Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và định hướng cho giai đoạn 2011-2015

Mục lục MỞ ĐẦU 4 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 6 1.1 Khái quát về NSNN 6 1.1.1 Khái niệm NSNN 6 1.1.2 Bản chất và chức năng của NSNN 6 1.1.3 Vai trò của NSNN 8 1.2 Khái quát về Cân đối NSNN 9 1.2.1 Khái niệm và đặc điểm của Cân đối NSNN 9 1.2.2 Vai trò của Cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường 10 1.3 Các chỉ tiêu cấu thành Cân đối NSNN 13 1.3.1 Thu NSNN 13 1.3.2 Chi NSNN 15 1.3.3 Tình trạng ngân sách Nhà nước - Bội chi ngân sách. 17 1.4 Các quan điểm về cân đối NSNN 19 1.4.1 Quan điểm ngân sách cân bằng 19 1.4.2 Quan điểm ngân sách chu kỳ 19 1.4.3 Quan điểm ngân sách thâm hụt 20 1.4.4 Quan điểm về ngân sách duy nhất và hai ngân sách 20 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2010 22 2.1 Thực trạng Cân đối NSNN của VN trong giai đoạn 2001-2010 22 2.1.1 Thực trạng thu 22 2.1.2 Thực trạng chi 30 2.1.3 Thực trạng Cân bằng ngân sách trong giai đoạn 2001-2010 38 2.2 Nhận xét về ưu nhược điểm của cân đối NSNN Việt Nam giai đoạn 2001-2010 43 2.2.1 Ưu điểm: 43 2.2.2 Nhược điểm: 44 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2011-2015 VÀ MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 46 3.1 Định hướng cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015 46 3.2 Kiến nghị về cân đối NSNN trong giai đoạn 2011 – 2015 51 3.3 Hoàn thiện cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 52 3.3.1 Trong điều kiện bình thường 52 3.3.2 Trong điều kiện lạm phát cao. 59 MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Ngân sách nhà nước (NSNN) đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ như đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo đảm an sinh xã hội góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Đặc biệt trong xu thế kinh tế thị trường như hiện nay thì vấn đề thu chi NSNN cần có một cơ cấu thu chi hợp lý hơn. Thu như thế nào để tận dụng được nguồn trong nước, không bị ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài bảo đảm nguồn thu ổn định. Và chi như thế nào để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội, bảo đảm đời sống cho người dân, vừa không góp phần tăng lạm phát và đảm bảo chi trong giới hạn của thu. Đây là một vấn đề quan trọng mà nhiều quốc gia, không chỉ riêng Việt Nam vẫn đang phải nghiên cứu và thực thi. Trong thời gian qua, thực trạng cân đối NSNN của Việt nam thường xuyên là bội chi với mức 6.9% GDP năm 2009 và 6.2% năm 2010. Điều này cũng tác động lại nền kinh tế làm cho lạm phát tăng, không đủ nguồn vốn đầu tư các hạng mục cơ bản, tăng nợ vay nước ngoài, làm cho chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ xung đột lẫn nhau, . Nhưng quan trọng hơn cả, nó là chỉ tiêu phản ánh an ninh tài chính quốc gia, ảnh hướng đến uy tín của một quốc gia trên trường quốc tế. Do vậy, để đảm bảo cân đối NSNN thì chính phủ các nước đã có những biện pháp như kiểm soát chặt chẽ các khoản thu chi tránh tình trạng thất thoát, chi sai, định hướng và dự toán thu chi hợp lý theo từng năm và tùy theo điều kiện phát triển kinh tế xã hội tại từng thời điểm. Đối với việt Nam, trong thời kỳ kinh tế mở như hiện nay thì việc cân đối thu chi lại càng quan trọng hơn nữa. Bởi có những khoản thu trong thời gian tới do hội nhập sẽ giảm thuế một số mặt hàng xuất nhập khẩu, do nguồn tài nguyên thiên nhiên là có hạn sẽ giảm dần. Còn chi thì sẽ tăng lên do nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế xã hội, chi đảm bảo an sinh cho người dân. Do vậy, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu về đề tài “Cân đối Ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” để hiểu rõ hơn về thực trạng trong thời gian gần đây của cân đối ngân sách cũng như đưa ra một số nhận xét, kiến nghị về việc hoàn thiện cân đối NSNN của Việt nam. 2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU - Về lý luận: tìm hiểu sâu hơn những khái niệm, lý luận có liên quan đến Cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường. - Về thực tiễn: Tìm hiểu thực trạng và đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện Cân đối NSNN tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thu chi ngân sách nhà nước, biện pháp cân đối NSNN 4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong cân đối NSNN của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và định hướng cho giai đoạn 2011-2015. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sử dụng phương pháp nghiên cứu tại bàn và phương pháp thảo luận nhóm. Các số liệu được sử dụng trong đề tài là nguồn số liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn: các báo, tạp chí kinh tế, internet, các luận văn thạc sĩ 6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Một số lý luận chung về Ngân sách nhà nước. Chương 2: Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và định hướng cho giai đoạn 2011-2015 Chương 3: Một số nhận định và kiến nghị nhằm hoàn thiện Cân đối ngân sách nhà nước của Việt Nam trong nền kinh tế thị trường.

doc72 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4864 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Thực trạng cân đối ngân sách nhà nước của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 và định hướng cho giai đoạn 2011-2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chi NSĐP luôn có xu hướng lớn hơn lập dự toán thu. Vì lý do này mà đa số các tỉnh/thành ở nước ta bị thụ động trong cân đối ngân sách, hàng năm các tỉnh/thành này đều nhận được chi hỗ trợ ngược lại từ NSTW. Những hạn chế trong cơ chế phân cấp quản lý NSNN đã ảnh hưởng mạnh tới tính cân đối bền vững của NSNN. Đi đôi với việc đẩy mạnh chính sách phi tập trung hóa, phân cấp mạnh hơn cho địa phương trong quản lý và cân đối ngân sách luôn đòi hỏi nâng cao khả năng quản lý của địa phương. Thế nhưng, ở nhiều địa phương năng lực quản lý và trách nhiệm giải trình của chính quyền , khả năng kiểm soát của Hội đồng nhân dân còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ Luật NSNN qui định. Phạm vi NSNN thiếu toàn diện, không phản ánh đúng quy mô nguồn lực trong cân đối ngân sách. Cách xác định phạm vi NSNN hiện nay của Việt Nam chưa đảm bảo được tính toàn diện và đầy đủ của NSNN. NSNN chưa bao phủ toàn bộ chi tiêu của Chính phủ. Đó là lý do tại sao việc xác định mức bội chi ngân sách theo thông lệ của Việt Nam khác với thông lệ của quốc tế, điều này sẽ gây khó khăn cho việc so sánh, đánh giá các thông số về kinh tế vĩ mô trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng thiếu thông tin về các khoản viện trợ do nhà tài trợ thực hiện trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng. Việc thiếu thông tin về các dự án tài trợ trong các ngành khác nhau đã hạn chế khả năng trong lập kế hoạch và phối hợp cân đối chính xác giữa nguồn lực trong nước với nguồn lực huy động từ bên ngoài. Chính sách quản lý nợ để cân đối NSNN còn nhiều yếu kém Công tác quản lý nợ của Việt Nam thời gian qua chỉ chú trọng đáp ứng nhu cầu chi, kiểm soát tổng nợ và việc thanh toán nợ; chưa có sự quan tâm đầy đủ đến các mục tiêu khác của quản lý nợ công như: quản lý chi phí và rủi ro, hỗ trợ phát triển thị trường tài chính trong nước; chưa có được một mô hình để có thể tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách quản lý nợ và cân đối NSNN; giữa chính sách cân đối NSNN với chính sách tiền tệ. Do chấp nhận một mức bội chi ngân sách vừa phải từng năm để phát triển nền kinh tế nên nợ nước ngoài của Việt Nam (vay để bù đắp thiếu hụt ngân sách) ngày càng lớn. