Qua nghiên cứu quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang thấy
nổi nên những khó khăn trong khi thực hiện CPH do cả nguyên nhân khách quan
và chủ quan như: ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động chưa thoả đáng,
xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập, còn có sự phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp nhà nước và CTCP, tâm lí ngại chuyển sang CTCP của người lao
động, đặc lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể
93 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy định của Nghị định 64/2002/NĐ-CP, giá trị doanh nghiệp là giá
trị thực tế theo thị trường tức là bao gồm cả yếu tố vô hình như uy tín, lợi thế,
thương hiệu..của doanh nghiệp. Nhưng các yếu tố này rất khó mà có thể định giá
chính xác được nên tình trạng không thống nhất về quan điểm của doanh nghiệp
và cơ quan định giá thường xuyên xẩy ra.
Việc quy định có nhiều cơ quan có chức năng định giá doanh nghiệp cũng
là dào cản trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH. Nên chăng Nhà nước chỉ cho công
ty kiểm toán là cơ quan duy nhất có chức năng định giá. Như vậy việc xác định
giá trị doanh nghiệp sẽ khách quan hơn, nhanh chóng hơn.
- Còn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp nhà nước và CTCP
Bảng 6: So sánh lợi thế và bất lợi thế giữa DNNN và doanh nghiệp CPH
Tiêu chí so sánh Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp cổ phần hoá
Vốn - Vốn do Nhà nước cấp, lãi
DNNN được chia, lỗ Nhà
- Người lao động phải bỏ
tiền ra góp vốn và tự chịu
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
65
nước chịu, được Nhà nước
bảo hiểm rủi ro
rủi ro, tự bảo hiểm
- DNNN chưa cổ phần hoá
được tiếp tục cấp bổ sung vốn
từ ngân sách hoặc vay ưu đãi
- Khi có quyết định cổ phần
hoá Nhà nước ngừng cấp
vốn nhất là vốn lưu động
- Tiền thu từ bán cổ phiếu của
doanh nghiệp CPH được đầu
tư cho DNNN
- Tiền thu từ bán cổ phiếu
phải nộp vào tài khoản tập
trung
Vay ngân hàng
thương mại Nhà
nước
- Không phải thế chấp tài sản -Phải thế chấp tài sản
Chế độ kế toán - Công khai tài chính có mức
độ
- Hoàn toàn phải công khai
Cán bộ quản lí
doanh nghiệp
- Được Nhà nước bổ nhiệm
thành viên chức Nhà nước
không hạn định về thời gian
- Phải thông qua Đại hội
đồng cổ đông bầu cử có hạn
định theo nhiệm kì
Người lao động - Được đảm bảo việc làm, khó
cho thôi việc
- Không yên tâm làm việc,
dễ cho thôi việc, khi doanh
nghiệp bị phá sản không chỉ
mất việc làm mà còn mất cả
vốn
Biên pháp xử lí
nợ
- DNNN được khoanh nợ,
giãn nợ, xoá nợ, sát nhập, hợp
nhất, ít khi bị áp dụng Luật
phá sản
Bị xiết nợ, áp dụng Luật
phá sản
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
66
- Mục đích kinh doanh vừa
mang tính chất kinh tế vừa
mang tính chất xã hội nên khó
thống nhất.
Mục đích kinh doanh rõ
ràng nhằm tối đa hoá lơi
nhuận
- Có sự khác biệt lợi ích giữa
chủ sở hữu, người quản lí,
điều hành và người lao động,
nên động lực kinh doanh
không rõ và khó thống nhất.
Lợi ích cá nhân thống nhất
với lợi ích doanh nghiệp trở
thành động lực mạnh mẽ
thúc đẩy hoạt độnh kinh
doanh
Mục đích hoạt
động kinh doanh,
động lực phát
triển
- Thiếu động lực phát triển do
ít bị thúc ép bởi nguy cơ phá
sản và vẫn còn sự ưu ái của
Nhà nước
- Động lực phát triển: sức
ép cạnh tranh, nguy cơ phá
sản buộc phải giảm giá
thành đổi mới công nghệ, đa
dạng hoá sản phẩm.
- Bộ máy quản lí doanh
nghiệp cồng kềnh vì phải có
bộ phận giám sát tài sản công
nếu không sẽ bị thất thoát.
- Bộ máy đơn giản, gọn nhẹ,
dễ thích ứng với cơ chế thị
trường.
Quan hệ tổ chức
và quản lí doanh
nghiệp
- Quản lí thông qua người đại
diện, có thời hạn, nên rễ nảy
sinh tâm lí không yên tâm,
không theo đuổi mục tiêu phát
triển dài hạn của doanh
nghiệp
- Chủ sở hữu quản lí trực
tiếp hoặc thuê người khác
quản lí. Chủ doanh nghiệp
có thể làm quản lí suốt đời,
nên họ yên tâm gắn bó với
nghề quản lí.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
67
- Là đối tác chính trong hợp
tác đầu tư nước ngoài
- Hạn chế tiếp xúc, hợp tác
với doanh nghiệp nước
ngoài
- Cơ chế quản lí nhà nước chủ
động chọn DNNN để kí hợp
đồng, tạo ưu thế cho DNNN
- Thường làm vệ tinh cho
các doanh nghiệp lớn.
- Được cung cấp thông tin, tư
vấn định hướng đầu tư, tổ
chức quản lí
- Thiếu thông tin, không
được tư vấn, định hướng
đầu tư, tổ chức quản lí
- Ngân hàng cho vay với lãi
suất ưu đãi hơn
- Vay ngân hàng với lãi suất
Thương mại
Quan hệ kinh
doanh
- Thuế nộp theo luật thếu nên
phải nộp nghiêm chỉnh hơn
- Thuế khoán nên ít hơn và
dễ chốn thuế hơn
+ Vướng mắc từ phía doanh nghiệp
- Nhận thức chưa đúng về chủ trương CPH DNNN của đội ngũ lãnh đạo và
cán bộ trong công ty
Công ty TPXK Bắc Giang nằm trong danh sách các DNNN phải CPH của
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn từ năm 2000 nhưng phải đến tận đầu
năm 2004 thì quá trình CPH mới triển khai được. Có nhiều nguyên nhân làm
chậm quá trình triển khai việc CPH trong đó không thể không kể đến sự nhận
thức chưa đúng, đầy đủ ý nghĩa của CPH của một bộ phận cán bộ tạo Công ty
TPXK Bắc Giang. Tâm lí của phần lớn các cấn bộ lãnh đạo doanh nghiệp là thích
làm việc cho DNNN, thích suốt đời làm công chức. Họ sợ khi chuyển thành
CTCP thì quyền lợi cả về vật chất và tinh thần sẽ không còn được như trước.
Điều này cũng rễ hiểu khi còn làm cho DNNN thì cán bộ lãnh đạo có quyền lực
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
68
rất lớn. Họ là người quyết định gần như toàn mọi vấn đề của công ty. Còn khi
làm việc cho CTCP họ chỉ là người làm thuê.
