằm kịp thời nắm bắt các thông tin mới phát sinh 
có liên quan và làm đầu mối giải quyết các vướng mắc các yêu cầu của khách 
hàng. Chịu trách nhiệm cung cấp mọi thông tin có liên quan đến khách hàng theo 
yêu cầu của các phòng ban khác. 
 * Trực tiếp tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng và nghiên cứu, xem xét 
có ý kiến trước khi chuyển Tổ Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định (đối với các 
khoản cho vay phải có thẩm định của Tổ Quản lý rủi ro tín dụng) và trực tiếp thẩm 
định cho vay (đối với các khoản vay không cần phòng Quản lý rủi ro tín dụng 
thẩm định). Thực hiện ký kết các loại hợp đồng/cam kết đối với khách hàng trong 
phạm vi quy định. Trực tiếp tiếp nhận và xử lý và/hoặc theo dõi việc xử lý các nhu 
cầu rút vốn vay theo hợp đồng tín dụng, nhu cầu sử dụng nghiệp vụ tài trợ thương 
mại, nhu cầu thấu chi và các nhu cầu tín dụng khác của khách hàng. Thực hiện 
giám sát và quản lý các giao dịch tín dụng đã phát sinh theo đúng các quy định 
hiện hành. Đôn đốc khách hàng, phối hợp với các phòng ban thu hồi nợ vay đầy 
đủ và đúng hạn. Thực hiện quản lý và xử lý các khoản tín dụng có vấn đề trong 
trường hợp được phân công. 
 * Tùy theo đặc điểm riêng đối với từng khách hàng, phối hợp cùng các phòng 
ban khác thiết kế các loại sản phẩm phù hợp và có tính hấp dẫn đối với khách 
hàng. 
- Tổ quản lý rủi ro: với chức năng nghiên cứu, phân tích, quản lý rủi ro bao gồm 
rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường,..) và rủi ro riêng (rủi ro từng khách 
hàng, rủi ro từng dự án) nhằm đảm bảo phát triển tín dụng, mở rộng hoạt động một 
cách an toàn, hiệu quả. Nhiệm vụ cụ thể của tổ là: 
 * Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Soạn thảo chính sách quản lý 
rủi ro tín dụng trong từng thời kỳ bao gồm việc xác định tỷ lệ nợ xấu tối đa có thể 
chấp nhận được; cảnh báo các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư cần hạn chế. Trực tiếp 
tham gia và theo dõi việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng. Tổ chức 
 68 
đánh giá định kỳ các chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm đề xuất chỉnh sửa 
kịp thời các nội dung hoặc các chỉ tiêu cần thiết. 
 * Quản lý danh mục đầu tư: Tổ chức giám sát thường xuyên danh mục đầu tư 
tín dụng nhằm đảm bảo dư nợ theo từng nhóm khách hàng, theo lĩnh vực, mặt 
hàng đầu tư, theo cơ cấu thời hạn vay,... không vượt quá tổng mức giới hạn đã 
được phê duyệt. Kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro, nhóm khách hàng, mặt 
hàng, lĩnh vực đầu tư có vấn đề, đề xuất điều chỉnh giới hạn tín dụng đối với các 
khoản mục cho là cần thiết. Đánh giá định kỳ kết quả áp dụng hệ thống xếp hạng 
doanh nghiệp đồng thời đề xuất các biện pháp áp dụng phù hợp. 
 * Trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến khách hàng: 
Cho điểm tín dụng và phân loại khách hàng theo quy định. Đánh giá các loại rủi ro 
trong giao dịch tín dụng với khách hàng, bao gồm đánh giá tính pháp lý và tính 
đầy đủ của bộ hồ sơ tín dụng, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của từng khoản cấp 
tín dụng, thẩm định và định giá TSBĐ (nếu có); thẩm định khả năng hoàn trả nợ 
của khách hàng...Đề xuất giới hạn tín dụng cho khách hàng và đề xuất mức cấp tín 
dụng cụ thể đối với khách hàng và các biện pháp cần thực hiện nhằm đảm bảo khả 
năng thu hồi đủ nợ. 
 * Tham gia quy trình phê duyệt tín dụng, tham gia và giám sát quá trình thực 
hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản cấp tín dụng có 
vấn đề: làm đầu mối chuẩn bị tài liệu và thu xếp thực hiện quy trình phê duyệt tín 
dụng theo quy định. Kiểm tra các điều kiện rút vốn và chỉ thị các phòng tác nghiệp 
có liên quan thực hiện giải ngân cho khách hàng (trường hợp có yêu cầu). Giám 
sát phòng khách hàng trong việc thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay của khách 
hàng, phối hợp cùng phòng Quan hệ khách hàng phát hiện kịp thời các dấu hiệu có 
rủi ro liên quan đến khoản cấp tín dụng và cùng tìm biện pháp xử lý thích hợp. 