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2011-2015 VÀ MỘT SỐ NHẬN ĐỊNH VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CỦA VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 3.1 Định hướng cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015 3.1.1 Định hướng thu NSNN giai đoạn 2011 - 2015: Thu NSNN được hình thành từ 2 nguồn thu chính là từ thuế, chi phí, lệ phí và thu từ tài sản. Tuy nhiên, hiện nay chiếm 90% trong cơ cấu thu NSNN là từ thuế, do vậy để có được một nguồn thu ổn định thì Việt Nam phải xây dựng cho mình một cơ cấu thuế hợp lý, phù hợp với tiềm lực kinh tế xã hội của quốc gia. Và chính cơ cấu này cũng sẽ tác động ngược trở lại kinh tế, xã hội của đất nước. Qua cải cách thuế bước 1, bước 2, bước 3 hệ thống thuế Việt Nam đã dần tạo ra được nguồn thu hợp lý cho NSNN vừa đảm bảo nguồn thu vừa tạo điều kiện để các doanh nghiệp phát triển. Định hướng của Việt Nam trong thời gian tới và cụ thể là trong giai đoạn 2011 – 2015 xác định thuế thu nhập cá nhân và các nguồn thu nội địa mới chính là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Do vậy, việc đầu tiên mà Việt Nam cần làm là làm như thế nào để từng công dân Việt Nam đều biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình đối với công cuộc xây dựng đất nước. Từ đó nâng tỷ lệ thu NSNN từ thuế Thu nhập cá nhân đến năm 2015 đạt 12% chứ không như những năm trước đây, tỷ lệ này chỉ chiếm khoảng 5%. Đây cũng là nguồn thu hợp lý được nhiều nước lựa chọn là một trong những nguồn chính của NSNN. Ngoài ra, Chính phủ và quốc hội trong những phiên họp thường niên cũng đã xác định giảm thu NSNN từ các loại thuế như: + Đối với thuế xuất nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt Việt Nam xác định đây không còn là nguồn thu chủ yếu trong NSNN như những năm trước đây (nguồn thu này chiếm xấp xỉ 20% thu NSNN). Bởi sau gia nhập WTO chúng ta phải đảm bảo nguyên tắc hai bên cùng có lợi đối với các nước tham gia WTO nên một số mặt hàng xuất nhập khẩu sẽ được miễn giảm thuế, dẫn đến giảm thu. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn để chúng ta không còn dựa vào thu từ XNK, Thuế TTĐB để làm nguồn thu chính của NSNN là do nguồn thu này không ổn định, nó phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới và hiện nay nhà nước Việt Nam vẫn còn bảo hộ hàng hóa trong nước. + Thu từ dầu thô hàng năm chiếm khoảng 25% thu NSNN, tuy nhiên trong thời gian tới khoản thu này sẽ giảm xuống do nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam không phải là vô tận và nó phụ thuộc vào giá dầu thế giới. + Thu từ nhà đất cũng sẽ giảm xuống do quỹ đất ngày càng hạn hẹp do thu hồi để đầu tư các khu Công nghiệp và trong thu hồi đất đai còn phải đền bù để xây dựng các công trình công cộng. Do vậy, Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 11 cũng đã dưa ra chỉ tiêu thu NSNN trên GDP trong giai đoạn 2011 – 2015 sẽ giảm dần, cụ thể năm 2011 thu NSNN chiếm 26% GDP và dần giảm xuống còn 22% GDP vào năm 2015. Dự toán kế hoạch Thu Ngân sách nhà nước năm 2011: Để góp phần tăng tính ổn định và bền vững của Ngân sách nhà nước, vừa qua Bộ Tài chính đã công bố kèm quyết định 3212/QĐ-BTC ngày 08/12/22010 với dự toán thu NSNN năm 2011 là 595,000 tỷ đồng tương đương 26.2% GDP; tính cả 10,000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2010 sang năm 2011 thì tổng số thu cân đối ngân sách nhà nước là 605,000 tỷ đồng. Như vậy, thu NSNN năm 2011 tăng 12.7% so với năm 2010. Theo đó dự kiến thu như sau: + Thu nội địa: Tổng thu 382,000 tăng 19.3% so với năm 2010. Trong đó, dự toán thu từ khu vực kinh tế quốc doanh tăng 19.9%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19.8%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng 22.2%; thu thuế thu nhập cá nhân tăng 23.7% so với ước thực hiện năm 2010. + Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: Với kim ngạch xuất khẩu dự kiến tăng 10% so với ước thực hiện năm 2010, nhập siêu không vượt quá 18% kim ngạch xuất khẩu. Ngoài ra, trong năm nay dự kiến sẽ thực hiện cắt giảm nhiều dòng thuế để thực hiện các cam kết quốc tế, làm giảm thu ngân sách Nhà nước khoảng trên 2,000 tỷ đồng; đồng thời tiếp tục sử dụng linh hoạt công cụ thuế để hạn chế nhập siêu (nhất là các mặt hàng tiêu dùng không thiết yếu), hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô. Dự toán thu năm 2011 cũng đã tính tới yếu tố đẩy mạnh công tác xử lý, thu hồi nợ đọng, cải cách hành chính, thủ tục hải quan và công tác kiểm tra sau thông quan, tăng cường đấu tranh chống buôn lậu, chống gian lận thương mại và trốn thuế. Như vậy, dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011 từ hoạt động xuất nhập khẩu là 180,700 tỷ đồng, tăng 12.4% so với ước thực hiện năm 2010, trong đó thu từ thuế xuất nhập khẩu, thuế TTĐB hàng nhập khẩu là 80,400 tỷ đồng, tăng 12%; dự toán thu từ thuế GTGT hàng nhập khẩu là 100,300 tỷ đồng, tăng 12.7% so với ước thực hiện năm 2010. Sau khi trừ đi số chi hoàn thuế theo chế độ năm 2011 dự kiến là 42,000 tỷ đồng, thì dự toán thu cân đối NSNN từ hoạt động xuất nhập khẩu năm 2011 là 138,700 tỷ đồng, tăng 14% so với ước thực hiện năm 2010. + Thu từ dầu thô: dự kiến đạt 69,300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng đạt 14.02 triệu tấn, giá bình quân đạt 77 USD/thùng. (Xem chi tiết các khoản thu NSNN tại phụ lục 01) 3.1.2 Định hướng Chi NSNN giai đoạn 2011 – 2015: Đối với các khoản chi NSNN trong giai đoạn 2011 - 2015 Việt Nam cũng định hướng ưu tiên các khoản chi cho Giáo dục đào tạo, hỗ trợ học sinh, sinh viên và phổ cập giáo dục, chăm lo đời sống của bà con dân tộc là chủ yếu. Cân đối và có định hướng rõ ràng đối với các khoản chi đầu tư phát triển, cắt giảm những đầu tư công không hiệu quả, bỏ những dự án không cần thiết, chấm dứt hiện trạng đầu tư dàn trải, phân tán. Tuy nhiên, nhà nước phải quan tâm đầu tư cho lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống,…và các công trình kinh tế mũi nhọn nhằm xây dựng, cải tạo hệ thống hạ tầng đã xuống cấp, hoạt động kém hiệu quả. Riêng đối với chi cho các đơn vị nhà nước có nguồn thu thì Chính phủ, Bộ tài chính cũng đã ra các văn bản pháp lý khoán kinh phí cho những đơn vị này, lấy thu bù chi như nghị định số 43/2006/NĐ/CP ngày 25/04/2006 của chính phủ về việc quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thự hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập và Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu nhằm tạo tính chủ động để các đơn vị cân đối thu chi của mình cho hợp lý. Dự toán Chi NSNN năm 2011: Bên cạnh kế hoạch thu NSNN năm 2011, Bộ tài chính cũng đã lên dự toán chi NSNN rõ ràng và được công bố theo nghị định 3212/QĐ-BTC ngày 08/12/2010. Theo đó, năm nay dự kiến chi NSNN khoảng 725,600 tỷ đồng. Cụ thể như sau: + Về chi thường xuyên, trong năm 2011 chi khoảng 442,100 tỷ đồng, tăng 18.1% so với dự toán năm 2010, chiếm 60.9% tổng chi ngân sách Nhà nước. + Riêng chi đầu tư phát triển chiếm 152,000 tỷ đồng, tăng 21.1% (26.500 tỷ đồng) so dự toán năm 2010, chiếm 20,9% tổng chi ngân sách Nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế. + Đối với chi trả nợ, viện trợ trong năm 2011, dự kiến 86,000 tỷ đồng, tăng 22.4% so dự toán năm 2010, chiếm 11.9% tổng chi ngân sách Nhà nước để đảm bảo chi trả các khoản nợ trong và ngoài nước đến hạn. + Chi trợ giá các mặt hàng chính sách là 1,660 tỷ đồng, tăng 35.6% so dự toán năm 2010. Chi lương hưu và đảm bảo xã hội là 74,500 tỷ đồng, tăng 9.9% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp kinh tế là 42,540 tỷ đồng, tăng 58.3% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường là 7,250 tỷ đồng, tăng 16.4% so dự toán năm 2010, chiếm 1% tổng chi ngân sách Nhà nước. Chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo là 110,130 tỷ đồng, tăng 13.9% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp y tế là 43,200 tỷ đồng, tăng 30.9% so dự toán năm 2010. Chi sự nghiệp khoa học và công nghệ là 6,430 tỷ đồng, tăng 24.4% so dự toán năm 2010... (Xem chi tiết các khoản chi NSNN tại phụ lục 01) 3.1.3 Định hướng cân đối NSNN trong giai đoạn 2011 – 2015: Hiện trạng cân đối thu chi của nước ta trong những năm qua vẫn thường là bội chi với tỷ lệ khoảng từ 5%-7% GDP hàng năm. Do vậy việc giảm bội chi, tăng thu NSNN là vấn đề cấp thiết ảnh hướng đến an ninh tài chính quốc gia. Định hướng những năm tới tỷ lệ bội chi của Việt Nam sẽ dưới 5% GDP, đây là chỉ số được Việt Nam đánh giá là an toàn đối với tài chính quốc gia. Tuy nhiên, theo thông lệ quốc tế thì chỉ số này nên ở mức từ 1.5 – 2% GDP. Năm 2011, ước đoán bội chi NSNN khoảng 120,600 tỷ đồng. Đề bù đắp phần bội chi này, chính phủ và quốc hội dự kiến vay trong nước 92,600 tỷ đồng và vay từ nước ngoài khoảng 28,000 tỷ đồng và phần bội chi này sẽ dành cho chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Như vậy, ước tính bội chi năm nay là 5.3% GDP, đây là một trong những mục tiêu lớn mà chính phủ đã đề ra. Bên cạnh đó Chính phủ, UB Tài chính – ngân sách cũng yêu cầu thực thi chính sách tài khoá thận trọng, kiểm soát chặt chẽ thu, chi NSNN và đề ra 08 biện pháp trọng tâm nhằm thực hiện mục tiêu giảm bội chi như sau: + Xây dựng chiến lược quản lý nợ công đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030, phối hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và các chính sách khác đảm bảo các mục tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra trong năm 2011. + Tăng cường công tác thu ngân sách đảm bảo thu đúng, thu đủ theo luật đinh. Trong trường hợp thu NSNN tăng hơn dự kiến ban đầu thì được sử dụng ít nhất 30% để giảm bội chi NSNN. + Quản lý chặt chẽ chi NSNN, đảm bảo hiệu quả, tiết kiệm, hạn chế chi ngoài dự toán, chi vượt thẩm quyền, chi sai quy định của Luật NSNN và các nghị quyết của Quốc Hội. + Xác định rõ đối tượng ưu tiên đầu tư, tập trung vốn cho các công trình trọng điểm, cấp bách hoàn thành trong năm 2011 – 2012. + Thực hiện điều chỉnh mức lương tối thiểu, thực hiện chế độ phụ cấp công vụ, phụ cấp thâm niên ngành giáo dục nhằm đảm bảo đời sống cán bộ công nhân viên. + Tiếp tục đổi mới cơ chế tài chính, nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công. Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các loại hình sự nghiệp và tăng cường quản lý đối với các dịch vụ công đã xã hội hóa. + Quốc hội chấp thuận phát hành thêm 45,000 tỷ đồng vốn trái phiếu chính phủ để tiếp tục thực hiện các dự án giao thông, thuỷ lợi và kiên cố hoá kết hợp chuẩn hóa trường lớp học, thực hiện đầu tư, nâng cấp bệnh viện đa khoa huyện, đa khoa tỉnh thuộc vùng miền núi, khó khăn và xây dựng ký túc xá sinh viên,... . + Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán các khoản chi được quản lý qua ngân sách nhà nước, vay về cho vay lại, bảo lãnh vay của Chính phủ, các khoản chi từ các quỹ tài chính Nhà nước, các khoản vay, tạm ứng của các Bộ, chính quyền địa phương. Khắc phục tình trạng tạm ứng vốn quá lớn, thời gian tạm ứng vốn quá dài hoặc không quy định cụ thể thời gian phải hoàn trả, nhất là đối với các khoản tạm ứng ngân sách năm sau. Quản lý chặt chẽ việc huy động, sử dụng vốn của các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước, kể cả các khoản vay trong và ngoài nước, bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả. Nhận xét về định hướng cân đối ngân sách giai đoạn 2011-2015 Ưu điểm: Đối với thu: đã xác định được nguồn thu hợp lý và cơ cấu nguồn thu phù hợp trong tương lai khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Nhà nước cũng đã xây dựng kế hoạch thu hồi nợ công trong những năm tới giúp phần nào tăng nguồn thu cho NSNN. Đối với chi: Do Việt Nam là một nước đang phát triển nên cơ cấu chi với tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng cao là hợp lý. Nhược điểm: - Văn bản pháp lý liên quan vẫn còn những kẻ hở để kẻ gian lợi dụng nên hay xảy ra các trường hợp tham nhũng, chiếm đoạt của công làm giảm thu hoặc tăng chi cho nhà nước. - Chi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chiếm tỷ trọng cao là hợp lý tuy nhiên hiện nay Việt Nam vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải 3.2 Kiến nghị về cân đối NSNN trong giai đoạn 2011 – 2015 Để đáp ứng được vấn đề chi NSNN trong khi thu NSNN có hạn thì Việt Nam cần chú trọng một số vấn đề trong thời gian tới như: Về thu: Đảm bảo duy trì mức động viên ngân sách hợp lý. Trên cơ sở xác định mức độ động viên phù hợp, thực hiện cải cách cơ cấu hệ thống chính sách thuế theo định hướng đảm bảo tính hợp lý trong cơ cấu của ba loại thuế cơ bản: thuế thu nhập, thuế tiêu dùng và thuế tài sản (chủ yếu là thuế nhà đất). Trong