Quyền lợi lớn trong khi trách nhiệm đối với Công ty và với Nhà nước lại rất
ít cộng thêm với làm việc cho DNNN thì còn ỷ lại trông chờ vào người khác
được. Tất cả những yếu tố này đủ để giải thích tại sao cán bộ trong Công ty
không hào hứng lắm trong việc CPH Công ty. Việc đội ngũ cán bộ lãnh đạo chưa
muốn CPH chắc chắn sẽ làm chậm việc CPH khi họ chính là đầu tầu là cầu nối
trong việc tuyên truyền chủ trương chính sách CPH của Đảng và Nhà nước đến
người lao động. Những người vốn quen với nếp sống dựa vào cơ chế bao cấp,
không muốn xáo trộn công ăn việc làm.
- Tiềm lực của công ty còn yếu
Quá trình CPH diễn ra nhanh hay chậm một phần cũng phụ thuộc vào khả
năng phát triển của công ty trong tương lai. Căn cứ quan trọng nhất để nhà đầu tư
quyết định bỏ vốn vào một CTCP chính là khả năng sinh lời của vốn đầu tư trong
tương lai. Một nhà đâu tư sẵn sàng trả giá cao để mua cổ phần của một công ty
có triển vọng hơn là mua cổ phần với giá thấp ở một công ty mà tương lai chưa ai
dám chắc. Mà khả năng sinh lời trong tương lai lại phụ thuộc vào tiềm lực hiện
tại của công ty, kết quả kinh doanh trong những năm gần đây. Tiềm lực về vốn,
thiết bị công nghệ, thị trường đầu ra, đầu vào, lao động của Công ty thực phẩm
Bắc Giang hiện nay còn yếu và chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định thêm vào
đó là kinh doanh trong nông nghiệp thường lắm rủi ro. Tình hình sản xuất kinh
doanh của công ty trong những năm gần đây tuy có bước chuyển biến làm ăn bắt
đầu có lãi song nhìn chung doanh thu và lợi nhuận còn rất nhỏ. Nếu hoạch cả
thuế sử dụng vốn, thuế đất và các nghĩa vụ khác với Nhà nước thì chưa chắc đã
có lãi thực sự. Những nhân tố này chưa thể làm yên tâm các nhà đầu tư trong
việc bỏ vốn ra mua cổ phần của Công ty. Khả năng bán cổ phiếu chậm đồng
nghĩa với không thể đẩy nhanh việc CPH lên được.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
69
- Nhiều cán bộ công nhân viên không có khả năng mua cổ phiếu
Mục tiêu chính của CPH là huy động vốn của toàn xã hội để phát triển sản
xuất kinh doanh trong đó đặc biệt là huy động nguồn vốn của cán bộ công nhân
viên trong công ty. Việc huy động vốn của cán bộ công nhân trong công ty nhằm
mục đích: đưa người lao động lên làm chủ, tăng mức thu nhập cho người lao
động vì ngoài tiền lương còn có cổ tức, thể hiện sự ưu đãi cho người lao động.
Nhưng hiện tại việc huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong Công ty thực
phẩm xuất khẩu Bắc Giang gặp nhiều khó khăn. Do mức thu nhập hiện tại của
của người lao động trong công ty còn thấp bình quân 550.000-600.000đ/tháng.
Mức thu nhập này chỉ đủ trang trải cho cuộc sống tối thiểu của bản thân người
lao động. Như vậy người lao động là sao có tích luỹ, có tiền để mua cổ phần khi
Nhà nước đòi hỏi người lao động muốn mua cổ phiếu thì cũng phải bỏ ra một
khoản tiền. Như vậy nếu người lao động không mua được cổ phiếu thì mục tiêu
cổ phần không đạt được. Nếu như người lao động không có cổ phần trong công
ty thì một điều chắc chắn là họ không muốn CPH họ muốn là cho DNNN vì có
nhiều chế độ hơn.
- Số lao động dư thừa chưa có phương án giải quyết hợp lí
Một trong các vấn đề khó cho Công ty khi thực hiện CPH là phương án sắp
xếp và giải quyết việc làm cho lao động hiện có tại Công ty. Muốn CPH nhanh
thì phải có tác động tích cực đến người lao động tức là ngoài những lợi ích do
chính sách cổ phần mang lại họ cũng cần phải có một vị trí chính thức trong
CTCP. Nhưng chuyển sang CTCP là thoát khỏi sự bao cấp của Nhà nước là phải
làm ăn theo cơ chế thị trường lời ăn lỗ chịu. Vì vậy không thể tồn tại trong Công
ty những phần tử “ăn không ngồi rồi” trong bộ máy quản lí của doanh nghiệp.
Chuyển sang CTCP là phải triệt để tinh giảm bộ máy quản lí, chỉ giữ lại những
người có đủ năng lực, những bộ phận cần thiết. Việc sắp xếp việc làm cho người
ở lại đó khó khăn nhưng giải quyết số lao động dôi dư còn khó hơn nhiều. Số lao
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
70
động dôi dư của công ty khi chuyển thành CTCP là cán bộ phòng ban có thâm
niên công tác và có địa vị trong Công ty nên việc xử lí gặp rất nhiều khó khăn khi
họ chưa đủ tuổi về hưu, năng lực trình độ có hạn gây khó khăn cho tìm công việc
mới, chuyển sang lĩnh vực khác thì không khả khi do họ không còn trẻ nên ngại
học hành. Nếu không có phương án xử lí mền dẻo thì thật khó khăn cho việc
CPH khi những người này có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả CPH của công
ty.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CPH Ở CÔNG TY TPXK
BẮC GIANG
I. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG MỤC TIÊU CPH CỦA CÔNG TY
1. Quan điểm của công ty
+ CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang được dựa trên chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước về sắp xếp và đổi mới hoạt động của các DNNN
+ CPH là con đường tất yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng
sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường
+ CPH ở Công ty là chuyển từ sở hữu của Nhà nước (đơn sở hữu) sang sở
hữu tập thể (đa sở hữu). CPH ở Công ty không phải là tư nhân hoá
+ Lấy hiệu quả kinh tế xã hội là thước đo cho hiệu quả của công tác CPH.
Bên cạnh các mục tiêu giảm gánh nặng cho ngân sách, tăng lợi nhuận, tăng thu
nhập cho người lao động còn có các mục tiêu khác như nâng cao hiệu quả kinh tế
Nhà nước, tạo ngày càng nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong nông
nghiệp nông thôn, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn.
2. Phương hướng và mục tiêu CPH của công ty
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
71
2.1. Phương hướng CPH của công ty
+ Nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng hoàn thiện công tác CPH
+ Giải quyết các vấn đề nảy sinh hậu CPH
+ Tổ chức thành công Đại hội đồng cổ đông vào quý I năm 2005
+ Tổ chức thực hiện sản xuất kinh doanh theo phương án của CTCP
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
72
2.2. Mục tiêu CPH ở công ty
Đại hội Đảng lần thứ VII đã xác định “triển khai tích cực vững chắc việc
CPH DNNN để huy động vốn, tạo thêm động lực để thúc đẩy DNNN làm ăn có
hiệu quả làm cho tài sản Nhà nước ngày càng tăng thêm, là sự kết hợp giữa kinh
tế Nhà nước và kinh tế của nhân dân để phát triển đất nước chứ không phải là tư
nhân hoá. Bên cạnh những DNNN 100% vốn sẽ có nhiều DNNN nắm đa số hay
cổ phần chi phối, gọi thêm cổ phần hoặc bán cổ phần cho người lao động tại
doanh nghiệp và cho các tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường
hợp cụ thể. Vốn huy động phải dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu CPH của Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang
+ Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc
làm, phát triển doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.
+ Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và đã góp
vốn được làm chủ thực sự, thay đổi phương thức quản lý có hiệu quả, tăng tài sản
Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế
đất nước.
+ Phát triển doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu của hội nhập của khu vực và
thế giới, tiến tới trở thành đơn vị kinh tế mạnh kinh doanh trong lĩnh vực chế
biến tiêu thụ nông sản phẩm thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THÚC ĐẨY CỔ PHẦN HOÁ Ở CÔNG
TY THỰC PHẨM XUẤT KHẨU BẮC GIANG
1. Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên trong
công ty về chủ trương chính sách CPH
CPH là một yếu tố khách quan nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của khu
vực kinh tế Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. CPH tạo sức mạnh cho kinh tế
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
73
Nhà nước trong việc hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Tuy vậy cho đến
nay vẫn phải thừa nhận việc nhận thức rõ và đầy đủ CPH và loại hình CTCP vẫn
còn là vấn đề mới mẻ. Chính vì vậy mặc dù đã trải qua hơn 10 năm thực hiện
việc chuyển DNNN thành CTCP, trải qua giai đoạn triển khai và mở rộng CPH
nhưng cho đến nay có thể nhận định chủ trương CPH vẫn chưa được nhận thức
thông suốt từ Trung ương đến các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp. Trong
các doanh nghiệp luôn xảy ra tình trạng ngại chuyển sang hình thức CTCP của
cán bộ công nhân viên đang làm việc tại công ty. Bởi vì việc duy trì DNNN
mang lại cho người đang làm việc tại đó quá nhiều quyền lợi, suốt đời là hợp
đồng hoặc biên chế; sự ổn định và cách thức quản lí có tính tình cảm của mọi cấp
điều hành và rất nhiều quyền lợi khác không thể có hình thức tự chịu trách nhiệm
kinh doanh như tại CTCP. Khi bản thân những người trong cuộc không muốn thì
dù có đưa ra nhiều biện pháp thúc đẩy, nhiều hứa hẹn ưu đãi thì sự chậm trễ vẫn
cứ xảy ra. Thực tế diễn ra đúng như vậy. Hiện nay còn rất nhiều ý kiến trái ngược
nhau trong việc CPH DNNN. Đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình
trạng các doanh nghiệp không muốn CPH hoặc chần chừ trong việc CPH. Vì vậy
để đẩy nhanh tiến trình CPH nói chung và ở Công ty TPXK Bắc Giang nói riêng
là phải nâng cao nhận thức về chủ trương CPH DNNN cho toàn thể cán bộ lãnh
đạo và công nhân trong doanh nghiệp. Để thực hiện tốt công tác này bên cạnh
việc Nhà nước phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục và giải thích thì Ban quản
lí đổi mới tại doanh nghiệp cũng cần có nhiều biện pháp tuyên truyền sáng tạo rễ
hiểu cho người lao động. Việc tuyên truyền phải biết tập trung vào tâm lí của
người lao động mà người lao động rất quan tâm đến quyền và nghĩa vụ của họ ở
CTCP, vấn đề mua bán và chuyển nhượng cổ phần. Phải có phương thức truyền
đạt rễ nhớ rễ hiểu có thể trước khi CPH các doanh nghiệp nên mở một cuộc thi
tìm hiểu về chủ trương chính sách của đảng và Nhà nước về CPH DNNN trong
toàn thể cán bộ công nhân viên. Qua quá trình nghiên cứu CPH DNNN và CPH ở
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
74
Công ty TPXK Bắc Giang thì việc tuyên truyền nên nhằm vào một số luận điểm
sau:
+ Vị trí và vai trò của kinh tế Nhà nước
+ Thực trạng kinh tế Nhà nước hiện nay
+ Những vấn đề liên quan đến CTCP và những ưu điểm của CTCP so với
các loại hình công ty khác
+ Quyền và nghĩa vụ của cổ đông trong CTCP
Nếu có điều kiện doanh nghiệp nên mời các chuyên gia có uy tín và kinh
nghiệm trong lĩnh vực CPH đến giảng dạy cho cán bộ công nhân viên giải đáp
mọi thắc mắc. Giải quyết tốt công tác tư tưởng hiện nay là rất cần thiết để khắc
phục tình trạng chậm trễ trong việc CPH hiện nay. Bên cạnh việc tuyên truyên
cũng cần có nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp và người lao động trong
CPH bằng hình thức vật chất chứ chỉ nói thì chưa đủ.
2. Lành mạnh hoá vấn đề tài chính trước khi thực hiện CPH
Thực chất của CPH là chuyển đổi một phần tài sản Nhà nước hiện có tại
doanh nghiệp cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp và các cá nhân, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội ngoài doanh nghiệp nhằm huy động vốn của toàn xã
hội cho phát triển kinh tế. Một trong các vấn đề khó và chiếm rất nhiều thời gian
trong quá trình CPH là công tác xác định giá trị các tài sản Nhà nước đem bán.
Công việc này không rễ ràng vì các DNNN hiện nay chưa tuân thủ hoàn toàn
theo các quy định của Nhà nước về chế độ hoạch toán kế toán vì vậy việc xác
định giá trị doanh nghiệp căn cứ vào sổ sách kế toán xem ra rất khó khăn trong
khi các căn cứ khác phần nhiều mang tính chủ quan. Chính vì vậy cần phải có
giải pháp tháo gỡ những khó khăn về tài chính cho doanh nghiệp trước khi thực
hiện CPH.
2.1. Công khai hoá những vấn đề tài chính
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
75
Công khai hoá tài chính tức là thông báo cho các nhà đầu tư những thông tin
quan trọng về tình hình tài chính để các nhà đầu tư quan tâm xem xét đánh giá và
đưa ra quyết định liệu có nên đầu tư vào doanh nghiệp, liệu đầu tư vào doanh
nghiệp có lợi hơn các cơ hội đầu tư khác không. Việc công khai thông tin tài
chính của công ty cũng đảm bảo tính công bằng trong mua bán cổ phần, bảo vệ
nhà đầu tư và hình thành giá cổ phiếu. Hiện nay đa số các doanh nghiệp cũng
như tại Công ty TPXK Bắc Giang chưa thực hiện việc công khai hoá thông tin tài
chính hoặc có công khai nhưng còn hạn chế dẫn đến thường xuyên xác định giá
trị doanh nghiệp thấp hơn giá thực tế là trở ngại lớn cho việc huy động vốn của
các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp và làm thất thoát tài sản của Nhà nước. Về
mặt tài chính, công khai hoá thông tin tài chính bao gồm thông tin về cơ cấu vốn,
cơ cấu tài sản, hiệu quả kinh doanh, kết quả thu nhập và phân phối thu nhập, dự
đoán xu thế vận động của các chi tiêu trong tương lai. Để thực hiện điều này về
phía Nhà nước phải đưa ra các quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải công
khai tài chính gồm nội dung công khai, hình thức công khai, thời gian công khai
và các chế tài xử lí nghiêm khắc đối với các doanh nghiệp vi phạm; về phía
doanh nghiệp phải tuyết đối tuân thủ các quy định của Nhà nước, số liệu công
khai phải được cơ quan kiểm toán công nhận. Các doanh nghiệp phải nhận thấy
công khai hoá tài chính doanh nghiệp là tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp
khi thực hiện CPH. Bên cạnh đó nên hình thành tạp chí về CPH thuộc Bộ Tài
chính. Tạp chí là nơi phản ánh đầy đủ nhất về hoạt động các doanh nghiệp trong
việc chuẩn bị cho quá trình CPH cũng như những thông tin chi tiết về tình hình
tài chính của doanh nghiệp, là diễn đàn trao đổi kinh doanh và quảng bá kiến
thức CPH tới mọi đối tượng quan tâm.
