Về khía cạnh lập pháp, Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được thành tựu nói
trên. Tuy nhiêu, về áp dụng và thực thi pháp luật lại chưa đạt được kết quả cao trong
thực tế. Công tác đấu thầu mới chỉ là hình thức, chưa đem lại hiệu quả cao như nhà làm
luật mong muốn. Ngoài ra, các hiện tượng vi phạm pháp luật đấu thầu vẫn diễn ra ở mọi
lúc, mọi nơi với mức độ ngày càng phức tạp, tinh vi và phổ biến hơn như: hành vi tham
nhũng, gian lận trong đấu thầu, thông thầu, ưu tiên không công bằng, chậm, phức tạp
trong thẩm định và phê duyệt. Nguyên nhân là do: nhận thức của các chủ thể về pháp
luật đấu thầu còn hạn chế; tư tưởng quan liêu, bao cấp; đội ngũ cán bộ quản lý và thực
hiện đấu thầu có trình độ, nghiệp vụ, kinh nghiệm chưa nhiều, chưa theo kịp và nắm bắt
được quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường; pháp luật thay đổi quá nhanh trong
thời gian qua, trong khi có nhiều hành vi và quan hệ trong đấu thầu không được pháp
luật điều chỉnh.
153 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3367 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy định về
nguyên tắc hợp đồng, hỡnh thức hợp đồng và các hỡnh thức khỏc như tổ chức hợp đồng
và thanh lý. Nhưng có hai công đoạn quan trọng lại không có: một là công tác kiểm
toán, hai là công tác quyết toán.
Không nên chỉ quy định trong luật chủ đầu tư và nhà thầu phải thực hiện đúng
hợp đồng, mà việc thanh lý hàng húa, nghiệm thu từng phần hay toàn bộ thỡ lại khụng
quy định. Trong thực tế, mặc dù có nghị định của Chính phủ, và hướng dẫn của Bộ Tài
chính về quyết toán, giá trị nghiệm thu, nhưng khối lượng nghiệm thu chưa được kiểm
toán thỡ giỏ trị nghiệm thu đó chưa phải là giá trị thực hiện hợp đồng. Như vậy, tác giả
thấy ở đây luật cần quy định thêm hai công đoạn: công tác quyết toán và kiểm toán theo
Luật kiểm toán. Trong đó, Luật kiểm toán điều chỉnh một cách rừ ràng, cụ thể những
vấn đề cần thiết nhất.
h) Trong Điều 54, về ký kết hợp đồng
Qua thực tế công tác tại Ban quản lý các dự án y tế - Bộ Y tế, tác giả đề nghị bổ
sung thêm một khoản quy định về các trường hợp cần phải được các cấp có thẩm quyền
phê duyệt nội dung hợp đồng trước khi tiến hành ký kết. Điều này cũng phù hợp với
hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế như WB hay ADB. Mặc dù các nhà tài trợ đó
khụng phản đối với đề xuất trao hợp đồng của bên mời thầu, nhưng vẫn quy định phải
có báo cáo về nội dung ký kết hợp đồng (Xem phụ lục 4, Trình tự mua sắm theo đấu
thầu cạnh tranh quốc tế theo quy định của Ngân hàng ADB). Quy định như vậy, một
mặt để tránh sai sót, mặt khác để các cơ quan quản lý tiện theo dừi.
Cuối cùng, Luật Đấu thầu mang tính chất là luật khung vỡ trong nội dung luật có
rất nhiều điều giao cho Chính phủ quy định cụ thể, chi tiết. Luật Đấu thầu là một trong
số không nhiều các dự luật khi đưa ra trỡnh Quốc hội, cú kốm theo Dự thảo nghị định
về hướng dẫn thi hành. Ngoài Dự thảo nghị định, Chính phủ cũng cần chuẩn bị các dự
thảo văn bản dưới luật khác, để đảm bảo Luật có thể phát huy vai trũ và hiệu quả của nú
càng sớm càng tốt khi luật đó cú hiệu lực từ ngày 1/4/2006.
3.5. Giải pháp và đề xuất hoàn thiện quản lý đấu thầu quốc tế mua sắm
hàng hoá
3.5.1. Hoàn thiện văn bản pháp lý về đấu thầu
Với những phân tích ở trên đã chỉ ra rằng, hệ thống văn bản pháp luật của Việt
Nam về đấu thầu đang dần hoàn thiện. Nhưng vấn đề quan trọng là làm sao để pháp luật về
đấu thầu đi vào cuộc sống. Để đạt được mục tiêu này cần phải có sự phối hợp của nhiều
chính sách vĩ mô khác nữa, đặc biệt là việc phối hợp các quy định để giảm thiểu các thủ tục
hành chính, tệ quan liêu, sách nhiễu. Đồng thời, nhà làm luật phải nghiên cứu để không chỉ
nhà thầu mà các cơ quan quản lý nhà nước cũng phải nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật
thông qua các quy định chặt chẽ và chế tài nghiêm khắc. Việc xây dựng văn bản pháp
luật làm cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu thầu cần phải đảm bảo các yêu cầu sau:
i) Yêu cầu thống nhất và ổn định
Hiện nay chúng ta đã có Luật đấu thầu, nhưng còn rất nhiều vấn đề chờ nghị định
hướng dẫn của Chính phủ (tác giả thống kê được đến 13 vấn đề). Như vậy Luật đấu thầu
chỉ mang tính chất định khung pháp lý cao nhất. Còn việc thi hành vẫn phụ thuộc vào
nghị định hướng dẫn chuẩn bị ban hành. Tuy nhiên, thực tế hiện nay mỗi bộ ngành đề
có hoạt động mua sắm mang tính đặc thù của mình, nên việc ban hành những thông tư
hướng dẫn riêng và thường xuyên bổ sung thay đổi. Điều này một mặt gây khó khăn
cho người thực hiện và quản lý đồng thời gây ra tâm lý sợ các rủi ro do chính sách pháp
luật của Nhà nước thường thay đổi từ phía các nhà thầu và nhà tài trợ quốc tế.
Với những lý do trên, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành Nghị định hướng
dẫn thống nhất cho các bộ ngành thi hành Luật đấu thầu 2005. Các thông tư hướng dẫn
của cơ quan cấp dưới phải tuyệt đối tuân thủ nội dung thống nhất đã được quy định
chung trong nghị định của Chính phủ, đồng thời phù hợp với đặc trưng của ngành, lĩnh
vực mình quản lý. Bên cạnh đó cơ quan làm luật phải xem xét tới vấn đề hài hòa giữa
quy định của pháp luật quốc gia với các quy định và thông lệ quốc tế, phải chủ động
đảm bảo tính khách quan thống nhất của các văn bản pháp luật. Việc thống nhất quy
định luật đấu thầu cũng là nhân tố để pháp luật về đấu thầu ổn định và phát huy hiệu
quả lâu dài.
ii) Yêu cầu công bằng, bình đẳng
Đấu thầu là biện pháp mua sắm hàng hóa mà mục tiêu của nó là tạo ra sự cạnh
tranh cao độ để đạt được hiệu quả cao. Trong đó, công bằng là động lực để các nhà thầu
tích cực tham gia cọ sát với nhau. Từ đó nhà thầu nâng cao được chất lượng hàng hóa,
nâng cao uy tín và năng lực sản xuất của mình, còn Bên mời thầu thì mua được hàng
hóa với giá rẻ và chất lượng cao. Để phát huy sự cạnh tranh, yếu tố bình đẳng giữa các
nhà thầu cũng đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy, việc xây dựng pháp luật về đấu thầu
bám sát yêu cầu này, tạo ra hành lang pháp lý công bằng và bình đẳng cho các nhà thầu.
Đây là biện pháp để các doanh nghiệp trong nước tự khẳng định mình trong cạnh tranh
quốc tế.
Mặt khác, yêu cầu công bằng và bình đẳng cũng là hướng dẫn của các nhà tài trợ
quốc tế để tránh hiện tượng đấu thầu khép kín giữa các công ty thuộc một ngành hay
một bộ nhất định nào của Việt Nam.
Để đạt được yêu cầu bình đẳng, công bằng trong đấu thầu, cần phải có sự thay
đổi đồng bộ trong chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đặc biệt, các công ty thuộc
sở hữu nhà nước phải hoạt động độc lập theo Luật doanh nghiệp và Luật thương mại.