đó, cần hướng tới việc gia tăng từng bước tỷ trọng các nguồn thu từ thuế TNCN và từ thuế nhà và đất. Thực hiện cải cách thuế theo hướng đảm bảo công bằng và xem xét lại mức thuế suất của một số mặt hàng cũng như những trường hợp miễn giảm thuế. Nâng cao hiệu quả chính sách thuế đới với tài nguyên, đất đai. Bởi đây là những nguồn tài nguyên có hạn, nếu không có sự hạn chế cũng như có mức thuế phù hợp có thể dẫn đến những trường hợp khai thác trần lan, bất hợp pháp làm giảm nhanh chóng nguồn tài nguyên. Cải cách hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế cũng như giảm được chi phí trong ngành thuế. Về chi: Cần có những dự báo kinh tế chi tiết hơn về sự phát triển kinh tế trong tương lai nhằm đưa ra một cơ cấu chi trong từng năm hợp lý nhất. Như nên đưa một số đầu tư công vào lĩnh vực tư nhân để cả nhà nước và nhân dân cùng làm sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư cũng như góp phần kích thích kinh tế phát triển. Vẫn ưu tiên những khoản chi đầu tư phát triển và chi phát triển con người, an sinh xã hội. Tuy nhiên, cần xem xét lại những dự án đầu tư chặt chẽ nhằm phát hiện sớm nhất những dự án không khả thi, không hiệu quả tránh tình trạng chiếm dụng vốn của NSNN. Cần minh bạch hơn nữa trong vấn đề thu chi cũng như quản lý NSNN trong thời gian tới. Đồng thời có những biện pháp quản lý, kiểm soát chặt chẽ hơn nhằm tránh thất thoát nguồn thu. Nên đưa những khoản giảm thu từ thuế TNCN về chi tiêu thường xuyên trong cơ cấu chi để giảm tình trạng gian lận nhằm tăng thu cũng như số chi được chính xác hơn. 3.3 Hoàn thiện cân đối NSNN trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 3.3.1 Trong điều kiện bình thường 3.3.1.1 Về phía thu Để đảm bảo tính bền vững của nguồn thu nhằm tạo sự chủ động trong cân đối NSNN, thời gian tới cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu thu NSNN theo hướng giảm mức độ phụ thuộc vào các nguồn thu có liên quan đến hoạt động ngoại thương và dầu khí, tăng tỷ trọng các nguồn thu từ hoạt động kinh tế trong nước, đồng thời nâng tỷ trọng thu từ khu vực kinh tế tư nhân/GDP. Sự chuyển dịch trên cần thực hiện các biện pháp sau: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và cải cách công tác thu thuế Hệ thống chính sách thuế cần được hoàn thiện theo hướng mở rộng diện chịu thuế đồng thời với việc xác định hợp lý các mức thuế suất để đảm bảo được tính công bằng và hiệu quả của hệ thống thuế, đáp ứng các yêu cầu của quá trình hội nhập và đảm bảo nguồn thu vững chắc cho NSNN. Công tác quản lý thu thuế phải được cải cách theo hướng nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và tính pháp lý, chống thất thu có hiệu quả. Cần tập trung vào các vấn đề sau: Tăng cường tuyên truyền giáo dục đối tượng nộp thuế; khuyến khích phát triển các dịch vụ tư vấn về thuế, kế toán thuế, hoàn thiện pháp luật về kế toán; thường xuyên đảy mạnh công tác thanh tra kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm trong việc thực hiện các chính sách thuế; đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế từ khâu quản lý đối tượng nộp thuế đến kê khai thuế, hồ sơ hoàn thuế, đối chiếu hóa đơn,…;đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao quyền hạn, trách nhiệm và hiệu lực của bộ máy quản lý thuế; khuyến khích và phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Khai thác nguồn thu từ tài sản công trên cơ sở tăng cường quản lý công sản. Tăng cường quản lý công sản, dặc biệt là tài nguyên đất, hoàn thiện cơ chế đấu giá, định giá đất đai, tài sản theo hướng thị trường hóa các quan hệ này để đảm bảo tính công khai, minh bạch nhằm khai thác tốt hơn nguồn lực tài chính, từ đó có thể cân đối NSNN theo hướng đầu tư xây dựng kết hợp với tăng cường bảo dưỡng và vận hành để nâng cấp cơ sở hạ tầng, phục vụ chiến lược tăng trưởng. 3.3.1.2 Về phía chi Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế, nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia khi xảy ra bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt những dự án chưa hoặc không hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm chí không đầu tư. Mặt khác, bên cạnh việc triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết. Hoàn thiện hệ thống các định mức phân bổ chi tiêu. Hệ thống định mức cần mang tính định hướng (hướng dẫn) để cho các đơn vị sử dụng ngân sách có thể tự quyết định trong phân bổ chi tiêu, miễn là đạt được hiệu quả, hiệu lực trong phân bổ và sử dụng nguồn lực. Hạn chế sử dụng các định mức bắt buộc và chỉ sử dụng trong trường hợp có thể giám sát việc thực hiện. NSNN thực chất là tổng số nguồn lực phân bổ cho đơn vị thụ hưởng ngân sách để trang trải cho các hoạt động theo yêu cầu, từ đó, đơn vị thụ hưởng có quyền tự chủ trong phân bổ và chi tiêu ngân sách của mình. Hệ thống các định mức cần cập nhật thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn và linh hoạt cho phụ hợp với sự khác biệt giữa các vùng, địa phương. Đồng thời hệ thống định mức cũng nên được xây dựng trên nguồn lực tài chính toàn diện, không phân biệt nguồn trong ngân sách và ngoài ngân sách. Xã hội hóa các khoản đầu tư công Cần hoàn thiện và đẩy mạnh cơ chế tạo cơ hội để các DNTN tham gia các dự án đầu tư công, được sử dụng nguồn ngân sách nhà nước để đầu tư các dự án theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhìn ở góc độ doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam bao gồm cả DNNN, DNTN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với nền kinh tế, cộng đồng doanh nghiệp đang ở trên cùng một “con thuyền”. Nếu con thuyền đó vững vàng, thì doanh nghiệp, cũng như nền kinh tế được hưởng lợi. Điều này cũng có nghĩa là, hiệu quả đầu tư nguồn vốn nhà nước sẽ không chỉ cho DNNN hưởng lợi, mà là toàn bộ nền kinh tế, trong đó các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân được hưởng lợi. Cũng phải khẳng định rằng, có những lĩnh vực, ngành nghề DNNN thực hiện tốt hơn, có những lĩnh vực thuộc về thế mạnh của DNTN, hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư, xây dựng các dự án đầu tư không phải là phân cho DNNN hay chia sẻ cho khu vực tư nhân, mà là dựa trên lợi ích cao nhất là hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư và lợi ích của quốc gia, của nền kinh tế để lựa chọn đối tác thực hiện. Trên quan điểm này, cùng với các cơ chế phân bổ nguồn lực công khai, minh bạch, theo nguyên tắc là lợi ích và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế, những tồn tại trong xử lý tăng chi đầu tư công, bội chi ngân sách khả năng sẽ được giải quyết. Hơn thế, với cách làm này, việc quản lý của Chính phủ với các dự án đầu tư công sẽ được thực hiện tốt hơn khi số lượng các dự án giảm đi, nguồn lực trong dân sẽ được khai thác tối đa. Bài toán tăng trưởng bền vững từ hiệu quả đầu tư sẽ đem lại cơ hội và điều kiện tăng trưởng bền vững cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. 