2.2. Cơ cấu lại nợ của doanh nghiệp
Công nợ của các DNNN hiện nay rất lớn làm cản trở tiến trình CPH, số nợ
của các DNNN hiện nay không ngừng tăng lên. Ước tính các DNNN hiện nay nợ
khoảng gần 80 nghìn tỷ đồng chưa kể nợ các ngân hàng Thương mại, riêng Công
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
76
ty TPXK Bắc Giang số dư nợ lên tới hơn 20 tỷ đồng. Nếu công nợ không được
giải quyết được thì không một nhà đầu tư nào lại muốn “ thừa kế” các khoản nợ
của doanh nghiệp. Còn nếu dùng giải pháp trừ vào giá trị DNNN thì sẽ làm thiệt
hại cho Nhà nước vì trong cơ cấu nợ đó có có nợ do nguyên nhân chủ quan và nợ
do nguyên nhân khách quan. Như vậy là cần phải phân loại các khoản nợ của
doanh nghiệp để có các biện pháp xử lí.
2.2.1. Đối với các khoản nợ phải thu khó đòi:
Do nguyên nhân khách quan: doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy từ chứng
minh rằng số nợ đó không còn khả năng thu hồi do con nợ đã bị giải thể, bị phá
sản, con nợ đã bỏ chốn…đối với các khoản nợ này doanh nghiệp được phép dùng
quỹ dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi để bù đắp, nếu không đủ thì dùng
lợi nhuận trước thuế để bù đắp hoặc giảm giá trị doanh nghiệp trước khi CPH.
Các doanh nghiệp sau khi CPH vẫn có trách nhiệm theo dõi và thu hồi các khoản
nợ này nộp về quỹ hỗ trợ CPH DNNN.
Đối với các khoản nợ do nguyên nhân chủ quan: doanh nghiệp phải xác
định được trách nhiệm bồi thường thuộc về cá nhân, tổ chức nào, mức độ bồi
thường là bao nhiêu. Nếu như phần bồi thường của cá nhân tổ chức không đủ thì
số còn lại được xử lí như nợ khó đòi do nguyên nhân khách quan.
2.2.2. Nợ ngân sách Nhà nước
Doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số nợ đọng ngân sách
Nhà nước trước khi tiến hành CPH
Nếu DNNN hoạt động có hiệu quả nhưng khó khăn trong vấn đề tài chính do
đầu tư quá lớn vào tài sản cố định thì doanh nghiệp có trách nhiệm lập phương án
trả nợ, phải huy động hết các nguồn vốn hiện có (qũy đầu tư phát triển, nguồn
vốn khấu hao, thu hồi công nợ…) để bù đắp các khoản chiếm dụng của ngân
sách Nhà nước. Trong trường hợp nếu đã huy động hết mà vẫn không đủ để
thanh toán hết nợ thì phải báo cáo nên cấp trên có thẩm quyền giải quyết.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
77
Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh làm ăn thua lỗ không còn khả năng
thanh toán nợ thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền xem xét cho giãn nợ, xoá nợ.
2.2.3. Đối với các khoản nợ ngân hàng thương mại
Doanh nghiệp có thể thoả thuận với các ngân hàng thương mại để được giãn
nợ, khoanh nợ, giảm lãi suất hoặc chuyển số nợ thành cổ phần của công ty.
2.3. Tiến hành thị trường hoá các khoản nợ
Chúng ta đang trong tình trạng công nợ “lòng vòng” vì công cụ thương
phiếu và hoạt động chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu chưa phát triển. Vì
vậy phải tiến hành pháp chế hoá chi tiết và hướng dẫn cho các doanh nghiệp sử
dụng các công cụ thương phiếu để họ thoát khỏi tình trạng khó khăn về tài chính
và lành mạnh về tài chính khi CTCP đi vào hoạt động. Bên cạnh đó việc hình
thành các công ty mua bán nợ là giải pháp quan trọng để xử lí triệt để các khoản
công nợ. Thực tế CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang cho thấy việc thu và trả nợ
gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy khi có công ty mua bán nợ đứng ra làm trung gian
mua lại những khoản nợ phải thu còn dây dưa của doanh nghiệp rồi tìm cách thu
xếp thanh toán với các con nợ (là doanh nghiệp có nợ phải trả). Việc làm như vậy
vừa có lợi cho doanh nghiệp vừa có lợi cho công ty mua bán nợ bởi vì doanh
nghiệp sẽ không phải mất thời gian đi thu các khoản nợ tập trung vào giải quyết
các vấn đề khác còn các công ty mua bán nợ sẽ có khoản thu nhập từ phần trăm
số nợ thu hồi được của các doanh nghiệp bán nợ.
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp khi CPH
Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay là khâu khó khăn và chiếm nhiều
thời gian nhất trong thực hiện CPH. Thực tế cho thấy thời gian xác định giá trị
doanh nghiệp ở Công ty TPXK Bắc Giang chiếm hơn nửa trong toàn bộ quá trình
CPH. Vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao để xác định đúng giá trị doanh nghiệp
trong thời gian ngắn nhất để đảm bảo lợi ích cho cả Nhà nước (người bán) và các
nhà đầu tư (người mua). Việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
78
việc xác định đúng giá trị cổ phần tức là mở đường cho sự hoạt động của thị
trường chứng khoán. Theo điều 15,16,17 của Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ban
hành ngày 19/6/2002 “về chuyển DNNN thành CTCP” quy định “giá trị thực tế
của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm CPH
có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua và người bán đều
chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị
thực tế doanh nghiệp sau khi đã trừ đi các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen
thưởng, Quỹ phúc lợi”. Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp:
+ Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH
+ Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của
doanh nghiệp tại thời điểm CPH
+ Tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá cả thị trường tại
thời điểm thực hiện CPH
+ Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí
địa lí, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, về mẫu mã,
thương hiệu nếu có.
+ Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận
trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
Việc xác định tài sản căn cứ vào khả năng đảm bảo an toàn trong vận hành
và sử dụng tài sản; đảm bảo chất lượng sản phẩm và môi trường. Giá trị quyền sử
dụng đất vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành.