Khi đó, hiện tượng bao cấp, ưu tiên cho một số nhà thầu nào đó mới bị loại bỏ trong đấu
thầu cạnh tranh quốc tế. Việc đầu tiên là các doanh nghiệp nhà nước cần phải nhanh
chóng cổ phần hóa, tự hạch toán kinh doanh và tự khẳng định mình trong môi trường
cạnh tranh quốc tế lành mạnh. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết của tiến trình Việt Nam hội
nhập quốc tế. Trong đó, luật quốc tế về chống bảo hộ của Nhà nước, chống độc quyền,
chống phá giá của các tổ chức thương mại quốc tế và các nước ngày càng quy định chặt
chẽ về vấn đề này để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh.
iii) Yêu cầu công khai và minh bạch
Mua sắm thông qua đấu thầu là phương pháp tốt để ngăn chặn những hành vi tiêu
cực, đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế, sử dụng hàng hóa cao. Chủ thể áp dụng
phương pháp này chủ yếu là các cơ quan Nhà nước ở trung ương và địa phương trong
việc sử dụng phần lớn nguồn ngân sách Nhà nước. Do vậy, hiệu quả của việc mua sắm
đấu thầu ảnh hưởng rất lớn đến cộng đồng xã hội. Việc xây dựng quy định pháp luật về
đấu thầu cũng phải đảm bảo sự giám sát, tham gia, quản lý của toàn xã hội. Khi xây
dựng các quy định phải xem xét đến vấn đề hoàn thiện những kẽ hở để bổ sung vào luật
pháp khi được công luận nêu ra để tạo ra tính khách quan của luật pháp.
Yêu cầu công khai minh bạch không chỉ hàm chứa trong nội dung của Luật mà
còn cần phải có chính sách cụ thể để phổ biến, tuyên truyền pháp luật về đấu thầu tới
mọi cấp, mọi ngành, mọi thành phần kinh tế - xã hội.
iv) Yêu cầu đảm bảo có đủ chế tài phù hợp đối với hành vi vi phạm pháp luật về
đấu thầu
Do đấu thầu phần lớn sử sụng ngân sách nhà nước, nên vấn đề tham ô, tham
nhũng và các hành vi tiêu cực khác thường xảy ra phổ biến, gây thất thoát, lãng phí vốn
và tài sản nhà nước. Để ngăn chặn những hành vi này, Luật phải có chế tài đủ mạnh để
răn đe, trừng phạt những đối tượng có liên quan, đồng thời phải bao quát hết các lĩnh
vực nhạy cảm, dễ bị vi phạm. Để làm tốt yêu cầu này pháp luật cần phải có quy định
khách quan trong xử lý các vi phạm pháp luật đấu thầu. Không nên quy định cho cùng
một cơ quan vừa thực hiện quản lý nhà nước vừa giải quyết các khiếu nại trong đấu
thầu. Bởi như vậy, các cơ quan chức năng hoạt động sẽ thiếu công bằng và minh bạch.
Trong quá trình xây dựng pháp luật phải thường xuyên cập nhật, phát hiện, nhận
diện và phân loại những hành vi vi phạm quy định pháp luật đấu thầu để từ đó có chế tài
thích hợp trong từng trường hợp cụ thể.
3.5.2. Cải cách tổ chức hành chính về đấu thầu
Nội dung quản lý hành chính nhà nước và đấu thầu bao gồm: quản lý về nhân sự,
quản lý về cơ cấu tổ chức, ngân sách, khen thưởng, điều điều động, biệt phái các nhân
viên nhà nước làm công tác quản lý đấu thầu...
Chính phủ là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất, có chức năng quản
lý mọi mặt đời sống xã hội, vì thế Chính phủ có chức năng quản lý hành chính nhà nước
về đấu thầu. Các cơ quan nhà nước tại các Bộ, ngành thống nhất quản lý hành chính về
đấu thầu theo quy định của Chính phủ, đảm bảo chấp hành nghiêm túc Luật đấu thầu và
các văn bản hướng dẫn dưới luật. Các cơ quan nhà nước ở các cấp trực tiếp quản lý nhà
nước về đấu thầu nhằm đạt mục tiêu đã đề ra như công bằng, minh bạch và hiệu quả
kinh tế cao.
Nội dung cụ thể về tổ chức hành chính nhà nước về đấu thầu được quy định cụ
thể tại các điều 60, 61, 62, 67, 68 Luật đấu thầu (xem chương 2 của luận văn, mục
2.4.1.2 - Về phân cấp quản lý). Trong đó quy định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của từng cơ quan cụ thể, từ Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chủ đầu tư, … đến bên
mời thầu.
Trong đấu thầu, bên mời thầu thực hiện những công việc từ chuẩn bị tổ chức đấu thầu
đến ký kết hợp đồng; bồi thường thiệt hại cho các bên liên quan nếu thiệt hại đó do lỗi của
mỡnh gõy ra theo quy định của pháp luật; giải quyết kiến nghị trong đấu thầu (Điều 62 khoản
1 Luật đấu thầu 2005). Cũn việc thẩm định, phê duyệt kế hoạch, tiêu chuẩn kỹ thuật, kết quả
đấu thầu lại do các cơ quan ở các cấp thực hiện, tùy theo quy mô của gói thầu. Các gói thầu
quan trọng hoặc thuộc nhóm A sẽ do Chính phủ phê duyệt theo theo tờ trỡnh của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư. Cũn lại phần lớn cỏc gúi thầu đều phân cấp cho các Bộ và Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh xem xét phê duyệt (Điều 69 Luật đấu thầu 2005). Về giải quyết thắc mắc thỡ
do Bờn mời thầu thực hiện, nhưng giải quyết khiếu nại lại do chủ đầu tư giải quyết (đôi khi
bên mời thầu là chủ đầu tư - Điều 62 khoản 2 Luật đấu thầu 2005).
Việc phân cấp quản lý đấu thầu như trên có ưu điểm là: có nhiều cấp phê duyệt,
sẽ tăng độ chính xác của kết quả đấu thầu; việc giải quyết thắc mắc và khiếu nại nhanh
chóng. Tuy nhiên, trong thực tế công tác, tác giả thấy quy định như vậy sẽ có những
nhược điểm sau:
- Thẩm định, phê duyệt qua nhiều cấp khác nhau sẽ tạo cho tiêu cực quan liêu,
hành chính phát triển;
- Mất nhiều thời gian cho các thủ tục hành chính;
- Trách nhiệm của mỗi cơ quan không được xác định rừ ràng. Đây là nguyờn
nhõn gõy ra xử lý dõy dưa, kéo dài đối với các vi phạm xảy ra thường xuyên tại các dự
án sử dụng vốn nhà nước;
- Cơ quan quản lý nhà nước vừa tổ chức thực hiện đấu thầu, ký hợp đồng kinh tế
vừa tự thanh tra, giải quyết thắc mắc, khiếu nại quy định như vậy vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc khách quan, độc lập, minh bạch trong nền kinh tế thị trường.
Tác giả xin đề nghị các giải pháp để cải cách tổ chức quản lý hành chính đối với
hoạt động đấu thầu như sau:
- Phân cấp ủy quyền cho các bộ, ngành chịu trách nhiệm thẩm định, phê duyệt để
phân định rừ trỏch nhiệm của từng cơ quan theo ủy quyền đó;
- Cơ quan thực hiện đấu thầu có kế hoạch mua sắm cụ thể. Các kế hoạch phải gối
đầu nhau để tránh tỡnh trạng chờ phờ duyệt, gõy chậm tiến độ dự án.
Tóm lại, công tác đấu thầu cần phải được xem xét nghiêm túc từ khía cạnh quản
lý hành chớnh để các hoạt động đấu thầu đi vào khuôn khổ, đạt hiệu quả kinh tế cao.
Thông qua hoạt động quản lý đấu thầu nhiều năm qua và kinh nghiện quản lý của cỏc
nước, tổ chức tài trợ quốc tế để rút ra được mô hỡnh quản lý đấu thầu hiệu quả nhất.
Đặc biệt, phải kết hợp chọn lọc giữa hoàn cảnh thực tế Việt Nam với các lý thuyết khoa
học, mụ hỡnh quản lý tiờn tiến trờn thế giới nhằm hoàn thiện và nõng cao năng lực quản
lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường nói chung và quản lý đấu thầu nói riêng.