3.3.1.3 Về biện pháp cân đối ngân sách Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách; vay nợ trong nước, vay nợ nước ngoài; phát hành tiền để bù đắp chi tiêu;... Sử dụng phương cách nào, nguồn nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. - Về hoạt động vay nợ trong nước: Để phù hợp với cơ chế chỉ bội chi cho đầu tư phát triển, cần giảm phát hành các loại trái phiếu chính phủ kỳ hạn 1 năm và 2 năm, thay vào đó là phát hành trái phiếu chính phủ 5 năm; 10 năm; 20 năm. Củng cố và mở rộng thị trường trái phiếu chính phủ và thị trường trái phiếu chính quyền địa phương theo hướng nâng cao tính thanh khoản của thị trường, mở cữa thị trường trái phiếu thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trên các lĩnh vực trái phiếu đồng hoàn thiện hệ thống thuế đánh vào thu nhập từ trái phiếu. Nhờ đó, Chính phủ sẽ linh hoạt hơn trong việc cân đối nhu cầu vay nợ để bù đắp bội chi. - Về hoạt động vay nợ nước ngoài: Vay nợ nước ngoài để bù đắp bội chi NSNN được thể hiện qua các khoản vay ưu đãi. Do vậy để tăng tính chủ động trong cân đối NSNN, Chính phủ cần làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận các nguồn vốn ODA và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình, dự án ODA giữa Việt Nam và các nhà tài trợ. Tuy vậy, cơ cấu vay lãi này là phải trả nợ nếu về lâu dài không kiểm soát tốt được bội chi NSNN sẽ tăng gánh năng về nợ cho chính phủ. Vì vậy, hoàn thiện các biện pháp vay nợ để thuận lợi hơn khi chính phủ thực hiện vay nợ bù đắp bội chi, chứ không khuyến khích tăng bội chi và tăng nhu cầu vay nợ lên. Nhà nước cần đảm bảo mức vay nợ trong nước chiếm tỷ trong lớn để giảm sự lệ thuộc vào nước ngoài, khai thác được nội lực. Trong thời gian sắp tới, cần phải xác định mối tương quan giữa vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài để đảm bảo bù đắp bội chi NSNN đạt hiệu quả nhất. Bên cạnh đó, cần phải nghiên cứu và tìm hiểu nguyên dẫn đến bội chi NSNN để từ đó lựa chọn những giải pháp cho phù hợp. Chính phủ có thể linh hoạt xử lý bội chi NSNN bằng cách cắt giảm những khoản chi tiêu bất hợp lý, không hiệu quả và phát triển nguồn thu để giảm bớt thâm hụt NSNN. Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm trong cách quản lý và sử dụng NSNN, tránh lãng phí và tham nhũng góp làm giảm bội chi NSNN đạt mục tiêu trong năm ngân sách. Chính phủ cần nghiên cứu thay đổi phương pháp xác định bội chi NSNN đầy đủ và toàn diện phù hợp với thông lệ quốc tế phản ánh đúng thực chất của bội chi NSNN. 3.3.1.4 Về công tác quản lý Tăng cường công tác kiểm soát bội chi NSNN Về ngân sách Trung Ương Chính phủ cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của mình hơn nữa trong việc kiểm soát bội chi NSNN. Vì thực tế một trong những nguyên nhân dẫn đến vấn đề bội chi là do sự yếu kém trong năng lực và trình độ quản lý của bộ máy nhà nước, không phát hiện và xử lý kịp thời những trường hợp vi phạm nguyên tắc và dự toán NSNN đã đề ra, nguồn vốn vay bù đắp bội chi chưa sử dụng hiệu quả. Vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần tăng cường rà soát, cắt giảm những khoản chi tiêu NSNN chưa thật cần thiết và kém hiệu quả, từ đó có sự chuyển đổi linh hoạt trong chi tiêu NSNN để không làm mất cân đối NSNN, không lãng phí nguồn thu NSNN vào những hoạt động chi không cần thiết, không hiệu quả. Nhà nước phải kiểm soát chặt chẽ ngay từ khâu vay vốn để bù đắp bội chi và sử dụng cho đầu tư phát triển, duy trì mức bội chi cho phép hàng năm do Quốc hội quyết định. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát, theo dõi quá trình thực hiện nhiệm vụ ngân sách của các cấp, các ngành bằng cách Nhà nước phải cung cấp những thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho người dân biết qua các phương tiện truyền thanh, báo chí. Có sự phối hợp giám sát chặt chẽ này sẽ góp phần thúc đẩy tính minh bạch và trách nhiệm của người sử dụng và quản lý NSNN. Về ngân sách địa phương Vấn đề vay nợ ở địa phương cũng phải được kiểm soát và quản lý hiệu quả hơn, không để tình trạng địa phương còn kết dư ngân sách mà vẫn tiếp tục đi vay nợ. Để thực hiện tốt chức năng kiểm soát NSNN, Quốc hội cần phải chú trọng ngay từ khâu lập dự toán, cụ thể hóa từng khoản chi và phân chia nguồn thu hợp lý và trong khâu chấp hành và quyết toán NSNN cần có sự đồng tâm nhất trí cao của các Bộ, ngành và địa phương giám sát thực hiện dự toán đó. Bên cạnh đó cần thực hiện triệt để chính sách có thu mới có chi, không để bội chi NSNN tăng quá cao, nếu cần thiết nên giảm tỷ lệ bội chi NSNN so với GDP dưới mức 5%, ở khoảng 3-4%, đây sẽ là mức bội chi NSNN tích cực thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển. Đồng thời, tiến tới tiến tới tính toán cân đối các nguồn phát hành trái phiếu, công trái giáo dục một cách hiệu quả hơn, nếu chưa thật cần thiết hoặc chưa đủ thủ tục cắt giảm. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai trò của mình, nhà nước sử dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời sống kinh tế - xã hội, nhằm giải quyết các mối quan hệ trong nền kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn môi trường v.v.. Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quản lý NSNN nói chung và xử lý bội chi NSNN nói riêng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết. Hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN Qua thực trạng phân cấp quản lý NSNN, vấn đề đáng chú ý gây nhiều bất cập làm ảnh hưởng đến sự cân đối tổng thể trong NSNN đó là: NSTW thực hiện cân đối thay cho NSĐP khi có thiếu hụt xảy ra ở địa phương. Sau những ưu điểm, cơ chế này đã tạo cho địa phương quá bị động và không đảm bảo tính trách nhiệm cũng như minh bạch trong quá trình sử dụng và quản lý nguồn lực tài chính ở địa phương. Vì vậy trong thời gian tới cần khắc phục tình trạng NSTW cân đối thay cho NSĐP trên cơ sở tăng tính chủ động và trách nhiệm của địa phương. + Mở rộng phân định nguồn thu và xác định rỏ ràng nhiệm vụ chi của từng cấp chính quyền phù hợp với chức năng và năng lực của từng cấp chính quyền địa phương Để tăng nguồn lực cho địa phương, nâng cao khả năng chủ động và tích cực trong khai thác nguồn thu nhằm giúp địa phương linh động hơn trong xử lý cân đối NSĐP mình giảm bớt sự lệ thuộc vào sự hổ trợ của NSTW, Chính phủ cần thay đổi và mỡ rộng cho địa phương một số nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đó, theo hướng chuyển dần một số khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương sang khoản thu địa phương được hưởng 100%, để kích thích địa phương nuôi dưỡng và khai thác