Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam

Nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các mặt như cơ cấu, phân bổ theo địa lý và ngành nghề, đóng góp cho phát triển kinh tế qua GDP, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, về môi trường pháp lý, vốn, công nghệ, thông tin, nhân lực và cả các tác động tích cực và những tồn tại của quá trình từng bước đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

pdf108 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp vì hầu hết các quốc gia quy định phần trả tiền thuê cho người cho thuê được đưa vào phần giải trình của Bảng tổng kết tài sản, tài sản thuê được ngoại bảng và được coi như một khoản nợ phát sinh trong năm tài chính và do vậy không ảnh hưởng đến các hệ số phân tích tài chính của doanh nghiệp.Thứ hai, cho thuê tài chính giúp cho DNVVN không bị đọng vốn trong tài sản cố định thông qua nghiệp vụ bán và tái thuê, các DNVVN có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn còn tiếp tục được sử dụng. Do đó, cho thuê tài chính tạo điều kiện để các DNVVN linh hoạt và tăng hiệu quả trong sử dụng vốn. 83 Ngoài ra cho thuê tài chính còn giúp các DNVVN hiện đại hoá sản xuất, theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới, điều này sẽ được nói rõ trong phần nói về tác dụng của cho thuê tài chính trong phát triển công nghệ của DNVVN trong phần kế tiếp. 4.Thành lập quỹ hỗ trợ đầu tư để cho các DNVVN vay vỗn trung và dài hạn. Nhà nước cần đứng ra thành lập quỹ này cùng với các tổ chức tài chính, các cá nhân khác. Trong quỹ này có thể phân định rõ các quỹ nhỏ như quỹ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, quỹ đầu tư đổi mới công nghệ, quỹ đào tạo... Để đảm bảo thực hiện có hiệu quả, cần có một cơ chế điều hành quỹ thật rõ ràng, minh bạch, xác định đúng đối tượng hỗ trợ với những điều kiện cụ thể thống nhất kèm theo. Quỹ này có thể hoạt động theo nguyên tắc của quỹ hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp được quy định tại Điều 7 Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Hiện nay, đã có một số quỹ đi vào hoạt động trong khuôn khổ các dự án hỗ trợ các DNVVN. Chẳng hạn, "Quỹ phát triển các DNVVN" do EU và Bộ lao động thương binh & xã hội phối hợp tiến hành trong khuôn khổ dự án hợp tác kinh tế nhằm trợ giúp các DNVVN của Việt Nam và EU đã chính thức đi vào hoạt động ngày 13/7/1998. Với tổng nguồn vốn 25 triệu USD đã được chuyển cho Ngân hàng thương mại á Châu (ACB) ở thành phố Hồ Chí Minh để tiến hành cho các DNVVN trên cả nước vay với lãi suất ưu đãi và thời gian vay từ 3-5 năm (tất cả các doanh nghiệp có vốn đăng kí từ 50.000USD-300.000USD và sử dụng từ 10-500 lao động đều nằm trong đối tượng được vay vốn từ quỹ này). Đây là một mô hình tốt mà chúng ta cần xúc tiến rộng rãi để trợ giúp về vốn cho các DNVVN. 4.Triển khai mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNVVN. Tại Việt nam, Nguồn vốn quỹ quốc gia có hiệu qủa thấp do phải phân bổ cho nhiều chương trình khác nhau( Quỹ xoá đói giảm nghèo, quỹ trợ cấp việc làm, quỹ phòng chống tệ nạn xã hội…). Nguồn vốn quốc tế hỗ trợ cho các DNVVN cũng còn rất hạn chế. Việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các DNVVN thực sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận tốt hơn với các 84 nguồn vốn từ ngân hàng khi mà hiện nay theo đánh giá của hầu hết các ngân hàng thì mức độ tin cậy tín dụng (creditworthiness) của các DNVVN tại Việt nam. Điều này đã được cụ thể hoá bằng Điều 7, Nghị định 90/2001/CP- ND ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNVVN: “Thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN để bảo lãnh cho các DNVVN khi không đủ tài sản thế chấp, cầm cố, vay vốn của các tổ chức tín dụng. Bộ Tài chính chủ trì, phố hợp với các cơ quan liên quan xây dựng đề án và Quy chế hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN và trình Thủ tướng Chính phủ quyết định”. Hình thức Qũy bảo lãnh tín dụng này trước đó cũng được áp dụng thí điểm thành công tại Bắc Giang do Viện Friedrich Ebert (Đức) khởi xướng và được hình thành trên cơ sở góp vốn của Ngân hàng Đức và Ngân hàng công thương Việt nam nhằm cải thiện điều kiện tín dụng cho những việt kiều hồi hương từ Đức về và các thành phần khác muốn bắt đầu khởi sự kinh doanh với nguồn vốn do phía Đức tài trợ là 100.000 USD. Qũy bảo lãnh tín dụng trước mắt phải do Nhà nước quản lý. Thiết chế bảo lãnh tín dụng là một trong những công cụ tài chính phối hợp thực hiện việc tiếp cận tín dụng của những doanh nhân có uy tín hoặc những người khởi sự doanh nghiệp với những dự án khả thi mà không đủ tài sản thế chấp. Qũy bảo lãnh tín dụng cần được thiết lập như một ngân hàng bảo lãnh độc lập dưới sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước. Nội dung cơ bản của việc hình thành Qũy bảo lãnh tín dụng bao gồm mục tiêu, tính chất hoạt động, nguồn tài chính lập Qũy, phương thức hoạt động. Qũy bảo lãnh tín dụng là một tổ chức kinh tế độc lập hoạt động như một trung gian tài chính vì mục tiêu hỗ trợ phát triển DNVVN chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận. Về tính chất, Qũy bảo lãnh tín dụng hoạt động như một công ty bảo hiểm vì đây là nguồn qũy chia sẻ rủi ro cho ngân hàng khi DNVVN mất khả năng trả nợ. Nói chung, Tỷ lệ tối đa mà Quỹ bảo lãnh tín dụng phải bù đắp khi tồn thất xảy ra khi các DNVVN mất khả năng trả nợ là 70%, các ngân hàng phải chịu trách nhiệm tối thiểu là 30% tương đương với trách nhiệm theo tỷ lệ góp vốn vào Quỹ bảo lãnh được quy định tại Văn bản số 1070/NHNN-TD 85 của NHNN về “triển khai một số nội dung liên quan đến việc thành lập Qũy bảo lãnh tín dụng đối với DNVVN” là ngân hàng góp vốn tối đa 6%, tổ chức tín dụng góp vốn tối đa 10% trong tổng vốn điều lệ của Quỹ. Về phương thức hoạt động, bao gồm những quy định về đối tượng bảo lãnh tín dụng, phương pháp lập vốn qũy, phí bảo lãnh, chia sẻ rủi ro, thủ tục giải quyết bồi thường, chú ý đến quá trình xét duyệt bảo lãnh và cho vay, phân bổ tổn thất có thể xảy ra, uy tín của người bảo lãnh, chi phí tiến hành bảo lãnh. Đối với nước ta, đây là những bước khởi sự do đó điều quan trọng là nhà nước cần tạo điều kiện khung cho hoạt động của Quỹ: Luật ngân hàng cần có những điều khoản cho phép hoạt động của Qũy bảo lãnh tín dụng