3.5.3. Đào tạo nhân lực
Nâng cao chuyên môn, đạo đức cán bộ quản lí đấu thầu là yêu cầu cấp bách trong
tình hình hiện nay. Bởi đây là những nhân tố vừa tạo ra chính sách quản lý nhà nước
vừa thi hành cách chính sách đó. Nhân tố con người trong bất kỳ xã hội nào cũng đóng
vai trò trung tâm. Dó đó, ngay từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, công tác đào
tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác quản lý đấu thầu đã được quan tâm. Bên cạnh đó,
phải kể đến những đóng góp của các nhà tài trợ, các chương trình hợp tác giữa Bộ Kế
hoạch và Đầu tư với một số tổ chức quốc tế để xây dựng nên những khóa học ngắn hạn,
dài hạn, trong nước và nước ngoài về vấn đề mua sắm đấu thầu hàng hóa, chống tham
nhũng, về quản lý dự án và về vấn đề hài hòa hóa giữa các quy định của các nhà tài trợ
cho số lượng lớn các cán bộ Việt Nam trong thời gian liên tục hơn 10 năm qua. Nhờ
vậy, hoạt động đấu thầu đã đi vào khuôn khổ.
Như một yêu cầu cấp bách cho phù hợp với hình thái kinh tế mới, xu hướng hội
nhập, toàn cầu hóa và nhất thể hóa nền kinh tế Việt Nam, việc nâng cao trình độ, năng
lực của đội ngũ cán bộ công chức là vấn đề đặt ra trước mắt trong giai đọan hiện nay.
Theo tác giả, trong tương lai phải chấp nhận và coi quản lý dự án như là một nghề. Quản lý
dự án nói chung và quản lý đấu thầu mua sắm nói riêng, có đối tượng, phương pháp nghiên
cứu và thực hiện riêng. Bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào muốn thực hiện tốt công việc này
cần phải được đào tạo một cách chuyên nghiệp để có đủ kiến thức về pháp luật, kinh tế,
chính sách, thị trường và đặc biệt phải biết đánh giá các quy luật của nền kinh tế thị trường.
Để đáp ứng yêu cầu trên, cần phải thực hiện tốt những giải pháp sau:
i) Tuyên truyền, giáo dục đường lối chính sách của Đảng để làm thay đổi hệ tư
tưởng cũ của đại đa số cán bộ, lãnh đạo làm công tác quản lý dự án. Có những chương
trình lồng ghép để phổ biến pháp luật. Có thể lồng ghép giữa chương trình nâng cao
trình độ lý luận, cải cách hành chính với tuyên truyền pháp luật về mua sắm đấu thầu
quốc tế.
ii) Xây dựng cơ chế về quản lý đấu thầu mới phù hợp với tình kình kinh tế trong
nước và quốc tế. Đảm bảo sự hài hòa giữa các cơ chế với nhau, tạo ra sự vận hành hoàn
hảo. Tránh tình trạng kép kín trong đấu thầu.
iii) Thực hiện chính sách lương thưởng, ưu đãi, đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ
cán bộ làm công tác đấu thầu. Thứ nhất, đảm bảo mức thu nhập để tránh những hành vi
tiêu cực của đội ngũ này nhằm bòn rút, tham ô tiền nhà nước. Thứ hai, có chính sách đối
với cán bộ đã thực hiện xong dự án để sử dụng tốt kinh nghiệm và kiến thức của họ,
đồng thời giúp họ có ý thức cống hiến lâu dài cho công việc.
iv) Bên cạnh những đãi ngộ, cần có quy định nghiêm khắc của pháp luật nhằm
ngăn chặn những hành vi tiêu cực của cán bộ mua sắm đấu thầu và quản lý nói chung.
Có chế tài xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật, dù người vi phạm ở bất kỳ cấp nào.
v) Trong bố trí, điều chuyển, tuyển dụng cán bộ cần được xiết chặt quản lý. Chỉ
sử dụng cán bộ có năng lực, đúng chuyên môn, đồng thời sắp xếp một cách khoa học
nhằm phát huy cao nhất sở trường công tác của từng cán bộ. Bên cạnh đó, tăng cường
sử dụng các chuyên gia mua sắm có nhiều kinh nghiệm được tuyển dụng từ bên ngoài
để tư vấn cho hoạt động mua sắm đấu thầu đi vào khuôn khổ, đồng thời bổ sung kinh
nghiệm cho đội ngũ cán bộ trẻ.
vi) Mô hình quản lý đấu thầu cũng cần được thay đổi từ trung ương đến địa phương,
để tạo ra các tổ chức chuyên nghiệp với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên nghiệp cao trong
thực hiện mua sắm đấu thầu. Có thể thành lập cơ quan nhà nước chuyên thực hiện, quản lý
đấu thầu thống nhất trong cả nước hoặc các trung tâm, công ty độc lập cạnh tranh nhau trong
việc cung cấp các dịch vụ thực hiện đấu thầu.
vii) Các biện pháp tuyên truyền pháp luật, chế tài xử lý cán bộ thực hiện công tác
đấu thầu phải được áp dụng với các nhà thầu. Qua đó, họ nhận thức và tuân theo pháp
luật một cách tự nguyện, tạo ra sự công bằng, ổn định trong hoạt động đấu thầu. Đây
cũng là biện pháp chứng minh và thực hiện nguyên tắc công bằng, minh bạch trong đấu
thầu của Việt Nam đối với công luận trong nước và thế giới.
viii) Cuối cùng, phối hợp với các giải pháp trên là việc thường xuyên đào tạo lại
và đào tạo mới đối với đội ngũ cán bộ. Có thể Nhà nước trích một phần ngân sách hoặc
phối hợp với các nhà tài trợ đang thực hiện dự án ở Việt Nam như WB, ADB, JICA,
SIDA... để mở các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn, trong nước hoặc nước ngoài. Bên
cạnh đó là các hội thảo, workshop, hội nghị rút kinh nghiệm... được tổ chức thường
xuyên để thu hút các cán bộ quản lý thực hiện mua sắm đấu thầu cập nhật kinh nghiệm
hay, nâng cao nghiệp vụ.
3.5.4. Hài hoà các quy định đấu thầu của các tổ chức tài chính quốc tế với
quy định của Chính phủ Việt Nam
3.5.4.1. Giải pháp tổng thể
Trong bối cảnh các bên đang nỗ lực hợp tác, nhằm đạt được các mục tiêu phát
triển của Việt Nam (VDGs) vào năm 2010 và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
(MDGs) vào năm 2015, Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ quốc tế đều nhận thấy
rằng cần có hành động mang tính chiến lược để có thể làm hài hũa húa cỏc quy định và
hướng dẫn về mua sắm nhằm mục tiêu vốn viện trợ, tài trợ đạt hiệu quả cao hơn. Biện
pháp tổng thể để hài hũa húa cỏc thủ tục mua sắm đấu thầu quốc tế bao gồm những nội
dung chính sau:
i) Về chính sách: Chính phủ Việt Nam tăng cường hơn nữa vai trũ lónh đạo trong
việc điều phối, sử dụng viện trợ, vốn vay ở tất cả cỏc cấp. Cú chớnh sỏch hợp lý trong
mụ hỡnh quản lý dự ỏn, trong đó có mua sắm đấu thầu.
ii) Về luật pháp: các nhà tài trợ tuân thủ và cam kết sử dụng quy định trong hệ
thống pháp luật đấu thầu của quốc gia. Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ thiết lập
các khuôn khổ được nhất trí chung để đưa ra những đánh giá xác thực về hệ thống các
quy định và quy trỡnh thủ tục quốc gia và việc thực hiện những quy định và thủ tục này.