tốt nguồn thu ở địa phương mình. Như đối với Thuế TNCN là khoản thu điều tiết giữa trung ương và địa phương, với mục đích nhà nước có thể thực hiện vai trò điều tiết thu nhập tạo công bằng cho xã hội, có thể chuyển sang nguồn thu 100% cho NSĐP, vì đây là nguồn thu phát sinh chủ yếu ở địa phương nếu địa phương được giữ lại hoàn toàn thì sẽ thúc đẩy địa phương quan tâm hơn, quản lý chặt chẽ nguồn thu này hơn và trong tương lai nguồn thu này sẽ mang lại hiệu quả cao hơn. Trong thực tế nguồn thu này chưa đạt hiệu quả cao, vì tình trạng trốn thuế vẫn còn xãy ra, kê khai thuế không đúng sự thật, gần đây với hiệu lực của Luật thuế thu nhập cá nhân mới vào năm 2009 vấn đề này sẽ được xử lý triệt để hơn. Bên cạnh đó, cần phải nâng tỷ lệ thu NSĐP trong NSNN lên để đảm báo tính chủ động của địa phương trong điều kiện hội nhập kinh tế thì nên cho địa phương quyết định thuế suất của một số sắc thuế hoặc tự đặt ra sắc thuế riêng cho mình. Vì mỗi địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau, chính địa phương đó sẽ quản lý được vấn đề là mỗi loại thuế ứng với mức thuế suất bao nhiêu là khả thi và đạt mức thu hiệu quả nhất.Tuy nhiên, biện pháp này có vẽ không khả thi và chưa phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay, vì năng lực và trình độ quản lý của chính quyền địa phương còn yếu kém. Nếu thực hiện không tốt sẽ gây ra nhiều bất cập hơn, làm giảm tính thống nhất trong quản lý, điều hành hệ thống thuế của cả nước, tạo sự cạnh tranh về thuế giữa các địa phương. + Hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN nhằm khắc phục vấn đề NSĐP còn quá lệ thuộc vào sự hỗ trợ của NSTW, mà không linh động tận dụng khả năng vốn có của địa phương Nhà nước chỉ nên xem bổ sung cân đối NSNN là giải pháp cuối cùng khi địa phương đã nỗ lực hết mình trong khai thác nguồn thu, nhiệm vụ chi và nhu cầu chi là cần thiết không thể cắt giảm và tiết kiệm hơn nữa, mà địa phương không thể tự cân đối được. Có như vậy, mỗi địa phương mới phát huy tính chủ động và sáng tạo của mình trong khai thác và sử dụng nguồn lực của địa phương. Chính quyền địa phương sẽ không còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của ngân sách cấp trên nữa, thay vào đó sẽ tích cực hơn trong công tác giải quyết thiếu hụt NSĐP, giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm và tính minh bạch của mỗi địa phương trong việc kê khai và dự toán khả năng thu chi của địa phương một cách chính xác, để chính phủ có những giải pháp hợp lý bổ sung cân đối ngân sách cho mỗi địa phương. Để hoàn thiện cơ chế bổ sung cân đối NSNN ngày càng đạt hiệu quả hơn, Nhà nước ta cần quán triệt theo tinh thần không bổ sung cân đối toàn bộ những thiếu hụt của NSĐP, mà để lại một phần cho địa phương tự bù đắp để tăng cường tính trách nhiệm và khả năng chủ động cho địa phương. Việc xác định tỷ lệ bổ sung cân đối cho mỗi địa phương là khác nhau, có thể dựa vào điều kiện và tiềm lực kinh tế- xã hội của từng vùng mà điều chỉnh cho hợp lý. Hiện nay chính quyền địa phương có nhiều quyền tự chủ hơn trong việc huy động cũng như sử dụng nguồn lực tài chính, vì vậy việc để lại khoảng 10%-20% phần thiếu hụt cho NSĐP tự bù đắp là có tính khả thi cao, địa phương có thể thực hiện được bằng cách nuôi dưỡng, khai thác tốt nguồn thu, giảm những chi tiêu không hợp lý hoặc đi vay nợ theo luật định. Trong cơ chế bổ sung này, cần ưu tiên cho những địa phương có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, yếu kém và thực hiện bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ địa phương phát huy được các thế mạnh và khắc phục được những yếu kém. 3.3.2 Trong điều kiện lạm phát cao. Xử lý bội chi NSNN là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? 3.3.2.1 Những vấn đề đặt ra về xử lý bội chi NSNN nhằm kiềm chế lạm phát Thực tế trong những năm qua, chúng ta đã kiểm soát được mức bội chi NSNN ở giới hạn cho phép và nguồn vay chủ yếu chi đầu tư phát triển. Ngoài ra, chúng ta cũng tích lũy được một phần từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí chi đầu tư phát triển. Đây là những thành công bước đầu đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối NSNN cũng như kiểm soát vấn đề bội chi NSNN. Tuy nhiên, trong quá trình xử lý bội chi NSNN, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi vấn đề lạm phát đang gây ra những khó khăn rất lớn cho nền kinh tế và đời sống nhân dân, chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau trong việc xử lý bội chi NSNN: - Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển của đất nước. Nhưng, trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài, chưa được quản lý chặt chẽ. Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa được khắc phục triệt để, tiến độ thi công những dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy, các khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn vay (cả trong và ngoài nước) cần bảo đảm các quy định của Luật NSNN và mức bội chi cho phép hằng năm do Quốc hội quyết định. - Sự thiếu hụt ngân sách trong những năm qua được sử dụng như một công cụ trong chính sách tài khóa để kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều này thông qua cân đối NSNN hằng năm. Về nguyên tắc, sau khi lấy tổng thu trừ đi tổng chi trong năm sẽ xác định được số thặng dư hoặc thiếu hụt ngân sách trong năm. Tuy nhiên, khi cân đối ngân sách chúng ta thường xác định số bội chi trước (thông thường tương đương với mức Quốc hội cho phép) và nguồn còn lại được Quốc hội cho phép chuyển nguồn sang năm sau. Đây là chính sách ngân sách thận trọng khi áp dụng lý thuyết bội chi một cách chủ động và điều đó không gây xáo trộn trong chính sách kinh tế vĩ mô, nhưng phải cân nhắc và kiểm tra xem toàn bộ số bội chi có được sử dụng để chi đầu tư phát triển cho các dự án trọng điểm và hiệu quả qua đó tạo thêm công ăn việc làm, tạo đà cho nền kinh tế phát triển, tăng khả năng thu NSNN trong tương lai hay không. - Chưa chú trọng mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Đây là một trong những nguyên nhân gây căng thẳng về ngân sách áp lực bội chi ngân sách (nhất là ngân sách các địa phương). Chúng ta có thể thấy, thông qua cơ chế phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách và cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới. NSĐP được phân cấp nguồn thu ứng với các nhiệm vụ chi cụ thể và được xác định cụ thể trong dự toán ngân sách hằng năm. Vì vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư sẽ đòi hỏi bảo đảm nguồn chi thường xuyên để bố trí cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính điều đó luôn tạo sự căng thẳng về ngân sách, để công trình vận hành và phát huy tác dụng, luôn phải đòi hỏi nhu cầu kinh phí cho hoạt động. Để