để hỗ trợ vốn cho các DNVVN, các thủ tục của Qũy cần phải được hợp pháp hóa. Về nguồn vốn hình thành, Qũy có thể bao gồm đóng góp của ngân sách nhà nước, các ngân hàng, các tổ chức phi chính phủ, các hiệp hội, các cá nhân đóng góp thông qua nguyên tắc tự nguyện. Nguồn vốn này gửi ở các ngân hàng chứ không nằm ở Qũy, thông thường số tiền của Qũy được gửi ở nơi có lãi suất cao nhất đó là nguồn thu nhập của Qũy. Ngoài ra còn có nguồn thu nhập từ lệ phí bảo lãnh và lệ phí thẩm định dự án từ khách hàng. Nguồn chi của Qũy là chi phí cho bộ máy quản lý, thuê nhà, mua sắm tài sản, tiền lương, chi phí rủi ro mà Qũy phải trả cho ngân hàng khi bị thất thoát theo tỷ lệ chia sẻ rủi ro giữa Qũy và ngân hàng. Về hình thức tổ chức, Qũy hoạt động như một công ty bao gồm hội dồng quản trị, giám đốc, ban điều hành gồm đại diện của Chính phủ, NHNN, các DNVVN…, đặc biệt là ủy ban bảo lãnh quyết sách những vấn đề quan trọng nhất của Qũy bảo lãnh tín dụng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, Qũy bảo lãnh tín dụng nên hoạt động như một doanh nghiệp công ích thuộc sở hữu nhà nước. Về lâu dài, có thể là hình thức bán công. Qũy bảo lãnh tín dụng được tổ chức từ trung ương, có chính sách ở các vùng lãnh thổ. Thành công của Qũy bảo lãnh là sự nỗ lực từ ba phía: doanh nghiệp, 86 ngân hàng và Qũy trong mối quan hệ nương tựa vào nhau cùng phát triển. Sự lớn mạnh của Qũy có lợi cho cả ngân hàng và người đi vay. 5.Xây dựng các chương trình tín dụng không hoàn lại. Xây dựng các chương trình tín dụng không hoàn lại để giúp các DNVVN hoạt động trong những vùng và lĩnh vực đặc biệt khuyến khích như: vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, các lĩnh vực độc hại, .... Những chương trình này cần có tiêu chuẩn rõ ràng khi lựa chọn đối tượng được cấp vốn và còn có những thủ tục hành chính chặt chẽ khoa học để tránh tham nhũng, đảm bảo sự minh bạch và có hiệu quả. Điều đáng lưu tâm khi thực hiện chính sách tín dụng, Chính phủ phải đưa ra được một chương trình tín dụng có mục tiêu chiến lược rõ ràng tránh tình trạng dàn trải, kém hiệu quả làm lãng phí nguồn vốn của Nhà nước. 6. Cần tận dụng hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ DNVVN về vốn, tăng cường triển khai việc thực hiện cũng như nâng cao hiệu quả của các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế. Hiện nay có khoảng 20 trung tâm hỗ trợ DNVVN, trong đó bao gồm cả những tổ chức trong nước và nước ngoài như: trung tâm hỗ trợ DNVVN của Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI), trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) của Liên minh hợp tác xã Việt nam và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), dự án hỗ trợ DNVVN của Phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), chương trình phát triển dự án Mêkông ( MPDF),... Các trung tâm đều nhằm giải quyết những khó khăn mà các DNVVN đang phải đối mặt như: vốn, thông tin thị trường, marketing, thông tin xuất nhập khẩu và đào tạo nhân lực. Tham gia hỗ trợ trên lĩnh vực này có một số Qũy trong đó có Qũy phát triển DNVVN Việt nam (SMEDF) giữa chính phủ Việt nam và ủy ban Châu Âu. Tính đến 31/11/1999 SMEDF đã giải ngân 192,3 tỷ đồng trong tổng số khoảng 275 tỷ đồng (tương đương 25 triệu USD) cho 190 dự án trên 41 tỉnh, thành phố. Đối tượng cho vay của SMEDF là các DNVVN có vốn đăng ký trong khoảng từ 150 triệu đến 5 tỷ đồng Việt nam và sử dụng từ 10 đến 500 lao 87 động. Các dự án đã được vay vốn chủ yếu nằm ở các tỉnh phía Nam. Sự phân bố theo vị trí địa lý của các dự án thể hiện được đặc thù phân bố theo lãnh thổ của các DNVVN. Hoạt động hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn hoặc đánh giá tài chính thực sự đã tạo cho doanh nghiệp những cơ hội mới để mở rộng sản xuất hoặc đổi mới các trang thiết bị kỹ thuật. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp nhận được hỗ trợ chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số các DNVVN trên cả nước và phần lớn chỉ tập trung ở các doanh nghiệp cỡ vừa còn một số các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thì hầu như chưa được quan tâm tới. Thêm vào đó, Cần khai thác triệt để các nguồn vốn từ bên ngoài, trong đó đáng kể nhất phải nói đến các chương trình, các dự án viện trợ phát triển. Các quốc gia phát triển, các tổ chức lớn như Nhật, Đức, IMF, WB, ADB thường có các chương trình, các dự án hỗ trợ như vậy. Đó chính là một trong những câu trả lời cho nhu cầu về nguồn vốn trung và dài hạn của các DNVVN hiện nay. Điển hình là vào ngày 18/9/2002. Bốn ngân hàng của Việt nam là Ngân hàng Đầu tư và phát triển (BIDV), Ngân hàng Công thương, Ngân hàng phát triển á châu (ADB), và Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB) đã được chọn để triển khai dự án hỗ trợ các DNVVN do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật tài trợ với tổng trị giá 4 tỷ yên, dự án trước đó đã được 2 chính phủ ký vào 3/1999. Dự án hỗ trợ các DNVVN có vốn 10 tỷ VND trở xuống, chủ yếu là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Vấn đề chú ý ở đây là mô hình kết hợp cơ cấu nguồn vốn tài trợ, JBIC cho vay tối đa 65% tổng giá trị đầu tư, các NH cho vay tối thiểu 15% và vốn đối ứng của các doanh nghiệp phải tối thiểu là 15%. Trường hợp cho vay trung và dài hạn thì thời gian cho vay ở đây tối đa là 10 năm, ân hạn 2 năm, giá trị cho vay tối đa la 20 tỷ VND. Lãi suất NH thực hiện cho vay đối với các DNVVN được áp dụng mức lãi suất ưu đãi, thấp hơn mức lãi suất cho vay đối với khách hàng loại A tại từng NH. b. Tạo ra những giải pháp hỗ trợ thông tin cho DNVVN. Theo hai nghiên cứu lớn nhất gần đây về các DNVVN là Nghiên cứu “Các dịch vụ thông tin trên nền tảng Internet cho DNVVN” của Tập đoàn 88 Taylor Nelson Sofres thực hiện cho: “Dự án hỗ trợ các DNVVN” của phía Việt nam và Đức( GTZ-VCA) vào tháng 9/2001 và Nghiên cứu“ Dịch vụ phát triển kinh doanh cho DNVVN tại Việt nam” của Tập đoàn Invest Consult thực hiện cho dự án nói trên và chương trình hỗ trợ các DNVVN của Việt nam vào Thụy Sỹ- Swiss Contact vào 9/2001 đến 5/2002 thì hiện nay các DNVVN đang rất thiếu thông tin về thị trường, công nghệ, luật pháp, kinh tế, khách hàng, đối tác kinh doanh....Một con số đưa ra minh hoạ là trong tổng số doanh nghiệp sử dụng Internet tại Việt nam thì các doanh nghiệp lớn( bao gồm cả trong nước và liên doanh) chiếm tới 43% và các DNVVN chỉ chiếm có 6% trong khi xét về khối lượng thì các DNVVN lại chiếm tới 93% tổng số doanh nghiệp. Điều này lý giải cho việc yếu kém trong tiếp cận thông tin của các DNVVN, từ đó mà dẫn tới rất nhiều cơ hội kinh doanh bị bỏ lỡ. Do đó, cần thiết phải hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp qua một số giải pháp như: Thứ nhất, phổ biến những thông tin về phát luật, chính sách... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Thứ hai, tổ chức các câu lạc bộ để các DNVVN có thể trao đổi, học tập kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của nhau. Thứ ba, khuyến khích các DNVVN đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu và sử dụng các phương tiện quản lý thông tin đại chúng như máy vi tính, mạng thông tin... để các doanh nghiệp có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở dữ liệu hiện đại trong và ngoài nước. Nhưng vấn đề quan trọng nhất ở đây là thành lập được một trung tâm thông tin, một ngân hàng dữ liệu về các DNVVN đã đăng ký được kiểm soát bằng máy tính điện tử về thị trường, công nghệ, thể chế... sau đó hình thành một cơ chế cung cấp hoặc bán các thông tin này một cách dễ dàng và nhanh chóng cho các doanh nghiệp và công chúng với giá hợp lý. Thực tế, ở hầu hết các nước, mục đích quan trọng của việc đăng ký các công ty và doanh nghiệp là nhằm thu thập các thông tin cơ bản về mỗi doanh nghiệp qua đó bất cứ công chúng nào cũng có thể thu thập được bằng cách tìm tại cơ quan đăng ký kinh doanh dưới dạng văn bản hoặc dữ liệu máy tính. Điều này tạo điều kiện cho phép bất cứ thành viên nào của công chúng, các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp khác có được các thông tin cơ bản về vất ký 89 doanh nghiệp nào trên thị trường về tên, địa chỉ, hoạt động kinh doanh, hình thức pháp lý, tên thương mại, các nhãn hiệu thương mại đã đăng ký, tên của các thành viên, đại lý có thẩm quyền ký thay doanh nghiệp, vốn được phép phát hành ... Việc cung cấp công khai các thông tin đó làm tăng tính minh bạch của doanh nghiệp và ngăn ngừa tình trạng lừa đảo. Đây cũng là một biện pháp tốt ngăn chặn việc xuất trình các tài liệu giả dối vì người có liên quan như cổ đông, khác hàng, nhà cung cấp, chủ nợ, cơ quan quản lí có thể nhận ra bằng cách xem xét hồ sơ kinh doanh đồng thời giảm các cơ hội phát sinh sự nhầm lẫn vô tình cũng như sự lừa dối cố ý trên thị trường. Hiện nay, tất cả các bản sao đăng ký kinh doanh đã được tập trung tại MPI sau đó sẽ được tập trung dữ liệu vào máy tính và sau đó sẽ được cung cấp ra tất cả các doanh nghiệp và công chúng với chi phí phải chăng. Đến nay, những bước tiến đáng kể nhất trong việc hỗ trợ thông tin cho DNVVN có thể kể đến nỗ lực của VCCI và Đức trong việc tạo ra trang Web để tạo đầu mối cung cấp thông tin hỗ trợ DNVVN, tại trang Web này các DNVVN có thể tiếp cận đến gần như tất cả các thông tin cần thiết cho hoạt động kinh doanh của mình, từ lúc khởi sự đến phát triển, với hàng loạt các thông tin về luật pháp, thị trường cụ thể từng loại sản phẩm, thông tin đối tác, số liệu kinh tế, bài học, lời khuyên và hàng loạt các liên kết hữu ích khác. Kế đó là chương trình “ Internet doanh nghiệp” của FPT nhằm tạo cơ hội cho DNVVN từng bước tiếp cận thương mại điện tử, đây cũng thực sự là một hướng đi hay khi các DNVVN chỉ cần 500.000VND là có thể giới thiệu doanh nghiệp mình tại trang web với 20MB dung lượng và không chế dung lượng e-mail. Điều này giúp cho DNVVN có thể tiết kiệm chi phí hơn cho các chương trình quảng bá vì FPT sẽ quản bá hộ DNVVN trên website của mình, đồng thời đưa thông tin về DNVVN vào lưu trữ tại Cục xúc tiến doanh nghiệp thuộc BTM, dần dần tiếp cận với thương mại điện tử. Và cuối cùng không thể không nhắc tới “Hệ thống thương mại điện tử B2VN.COM” do FPT tiến hành từ 3/2001 với ý tưởng giúp đỡ các doanh nghiệp tự xây 90 dựng một website cho mình. Hiện tại chỉ có khoảng 4% các doanh nghiệp có website của riêng mình và chủ yếu là các doanh nghiệp lớn. Một phần là do hiểu biết hạn chế về Internet và Thương mại điện tử mà phần lớn là do “tính ỳ” của các doanh nghiệp trong việc tạo trang web để quảng bá doanh nghiệp mình, hầu hết các doanh nghiệp có tâm lý luôn muốn cho doanh nghiệp mình phát triển lên đã, sau đó thì mới tiến hành xây dựng một website trong khi việc xây dựng một website, với sự hướng dẫn của các chuyên viên FPT, chỉ mất có một ngày và chi phí duy trì hoàn toàn không đáng kể là 50 USD/ 1 năm theo như chi phí của B2VN.com và các doanh nghiệp có thể liên tục cập nhật những thông tin lên website của mình.Thông tin thêm c.Hoàn thiện các chính sách tạo lập, hỗ trợ và mở rộng thị trường nhằm xây dựng chiến lược đầu ra trong nước hợp lý, đẩy nhanh khả năng tiếp cận thị trường quốc tế của các DNVVN. Trong số các khó khăn được hỏi đối với các DNVVN thì khó khăn lớn nhất là tìm thị trường cho sản phẩm của các doanh nghiệp này. Để tháo gỡ khó khăn về thị trường cho các DNVVN, cần thực hiện các giải pháp: - Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại đối với các doanh nghiệp nói chung, đối với các DNVVN nói riêng. Đây là một hoạt động thiết thực, ý nghĩa nhất trong tình hình thương mại Việt nam hiện nay, nhờ đó các DNVVN có thể có được cơ hội thu thập thông tin các loại cần thiết cho mình về thị trường, giá cả, cung cầu, mẫu mã, chất lượng, chủng loại sản phẩm hàng hóa, cả trong lẫn ngoài nước. Xúc tiến thương mại là một điều kiện quan trọng vừa tạo cho sự hình thành, vừa tạo điều kiện thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN một cách thiết thực, hiệu quả. Xúc tiến thương mại được thực hiện bằng nhiều phương thức, quy mô khác nhau. Cụ thể như sau: + Giới thiệu sản phẩm hàng hóa của DNVVN thông qua triển lãm trong và ngoài nước, nhất là các thị trường còn tiềm ẩn, chưa có cơ hội làm ăn. 91 + Hỗ trợ, tư vấn giúp các hội, hiệp hội DNVVN thuộc các ngành nghề tiếp cận thị trường nước ngoài, tiếp cận các doanh nhân các nước khác nhau. Nhờ đó mở rộng thị trường thu nhận kiến thức kinh doanh tiên tiến. + Hỗ trợ qua các hội thảo, các thông tin chuyên đề liên quan đến các hoạt động thương mại của DNVVN từ đầu tư, chiến lược phát triển đến các kỹ năng quản lý thương mại trong và ngoài