Trong đó, các nhà tài trợ sử dụng hệ thống các quy định và quy trỡnh thủ tục quốc gia về
đấu thầu quốc tế một cách tối đa nhất có thể. Chính phủ Việt Nam cũng tiến hành các cải
cách nhằm đảm bảo khung luật phỏp, cỏc hệ thống quốc gia, cỏc thể chế, quy trỡnh thủ tục
về quản lý viện trợ và cỏc nguồn lực phỏt triển khỏc là cú hiệu quả, cú trỏch nhiệm và minh
bạch. Mục tiêu đặt ra là theo dừi % số nhà tài trợ sử dụng hệ thống pháp luật mua sắm của
Chính phủ: "một nhà tài trợ chỉ được coi là sử dụng hệ thống pháp luật của Chính phủ
về mua sắm đấu thầu nếu ít nhất 50% khối lượng viện trợ của nhà tài trợ này được cung
cấp thông qua các hệ thống này".
iii) Về mụ hỡnh quản lý: Các nhà tài trợ tránh tạo ra các cơ cấu song trùng
(PMUs) để quản lýư các chương trỡnh, dự ỏn viện trợ. Trước mắt, các nhà tài trợ tăng
cường năng lực của Chính phủ bằng cách khắc phục các Ban quản lý dự ỏn song trựng.
Tương lai sẽ không cũn những ban quản lý dự ỏn này. Vỡ các ban quản lý dự ỏn
(PMUs) là cỏc bộ phận chuyờn trỏch chịu trỏch nhiệm quản lý và triển khai hàng ngày
cỏc dự ỏn và chương trỡnh viện trợ. Chỳng khỏc nhau về qui mụ, chức năng, địa điểm,
tính pháp lý và mức độ hũa nhập với cỏc cấu trỳc sẵn cú.
PMU song trùng thường được thiết lập ngoài cơ cấu sẵn có của bộ chủ quản thực
hiện dự án và cách tổ chức thường chồng chéo hoặc lặp lại các chức năng mà bộ đó cú.
PMU song trựng thường cần hỗ trợ kỹ thuật đáng kể trong các lĩnh vực chuyên môn
hoặc kỹ năng cụ thể. Trong trường hợp tất cả các PMU tại Việt nam đều ít nhiều có tính
lồng ghép với bộ chủ quản, cần thiết phải xác định một định nghĩa "PMU song trùng"
phù hợp với bối cảnh Việt Nam để xác định đâu là mô hỡnh PMU song trựng cần trỏnh.
Giải pháp: Một PMU lồng ghép hoàn toàn là một mụ hỡnh lý tưởng từ góc độ
phát triển thể chế. Bộ chủ quản có PMU chịu hoàn toàn trách nhiệm và triển khai dự án
trên cơ sở sử dụng cơ cấu, thủ tục và cán bộ hiện có của bộ. Trong một số trường hợp,
bộ có thể phân công một số cán bộ triển khai các hoạt động của dự án thông qua việc
tách họ ra khỏi việc thực hiện các chức năng của bộ. Có thể hỗ trợ PMU đó bằng nguồn
hỗ trợ kỹ thuật hạn chế cho các lĩnh vực cụ thể đũi hỏi có kỹ năng hoặc năng lực chuyên
môn bổ sung.
3.5.4.2. Các vấn đề cụ thể
Theo hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại Công văn 2820 /BKH-QLĐT ngày
21/04/2006, trong thời gian chưa có nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu có thể
tham khảo các nội dung liên quan trong Quy chế Đấu thầu (ban hành kèm theo các nghị
định 88/1999/NĐ-CP, 14/2000/NĐ-CP và 66/2003/NĐ-CP) và các thông tư hướng dẫn
thực hiện, nhưng đảm bảo không trái với quy định của Luật Đấu thầu. Theo luật đấu
thầu hiện hành có một vài thuật ngữ, vấn đề cần có sự xem xét để đạt được sự hài hòa
với thông lệ quốc tế và hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế.
i) Về thuật ngữ về mua sắm hàng hóa bằng đấu thầu quốc tế
Tại Điều 4, khoản 35, Luật đấu thầu quy định: "Hàng hoá gồm máy móc, thiết bị,
nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các dịch vụ không phải là dịch vụ tư
vấn".
Định nghĩa này có nhiều điểm khác với các định nghĩa trong luật quốc tế. Ví dụ:
Điều 2 khoản c, Luật mẫu UNCITRRAL định nghĩa: hàng hóa là tất cả các vật thể mô tả
được bao gồm cả nguyên vật liệu thô, sản phẩm, các thiết bị, các vật thể định hình hoặc
dưới dạng lỏng, điện và dịch vụ phụ đi kèm hàng hóa nhưng có giá trị thấp hơn hàng
hóa (và các loại hàng hóa khác theo quy định của từng nước).
WB và ADB đều có chung định nghĩa tại Điều 1 của Hợp đồng mẫu: Hàng hóa là
hàng tiêu dùng, vật tư, máy móc, thiết bị và/hoặc nguyên vật liệu khác mà nhà cung cấp
phải cung cấp cho Bên mua theo hợp đồng.
Phạm vi được xác định là hàng hóa của Việt Nam không chặt chẽ bằng Luật mẫu
của UNCITRAL, nhưng lại rộng hơn quy định của hai nhà tài trợ chính cho Việt Nam là
WB và ADB. Vỡ vậy, trong thực tế mua sắm hàng húa phải xột đến vấn đề này để phù
hợp với luật quốc tế mà không trái với quy định của luật pháp Việt Nam.
Ngoài ra, khoản 6 Điều 4 giải thích về "đấu thầu quốc tế", liên quan đến Điều 13, về
đấu thầu quốc tế: Trong giải thích, đấu thầu quốc tế là "quỏ trỡnh lựa chọn những nhà thầu
đáp ứng nhu cầu của bên mời thầu, với sự tham gia của các nhà thầu nước ngoài và nhà
thầu trong nước". Nếu giải thích như vậy thỡ những dự ỏn chỉ cú những nhà thầu nước
ngoài tham gia thỡ cú gọi là đấu thầu quốc tế hay khụng? Vỡ ở một số gúi thầu mua sắm
hàng húa mà hàng húa đó chỉ có nhà thầu nước ngoài mới đáp ứng được. Đó là gói thầu
trong nước chưa đủ khả năng sản xuất (tiết b khoản 1 Điều 13); các nhà thầu trong nước
không có khả năng đáp ứng (tiết c khoản 1 Điều 13). Vỡ vậy, vấn đề này không cần định
nghĩa mà chỉ cần sửa tên gọi là "đấu thầu cạnh tranh quốc tế" thay vỡ "đấu thầu quốc tế",
sẽ bao hàm tất cả các trường hợp và phù hợp với luật pháp quốc tế. Vớ dụ: WB hoặc ADB
chỉ nờu lờn hỡnh thức đấu thầu cạnh tranh quốc tế (International Competitive Bid-ICB) mà
không cần phải định nghĩa gỡ thờm, bởi vỡ tờn gọi quỏ rừ và bao gồm cả mục đích của
hỡnh thức đấu thầu này.
ii) Về tư cách hợp lệ của công ty Việt Nam khi tham gia đấu thầu
Đa số các nhà tài trợ lớn như WB hay ADB đều quy định cụ thể các trường hợp
mà công ty Việt Nam không được tham gia đấu thầu sử dụng nguồn vốn của họ. Theo
điểm 1.8 của Hướng dẫn mua sắm của WB, các trường hợp sau bị cấm tham gia đấu
thầu:
- Đó tham gia với tư cách là tư vấn chuẩn bị cho các gói thầu mua sắm hàng hóa
có liên quan.
- Là công ty thuộc sở hữu chính phủ nếu không chứng minh được: một là độc lập
về pháp lý và tài chớnh, và hai là hoạt động theo luật Thương mại, và ba là không phải
đơn vị phụ thuộc Bên vay và Bên vay lại của WB.
- Công ty bị kết luận là có hành vi tham nhũng, gian lận thương mại theo Điểm
1.14 Hướng dẫn mua sắm của WB, tháng 5 năm 2004.
Việt Nam đang tiến hành chuyển đổi rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước thành
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên. Trong khi đó, Luật đấu
thầu 2005 vẫn sử dụng khái niệm doanh nghiệp nhà nước (ví dụ Điều 1 khoản 3, Điều 4
khoản 1…). Vậy, để hài hũa húa quy định giữa luật pháp quốc gia và quy định của các
nhà tài trợ quốc tế, tác giả đề nghị từ ngữ ở các luật phải thống nhất (ví dụ: chỉ dùng từ
"doanh nghiệp" hoặc/ và "nhà thầu"), để cho dễ hiểu và dễ áp dụng. Song song với việc
đó chúng ta phải nhanh chóng cổ phần hóa các công ty thuộc Nhà nước theo quy định
của Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
Điều 7 Luật đấu thầu 2005 cũng quy định về tư cách hợp lệ của nhà thầu. Khoản
1 điều này tác giả đề nghị tách riêng thành hai khoản: quy định đối với nhà thầu trong
nước; và quy định đối với nhà thầu nước ngoài.