có nguồn kinh phí này hoặc phải đi vay để duy trì hoạt động hoặc yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách, cả hai trường hợp đều tạo áp lực bội chi NSNN. - Liệu có tồn tại vấn đề bội chi NSĐP ở Việt Nam hay không? Biện pháp xử lý ra sao? Quản lý vấn đề này thế nào? Đó là những vấn đề cần được xem xét kỹ càng hơn. Theo khoản 3, Điều 8, Luật NSNN năm 1996, NSĐP được cân đối theo nguyên tắc tổng số chi không vượt quá tổng số thu, trường hợp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhu cầu đầu tư kết cấu hạ tầng thì được phép huy động vốn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ và phải cân đối vào ngân sách địa phương để trả nợ khi đến hạn. Luật NSNN sửa đổi năm 2002 mở rộng thêm quyền chủ động trong việc huy động vốn của NSĐP. Vay vốn đầu tư thuộc danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm do hội đồng nhân dân tỉnh quyết định (không phải theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định như trước đây). Như vậy, mặc dù chúng ta chấp nhận về nguyên tắc là không có việc bội chi NSĐP nhưng thực tế lại vẫn cho phép địa phương vay để đầu tư. Vấn đề là ở chỗ, hiện nay, các địa phương vay vốn để đầu tư theo quy định tại khoản 3 Điều 8 của Luật NSNN tương đối lớn và chưa được quản lý một cách chặt chẽ. Với nhiều địa phương đây là điều kiện để tăng cường cơ sở vật chất, tạo điều kiện phát triển kinh tế. Điều đáng lưu ý là trong khi nguồn vốn ngân sách hiện có chưa tận dụng hết, các địa phương vẫn tiến hành vay vốn; tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi đầu tư phát triển. Trong khi phải đi vay thì NSĐP lại để kết dư lớn, có tỉnh cuối năm kết dư bằng 78.5% số bổ sung từ NSTW và bằng 24.9 % so với tổng chi NSĐP. Mặt khác, còn một số khoản vay không cân đối vào ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tạo nên khoản thu chi ngoài ngân sách và khi đến hạn, NSĐP không có nguồn để thanh toán gốc và lãi. Thực chất các khoản vay của ngân sách địa phương chính là bội chi NSNN. Một trong những nguyên tắc quản lý NSNN ở Việt Nam là tuân theo theo nguyên tắc thống nhất, tổng thể NSNN bao gồm ngân sách các cấp, điều đó đòi hỏi các khoản bội chi của NSĐP phải được tổng hợp để tính bội chi NSNN. Tuy nhiên khi vay, các địa phương phải cân đối ngân sách nên không thể hiện đầy đủ bội chi khi quyết toán NSNN. Mức bội chi NSNN hằng năm trình Quốc hội mới chỉ phản ánh được mức bội chi của NSTW. Đây là một trong những mắt xích cần phải được giải quyết trong việc xử lý bội chi NSNN. 3.3.2.2 Các giải pháp cân đối NSNN trong điều kiện lạm phát cao. Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và quản lý chặt chẽ số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất là vay của NSĐP, thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ sung từ NSTW. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách. Nếu chấp nhận bội chi NSĐP thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của NSĐP cần được tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào NSTW, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của NSTW sẽ là gánh nợ của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả./. 3.3.3.3 Kết luận Nhìn lại toàn bộ quá trình nhiều năm qua, cho thấy mối quan hệ giữa bội chi NSNN với lạm phát có thể rút ra một số kết luận sau: NSNN có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Nếu thâm hụt NSNN quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt, nếu bù đắp thâm hụt NSNN bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát; Tăng chi NSNN để kích thích tiêu dùng và tăng cầu tiêu dùng, sẽ kích thích đầu tư phát triển và tăng đầu tư phát triển sẽ đưa đến tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu tăng chi quá mức cho phép, tức là tăng chi đến mức làm cho thâm hụt NSNN quá cao và để bù đắp thâm hụt này phải đi vay nợ quá lớn thì sẽ đưa đến gánh nặng nợ. Kết quả là đưa đến kích thích tiêu dùng (kích cầu quá mức) thì ở chu kỳ sau sẽ kéo theo lạm phát mà lạm phát cao lại làm giảm đầu tư phát triển và giảm đầu tư phát triển kéo theo giảm tăng trưởng. Như vậy, thực tế ở đây là cần có liều lượng của chi tiêu NSNN ở mức cho phép nhằm đẩy đầu tư phát triển tăng lên và tiếp theo là đưa tăng trưởng kinh tế lên cao mà không kéo theo lạm phát cao. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: BẢNG 1: CƠ CẤU THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Đơn vị:% 2000 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 TỔNG THU 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Thu trong nước (không kể thu từ dầu thô) 50.95 51.29 51.67 54.77 52.49 52.03 55.2 55.8 61 64 Thu từ doanh nghiệp Nhà nước 21.7 20.24 18.88 16.85 17.12 16.58 15.94 16.43 18.96 21.5 Thu từ doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài 5.22 5.87 6.53 7.91 8.36 9.25 9.94 10.52 11.45 12.5 Thu từ khu vực công, thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh 6.39 6.27 6.8 6.95 7.42 7.9 9.87 10.44 10.81 13.6 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 1.96 0.62 0.1 0.07 0.06 0.04 0.04 0.02 0.01 0.006 Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao 2.02 1.89 1.94 1.84 1.85 1.85 2.35 3.1 3.23 4 Lệ phí trước bạ 1.03 1.07 1.19 1.37 1.23 1.2 1.8 1.78 2.18 1.9 Thu xổ số kiến thiết 2.17 2.45 2.4 2.39 2.32 2.2 - - - - Thu phí xăng dầu 2.41 2.42 2.1 1.88 1.73 1.42 1.41 1.08 2.02 2.1 Thu phí, lệ phí 2.99 2.44 2.15 2.19 1.84 1.78 1.28 1.6 1.73 1.5 Các khoản thu về nhà đất 3.11 4.43 6.93 9.15 7.78 7.35 10.74 - 9.42 5.8 Thu từ dầu thô 25.93 21.4 24.15 25.43 29.16 29.82 24.4 21.31 13.6 13.4 Thu từ cân đối ngân sách từ hoạt động XNK 20.89 25.49 22.23 18.29 16.7 15.32 19.1 21.82 23.8 20.6 Thuế xnk, thuế TTĐB, Thu chênh lệch giá hàng nhập khẩu 14.95 17.83 14.12 11.34 10.36 9.4 12.15 14.38 17.4 14.4 Thuế VAT hàng nhập khẩu 5.94 7.66 8.1 6.94 6.33 5.92 6.96 7.44 15.06 14.08 Thu viện trợ không hoàn lại 2.23 1.82 1.95 1.51 1.66 2.83 1.35 1.74 1.47 1.08 PHỤ LỤC 02: Cân đối NSNN năm 2011 theo Quyết định số 3212 /QĐ-BTC ngày 08/12/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài chính BẢNG 03: CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2011                                                         Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán năm 2011 A TỔNG THU CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 595,000 1 Thu nội địa 382,000 2 Thu từ dầu thô 69,300 3 Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu 138,700 4 Thu viện trợ không hoàn lại 5,000 B THU CHUYỂN NGUỒN NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NĂM 2010 CHUYỂN SANG NĂM 2011 10,000 C TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 725,600 1 Chi đầu tư phát triển 152,000 2 Chi trả nợ và viện trợ 