nước. + Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, xuất nhập khẩu cho các tổ chức của DNVVN hoặc bản thân các doanh nghiệp. Điều kiện thực hiện chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN là một lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cơ quan hữu quan khác nhau. Do đó hình thành và thực thi chính sách thương mại nói chung, chính sách thương mại hỗ trợ DNVVN nói riêng không phải của riêng một bộ ngành nào được mà điều đó đòi hỏi sự hợp lực của nhiều phía. - Thúc đẩy phát triển thầu phụ công nghiệp, việc phát triển quan hệ gia công hợp tác với các doanh nghiệp lớn trong đó DNVVN làm nhiệm vụ gia công, "làm vệ tinh" cho các doanh nghiệp lớn, có thể mang thương hiệu của doanh nghiệp lớn là thầu phụ. Thầu phụ công nghiệp là chìa khoá của các DNVVN công nghiệp vì nó khắc phục được hạn chế lớn nhất của các DNVVN là thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xúc tiến phát triển thầu phụ công nghiệp đang là nhu cầu cấp bách không những đối với các DNVVN mà còn đối với cả các doanh nghiệp lớn. Thầu phụ công nghiệp là một hình thức hợp tác rất phổ biến ở các nước công nghiệp phát triển. ở nhiều nền kinh tế phát triển, "Hệ thống Vệ tinh - Trung tâm" được thiết lập với nhiều mô hình khác nhau để phát triển thầu phụ công nghiệp, đăc biệt trong ngành may mặc, điện tử, giao thông, công nghiệp cơ khí,... Với cách làm này sẽ tạo được thị trường ổn định, rộng lớn cho DNVVN và thông qua đó doanh nghiệp lớn cũng phát huy được tác dụng, hỗ trợ, giúp đỡ cho các DNVVN Chiến lược phát triển công nghiệp của chúng ta đang hướng mạnh vào sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Do đó phát triển thầu phụ công nghiệp là một biện pháp hữu hiệu để thực hiện thành công chiến lược này. 92 Để hỗ trợ việc phát triển thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN , Nhà nước cần tập chung giải quyết các công việc sau: -Hỗ trợ thành lập "Phòng xúc tiến thầu phụ công nghiệp cho các DNVVN", xây dựng chương trình phát triển thầu phụ gắn với chương trình nội địa hoá sản phẩm, có thể giao cho Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tiến hành công việc này. - Xây dựng qui chế cho phép thuê hoặc mua máy móc thiết bị cũ một cách thuận lợi và rộng rãi phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN. - Thành lập "Quỹ hỗ trợ phát triển thầu phụ công nghiệp" nhằm giúp đỡ các DNVVN có khả năng tài chính để thắng thầu. - Khuyến khích các doanh nghiệp lớn có chính sách phát triển thầu phụ công nghiêp. Ngoài ra, Chính phủ cần có các biện pháp trợ giúp các DNVVN khác như hỗ trợ cải tiến công nghệ sản xuất; hỗ trợ máy móc thiết để kiểm soát ô nhiễm, kiểm tra chất lượng sản phẩm, hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN và giúp các doanh nghiệp này xích lại gần nhau để hợp tác cùng phát triển.. 3. Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ. 1. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển nhân lực: a.Hoàn thiện một hệ thống dạy nghề hợp lý phù hợp với điều kiện nước ta. Hệ thống dạy nghề cần được tổ chức phân cấp, theo cơ cấu ngành gắn với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội theo vùng lãnh thổ và phát huy tính xã hội hóa trong công tác đào tạo dạy nghề. Cơ quan trung ương quản lý chung về công tác dạy nghề chịu trách nhiệm phối hợp với các ngành, các địa phương nghiên cứu hoạch định qui hoạch, kế hoạch trình chính phủ về công tác dạy nghề cho các giai đoạn và những bước tiếp theo. Nội dung không chỉ hoạch định về quy mô, chất lượng, ngành nghề đào tạo mà cần chỉ rõ phương án bố trí hệ thống các trường nghề: Trung ương (do Tổng cục dạy nghề trực tiếp quản lý) gồm các 93 trường nào, cấp đào tạo nào? còn các ngành sản xuất, các địa phương nắm những trường nào?. Không nhất thiết mỗi tỉnh đều có các trường dạy nghề giống nhau, mà có thể bố trí theo vùng, trên cơ sở liên doanh, liên kết, hợp tác. Chỉ khi có quy hoạch, kế hoạch dạy nghề đúng đắn, hợp lý thì các biện pháp đầu tư nguồn lực, tăng cường quản lý mới khả thi và hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần có chính sách tăng cường đầu tư cho công tác dạy nghề. Ngoài vốn ngân sách dành cho công tác dạy nghề, cần phải huy động vốn từ các nguồn vốn khác như: - Huy động đóng góp của người học, của người sử dụng lao động. - Lồng ghép công tác dạy nghề với các chương trình kinh tế- xã hội khác như chương trình quốc gia giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. - Sử dụng nguồn vốn vay, hoặc tài trợ của các tổ chức quốc tế cho công tác dạy nghề. Hơn nữa cần đa dạng hoá các khoá học ở các trường đại học. Cần xây dựng các khoa quản trị doanh nghiệp của các trường đại học kinh tế chính quy của nhà nước, có chương trình chuẩn bị và đào tạo theo nhiều phương thức học không thường xuyên, buổi tối... cho nhiều loại trình độ, đào tạo dài hạn đi đôi với bồi dưỡng ngắn hạn theo yêu cầu của từng loại đối tượng. Việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ DNVVN phải đáp ứng yêu cầu trình độ kỹ thuật quản lý sản xuất -kinh doanh hiện đại, gắn với thực tiễn của điều kiện Việt nam. Hệ thống các khoa này tại các trường của Nhà nước phải thật sự làm nòng cốt về chương trình trong việc đào tạo, cung cấp cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp trong nước. b.Khuyến khích phát triển hoạt động hỗ trợ nhân lực các trung tâm hỗ trợ DNVVN. Nhu cầu hỗ trợ về nhân lực của các DNVVN rất lớn mà khả năng cũng như tiềm lực của nhà nước thì có hạn. Do đó, để đáp ứng các nhu cầu chính đáng của các doanh nghiệp này, cần thiết phải huy động lực lượng hỗ trợ của toàn xã hội. Do đó, cần khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ các DNVVN về nhân lực. 94 Hiện nay công tác hỗ trợ DNVVN về nhân lực cũng nhận được sự quan tâm đáng kể. Các cuộc hội thảo bàn về vai trò cũng như các biện pháp hỗ trợ nhân lực DNVVN được Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI) cùng các đơn vị tài trợ liên tục tổ chức. Ngày càng có nhiều tổ chức hỗ trợ và kết quả cho thấy số lượng DNVVN nhận được sự hỗ trợ từ phía các trung tâm lớn hơn rất nhiều so với những năm trước. Hỗ trợ doanh nghiệp thông qua các khóa đào tạo là hoạt động mà đa số các trung tâm hỗ trợ tham gia. Có lẽ đây là hình thức hỗ trợ mà các trung tâm dễ tiếp cận thực hiện nhất đồng thời cũng phù hợp với nhu cầu về tăng cường kiến thức kinh doanh và khả năng quản lý của các doanh nghiệp. Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) ( Số 7 Nguyễn Thái Học) là một trong những trung tâm có nhiều hình thức hoạt động thiết thực. Trung tâm hình thành trong khuôn khổ dự án hợp tác giữa liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ). Trung tâm đã tổ chức được hàng chục lớp học, trong đó bao gồm cả một số lớp học đào tạo giảng viên và các hội thảo sau mỗi khóa học. Hiện nay, BPSC đã mở rộng mục tiêu đào tạo sang các hộ gia đình. Đây là một hướng đi mới cần được nhân rộng vì theo như ước tính thì nước ta có khoảng 1.880.000 hộ kinh doanh gia đình, nếu như loại doanh nghiệp này phát triển tốt sẽ thu hút được một khối lượng lớn lao động, đặc biệt là lao động nhàn rỗi ở nông thôn. Ngoài ra không thể không kể đến hoạt động hỗ trợ đào tạo của Trung tâm xúc tiến DNVVN tại VCCI là SME PC/VCCI ( Phòng 504/ VCCI Số 9 Đào Duy Anh/ ĐT: 04.5.742.163). 2 Trung tâm này luôn có những chương trình, dự án đào tạo nhân lực cho các DNVVN. SME PC còn hợp tác với ILO nhằm thiết kế những khoá học cho các DNVVN, trong đó nòng cốt là hai dạng khoá học về khởi sự doanh nghiệp và khoá học về phát triển doanh nghiệp. Tiếp đó là những kết quả rất đáng khích lệ của Trung tâm hỗ trợ phát triển DNVVN( SMEDEC) trong Tổng cục tiêu chuẩn-đo lường chất lượng (Số 8 Hoàng Quốc Việt/ Tầng 3 nhà H, ĐT: 04.7.642.244) qua những lớp đào tạo ngắn hạn về các vấn đề nhân lực trong DNVVN như “Kỹ năng thuyết trình và điều hành hội thảo”, “mối quan hệ giao tế kinh doanh”, 95 Trung tâm cũng tiến hành biên soạn một số lượng đáng kể các giáo trình phục vụ cho hoạt động đào tạo mới và đào tạo lại nhân lực trong các DNVVN trong đó có cập nhật những thông tin liên quan tới các hội nghị, hội thảo, chính sách, khảo sát, nghiên cứu mới nhất. Để DNVVN có những bước tiến hơn nữa thì bên cạnh sự hỗ trợ về các chính sách đào tạo nhân lực của chính phủ, các trung tâm cũng cần có những hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là trong việc hình thành một mạng lưới liên kết hợp tác cùng hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và Nhà nước cần khuyến khích những trung tâm hỗ trợ này phát triển ở mức cao hơn. c.Tăng cường công tác tư vấn, hỗ trợ các DNVVN trực tiếp đào tạo và sử dụng lao động Công tác tư vấn đã góp phần rất hiệu quả trong việc cung cấp tri thức đúng địa chỉ và từ đó giúp hình thành đội ngũ các nhàn quản lí DNVVN tài năng. Hình thức cung cấp tri thức dưới dạng tư vấn rất có hiệu quả bởi nó đáp ứng được nhu cầu của giới quản lí DNVVN Việt nam hiện nay là rất thiếu tri thức nhưng không có điều kiện và thời gian để học một cách có hệ thống. Hơn nữa, sự thiếu hụt tri thức của cán bộ Việt nam hiện nay là rất khác nhau. Do vậy họ có nhu cầu chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc nhưng lại theo những mức độ vấn đề khác nhau. Các lớp học lý thuyết tập trung ít hiệu quả do chương trình giảng dạy bị rút ngắn cho phù hợp với yêu cầu chung đến mức trở lại các nguyên lý cơ bản, rất khó vận dụng trong nền kinh tế thị trường sơ khai nhưng đầy biến động của nước ta. Mặt khác, bằng hình thức tư vấn thì các trung tâm tư vấn có thể kết hợp mạng lưới các cộng tác viên thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, đặc biệt là các cá nhân và các chuyên gia kinh doanh thành đạt để tư vấn trực tiếp cho người yêu cầu. Hình thức tổ chức theo kiểu tư vấn cũng gọn nhẹ, giảm chi phí đến mức DNVVN có thể trang trải được. Nội dung tư vấn : có thể mở rộng ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong tình hình hiện nay, lĩnh vực cần nhất có lẽ là tư vấn hệ thống luật pháp, chính sách của nhà nước vốn đang trong quá trình chuyển đổi, chưa ổn định, chưa hoàn thiện, các văn bản bổ sung hoặc thay thế nhau liên tục. Nhiều 96 DNVVN không nắm bắt hết các chính sách và đôi khi bỏ qua cả sự hỗ trợ đáng được hưởng. Sau đó, lĩnh vực là công nghệ và tính hiệu quả của dự án đầu tư bởi các nhà đầu tư vấn còn thiếu các phương án làm ăn có hiệu quả trong khi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân còn khá nhiều. Hình thức tư vấn: hình thức tư vẫn đa dạng, Có thể là các trung tâm tư vấn DNVVN như đang tồn tại hiện nay. Cũng có thể chỉ là các văn phòng tư vấn do các hiệp hội ngành nghề ở địa phương tổ chức ra có thu một phần phí. Hoặc đó có thể là các nhóm tư vấn do các trung tâm khoa học phối hợp với các tổ chức ngành nghề thực hiện...Tuy vậy lại có một nghịch lý là trong một số trường hợp thì các trung tâm tư vấn lại phải chủ động tìm đến hỗ trợ các doanh nghiệp vì hiện nay đa phần các chủ DNVVN còn chưa chú trọng phương hướng làm ăn lâu dài cũng như chưa ổn định trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh còn chạy theo việc đối phó với những biến động thị trường nhỏ lẻ hàng ngày nên họ chưa thực sự tìm tới các dịch vụ tư vấn. Cần phải có luật định cho các tổ chức tư vấn. Về tình hình hiện tại, các tổ chức tư vấn phi chính phủ đang hình thành và hoạt động trên các lĩnh vực tư vấn về: thị trường, đầu tư, lập phương án sản xuất kinh doanh, thông tin giá cả, văn bản pháp luật... Chính từ phát triển theo nhu cầu của thị trường mà hầu hết các hoạt động của nó đều đáp ứng rất sát, rất thực tiễn những nhu cầu của doanh nghiệp. nhưng cũng từ sự phát triển tự phát đó mà các dịch vụ tư vấn chui, không đủ chất lượng cũng ra đời. Xuất phát từ đó, việc ban hành một hành lang pháp lý điều chỉnh hoạt động tư vấn hỗ trợ là rất cần thiết. Theo ý kiến của một số luật gia thì đầu tiên để luật định hóa hoạt động của các tổ chức tư vấn là phải có một trường lớp đào tạo chính quy để xác định khái niệm cơ bản thống nhất cho những người làm tư vấn. Đối với dịch vụ tư vấn và pháp luật, các công ty tư vấn là chiếc cầu lớn giữa nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước chỉ nên là cơ quan hỗ trợ cho các công ty tư vấn chứ không nên làm thay các công ty tư vấn. Nhà nước có thể cung cấp thông tin miễn phí có giá trị định hướng cho nhà tư vấn, nhà doanh nghiệp. Cũng có thể bán thông tin cho các dịch vụ tư vấn này, nhưng cơ bản là phải công 97 minh, rõ ràng, bình đẳng. Ngoài ra, cần phải có bảo hiểm nghề nghiệp cho các công ty tư vấn. 2. Giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh qua phát triển công nghệ a.Tạo áp lực phải đổi mới công nghệ Nhà nước cần tạo ra áp lực với mức độ cần thiết để buộc các doanh nghiệp sớm thay đổi công nghệ để tạo thế chủ động trong quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với hàng hóa của khối ASEAN và các nước khác vì tiến trình hội nhập WTO cũng sắp đến gần. Công cụ tạo áp lực trực tiếp là những văn bản quy định của Nhà nước: - Quy định về thời gian, thời hạn đình chỉ hoạt động đối với DNVVN sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ bao gồm: công nghệ các ngành thuộc nhóm sản phẩm cạnh tranh với sản phẩm khối ASEAN và công nghệ tạo mức độ lớn về môi trường, môi sinh. - Quy chế hỗ trợ tài chính cho DNVVN thực hiện thay đổi công nghệ theo danh mục ưu tiên. - Quy chế đào tạo cán bộ,công nhân kỹ thuật cho các ngành nghề mới. b.Tạo ra môi trường cho đổi mới công nghệ Cần mở rộng thị trường công nghệ bằng việc Nhà nước khuyến khích các hoạt động giao lưu thương mại về công nghệ, các trung tâm thông tin, tư vấn công nghệ, gắn các cơ sở nghiên cứu với các cơ sở sản xuất. Về lâu dài, Nhà nước cần có chiến lược công nghệ, ban hành các định chế liên quan đến công nghệ, sở hữu công nghệ, sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các DNVVN tìm hiểu thị trường công nghệ mới, tổ chức triển lãm thường xuyên tại các trung tâm hỗ trợ công nghiệp để giới thiệu với khách hàng về sản phẩm mới. Cần tổ chức lồng ghép vào các chương trình dự án trong đó có đổi mới công nghệ và tổ chức hệ thống tư vấn hỗ trợ công nghệ. Nhiệm vụ của các tổ chức tư vấn là giúp các DNVVN xác định nhu cầu, nội dung thay đổi công nghệ, cung cấp thông tin, tìm nguồn, hướng dẫn lựa chọn công nghệ mới. Nhà nước cần có chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành thị trường công nghệ để tăng khả năng tiếp cận thông tin và kỹ 98 thuật công nghệ cho DNVVN. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với việc thay đổi công nghệ trong điều kiện hiện nay được coi như giải pháp hỗ trợ tích cực với nội dung: - Hình thành thị trường thiết bị và công nghệ trên cơ sở khuyến khích hoạt động các đơn vị kinh doanh thiết bị công nghệ và hình thành khu vực thương mại công nghiệp tập trung như các khu vực điện, điện tử, vật liệu, xây dựng... - Hình thành thị trường dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ. - Hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ trực thuộc các Sở khoa học- công nghệ- môi trường có chức năng kiểm định, đánh giá trình độ thiết bị công nghệ theo nhu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu xác định giá trị thiết bị, công nghệ của các DNVVN. - Tăng cường hoạt động thông tin công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng, hoạt động đào tạo và đào tạo lại lao động kỹ thuật theo yêu cầu của quá trình đổi mới công nghệ của DNVVN. Nhà nước cần chú ý hình thành khu vực hàng hóa miễn thuế đối với máy móc thiết bị công nghệ. Việc hình thành khu vực sản xuất hàng hóa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế trên cơ sở thiết lập danh mục sản phẩm mới, sản phẩm công nghệ tiêu chuẩn được hưởng chế độ ưu đãi có kỳ hạn về thuế. Các khu vực ưu đãi này sẽ là trọng tâm để tập trung hướng đầu tư và thu hút vốn đầu tư của DNVVN vào lĩnh vực sản xuất sản xuất sản phẩm với công nghệ cao, công nghệ sạch trong thời gian ngắn. - Cho phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị với một khoản khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Kinh nghiệm của một số nền kinh tế phát triển cho thấy đây là một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công được sử dụng để khuyến khích các DNVVN đầu tư thiết bị và máy móc. Nhằm khuyến khích DNVVN đầu tư máy móc thiết bị mới, nên áp dụng phép tính khấu hao nhanh cho máy móc thiết bị mới, theo phương pháp khấu hao bình thường thì bút toán khấu hao một năm sẽ bằng tổng giá trị/tuổi thọ tính theo năm. Nhưng nếu theo phương pháp khấu hao nhanh thì doanh nghiệp có thể bút toán và khấu hao nhiều hơn giá trị đó, thậm chí là 99 gấp đôi. Lúc đó giảm số lợi tức tính thuế của môi năm và làm giảm số thuế phải nộp = % lợi tức tính thuế. Đây được xem là 1 trong những biện pháp ưu đãi thuế quan thành công nhất để khuyến khích các DNVVN đầu tư đổi mới trang thiết bị. -Cần có các văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thuê mua tài chính, bán trả góp để các DNVVN thiếu vốn có thể nâng cấp máy móc thiết bị tốt hơn. Một lần nữa, vấn đề cho thuê tài chính lại phát huy hiệu quả của nó, lần này là giúp cho các DNVVN đổi mới công nghệ. Cho thuê tài chính cho phép các DNVVN tiếp cận được công nghệ hiện đại chỉ với một hợp đồng cho thuê tài chính thay vì phải bỏ ra một khoản tài chính khổng lồ. Sau khi ký hợp đồng, cả bên đi thuê( các DNVVN ) và bên cho thuê( các công ty có máy móc công nghệ) cùng nhau tiến hành những thủ tục cần thiết, DNVVN sẽ lựa chọn cho mình những công nghệ hợp lý nhất và tiến hành thuê theo từng kỳ. Trong giai đoạn này DNVVN sẽ nhận được những lời khuyên về việc áp dụng công nghệ nào là phù hợp từ các công ty cho thuê có nhiều kinh nghiệm lựa chọn thiết bị, đánh giá tình hình. Như vậy DNVVN vẫn có cơ hội áp dụng những công nghệ hiện đại vào sản xuất kinh doanh trong điều kiện ep hẹp về vốn. Cho thuê tài chính giúp cho các DNVVN tránh được tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Nếu như các DNVVN bỏ ra một khoản tài chính không nhỏ đầu tư vào công nghệ thì khi có những biến động nào đó thì họ sẽ không còn khả năng nhanh chóng, linh hoạt được nữa bởi họ đã bị ràng buộc bởi những trang thiết bị công nghệ của mình, điều này đặc biệt hay xảy ra trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay, công nghệ rất nhanh chóng bị lão hoá, vòng đời công nghệ ngày càng bị rút ngắn, một công nghệ được coi là hiện đại trong giai đoạn này thì chỉ trong một thời gian ngắn sau lại có công nghệ hiện đại hơn thay thế. Nếu các doanh nghiệp dùng một khoản tài chính lớn đầu tư vào công nghệ và với tình hình quản lí của các DNVVN hiện nay thì họ sẽ có nguy cơ nhanh chóng bị lạc hậu về công nghệ, kết quả là sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, không còn 100 khả năng chiếm lĩnh thị trường. Trong khi đó máy móc thiết bị vẫn chưa khấu hao hết và họ rơi