Bởi vỡ, quy định nhà thầu phải đảm bảo các yếu tố, không bị các cơ quan thẩm
quyền của Nhà nước kết luận về tỡnh hỡnh tài chớnh, khụng minh bạch, như đang lâm vào
tỡnh trạng phỏ sản hoặc nợ đọng, không có khả năng chi trả, đang trong quá trỡnh giải thể.
Quy định này chỉ có thể áp dụng đối với các nhà thầu trong nước, cũn đối với các nhà thầu
nước ngoài thỡ làm thế nào để các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có thể biết được nhà
thầu nước ngoài đó đang ở trong tỡnh trạng tài chớnh khụng minh bạch, đang lâm vào tỡnh
trạng nợ đọng, không có khả năng chi trả, hay đang trong quá trỡnh giải thể? Ngay đối với
nhà thầu trong nước, việc cơ quan nào có thẩm quyền tuyên bố điều này cũng chưa xác định
được.
Do đó, tại khoản này cần phân rừ hai trường hợp: đối với nhà thầu trong nước và
đối với nhà thầu nước ngoài một cách cụ thể trong Luật hoặc trong Nghị định hướng
dẫn. Nên quy định cụ thể hơn là trách nhiệm của chủ đầu tư. Đây là người có thẩm
quyền trong việc xem xét về khả năng, của nhà thầu có đủ điều kiện để thực hiện việc
đấu thầu và thực hiện thầu hay không. Nếu không quy định rừ điều này, thỡ khi cú thiệt
hại xảy ra sẽ đổ lỗi cho khách quan và không ai chịu trách nhiệm về vấn đề này. Vỡ
vậy, tỏc giả đề nghị quy định một cách tổng quát hơn và phù hợp với quy định quốc tế:
Nhà thầu là tổ chức có tư cách hợp lệ khi đảm bảo đầy đủ các điều kiện sau đây:
Một, nhà thầu có đủ năng lực chuyên môn và được phép kinh doanh trong lĩnh
vực phù hợp với nội dung mời thầu.
Hai, nhà thầu là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động theo luật Thương
mại có đủ năng lực tài chính, đảm bảo thực hiện gói thầu.
Ba, nhà thầu có nền tài chính lành mạnh, minh bạch, khụng lõm vào tỡnh trạng
nợ đọng, hoặc đang trong quá trỡnh phỏ sản, giải thể.
iii) Về phương thức đấu thầu
Đây là vấn đề có sự quy định khác biệt giữa luật đấu thầu hiện hành của Việt Nam và
quốc tế. ADB và WB đều quy định giống nhau về phương thức đấu thầu hai giai đoạn:
"Giai đoạn một mời các nhà thầu đưa ra các đề xuất kỹ thuật chưa có giá trên cơ sở thiết kế
sơ bộ hoặc yêu cầu tính năng sử dụng của hàng hóa".
Trong khi đó điểm a khoản 3 Điều 26 Luật đấu thầu 2005 và điểm a khoản 3 Quy
chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP, quy định: "Trong giai đoạn
một, theo hồ sơ mời thầu giai đoạn một, các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương
án tài chính nhưng chưa có giá dự thầu".
Vấn đề ở đây là luật Việt Nam có quy định khác về việc phải nộp "phương án tài
chính". Việc quy định như vậy trước hết mâu thuẫn về mặt logic, vì phương án tài chính
có nghĩa là tính giá hàng hóa, mà ở giai đoạn này quy định là không được chào giá; thứ hai
là không phù hợp với các nhà tài trợ quốc tế.
Để hài hòa giữa các bên thì "phương án tài chính" phải được thay hoặc được hiểu
là "điều kiện thương mại". Nghĩa là, trong giai đoạn một, ngoài việc nộp đề xuất kỹ
thuật, nhà thầu còn phải nộp đề xuất về: điều kiện thanh toán, bảo hành; điều kiện giao
hàng; điều kiện bảo hiểm... liên quan đến thương mại.
iv) Ưu đãi
Theo quy định tại Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP, việc ưu
đói cho nhà thầu Việt Nam được thể hiện quá rừ từ khoản 2 đến khoản 6. Vỡ thế khụng
được sự ủng hộ của các nhà tài trợ quốc tế, do tính bảo hộ nhà thầu trong nước quá cao
làm giảm tính cạnh tranh của đấu thầu quốc tế. Để tạo sự cạnh tranh lành mạnh, Luật
đấu thầu 2005 đó khụng cũn phõn biệt nhà thầu trong nước và nước ngoài, mà chỉ quy
định được hưởng ưu tiên căn cứ mức giá trị nội địa được bổ sung vào hàng hóa: "Nhà
thầu tham gia đấu thầu gói thầu cung cấp hàng hóa mà hàng hóa đó có chi phí sản xuất
trong nước chiếm tỷ lệ từ 30% trở lên". Việc quy định mức 30% này cũng giống như
Hướng dẫn của WB tại điểm 2 - Phụ luc 2 [18].
Tuy nhiên, quy định này lại khác so Hướng dẫn mua sắm hàng hóa của ADB tại
điểm 5.1, Phần III [19]. Theo đó, để được hưởng ưu tiên mức giá trị nội địa được bổ
sung vào hàng hóa từ 20% trở lên.
Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam trong đấu thầu quốc tế, đồng
thời cũng không trái quy định của các nhà tài trợ thỡ Việt Nam nên quy định áp dụng
mức giá trị nội địa được bổ sung vào hàng hóa từ 20% trở lờn thay vỡ tỷ lệ 30% như ghi
trong luật.
v) Chia gói thầu
Khoản 4, Điều 6, Luật đấu thầu 2005 quy định là mỗi gói thầu chỉ mở thầu một lần,
mỗi gói thầu chỉ có một hồ sơ mời thầu, chỉ tiến hành đấu thầu một lần. Thực tế làm công
tác đấu thầu, tác giả thấy rằng, WB và ADB cũng không quy định mỗi gói thầu phải làm
một hồ sơ thầu riêng biệt. Làm như vậy sẽ rất tốn kém, làm giảm tính cạnh tranh của đấu
thầu và chậm tiến độ giải ngõn. Vỡ vậy, để phù hợp với thực tế và hướng dẫn, ý kiến
không phản đối của các nhà tài trợ quốc tế, thỡ cú thể ỏp dụng nhiều gúi thầu trong một
hồ sơ mời thầu.
vi) Đảm bảo cạnh tranh trong đấu thầu
Điều 11 Luật đấu thầu 2005 đó quy định theo hướng tách bạch các chủ thể và
công việc có liên quan đến các khâu của quá trỡnh đấu thầu; giữa nhà thầu, nhà tư vấn,
lập hồ sơ mời thầu, chủ đầu tư và cơ quan quản lý nhà thầu v.v... Với quy định này sẽ
chống khép kín trong đấu thầu, theo hướng đảm bảo tính độc lập về tổ chức về tài chính
các bên tham gia đấu thầu, nên phải có thời gian tiếp cận, để làm sao ổn định trong quá
trỡnh sản xuất kinh doanh của cỏc nhà thầu.
Việc thực hiện được điều này phụ thuộc vào tiến trỡnh cải cỏch hành chớnh của
Chớnh phủ và quỏ trỡnh đổi mới và chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ
phần. Đây là một vấn đề đặt ra hết sức là phù hợp với tiến trỡnh giữa cải cỏch hành chớnh,
cũng như chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước. Luật quy định thời gian chậm nhất là 3 năm
khi luật này cú hiệu lực là quỏ lõu. Việc khắc phục khộp kớn trong quỏ trỡnh đấu thầu cần
xóa bỏ càng sớm càng tốt, không nên quy định sau 3 năm. Đảm bảo cạnh tranh là vấn đề
tích cực và phù hợp với quy định của các nhà tài trợ quốc tế. Chẳng hạn, WB và ADB
hiện nay đó quy định cấm các công ty thuộc Bộ chủ quản tham gia đấu thầu các dự án
sử dụng nguồn vốn của hai ngân hàng này, nếu chưa cổ phần hóa.