Giá trị lợi thế kinh doanh được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu
nhập của doanh nghiệp trên vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bình quân ba năm
liền kề trước khi cổ phần hóa so với lãi suất của vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường
chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
79
Theo những quy định trên đối chiếu vào trong quá trình CPH của doanh
nghiệp làm nảy sinh các vấn đề sau:
- Thứ nhất, giá trị doanh nghiệp bao gồm cả các yếu tố vô hình như uy tín,
thương hiệu, vị trí địa lí…đây là nhưng yếu tố rất khó xác định giá trị. Hơn thế
việc quy định tất cả những lợi thế kinh doanh đều tính vào giá trị doanh nghiệp là
chưa phù hợp gây thiệt thòi cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nên
chăng nếu được thì chỉ nên tính giá trị lợi thế kinh doanh mang yếu tố khách
quan vào giá trị doanh nghiệp như vị trí địa lí, độc quyền…còn các yếu tố lợi thế
mang yếu tố chủ quan do doanh nghiệp xây dựng lên như do trình độ quản lí giỏi,
khả năng và ý thức của người lao động cao, dịch vụ và phong cách hoạt tốt nên
có khách hàng truyền thống làm tăng khả năng sinh lời của doanh nghiệp … thì
không tính vào giá trị doanh nghiệp.
- Thứ hai, các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp khó mà áp dụng được
khi các tài sản của các doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay đã rất lạc hậu không
còn lưu thông trên thị trường nên không có căn cứ để xác định. Bên cạnh đó việc
quy định tất cả các tài sản của doanh nghiệp hiện có vào thời điểm CPH là chưa
phù hợp nên chăng chỉ tính vào giá trị doanh nghiệp những tài sản phù hợp với
phương án sản xuất kinh doanh của CTCP còn các tài sản không phù hợp với
phương án sản xuất kinh doanh thì thanh lí hoặc điều chuyển cho các doanh
nghiệp khác
- Thứ ba, người định giá doanh nghiệp không xác định được là người mua
hay người bán nên thường xuyên nảy sinh việc xác định giá trị doanh nghiệp thấp
hơn giá trị thực tế vì tâm lí cho rằng tài sản đem bán là tài sản Nhà nước nên
đánh giá thấp một ít cũng không sao.
Từ thực tế trên cho thấy việc xác định đúng giá trị doanh nghiệp là không hề
đơn giản. Vì vậy trong thời gian tới muốn đẩy nhanh tốc độ CPH thì cũng cần
xây dựng nhiều phương pháp định giá doanh nghiệp làm cho công tác định giá
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
80
doanh nghiệp linh hoạt hơn và khách quan hơn phù hợp với đặc điểm của từng
doanh nghiệp. Việc có ít phương pháp định giá tuy tạo nên sự thống nhất cao
nhưng khó áp dụng cho nhiều doanh nghiệp nếu có sai sót thì công việc kiểm tra
cũng khó. Khi có nhiều phương pháp các doanh nghiệp có thể lấy một phương
pháp phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp mình nhất để xác định giá trị doanh
nghiệp, đồng thời sử dụng thêm một số phương pháp khác để kiểm tra xem việc
định giá như vậy đã phù hợp chưa, mức chênh lệch có nhiều không. Tiến tới sử
dụng phương pháp đấu thầu vì phần lớn các doanh nghiệp CPH hiện nay chưa đủ
tiêu chuẩn để niêm yết trên thị trường chứng khoán trong khi đó chương trình
CPH trong thời gian tới sẽ được tiến hành khẩn trương hơn sẽ có sự tham gia của
nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cơ chế định giá phức tạp như hiện nay sẽ gây
tốn chi phí và mất nhiều thời gian. Vì vậy việc áp dụng phương pháp đấu thầu để
định giá doanh nghiệp sẽ thúc đẩy quá trình CPH do cơ chế định giá khách quan
hơn, chính xác hơn và đơn giản hơn.
4. Giải quyết tốt lợi ích cho người lao động
Người lao động trong doanh nghiệp là người phải chịu tác động trực tiếp
nhất từ chính sách CPH. Họ cũng là lực lượng quyết định việc CPH diễn ra
nhanh hay chậm. Thực tế đã chứng minh muốn CPH nhanh thì phải giải quyết tốt
các vấn đề liên quan đến lợi ích của doanh nghiệp. Lợi ích của người lao động
khi thực hiện CPH thể hiện chủ yếu ở những mặt sau: quyền được mua cổ phiếu
ưu đãi, quyền được mua cổ phần ưu đãi trả chậm với lao động nghèo trong doanh
nghiệp, quyền được hưởng từ quỹ phúc lợi, vấn đề mua bán chuyển nhượng cổ
phiếu. Được mua cổ phần ưu đãi là nhu cầu chính đáng của người lao động do
cống hiến đóng góp của họ trong những năm trước đó và thể hiện sự ưu việt chế
độ của ta. Sự ưu đãi này đã được quy định rất rõ trong Nghị định số 64/2002/NĐ-
CP ban hành ngày 19/6/2002 “người lao động có tên trong danh sách thường
xuyên của doanh nghiệp CPH tại thời điểm quyết định CPH được Nhà nước bán
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
81
tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực Nhà nước với giá
giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 nghìn đồng”.
Làm một phép tính đơn giản cũng thấy được quy định như vậy là gây khó khăn
cho người lao động để mua được hết cổ phần ưu đãi mà Nhà nước dành cho
người lao động trong doanh nghiệp. Cứ một năm công tác một người lao động
phải bỏ ra số tiền là: 10*70.000 =700.000đ giả sử một người lao động có thâm
niên làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước trong 20 năm thì số tiền phải bỏ ra
để mua hết số cổ phần ưu đãi là: 700.000*20 = 14.000.000đ. Việc bỏ ra số tiền
14 triệu đồng cùng một lúc để mua cổ phần ưu đãi là quá khó cho người lao động
trong khi mức thu nhập chỉ 550.000-600.000đ/tháng. Như vậy là đánh đố người
lao động có ưu đãi mà thực sự trả ưu đãi tí nào. Một điều không hợp lí nữa là số
cổ phần mua ưu đãi trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng
số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi dành cho người lao động trong doanh
nghiệp. Điều này thật khó cho Ban quản lí đổi mới doanh nghiệp ở các doanh
nghiệp nông nghiệp khi lên danh sách những người nghèo vì khó có thể nhặt ra
trong số toàn thể cán bộ công nhân viên ra số lao động nghèo hơn để được mua
ưu đãi 20% số cổ phần ưu đãi trả chậm. Nếu được thì Nhà nước cần có chính
sách riêng cho các doanh nghiệp nông nghiệp, Nhà nước đưa ra quy định như thế
nào là nghèo sau đó các doanh nghiệp theo đó mà xem ai thuộc diện nghèo thì
cũng được mua cổ phần ưu đãi trả chậm không hạn chế số cổ phần loại này.
Mua bán cổ phần là nhu cầu chính đáng của các cổ đông song cũng cần phải
lưu ý vấn đề này tránh tình trạng số cổ phần tập trung quá lớn vào một người
hoặc một nhóm người dẫn đến thay đổi bản chất của CTCP. CTCP phải theo dõi
kiểm tra việc mua bán cổ phần khuyến khích những người có nhu cầu bán cổ
phần bán cho những cổ đông trong Công ty.