86,000 3 Chi thường xuyên 442,100 4 Chi cải cách tiền lương 27,000 5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100 6 Dự phòng 18,400 D BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 120,600 Tỷ lệ bội chi so GDP 5.3% E NGUỒN BÙ ĐẮP BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 120,600 1 Vay trong nước 92,600 2 Vay ngoài nước 28,000    BẢNG 04: CÂN ĐỐI NGUỒN THU CHI DỰ TOÁN NSTW VÀ NSĐP NĂM 2011  Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán năm 2011 A NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG I Nguồn thu ngân sách Trung ương 398,679 1 Thu ngân sách Trung ương hưởng theo phân cấp 388,679 - Thu thuế, phí và các khoản thu khác 383,679 - Thu từ nguồn viện trợ không hoàn lại 5,000 2 Thu chuyển nguồn ngân sách trung ương năm 2010 chuyển sang năm 2011 10,000 II Chi ngân sách Trung ương 519,279 1 Chi thuộc nhiệm vụ của ngân sách Trung ương theo phân cấp 393,071 2 Bổ sung cho ngân sách địa phương 126,208 - Bổ sung cân đối 93,779 - Bổ sung có mục tiêu 32,429 III Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước 120,600 B NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG I Nguồn thu ngân sách địa phương 332,529 1 Thu ngân sách địa phương hưởng theo phân cấp 206,321 2 Thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 126,208 - Bổ sung cân đối 93,779 - Bổ sung có mục tiêu 32,429 II Chi ngân sách địa phương 332,529 1 Chi cân đối ngân sách địa phương 300,100 2 Chi từ nguồn bổ sung có mục tiêu 32,429  BẢNG 05: DỰ TOÁN THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO LĨNH VỰC NĂM 2011 Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán năm 2011 TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 595,000 I Thu nội địa 382,000 1 Thu từ doanh nghiệp nhà nước 129,560 2 Thu từ doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu) 72,865 3 Thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh 80,380 4 Thuế sử dụng đất nông nghiệp 32 5 Thuế thu nhập cá nhân 28,902 6 Lệ phí trước bạ 12,397 7 Thu phí xăng, dầu 11,731 8 Các loại phí, lệ phí 8,012 9 Các khoản thu về nhà, đất 34,715 a Thuế nhà đất 1,373 b Thu tiền thuê đất 2,744 c Thu tiền sử dụng đất 30,000 d Thu bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước 598 10 Thu khác ngân sách 2,670 11 Thu quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại xã 736 II Thu từ dầu thô 69,300 III Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu 138,700 1 Tổng số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 180,700 Thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu 80,400 Thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu (tổng số thu) 100,300 2 Hoàn thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu -42,000 IV Thu viện trợ không hoàn lại 5,000 BẢNG 06: DỰ TOÁN CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC, CHI NSTW, CHI NSĐP THEO CƠ CẤU CHI NĂM 2011  Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán Năm 2011 Chia ra NSTW NSĐP A B 1 = 2 + 3 2 3 A TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 725,600 (1) 425,500 (2) 300,100 I Chi đầu tư phát triển 152,000 78,800 73,200 Trong đó: 1 Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề 24,911 9,581 15,330 2 Chi khoa học - công nghệ 5,069 2,354 2,715 II Chi trả nợ và viện trợ 86,000 86,000 III Chi thường xuyên 442,100 224,300 217,800 Trong đó: 1 Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề 110,130 22,600 87,530 2 Chi khoa học - công nghệ 6,430 4,870 1,560 IV Chi cải cách tiền lương 27,000 27,000 V Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính 100 100 VI Dự phòng 18,400 9,400 9,000 B CHI TỪ CÁC KHOẢN THU QUẢN LÝ QUA NSNN 57,424 46,024 11,400 C CHI VAY NGOÀI NƯỚC VỀ CHO VAY LẠI 28,640 28,640 TỔNG SỐ (A+B+C) 811,664 500,164 311,500 Ghi chú: (1) Bao gồm cả số dự kiến bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương; đã loại trừ 93,779 tỷ đồng chi bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP. (2) Đã bao gồm cả 93,779 tỷ đồng chi bổ sung cân đối từ NSTW cho NSĐP; chưa bao gồm số dự kiến bổ sung có mục tiêu từ NSTW cho NSĐP.  BẢNG 07: CÁC KHOẢN THU QUẢN LÝ QUA NSNN NĂM 2011                                                          Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán năm 2011 TỔNG SỐ 57,424 I Các khoản thu, chi quản lý qua ngân sách nhà nước 12,424 1 Phí sử dụng đường bộ 394 2 Phí đảm bảo an toàn hàng hải 630 3 Các loại phí, lệ phí khác và đóng góp xây dựng hạ tầng; thu chi tại xã 3,400 4 Thu xổ số kiến thiết 8,000 II Chi đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ 45,000  BẢNG 08:  DỰ TOÁN CHI NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG THEO LĨNH VỰC NĂM 2011                                                         Đơn vị tính: Tỷ đồng STT Chỉ tiêu Dự toán năm 2011 A Tổng số chi cân đối ngân sách trung ương 425,500 I Chi đầu tư phát triển 78,800 1 Chi đầu tư xây dựng cơ bản 72,220 2 Chi xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch 160 3 Góp vốn cổ phần các tổ chức tài chính quốc tế 20 4 Chi cho vay chính sách (hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, nhà ở cho người nghèo, cho vay hộ đồng bào nghèo vùng ĐBSCL, xuất khẩu lao động 62 huyện nghèo…). 820 5 Bù chênh lệch lãi suất tín dụng ưu đãi 4,500 6 Hỗ trợ các hoạt động công ích, quốc phòng 200 7 Chi bổ sung dự trữ quốc gia 880 II Chi trả nợ và viện trợ 86,000 1 Chi trả nợ 85,000 2 Chi viện trợ 1,000 III Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước 224,300 Trong đó: 1 Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề 22,600 2 Chi y tế 10,200 3 Chi dân số và kế hoạch hoá gia đình 880 4 Chi khoa học, công nghệ 4,870 5 Chi văn hoá thông tin 1,970 6 Chi phát thanh, truyền hình, thông tấn 940 7 Chi thể dục thể thao 480 8 Chi lương hưu và bảo đảm xã hội 59,450 9 Chi sự nghiệp kinh tế 17,380 10 Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường 1,100 11 Chi quản lý hành chính 23,860 12 Chi trợ giá mặt hàng chính sách 450 13 Chi khác 350 IV Chi điều chỉnh tiền lương 27,000 V Dự phòng 9,400 B Chi từ các khoản thu quản lý qua NSNN 46,024 C Chi từ nguồn vay ngoài nước về cho vay lại 28,640 Tổng số (A+B+C) 500,164 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyên lý Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Nhà xuất bản ĐHQG TPHCM – Nguyễn Văn Luân, Trần Viết Hoàng, Cung Trần Việt. Luận án Tiến sĩ kinh tế “Cân đối NSNN Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” – Bùi Thị Mai Hoài Tập bài giảng Ngân sách nhà nước của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Dương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhom 5-De tai 3.doc
  • pdfNhom 5-De tai 3.pdf
  • pptNhom 5-De tai 3.ppt
Luận văn liên quan