Vấn đề của Việt Nam là không tách bạch được giữa chủ thể với nhau, nên nó
kết hợp để tạo ra tiêu cực, lóng phớ, Tỏc giả cho đây là một khâu mắt xích quan hệ
nhiều năm giữa các chủ đầu tư, tư vấn tiêu chuẩn kỹ thuật, tư vấn, thẩm định. Đây là
một vấn đề hết sức phức tạp. Theo tác giả cốt lừi trong việc xúa khộp kớn trong đấu
thầu đảm bảo tính cạnh tranh phải là độc lập về tổ chức, không phụ thuộc vào một cơ
quan quản lý và được độc lập về tài chính.
Kết luận chương 3
Trong thời gian qua, luật pháp về đấu thầu quốc tế ở Việt Nam đã góp phần quan
trọng qua việc đưa các hoạt động mua sắm hàng hóa đi vào nề nếp, phù hợp với yêu cầu
của xã hội và đạt hiệu quả cao. Song còn nhiều vấn đề mà luật cần được hoàn thiện,
nhằm đáp ứng tốt hơn nữa các mục đích lâu dài của Việt Nam như hội nhập quốc tế,
mục tiêu phát triển đến năm 2020 và mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Chương 3 tập trung nghiên cứu thực trạng ban hành và thực thi pháp luật về đấu
thầu mua sắm hàng hóa quốc tế ở Việt Nam, từ đó rút ra những đề xuất sửa đổi cho phù
hợp với thực tế hoạt động đấu thầu, thông lệ và quy định của Luật quốc tế. Những tồn
tại và khó khăn của Việt Nam hiện nay chủ yếu liên quan đến ban hành pháp luật, phân
cấp, cơ chế tổ chức quản lý đấu thầu. Ngoài ra, các vấn đề cạnh tranh lành mạnh, công
khai minh bạch cũng cần được quan tâm để đáp ứng đòi hỏi của các nhà tài trợ quốc tế.
Qua thực tiễn làm công tác quản lý đấu thầu, tác giả nêu lên những ví dụ sinh động
thường gặp trong đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa về các thủ thuật, chiêu thức của
nhà thầu và chủ đầu tư. Trong mối liên hệ với kinh nghiệm của một số nước, tác giả nêu
lên những khiến nghị nhằm giải quyết tốt các mối quan hệ trong mô hình tổ chức đấu
thầu một cách hợp lý nhất.
Cuối cùng là giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu hiện nay (cụ thể là Luật đấu
thầu 2005) và giải pháp tổng thể nhằm hài hòa giữa các quy định của Việt Nam và
hướng dẫn của các nhà tài trợ quốc tế trong mua sắm hàng hóa qua đấu thầu quốc tế sử
dụng nguồn vốn của WB, ADB, JIBIC…Các giải pháp trong chương 3 đã đạt được các
mục tiêu cơ bản là: Thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương của Đảng; kế thừa
các nội dung phù hợp của Quy chế Đấu thầu hiện hành; Khắc phục các tồn tại của thực
tiễn thực hiện đấu thầu; Bảo đảm tính công khai, minh bạch phù hợp với thông lệ quốc
tế, thống nhất trong chi tiêu sử dụng vốn nhà nước và đòi hỏi của tiến trình hội nhập
quốc tế trong thời gian tới.
Kết luận
Chính sách "đổi mới" đã được Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng và thực hiện
từ Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Đây là bước ngoặt lớn trong tư duy kinh tế của
Việt Nam, khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành tự lớn về kinh tế - xã hội. Kết
quả đó có được từ sự kết hợp thành công giữa phát huy nội lực và tranh thủ thu hút
nguồn tài trợ, đầu tư nước ngoài. Với chính sách ưu đãi đầu tư, chúng ta đã thu hút được
rất nhiều luồn vốn đầu tư chảy vào Việt Nam.
Đạt được kết quả trên, cũng có phần đóng góp không nhỏ của hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về đấu thầu nói riêng. Bởi pháp luật đấu thầu đã tạo ra được môi
trường pháp lý tốt cho cạnh tranh lành mạnh, công khai minh bạch đối với các hoạt
động đấu thầu ở Việt Nam. Đây là một trong nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị
trường nói chung và nguyên tắc của các nhà tài trợ lớn như WB, ADB, JBIC... cũng như
Luật mẫu của UNCITRAL.
Trong tất cả các hình thức đấu thầu, thì đấu thầu cạnh tranh quốc tế là hình thức
phổ biến và được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế, khuyến khích áp dụng. Tính ưu việt
của nó không chỉ đạt được mục đích của đấu thầu là tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh mà
còn giúp việc quản lý vốn đạt được hiệu quả cao.
Nhận thức được vấn đề này, các tổ chức quốc tế tài trợ và các Chính phủ hỗ trợ
vốn ODA đã là người tiên phong đưa ra những hướng dẫn rất cụ thể để áp dụng hình
thức đấu thầu quốc tế. Bên cạnh đó, một nguồn luật cũng rất quan trọng để điều chỉnh
các hoạt động mua sắm, đó là hệ thống luật quốc tế như: Luật mẫu của UNCITRAL và
quy tắc, thông lệ của các hiệp hội, tổ chức như FIDIC. Các quy định này mang tính
khuyến nghị các quốc gia áp dụng.
Luật về đấu thầu của Việt Nam hiện đã trải qua quá trình phát triển tương đối
dài, nhiều quy định trong đó đã được chỉnh sửa, bổ sung phù hợp với thực tế cuộc sống
xã hội và hài hòa với luật quốc tế. Đặc biệt, sau khi ban hành tới ba quy chế đấu thầu và
rất nhiều nghị định hướng dẫn, bổ sung, sửa đổi (2-3 năm một lần), đến nay Việt Nam
đã có Luật đấu thầu (có hiệu lực từ 01/04/2006). Đồng thời, Nghị định hướng dẫn đã
trình Quốc hội và đang được Chính phủ xem xét để thông qua trong thời gian gần đây,
với nhiều nội dung mới, tiên tiến và phù hợp thực tiễn, hội nhập quốc tế.
Về khía cạnh lập pháp, Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được thành tựu nói
trên. Tuy nhiêu, về áp dụng và thực thi pháp luật lại chưa đạt được kết quả cao trong
thực tế. Công tác đấu thầu mới chỉ là hình thức, chưa đem lại hiệu quả cao như nhà làm
luật mong muốn. Ngoài ra, các hiện tượng vi phạm pháp luật đấu thầu vẫn diễn ra ở mọi
lúc, mọi nơi với mức độ ngày càng phức tạp, tinh vi và phổ biến hơn như: hành vi tham
nhũng, gian lận trong đấu thầu, thông thầu, ưu tiên không công bằng, chậm, phức tạp
trong thẩm định và phê duyệt. Nguyên nhân là do: nhận thức của các chủ thể về pháp
luật đấu thầu còn hạn chế; tư tưởng quan liêu, bao cấp; đội ngũ cán bộ quản lý và thực
hiện đấu thầu có trình độ, nghiệp vụ, kinh nghiệm chưa nhiều, chưa theo kịp và nắm bắt
được quy luật vận hành của nền kinh tế thị trường; pháp luật thay đổi quá nhanh trong
thời gian qua, trong khi có nhiều hành vi và quan hệ trong đấu thầu không được pháp
luật điều chỉnh.