Xung quanh vấn đề ưu đãi dành cho người lao động còn nhiều vấn đề đáng
bàn và cần có giải pháp tháo gỡ để người lao động yên tâm khi chuyển sang làm
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
82
việc cho CTCP. Trước mắt Nhà nước cùng doanh nghiệp tập trung giải quyết
một số vấn đề sau:
Nhà nước nên có quy định riêng mức ưu đãi dành cho lao động trong nông
nghiệp. Chúng ta luôn xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, là lĩnh vực cần
ưu tiên phát triển vậy tại sao trong vấn đề này chúng ta lại không thể có những
chính sách ưu ái hơn cho các doanh nghiệp nông nghiệp. Việc ưu tiên hơn cho
các doanh nghiệp nông nghiệp là tạo điều kiện cho các DNNN trong nông nghiệp
sang CTCP tức là chuyển sang loại hình doanh nghiệp làm ăn có hiêu quả hơn
điều đó tác động tích cực đến nông nghiệp nông thôn góp phần vào phát triển
kinh tế xã hội. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt nhưng lại thu được lợi ích lớn hơn nhiều
về lâu dài điều đó cũng đáng làm lắm chứ.
Do trong doanh nghiệp nông nghiệp có một bộ phận đáng kể người lao động
không có khả năng mua cổ phần hoặc mua không hết số cổ phần ưu đãi, nguy cơ
đứng ngoài tiến trình CPH của doanh nghiệp là rất rõ. Vì vậy Nhà nước cùng với
doanh nghiệp phải có biện pháp tạo vốn ban đầu cho người lao động để họ mua
cổ phần. Doanh nghiệp có thể đứng ra vay hoặc bảo lãnh cho người lao động vay
hình thức này đã áp dụng rất thành công ở một số doanh nghiệp CPH trước đó.
5. Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH theo các văn bản hiện
hành
Việc tuân thủ đúng quy trình CPH sẽ tạo nên những thuận lợi cho doanh
nghiệp trong việc đẩy nhanh tiến độ CPH vì các khó khăn trong quá trình CPH sẽ
được tháo gỡ dần, kế hoạch đề ra sẽ được thực hiện, đảm bảo được sự chỉ đạo
của cấp trên. Theo quy định hiện hành thì quá trình CPH được chia làm 4 bước:
B1. Chuẩn bị CPH
B2. Xây dựng phương án CPH
B3. Phê duyệt và triển khai phương án CPH
B4. Ra mắt CTCP, đăng kí kinh doanh
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
83
6. Hoàn thiện cơ chế chính sách
Tuy đã có nhiều văn bản được ban hành để hướng dẫn và khắc phục những
tồn tại nảy sinh trong quá trình CPH. Nhưng thực tế cho thấy là khi các văn bản
mới được ban hành khắc phục được những tồn tại trước đó lại nảy sinh những
vấn đề khó khăn khác. Nội dung của các văn bản chỉ đạo tổ chức thực hiện triển
khai, thiếu tính đồng bộ nhiều vấn đề chưa khẳng định được như CPH là tự
nguyện hay bắt buộc, chưa có các quy định về tránh nhiệm của cán bộ, ngành,
địa phương, doanh nghiệp trong triển khai CPH: cho đến nay sau khi có Nghị
định số 64/2002/NĐ-CP và hàng loạt các văn bản hướng dẫn kèm theo. Thực tế
đã nảy sinh những tồn tại như: xác định giá trị doanh nghiệp vẫn còn nhiều
vướng mắc, chậm và còn nhiều lúng túng kết quả còn mang tính chủ quan chưa
phản ánh đúng quan hệ cung cầu và khả năng sản xuất của tài sản trong tương
lai; quy trình CPH phức tạp nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém, chậm được triển
khai; ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động còn chung chung và chưa đủ
lực…vì vậy việc hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến CPH là cần thiết để
tạo ra một văn bản có hiệu lực cao thúc đẩy quá trình CPH đang chậm chạm hiện
nay.
6.1. Cần làm rõ hơn những ưu đãi với doanh nghiệp và người lao động trong
các doanh nghiệp CPH.
Một trong những mục tiêu của quá trình CPH là tạo động lực huy động vốn
và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc thực hiện mục tiêu này phụ
thuộc vào nhiều nhân tố trong đó những ưu đãi về kinh tế được coi là động lực
hàng đầu. Song một thực tế hiện nay là các ưu đãi dành cho doanh nghiệp và
người lao động luôn thay đổi theo hướng ngày càng có nhiều ưu đãi hơn tạo nên
tâm lý chờ đợi. Mặt khác hiện nay các quy định về mức ưu đãi là như nhau cho
mọi doanh nghiệp tạo nên những thiệt thòi cho các doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, nên chăng có các văn bản quy định phân biệt
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
84
mức độ ưu đãi khác nhau cho người lao động và doanh nghiệp theo ngành nghề
và lĩnh vực kinh doanh.
6.2. Là thay đổi cơ cấu cổ phần trong các doanh nghiệp CPH hiện nay
Hiện nay các doanh nghiệp nông nghiệp nói chung và Công ty TPXK Bắc
Giang nói riêng khi thực hiện CPH thì cổ phần của Nhà nước là 51% tức Nhà
nước nắm cổ phần chi phối. Như vậy xuất hiện tâm lý không phân biệt doanh
nghiệp mới là DNNN hay CTCP. Việc nhà nước nắm 51% cổ phần làm cho công
tác bán cổ phiếu gặp nhiều khó khăn do nhà đầu tư cảm thấy thứ họ mua không
phải là cổ phần mà là “trái phiếu” nhiều rủi ro. Một CTCP Nhà nước lại giữ 51%
vốn điều lệ thì Nhà nước hoàn toàn có thể duy trì sự quản lý như cũ, yếu tố đổi
mới là không thể hay rất khó xẩy ra. Đối với các CTCP Nhà nước giữ cổ phần
chi phối chức danh lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp này như giám đốc điều
hành hầu như vẫn được giữ nguyên… Nhiều giám đốc điều hành đã điều hành
CTCP không khác gì giám đốc DNNN trước đây, cơ quan chủ quản cấp trên vẫn
tiếp tục can thiệp vào công việc sản xuất kinh doanh của CTCP với một lý do
đơn giản là CTCP Nhà nước giữ cổ phần chi phối vẫn được coi là DNNN.
Việc Nhà nước giữ 51% cổ phần làm cho việc CPH mang nặng tính hình
thức lãnh đạo nhiều doanh nghiệp trong danh sách CPH đã lợi dụng quy định này
để tiếp tục giữ doanh nghiệp.
Tóm lại, việc xoá bỏ tình trạng “vô chủ” đối với DNNN, tăng cường sự
giám sát của các nhà đầu tư, tạo động lực mới cho sự phát triển của doanh nghiệp
phụ thuộc rất nhiều vào tỷ lệ cổ phần mà các cổ đông nắm giữ, nếu tiếp tục CPH
kiểu như hiện nay thì mục tiêu tạo động lực mới cho doanh nghiệp khó mà đạt
được.
6.3. Đơn giản hoá quy trrình thực hiện CPH
Hiện nay thủ tục tiến hành CPH còn phức tạp nên không tránh khỏi việc gây
khó khăn cho Ban đổi mới quản lý tại doanh nghiệp. Bởi vì thành phần chỉ đạo
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
85
đổi mới DNNN là các cán bộ lãnh đạo hoạt động có tính chất kiêm nghiệm chưa
thực sự dành nhiều thời gian thoả đáng cho công tác cổ phần. Ban đổi mới của
doanh nghiệp cùng một lúc phải lo hai nhiệm vụ lớn: Đảm bảo hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện công việc của quá trình CPH. Sự
phối hợp với các cơ quan cấp trên có liên quan chưa được thường xuyên chặt
chẽ. Vì vậy việc đơn giản hoá quy trình thực hiện CPH là cần thiết.