Trực tiếp theo dõi và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề, gặp khó khăn kéo dài. 
3.2.5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định: 
Trong quá trình xem xét cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải lựa chọn phương pháp 
thẩm định phù hợp theo từng loại cho vay, đối tượng khách hàng, chú trọng đánh 
giá đầy đủ về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, và xem 
 69 
xét kỹ tính pháp lý của các giấy tờ, tài liệu liên quan (hồ sơ vay vốn) nhằm phát 
hiện tình trạng thiếu trung thực của khách hàng trong việc cung cấp tài liệu, thông 
tin liên quan đến vấn đề vay vốn, đặc biệt cần đánh giá chính xác tính khả thi, hiệu 
quả của dự án/phương án vay vốn, xem xét kỹ các thỏa thuận trong hợp đồng kinh 
tế giữa khách hàng vay với tổ chức, cá nhân liên quan nhằm xác định thời hạn cho 
vay chính xác với đối tượng vay vốn, đồng thời giúp khách hàng vay khắc phục 
những điểm bất lợi đã được quy định trong hợp đồng kinh tế. Mặt khác, để đảm 
bảo đánh giá chính xác tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng vay, ngân 
hàng ngoài việc dựa vào hồ sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp, còn phải điều tra 
nắm chắc các nguồn thông tin khác có liên quan và kết hợp với khảo sát thực tế tại 
đơn vị. Việc thẩm định kết hợp như trên không những giúp ngân hàng xác định 
được mức độ trung thực của những tài liệu do khách hàng cung cấp, đánh giá đúng 
đắn uy tín và mức độ cạnh tranh sản phẩm của khách hàng trên thị trường, dự kiến 
được rủi ro có thể xảy ra, mà còn nắm chắc về lịch sử, về mối quan hệ giữa khách 
hàng vay vốn với tổ chức, cá nhân có liên quan, về tình hình công nợ và khả năng 
thanh toán tín dụng của khách hàng, nhất là khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, 
khách hàng ngoài địa bàn hoạt động, khách hàng là đơn vị thành viên hạch toán 
phụ thuộc. 
Trước khi cho vay, căn cứ theo quy định, ngân hàng phải thu thập đầy đủ các giấy 
tờ, tài liệu về tính pháp lý của khách hàng. Lập hợp đồng tín dụng phải đầy đủ các 
yếu tố theo quy định của pháp luật đảm bảo an toàn và đủ căn cứ pháp lý để xử lý 
khi có tranh chấp; Việc định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi vay phải căn cứ vào chu kỳ luân 
chuyển vốn của đối tượng vay và phù hợp với khả năng trả nợ của từng khách 
hàng nhằn hạn chế tình trạng định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi máy móc, xác định thời 
hạn trả nợ quá ngắn cho các đối tượng vay có chu kỳ luân chuyển vốn dài dẫn đến 
phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ. 
Khi khách hàng có yêu cầu rút tiền vay, cán bộ trực tiếp cho vay phải kiểm tra chặt 
chẽ các giấy tờ liên quan đến việc rút vốn vay của khách hàng, tài liệu chứng minh 
mục đích sử dụng vốn vay, lịch rút vốn, giấy nhận nợ và số dư nợ đến ngày nhận 
nợ nhằm tránh tình trạng cho vay vượt hạn mức tín dụng, rút tiền vay không đúng 
 70 
mục đích sử dụng,...Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi 
tình hình sử dụng vốn vay, nhất là phải kiểm tra kịp thời đối với khoản cho vay 
bằng tiền mặt, định kỳ phải đánh giá khả năng tài chính và tình hình sản xuất, kinh 
doanh của khách hàng. Nội dung kiểm tra phải đánh giá được đầy đủ các yếu tố 
như: số tiền vay sử dụng vào mục đích gì, tính toán cân đối nợ vay, nhận xét tình 
hình thực hiện dự án/phương án vay vốn, tình hình sản xuất, kinh doanh của khách 
hàng, kiểm tra tình hình TSBĐ. Ngoài việc kiểm tra thực tế khách hàng, ngân 
hàng còn phải yêu cầu khách hàng báo cáo theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình 
hoạt động kinh doanh nhằm sớm phát hiện hiện tượng suy giảm trong sản xuất, 
kinh doanh để có biện pháp xử lý kịp thời. 