Xuất phát từ tính cấp thiết của những vấn đề nêu trên về cả thực tiễn và lý luận,
tác giả đã chọn và thực hiện đề tài "Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa",
với mong muốn nêu lên các quy định mang tính nguyên tắc của luật quốc tế về đấu
thầu; hệ thống, đánh giá cơ sở pháp lý về đấu thầu cạnh tranh quốc tế ở Việt Nam. Qua
đó, tìm ra giải pháp chung và cụ thể để hoàn thiện Luật đấu thầu ở Việt Nam và giải
pháp nhằm hài hòa với pháp luật đấu thầu quốc tế. Nội dung chính của luận văn đạt
được bao gồm:
- Làm rõ một số khái niệm về đấu thầu quốc tế mua sắm hàng hóa theo quan
điểm của các nhà tài trợ lớn cho Việt Nam; liên quan tới hình thức đấu thầu quốc tế và
các phương thức đấu thầu trong hình thức này ví dụ: một giai đoạn- một phong bì, hai
giai đoạn...; nêu lên hệ thống các cơ sở pháp lý của Việt Nam và quốc tế áp dụng cho
hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hóa;
- Phác thảo qúa trình hình thành và nội dung tóm tắt pháp luật về đấu thầu ở Việt
Nam; các điều kiện lựa chọn hình thức và phương thức đấu thầu của Việt Nam so sánh với
quy định hướng dẫn của các nhà tài trợ chính; so sánh quy trình thực hiện và quản lý
đấu thầu của Việt Nam và quốc tế;
- Đánh giá các thành tựu và hạn chế của pháp luật đấu thầu tại Việt Nam, kinh
nghiệm của một số nước và tổ chức quốc tế;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật đấu thầu quốc tế, trên cơ sở khảo cứu
pháp luật đấu thầu ở một số nước; nêu phương hướng hài hòa thủ tục, thực hiện và quản lý
đấu thầu giữa Chính phủ Việt Nam và các Nhà tài trợ.
Đề tài "Quy chế đấu thầu quốc tế về mua sắm hàng hóa" là đề tài tương đối mới
và phức tạp cả lý luận và thực tiễn áp dụng. Đây là vấn đề đặt ra mang tính cấp thiết
trong thời kỳ hội nhập hiện nay của Việt Nam. Nó đòi hỏi cần được quan tâm, nghiên
cứu sâu hơn nữa. Chính vì vậy, với mức độ đòi hỏi và phạm vi của luận văn thạc sĩ luật
học, tác giả đã cố gắng vận dụng những kinh nghiệm thực tiễn làm việc tại Ban quản lý
các dự án y tế - Bộ Y tế; kiến thức qua các tài liệu tham khảo, đồng nghiệp và đặc biệt
được sự hướng dẫn tận tình, giàu kinh nghiệm của PGS.TS Nguyễn Bá Diến - Trưởng
Bộ môn Luật quốc tế - Đại học Quốc gia Hà Nội để hoàn thành đề tài này.
danh mục Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Xây dựng (1997), Thông tư liên tịch số 02/TTLT-BKH-
BXD ngày 25/02 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo
Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tạp chí Kinh tế dự báo (1999), Quy định của WB, ADB,
OECF về tuyển dụng tư vấn, mua sắm hàng hóa, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2000), Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05 hướng
dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu, Hà Nội.
4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Công văn số 8895 BKH/VPXT ngày 31/12 về đấu
thầu mua sắm hàng hoá, Hà Nội.
5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2002), Công văn số 3220 BKH/VPXT ngày 23/05/ về việc
hướng dẫn triển khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002
của Chính phủ đối với nội dung liên quan tới công tác đấu thầu, Hà Nội.
6. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Ngân hàng châu á (2002), Sổ tay hướng dẫn chuẩn bị và
thực hiện dự án ADB tại Việt Nam, Hà Nội.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Thông tư số 01/2004/TT-BKH ngày 02/02 hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06/2003 của Chính phủ,
Hà Nội.
8. Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ quản lý đấu thầu, Bộ luật các thị trường công của
Pháp, Tài liệu tham khảo, Hà Nội.
9. Bộ Kế hoạch và đầu tư - Vụ quản lý đấu thầu, Luật gọi thầu và bỏ thầu của Trung
Quốc, Tài liệu tham khảo, Hà Nội.
10. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2001), Thông tư số 50/2001/TT-BNN-
XDCB ngày 03/05hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu đối với các dự án
đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hà Nội.
11. Bộ Tài chính (2001), Thông tư số 17/2001/TT-BTC ngày 21/03 hướng dẫn chế độ
quản lý và sử dụng lệ phí thẩm định kết quả đấu thầu, Hà Nội.
12. Chính phủ (1992), Quyết định số 91/TTg ngày 13/11 của Thủ tướng Chính phủ về
hướng dẫn đấu thầu mua sắm máy móc, thiết bị nhập khẩu và quy định về
nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, Hà Nội.
13. Chính phủ (1993), Thông tư số 04/TM-ĐT ngày 3/7/1993 hướng dẫn thi hành Quyết
định số 91/TTg ngày 13/11/1992 của Thủ tướng Chính phủ, Hà Nội.
14. Chính phủ (1994), Quyết định số 183/TTg ngày 16/04 của Thủ tướng Chính phủ quy
định về mua sắm, đấu thầu, Hà Nội.
15. Chính phủ (1996), Nghị định số 43/CP ngày 16/7 về quy chế đấu thầu, Hà Nội.
16. Chính phủ (1997), Nghị định số 93/CP ngày 23/08 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của quy chế đấu thầu, Hà Nội.
17. Chính phủ (1999), Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9 ban hành Quy chế đấu
thầu, Hà Nội.
18. Chính phủ (2000), Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/05 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy chế đấu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP
ngày 01/09/1999 của Chính phủ, Hà Nội.
19. Chính phủ (2002), Công văn số 952/CP-CN ngày 16/08 về việc hướng dẫn triển
khai thực hiện Nghị quyết 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ
đối với nội dung đấu thầu và sửa đổi quy chế đấu thầu, Hà Nội.
20. Chính phủ (2003), Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-
CP ngày 01/09/1999 và Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của
Chính phủ, Hà Nội.
21. Chính phủ (2005), Tờ trình số 127/CP-XDPL ngày 29/9 về dự án luật đấu thầu, Hà
Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Lưu Tiền Hải (2000), "Khai thác hiệu quả nguồn vốn ODA", Thời báo kinh tế Việt
Nam, tr. 43-44.
24. Ngô Minh Hải, Quản lý đấu thầu - thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế,
Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội.
25. Hiệp hội Tư vấn xây dựng Việt Nam (2001), Điều kiện hợp đồng - FIDIC, Nxb Xây
dựng, Hà Nội.
26. Ngân hàng châu á (1998), Hướng dẫn xét thầu, Hà Nội.
27. Ngân hàng châu á (1999), Hướng dẫn mua sắm sử dụng vốn ADB, Hà Nội.
28. Ngân hàng châu á (1998), Sách hướng dẫn quản lý thực hiện dự án (có sửa đổi), Hà
Nội.
29. Ngân hàng Châu Á (2000), Mẫu chuẩn hồ sơ mời thầu - Mua sắm hàng hóa: "theo
quy trỡnh đấu thầu hai giai đoạn" , Hà Nội.
30. Ngân hàng Châu Á (2000), Mẫu chuẩn hồ sơ mời thầu - Hướng dẫn người sử dụng
mua sắm hàng hóa, Hà Nội.
31. Ngân hàng phát triển châu á - Văn phòng Dịch vụ Dự án Trung tâm dịch tại Hà Nội
(1995), Sổ tay các vấn đề về mua sắm của dự án do ADB tài trợ, Hà Nội.
32. Ngân hàng phát triển Châu á, Quy định đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế.
33. Ngân hàng Thế giới (2004), Hướng dẫn mua sắm bằng vốn vay IBRD và tín dụng
IDA, Hà Nội.
34. Ngân hàng Thế giới, Quy định đấu thầu mua sắm hàng hoá quốc tế.
35. Quốc hội (2005), Luật đấu thầu, Hà Nội.
36. Tổ chức SIDA Thuỵ Điển, Quy định mua sắm đấu thầu
37. UNCTRIAL, Quy định mẫu về mua sắm đấu thầu hàng hoá.
Trang web
38. (trang web giới thiệu về ADB).
39. (trang WEB của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam giới thiệu về quan hệ hợp tác với WB).
40. (Trích báo điện tử
Vnexpress, Thứ sáu, 20/7/2001, Nguồn từ báo Lao Động).
41. (Báo cáo của
Ngân hàng Thế giới, Hà Nội, ngày 21/4/2003).
42. (Mua sắm công ở
Hàn Quốc - SAROK (Supply Aministration the Republic of Korea- Tháng 7
năm 1997 do WTO công bố).
43. (Luật mua sắm công của Ba Lan
ban hành, gồm 92 điều).
44. (Luật mua sắm
công của Bungari 1/1/2002, Latvia 1/1/1997, Estonia 1/4/2001).