- Xây dựng kế hoạch triển khai quá trình CPH trong đó xác định các bước
chuyển DNNN thành CTCP, các công việc cụ thể trong mỗi bước, tiến độ thời
gian và lực lượng thực hiện. Về hình thức kế hoạch này nên xây dựng thành sơ
đồ hoặc biểu đồ tiến độ.
- Xác định những công việc phải thường xuyên quán xuyến trong toàn bộ
quá trình CPH, những công việc trọng tâm của từng giai đoạn. Từ đó bố trí công
việc cho hợp lí.
- Phân chia trách nhiệm trong Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp thành ba
nhóm dưới sự điều hành chung của Giám đốc trưởng ban: Nhóm phụ trách các
vấn đề tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp; Nhóm phụ trách việc xác định
phương án CPH; Nhóm phụ trách các vấn đề liên quan đến người lao động trong
doanh nghiệp CPH. Từ kế hoạch chung Giám đốc trưởng ban sẽ điều hoà phối
hợp chung bảo đảm sự đồng điệu trong thực hiện các công việc của quá trình
CPH.
- Đơn giản hoá các thủ tục liên quan đến cấp đăng kí kinh doanh cho CTCP
thành lập từ chuyển hoá DNNN. Trong hồ sơ xin đăng kí kinh doanh cần tôn
trọng những điểm mà CTCP kế thừa hợp lệ từ DNNN như giấy phép sử dụng đất,
đăng kí trụ sở.
6.4. Chọn hình thức CPH phù hợp:
Một thực tế hiện nay là các DNNN thường CPH theo hình thức bán một
phần giá trị thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Nhưng thực tế đã chứng minh
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
86
hình thức này chưa phù hợp với đặc điểm riêng có của các doanh nghiệp nông
nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp nông nghiệp hầu hết làm ăn không hiệu quả, thu
nhập của người lao động thấp, hoạt động kinh doanh mang tính chất rủi ro cao
cho nên việc bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp cũng như các
nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp gặp khó khăn. Khi không bán hết cổ phần thì số
cổ phần đó lại được chuyển vào vốn Nhà nước như vậy thì khó mà đạt được mục
tiêu CPH. Theo kiến nghị của nhiều doanh nghiệp nông nghiệp thì nên cổ phần
doanh nghiệp nông nghiệp theo hình thức thứ nhất tức là: Giữ nguyên giá trị
thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu thu hút
thêm vốn để phát triển doanh nghiệp. Việc phát hành cổ phiếu không chỉ một đợt
mà được tiến hành thành nhiều đợt để tăng vốn sản xuất kinh doanh và giảm dần
cổ phần của Nhà nước tại doanh nghiệp. Hy vọng hình thức này sẽ sớm được áp
dụng để thúc đẩy quá trình CPH trong các DNNN trong nông nghiệp hiện nay.
6.5.Tạo môi trường thức đẩy CPH
- Hình thành thị trường chứng khoán để thúc đẩy việc mua bán chuyển
nhượng cổ phần của các doanh nghiệp.
-Thành lập một số trung tâm tư vấn về CPH DNNN để trợ giúp cho việc
triển khai CPH DNNN.
7. Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH
CPH chậm trễ do nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan, bản chất
của vấn đề lại nằm ở chỗ trong quá trình CPH có nhiều cản trở mà chủ yếu lại ở
chỗ, bản thân doanh nghiệp chưa nhìn thấy rõ tương lai triển vọng khi chuyển
thành CTCP.
Mặc dù cả lí thuyết và thực tế đều chứng minh CPH là giải pháp hữu hiệu
nhất để DNNN tự cải tổ lại chính mình và nâng cao hiệu quả kinh doanh nhưng
không mấy doanh nghiệp lại tin vào điều này. Thực tế đã giải thích khá rõ tại sao
CPH có lợi như vậy mà rất ít DNNN tự nguyện xin CPH, Chính phủ hàng năm
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
87
phải giao chỉ tiêu cho các Bộ, ngành, địa phương nhưng năm nào cũng không
hoàn thành kế hoạch. Mặc dù ít được nhắc đến nhưng vấn đề giải quyết hậu CPH
ở doanh nghiệp lại gặp rất nhiều khó khăn, còn tồn tại nhiều bất cập do cả
nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
+ Bài toán đầu tiên doanh nghiệp đã CPH phải đối mặt là vấn đề tiếp cận
nguồn vốn. Giải quyết song vấn đề vốn tự có để sản xuất kinh doanh các doanh
nghiệp lại gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng. Quy chế cho vay hiện nay
dành cho các DNNN quyền vay tín dụng không cần thế chấp tại các ngân hàng
quốc doanh (lực lượng kiểm soát gần 80% thị trường tín dụng Việt Nam hiện
nay). Chuyển sang CTCP, Nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã quy định rất rõ các
CTCP vẫn được tiếp tục vay vốn theo cơ chế trước đó vẫn áp dụng cho các
DNNN. Cách đánh giá của các ngân hàng thương mại quốc doanh với các CTCP
không thể thân thiện như họ vẫn làm với các DNNN. Đơn giản là vì trước đó các
DNNN có nợ thì theo quy định hiện hành các ngân hàng có thể đưa vào diện
khoanh nợ thậm chí xoá nợ. Với các CTCP thì không thể làm như thế. Và do đó
dù muốn hay không muốn họ không thể tiếp cận nguồn vốn rễ ràng như trước.
+ Về mặt tổ chức quản lí còn nhiều bất cập chuyển sang CTCP mà hoạt
động chẳng khác gì một DNNN. Theo quy định hiện nay các CTCP Nhà nước
nắm giữ 51% cổ phần thì vẫn được coi là thành viên của tổng công ty như vậy thì
không khác mấy so với trước khi CPH.
+ Một bài toán đau đầu nữa mà khi hoàn thành song CPH công ty phải đối
mặt đó là vấn đề giải quyết số lao động dôi dư hậu CPH. Trong quá trình CPH,
để mọi sự được diễn ra một cách êm đẹp, công ty đã không tiến hành việc tinh
giảm triệt để bộ máy để chuyển sang CTCP, trừ những trường hợp không thể còn
phần lớn số nhân sự trước đây ở DNNN đều được chuyển sang CTCP để mọi
người “hài lòng”. Việc làm bất chấp thực tế này dẫn dến sự dôi dư không tránh
khỏi của lực lượng lao động khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Khi đã là
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
88
CTCP thì công ty không thể khắc phục khiếm khuyết này. Điều đó đương nhiên
là phức tạp, tốn thời gian, tốn chi phí và quan trọng hơn nữa là nó ảnh hưởng trực
tiếp đến công việc kinh doanh hàng ngày của công ty.