Mặc dù việc xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do ngân hàng tự quyết định, 
nhưng không thể tùy tiện mà phải theo nhu cầu chính đáng của khách hàng, xem 
xét nguyên nhân khách hàng không trả được nợ đúng thời hạn đã cam kết và đánh 
giá được khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. 
Thời gian và số lần cho cơ cấu phải có ý nghĩa thật sự và mang lại hiệu quả cho 
khách hàng, tránh điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ một cách tràn lan. 
3.2.6. Kiến nghị và đề xuất khác 
+ Về phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro: 
Việc thực hiện phân loại nợ tại chi nhánh chủ yếu căn cứ theo định lượng là thời 
hạn quá hạn hoặc cơ cấu lại nợ, chi nhánh chưa quan tâm đến việc phân tích tình 
trạng nợ thực tế và khả năng trả nợ của khách để phân nhóm nợ. Vì vậy chi nhánh 
cần tăng cường việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, phân tích đảm bảo nợ 
thường xuyên để nắm được thực trạng của nợ, nếu phát hiện nợ có khả năng tổn 
thất cần phân vào nhóm nợ tương ứng để trích dự phòng rủi ro đầy đủ. 
+ Cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có: 
Chi nhánh cần cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có trong bối cảnh thị trường nhiều 
biến động và nguồn vốn không ổn định hiện nay, đẩy mạnh công tác huy động 
vốn, trong đó có việc tạo nguồn vốn trung và dài hạn để đảm bảo các tỷ lệ quy cho 
vay trung, dài hạn phù hợp các quy định giới hạn của NHCTVN và theo Quyết 
định 457/2005QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 của NHNN. 
 71 
+ Giới hạn tín dụng và chấm điểm khách hàng: 
Công tác thẩm định và giới hạn tín dụng khách hàng cần thực hiện định kỳ hàng 
năm một cách đầy đủ, có như vậy chi nhánh mới có thể chủ động trong việc cơ cấu 
vốn kinh doanh, đồng thời xác định các đối tượng khách hàng để phân công bố trí 
cán bộ cho vay, quản lý khách hàng phù hợp. 
+ Hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ và hậu kiểm: 
- Chi nhánh cần tăng cường quan tâm công tác hậu kiểm ở từng bộ phận nghiệp vụ 
tại chi nhánh nhất là khâu tín dụng để phát hiện các sai sót, kịp thời chỉnh sửa. Các 
phòng thực hiện nghiệp vụ cho vay phải phân công lãnh đạo phòng thực hiện kiểm 
tra lại các khoản vay phát sinh và việc khai báo thông tin, số liệu vào hệ thống. 
- Quan tâm và tạo điều kiện cho bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ NHCTVN tại 
chi nhánh hoạt động và phát huy vai trò của bộ phận này. Cần có những kế hoạch 
và chương trình làm việc chung để tăng cường chất lượng kiểm tra tín dụng tại chi 
nhánh. Thực hiện chỉnh sửa kịp thời các thiếu sót, chú trọng các vấn đề được cảnh 
báo từ kết quả kiểm tra của phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ tại chi nhánh. 
+ Cũng cố hoạt động bộ phận thẩm định rủi ro độc lập: 
Chi nhánh cần có kế hoạch cũng cố hoạt động của tổ thẩm định rủi ro tín dụng độc 
lập. Trước mắt là bổ sung thêm nhân sự cho phòng để thực hiện đầy đủ chức năng 
thẩm định và hướng tới cần nâng cấp tổ thẩm định rủi ro độc lập thành phòng 
thẩm định rủi ro độc lập để nâng cao vai trò của bộ phận này trong quy trình cấp 
tín dụng. 
+ Công tác phát triển nguồn nhân lực: 
Để nâng cao năng lực cán bộ quản trị và tác nghiệp trong lĩnh vực tín dụng: Chi 
nhánh phải xây dựng chính sách tuyển dụng, sử dụng, đề bạt thích hợp với yêu cầu 
và trách nhiệm công việc. Thường xuyên tổ chức và phối hợp với các trường đào 
tạo tập huấn, đào tạo và đào tạo lại để cập nhật kiến thức ngân hàng thời kỳ kinh tế 
thị trường phát triển, tăng cường kỹ năng cho cán bộ quản trị và cán bộ tín dụng. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Luận văn tốt nghiệp- Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam.pdf Luận văn tốt nghiệp- Thực trạng và giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Công Thương Việt Nam.pdf