45. www.worldbank.org.vn;
46. www.mp1.gov.vn;
47. www.adb.org.vn;
48. www.uncitral.org/uncitral/en/uncitral_texts/procurement_infrastructure/1994
Model.html
Phụ Lục
Phụ lục 1
Trình tự tổ chức các bước đấu thầu mua sắm hàng hóa
Ghi chú:
(1) Tại mục A và B
- Đối với 01 gói thầu theo quy định của pháp luật Đấu thầu hiện hành, các nội
dung cơ bản của quá trỡnh đấu thầu do chủ đầu tư - bên mời thầu trỡnh và được cấp có
thẩm quyền phê duyệt gồm:
- Kế hoạch đấu thầu các gói thầu: (i) Phân chia theo tên gói thầu, (ii) giá gói thầu,
nguồn vốn, (iii) hỡnh thức và phương thức lựa chọn đấu thầu với từng gói thầu, (iv) thời
gian lựa chọn nhà thầu, (v) loại, hỡnh thức hợp đồng cho từng gói thầu, (vi) thời gian
thực hiện hợp đồng dự kiến;
- Tổ Chuyên gia giúp việc đấu thầu (nếu thành lập Tổ chuyên gia);
- Hồ sơ mời sơ tuyển; tiêu chuẩn đánh giá sơ tuyển, kết quả sơ tuyển nhà thầu
(nếu đầu thầu hai giai đoạn - có bước sơ tuyển);
- Hồ sơ mời thầu gói thầu;
- Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu;
(2) Tại mục C
(2.1) Thông báo mời thầu: Bên mời thầu phải tiến hành thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng tuỳ theo quy mô và tính chất của gói thầu trên các tờ
báo phổ thông hàng ngày, phương tiện nghe nhỡn và cỏc phương tiện khác, nhưng tối
thiểu phải đảm bảo 3 kỳ liên tục và phải thông báo trước khi phát hành hồ sơ mời thầu 5
ngày đối với gói thầu quy mô nhỏ và trước 10 ngày đối với các gói thầu khác kể từ ngày
thông báo lần đầu.
(2.2) Thời gian chuẩn bị hồ sơ dự thầu tối thiểu là 30 ngày, kể từ ngày phát hành
hồ sơ mời thầu. (đối với đấu thầu quốc tế)
(2.3) Việc mở thầu không được quá 48 giờ, kể từ thời điểm đóng thầu (trừ ngày
nghỉ theo quy định của pháp luật).
(3) Tại mục D
Thời hạn đánh giá hồ sơ dự thầu được tính từ thời điểm mở thầu đến khi trỡnh
duyệt kết quả đấu thầu lên người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền tối đa không
quá 60 ngày đối với đấu thầu trong nước và 90 ngày đối với đấu thầu quốc tế. Trường
hợp áp dụng phương thức đấu thầu hai giai đoạn, thời hạn đánh giá hồ sơ dự thầu được
tính từ thời điểm mở thầu giai đoạn 2.
(4) Tại mục E
- Danh sách xếp hạng các nhà thầu về đề xuất kỹ thuật, Danh sách xếp hạng tổng
hợp kỹ thuật và tài chính;
- Kết quả đấu thầu gói thầu;
- Phê duyệt nội dung hợp đồng (hợp đồng với nhà thầu nước ngoài hoặc hợp
đồng với nhà thầu trong nước mà kết quả đấu thầu do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt)
Các vấn đề khác
Việc thay đổi nội dung hồ sơ mời thầu đó được duyệt; kéo dài thời điểm đóng
thầu; kéo dài thời gian có hiệu lực của hồ sơ dự thầu,... theo quy định phải được cấp có
thẩm quyền cho phép.
Phụ lục 2
Hệ thống phõn cấp quản lý nhà nước về đấu thầu
Chính phủ
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Vụ Quản lý đấu thầu)
Các bộ,
cơ quan ngang bộ
Ủy ban nhân dân
các cấp
Cỏc
ban
quản lý
dự ỏn
(PMU)
Các
chủ
đầu tư
là
doanh
nghiệp
nhà
nước
UBND
quận,
huyện
thị xó,
PMU
của cỏc
Phũng
Các
chủ
đầu tư
là
doanh
nghiệp
nhà
nước
Cỏc
ban
quản lý
dự ỏn
của các
Sở
Phụ lục 3
Mụ hỡnh quản lý dự ỏn nhúm A ở Bộ Y tế
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(Vụ Quản lý đấu thầu)
Giám đốc dự án
Ban quản lý dự ỏn
Trung ương
Tổ Hành
chớnh
Cán bộ
chuyên trách
về
Hành chính,
Bộ phận
XDCB
Cán bộ
chuyên trách
về
Xây dựng cơ
Tổ Mua sắm
Cán bộ
chuyên trách
mua sắm
Tổ Kế hoạch
Cán bộ
chuyên trách
về
MIS/CBM/
lập KH, Đào
Tổ Tài chính
kế toán
Cán bộ
chuyên trách
giải ngân
Bộ trưởng Bộ Y tế
Ban chỉ đạo dự án
UBND 14 tỉnh
Giám đốc sở Y tế
Ban quản lý dự ỏn tỉnh
Cán bộ
chuyên trách về
MIS/CBM/Đào tạo
Cán bộ
chuyên trách
về XDCB
Nhân viên
kế toán
Cán bộ
chuyên trách về
hậu cần/đấu thầu
Nhân viên hỗ trợ
Thư ký - Nhõn viờn mỏy tớnh - Lỏi xe
Giám đốc Trung tâm Y tế Huyện
Chính phủ
Khái quát chung về dự án
- Tên dự án: Dự án Y tế nông thôn
- Mục tiêu dự án: Tăng sức khoẻ cho nhân dân ở nông thôn, đặc biệt là người
nghèo và khó khăn.
Mục tiêu chung: Tăng cường sức khoẻ cho nhân dân nông thôn đặc biệt là người
nghèo và khó khăn ở 14 tỉnh (Hoà Bình, Quảng Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Ninh Bình,
Quảng Bình, Quảng Ngãi, Khánh Hoà, Long An, Bình Phước, Tiền Giang, Cần Thơ,
Bến Tre và Hậu Giang).
Mục tiêu cụ thể: Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban
đầu; Nâng cao năng lực quản lý tài chính; Tăng cường y tế dự phòng và nâng cao năng
lực quản lý, chăm sóc sức khoẻ;Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào chăm sóc
sức khoẻ.
- Tổng vốn đầu tư: 98.702.000USD
- Nhà tài trợ: Ngân hàng phát triển châu á (ADB)
- Cơ quan chủ quản: Bộ Y tế
- Cơ quan thực hiện: Ban quản lý Dự án Y tế nông thôn, Bộ Y tế và 14 Ban
QLDA tỉnh tham gia dự án.
- Hiệp định tín dụng số 1777VIE (SF) ký ngày 01/8/2001, có hiệu lực từ:
30/10/2001 đến 30/06/2006.
- Quyết định 664/TT-CP do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 30/5/2001.
Phụ lục 4
Trình tự đấu thầu cạnh tranh quốc tế theo quy định ADB
Chuẩn bị danh
sách hàng hóa
cần mua
Ngân hàng
phê chuẩn
Chuẩn bị tài liệu
mời thầu
Ngân hàng
phê chuẩn
Gửi thư mời thầu
và thu tài liệu
đấu thầu
Xét thầu và đề
xuất trao thầu
Ngân hàng
phê chuẩn
Ký hợp đồng
Nhận và lắp đặt
hàng hóa
có
có
có
Báo cáo kết
quả ký HĐ
Báo cáo các
thủ tục quảng cáo
cho Ngân hàng
Phụ lục 5
Trình tự đấu thầu cạnh tranh quốc tế của Việt Nam
Mở L/C, nhận và
lắp đặt hàng hóa
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
Ký hợp đồng
có
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
Xét thầu và đề
xuất trao thầu
có
Gửi thư mời thầu
và thu tài liệu
đấu thầu
Báo cáo các
thủ tục
quảng cáo
cho cơ quan
có thẩm
quyền
Cơ quan có thẩm quyền phê duyệt
có
Chuẩn bị tài liệu
mời thầu
Cơ quan có thẩm quyền phê duyêt
Chuẩn bị danh
sách hàng hóa
cần mua
có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 126_4499.pdf