+ Cũng không thể không nhắc đến nguy cơ làm chủ hình thức của người lao
động trong Công ty. Do đặc điểm của Công ty sản xuất thủ công vẫn là chính
công việc rất nặng nhọc, lao động chủ yếu là lao động hợp đồng có thời hạn nên
lực lượng lao động chủ yếu là lao động trẻ khi cổ phần với số năm công tác ít họ
sẽ trở thành cổ đông nhỏ tại Công ty. Biểu hiện của tình trạng là chủ hình thức
trước hết là ở chỗ quyền thông tin của các cổ đông hầu như không được tôn
trọng. Theo nguyên tắc đồng sở hữu tài sản, các chủ sở hữu vốn của CTCP được
quyền tham gia quản lí công ty, được công ty cung cấp đầy đủ thông tin về tài
sản, tình hình tài chính, cổ phần, tình hình lao động, đầu tư, tình hình sản xuất
kinh doanh…nhưng có lẽ các cổ đông nhỏ phải yên vị với những thông tin hết
sức sơ sài được trình bầy trước Đại hội đồng cổ đông hằng năm. Do không được
cung cấp đầy đủ thông tin, hầu hết là các cổ đông nhỏ (chủ yếu là các công nhân
trực tiếp sản xuất) không hiểu được CTCP, họ cảm thấy mình là cổ đông thực thụ
mà phải đứng ngoài Công ty. Như vậy dễ nảy sinh tâm lí cho rằng họ không phải
là chủ Công ty, họ không phải là cổ đông mà là người bị vay vốn.
Mặc dù những tồn tại trên không thuộc về bản chất của CTCP, nhưng điều
này rất rễ xẩy ra nên dù muốn hay không muốn nó cũng tạo tâm lí tiêu cực cho
cán bộ lãnh đạo và cả người lao động trong công ty. Lẽ đương nhiên khi tâm lí bị
bi quan thì đương nhiên CPH không thể suôn sẻ được. Vậy thì giải pháp nào là
hữu hiệu để phát triển doanh nghiệp hậu CPH.
+ Cơ chế tín dụng cho các doanh nghiệp CPH cần được thực hiện đúng với
sự hỗ trợ khuyến khích mà các quy định của Nhà nước dành cho họ. Bên cạnh đó
các doanh nghiệp cũng cần có biện pháp huy động vốn từ các nguồn khác chứ
không nên chỉ trông chờ vào vốn của các ngân hàng.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
89
+ Cần có những quy định về quyền thông tin cho các cổ đông dù nhỏ tại
CTCP để khắc phục tâm lí bị đứng ngoài công ty của những cổ đông này. Doanh
nghiệp cũng cần thực hiện đúng nghĩa vụ thông tin cho các cổ đông.
+ Trong quá trình CPH công ty cần phải triệt để tinh giảm bộ máy, chỉ giữ
lại những người cần cho CTCP, CTCP cần “chất” chứ không phải là “lượng”
CTCP phải có một bộ máy thực sự tinh gọn khi bước vào hoạt động sau CPH.
Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến lợi ích cho người lao động phải có chế độ
thoả đáng cho những lao động dôi dư trong CPH để họ có thể tìm công việc mới.
Nếu như do mở rộng quy mô sản xuất sau này cần tuyển thêm lao động thì cũng
cần ưu tiên những người đã từng làm việc cho công ty.
+ Nhà nước cùng các bộ ngành có liên quan cần có biện pháp hỗ trợ công ty
về mặt tổ chức quản lí (thông qua việc tổ chức các chương trình tập huấn, hoặc
cử chuyên gia hỗ trợ) để Công ty sau CPH có thể nhanh chóng có một cơ chế
quản lí thích ứng với mô hình tổ chức mới.
+ Quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phần ưu đãi để khuyến
khích, thu hút vốn. Tạo điều kiện cho người lao động trẻ, nhất là lao động đã qua
đào tạo (lực lượng quan trọng của doanh nghiệp), có cơ hội được hưởng chế độ
ưu đãi nhất định có lợi hơn so với các cổ đông khác. Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ
trợ và sắp sếp DNNN
+ Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạo sâu sát, cụ thể, nắm chắc tình
hình các doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng
doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm giúp doanh nghiệp CPH
được thuận lợi, ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với
doanh nghiệp CPH, thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với doanh nghiệp và
người lao động theo quy định tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP .
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
90
KẾT LUẬN
CPH DNNN là giải pháp hữu hiệu để đổi mới hoạt động của các DNNN nói
chung DNNN trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. CPH là một yêu cầu khách
quan phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay và yêu cầu hội nhập của nền kinh
tế. Trong nông nghiệp, do những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và của các
hoạt động kinh tế gắn liền với sản xuất nông nghiệp mà CPH doanh nghiệp nông
nghiệp Nhà nước mang những đặc điểm riêng, đòi hỏi có phương pháp thực hiện
phù hợp.
Từ đường lối đổi mới kinh tế của Đảng, kinh nghiệm chuyển hoá sở hữu và CPH
DNNN ở các nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách liên
quan đến CPH nhằm tạo ra động lực mới cho các doanh nghiệp nhà nước.
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
91
Trải qua hơn 10 năm thực hiện CPH tuy còn nhiều vướng mắc khó khăn
song về cơ bản chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước đã đem lại kết quả tốt
đẹp tạo được niềm tim từ phía người lao động và các DNNN.
Qua nghiên cứu quá trình thực hiện CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang thấy
nổi nên những khó khăn trong khi thực hiện CPH do cả nguyên nhân khách quan
và chủ quan như: ưu đãi cho doanh nghiệp và người lao động chưa thoả đáng,
xác định giá trị doanh nghiệp còn nhiều bất cập, còn có sự phân biệt đối xử giữa
doanh nghiệp nhà nước và CTCP, tâm lí ngại chuyển sang CTCP của người lao
động, đặc lợi ích của cá nhân lên trên lợi ích của tập thể…Từ thực tế đó để thúc
đẩy CPH ở Công ty TPXK Bắc Giang Em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp
sau:
+ Nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ công nhân viên
+ Lành mạnh vấn đề tài chính trước khi CPH
+ Xác định đúng giá trị doanh nghiệp
+ Giải quyết tốt vấn đề lợi ích cho người lao động
+ Tổ chức thực hiện đúng quy trình CPH
+ Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
+ Coi trọng phát triển doanh nghiệp hậu CPH
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần sách:
1. PGS.TS. Đỗ Hoài Nam CPH DNNN cơ sở lí luận và kinh nghiệm thực tiễn.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
2. PGS.TS. Nguyễn Kế Tuấn. Thực trạng và giải pháp sắp xếp lại các DNNN
thuộc thành phố Hà Nội. Nhà xuất bản chính trị quốc gia
3. Các văn bản pháp luật về CPH DNNN. Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Mét sè gi¶i ph¸p thóc ®Èy cæ phÇn ho¸ ë C«ng ty thùc phÈm xuÊt khÈu B¾c Giang
92
4. PGS.TS . Ngô Quang Minh. Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới DNNN.
Nhà xuất bản chính trị quốc gia
Phần tạp chí:
1.Tạp chí Kinh tế và phát triển số 4/2004
2.Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 3/2004
3.Tạp chí lí luận chính trị năm 3/2001
4.Tạp chí Cộng sản số 1/2002
5.Tạp chí Ngân hàng số 1/2001
6.Tạp chí Thị trường chứng khoán số 2/1999
7.Tạp chí Tài chính số 18 năm 2000
Cùng nhiều loại sách báo và tạp chí khác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở Công ty thực phẩm xuất khẩu Bắc Giang.pdf