vào tình trạng “mắc kẹt” trong công nghệ. Nếu áp dụng hình thức cho thuê tài chính thì thay vì bỏ ra một khoản tài chính lớn để đầu tư mua sắm trang thiết bị thì DNVVN tiến hành đi thuê và như vậy thì mức độ ràng buộc của DNVVN vào những công nghệ đó đã giảm đi rất nhiều vì doanh nghiệp chỉ sử dụng tài sản đó trong một thời hạn nhất định, khi kết thúc thời hạn thuê, nếu thấy công nghệ vẫn còn phát huy hiệu quả thì DNVVN sẽ tiến hành thuê tiếp hoặc mua lại( như trong khái niệm về cho thuê tài chính) và nếu ngược lại thì không thuê nữa. Khi doanh nghiệp muốn thay đổi lĩnh vực kinh doanh, thay đổi sản phẩm( chẳng hạn như do tác động của môi trường chính sách, nhu cầu thị trường chuyển hướng…) thì sẽ không phải e ngại vì máy móc thiết bị chưa khấu hao hết khiến vốn của doanh nghiệp còn đọng trong đó. Trong tình thế như vậy, doanh nghiệp chỉ cần tiến hành các thủ tục nhằm sớm chấm dứt hợp đồng khi hợp đồng hết hiệu lực và lại bắt đầu một quá trình khác, một chiến lược trong một lĩnh vực kinh doanh mới, một hợp đồng cho thuê tài chính khác với máy móc thiết bị hiện đại hơn, phù hợp hơn với hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN và đem lại nhiều lợi nhuận hơn. Kinh nghiệm của một số nước trong vấn đề này là họ mở cửa thị trường cho máy móc thiết bị cũ nhằm thu hút kỹ thuật từ nước ngoài, nhưng họ chỉ chấp nhận miễn thuế cho những thiết bị phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế được xác định cho từng thời kỳ. Vì vậy, chúng ta cần ngiêm túc xem xét việc nới lỏng các quy định nghiêm ngặt hiện hành có liên quan đến việc hạn chế nhập khẩu máy móc thiết bị cũ để cho phép nhập khẩu thiết bị cũ, nhưng còn sử dụng tốt phù hợp với khả năng tài chính của các DNVVN . Điều đó cho phép các doanh nghiệp này nâng cao năng lực sản xuất của mình một cách tiết kiệm hơn mà vẫn không biến đất nước thành một "bãi rác công nghệ". Điều này thực sự có ý nghĩa với các DNVVN vì khả năng hạn chế về vốn của họ. -Nhà nước cần đẩy mạnh việc hỗ trợ về công nghệ cho các DNVVN như thông tin về thị trường công nghệ, các thông tin trợ giúp về mặt kỹ 101 thuật, đào tạo...để các DNVVN chọn lựa được công nghệ thích hợp. Ngoài ra, cần giảm bớt các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và phí truy nhập Internet để khuyến khích các doanh nghiệp chủ động tìm hiểu thông tin về công nghệ trên thế giới( hiện nay cước điện thoại và cước dịch vụ Internet ở Việt nam là một trong những nơi cao nhất thế giới). Tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài vào Việt nam bằng cách đơn giản hoá các thủ tục và giảm chi phí đối với visa nhập cảnh đối với những cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài, giảm thuế thu nhập cá nhân đối với các chuyên gia. Đây chính là những phương tiện hiệu quả trong chuyển giao công nghệ, bí quyết sản xuất thông qua đào tạo và làm mẫu cho các nhà quản lí, cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt nam. c. Nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ Hiện nay, ở nước ta phần lớn các DNVVN bị hạn chế khả năng lập dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Do đó mặc dù đã tiến hành đầu tư nhưng giá thành, chất lượng sản phẩm chưa được cải thiện, hoặc đầu tư quá lớn không sử dụng hết công suất, vượt quá khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Để năng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, cần phải tiến hành một số vấn đề sau đây: Một là, phải làm tốt khâu nghiên cứu thị trường, từ đó xác định nhu cầu đổi mới công nghệ. Phân tích các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm năng để biết đựoc điểm mạnh của đối thủ cạnh tranh, dự đoán phát triển công nghệ mới đi đôi với các sản phẩm thay thế tiềm ẩn. Hai là, phân tích thực trạng công nghệ của doanh nghiệp. Việc đánh giá năng lực công nghệ cần xem xét trên các yếu tố hợp thành: kỹ thuật công nghệ, kỹ thuật kinh nghiệm, tính sáng tạo, các dữ kiện, thiết kế, chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật, tổ chức quản lý công nghệ. Ba là, xác định rõ mục tiêu cụ thể của dự án đầu tư đổi mới công nghệ để có giải pháp phù hợp. Bốn là, nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một trong những khâu yếu trên con đường đổi mới 102 công nghệ của DNVVN. Để nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ, một mặt cần hoàn thiện môi trường pháp lý buộc các chủ đầu tư phải chấp hành nghiêm chỉnh việc xây dựng và lập dự án, mặt khác cần nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư đổi mới công nghệ, đặc biệt là thẩm định về mặt kỹ thuật của dự án, thẩm định về mặt tư cách pháp nhân và tài chính của chủ dự án, hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án.... d.Thay đổi phương thức hỗ trợ vốn phát triển công nghệ Trước đây, các DNVVN thường chỉ sử dụng phương thức vay tín dụng với các điều kiện thế chấp, tín chấp . Phương thức vay này vừa hạn chế khả năng huy động vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN lại vừa tạo ra kẽ hở. Do đó, phải đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ để giải quyết ách tắc trong khâu chuyển giao vốn đầu tư tín dụng nhà nước tới DNVVN. Các phương thức này bao gồm: - Hình thành Qũy nghiên cứu triển khai, chuyển giao thiết bị công nghệ trên cơ sở sử dụng một bộ phận chi ngân sách cho nghiên cứu khoa học- công nghệ doanh nghiệp (trong điều kiện cho phép, cần thành lập ngân hàng tín dụng nghiên cứu khoa học công nghệ). Nguồn vốn từ Qũy này sẽ hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, tổ chức nghiên cứu khoa học- công nghệ cho DNVVN. - ứng dụng, phát triển mô hình Nhà nước tổ chức hoạt động thu, đổi thiết bị công nghệ cũ, bán trả góp thiết bị công nghệ mới cho DNVVN. Theo phương thức này, hệ thống ngân hàng thương mại sẽ tài trợ vốn trả góp cho các đơn vị thương mại thiết bị công nghệ và các đơn vị thương mại giao dịch trực tiếp với các DNVVN với hai nội dung: thu mua thiết bị cũ và bán trả góp thiết bị mới. Đổi mới công nghệ trong các DNVVN là vấn đề cấp bách nhưng vô cùng khó khăn. Trên đây là một số giải pháp góp phần vào việc đẩy nhanh quá trình đổi mới công nghệ. Tuy nhiên, điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tự nhận thức được rằng đổi mới công nghệ là việc làm tất yếu theo xu hướng phát triển của thời đại mới. Thêm vào đó, các tổ chức tư vấn, các cơ quan hỗ trợ, các hiệp hội nghề nghiệp phải thực sự là những người 103 bạn gần gũi đối với DNVVN, nhất là giai đoạn khởi sự vì áp lực của cuộc cạnh tranh buộc các DNVVN phải vươn lên nhưng nếu thiếu định hướng chỉ dẫn sẽ không tránh khỏi lúng túng, tự phát, kém hiệu quả. 104 Kết luận Đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam” được nghiên cứu xuất phát từ thực tế, vai trò và ý nghĩa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế Việt nam hiện nay. Khoá luận đã nghiên cứu và làm rõ các vấn đề sau: 1. Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản về DNVVN như khái niệm, đặc điểm, ưu thế, bất lợi, vai trò, ý nghĩa của các DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như sự cần thiết phải có chiến lược phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn hiện nay. 2. Nghiên cứu thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các mặt như cơ cấu, phân bổ theo địa lý và ngành nghề, đóng góp cho phát triển kinh tế qua GDP, công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, về môi trường pháp lý, vốn, công nghệ, thông tin, nhân lực và cả các tác động tích cực và những tồn tại của quá trình từng bước đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua đó nêu ra các hạn chế, tồn tại của các DNVVN hiện nay về tình trạng thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, sản phẩm chưa chất lượng, đội ngũ nhân lực chưa tốt, khó tiếp cận thông tin và thị trường. Tất cả tạo nên năng lực cạnh tranh yếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay. 3. Đề xuất một số biện pháp nhằm giải quyết những khó khăn, tồn tại đã chỉ ra đó là nhóm giải pháp về hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách vĩ mô của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát triển, nhóm giải pháp nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường và nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về nhân lực và công nghệ. ở nước ta, DNVVN có diện rộng, phổ cập, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế- xã hội. Như một tác động tích cực của quá trình đổi mới nền kinh tế ở Việt nam, các DNVVN đã phát triển nhanh chóng đồng thời có những đóng góp quan trọng bảo đảm sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền 105 kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác và tận dụng có hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư; góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân đối chung và vi mô nền kinh tế; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống. Mặc dù vậy, sự phát triển của các DNVVN trong những năm qua có nhiều hạn chế, khó khăn, điều đó đòi hỏi cần có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển hơn nữa. Vì thế, thông qua bài khóa luận này, qua tình hình phát triển DNVVN ở Việt nam để thấy rõ được những điểm còn hạn chế, khó khăn; đồng thời nêu ra tác động của những chính sách đổi mới gần đây đến các DNVVN, qua đó đưa ra những giải pháp cả trước mắt và lâu dài để tạo điều kiện và hỗ trợ, khuyến khích các DNVVN ở Việt nam phát triển hơn nữa. Bước sang thế kỷ 21, kỷ nguyên của sự hội nhập và hợp tác phát triển giữa các nước trên thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của DNVVN Việt nam sẽ góp phần vào nền kinh tế chung của đất nước, tạo vị thế vững chắc trên thị trường khu vực và thế giới. 106 Tài liệu tham khảo 1. Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp và phát triển DNVVN. 2. “Báo cáo cập nhật kinh tế Việt nam năm 2001”-Tài liệu của Ngân hàng thế giới (WB). 3. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999. 4. “Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong việc phát triển các DNVVN tai Việt nam”- Tiểu luận,- Đoàn Đức Thuận, Phạm Công Định. 5. "Kinh nghiệm và cẩm nang xây dựng xí nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước trên thế giới"-- NXB Thống kê/1999- Tác giả Đỗ Đức Định. 6. "Chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam"- NXB Chính trị quốc gia/1997- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ trì. 7. Bản "Nghiên cứu xúc tiến doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ"- Viện nghiên cứu Nomura / tháng 10, 1999. 8. "Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở Việt nam đến năm 2005"- NXB Chính trị quốc gia/2000- PGS, PTS Nguyễn Cúc chủ biên. 9. UNIDO, “Phát triển khu vực tư nhân, tài liệu làm việc số 2, phát triển cụm DNVVN ở các nước đang phát triển: kinh nghiệm của UNIDO”, 1999. 10.Báo cáo Uỷ ban Tài trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ, “Dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh đối với sự phát triển của các DNVVN ”, 1997. 11. Các báo cáo, tạp chí, nghiên cứu về DNVVN. 11. Các trang Web có chứa thông tin liên quan DNVVN như www.smenet.com.vn , trang web hỗ trợ xuất nhập khẩu : www.eximpro.com 13. “Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam-NXB Thống kê”-Hà nội 2001-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp. 14. Kỷ yếu hội thảo “Chính sách pháp luật và một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh”- NXB Đại học Quốc gia Hà nội- Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý/LERES. 107 Mục lục Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ A.Khái niệm và tiêu chí xác định DNVVN 1.Khái niệm ở một số nước trên thể giói………………….…… 2.Khái niệm ở Việt nam………. B.Đặc điểm của DNVVN 1.Tính tất yếu của việc tồn tại các DNVVN trong nền kinh tế…… 2.Đặc điểm chung của các DNVVN ……………….………….... C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân Chương II: Thực trạng phát triển của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam A.Quá trình hình thành, phát triển các DNVVN ỏ Việt nam 1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp………………….…………. 2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ…………………… 3.Các DNVVN ở khu vực nông thôn………………….………………… B. Tác động của các chính sách vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.Chính sách thương mại. ………………….………………….………… 2.Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. ………………….…….………. 3.Chính sách đất đai ………………….………………….………………. 3.Chính sách về công nghệ, giáo dục đào tạo……………………….…… 5.Chính sách hợp tác quốc tế ………………….………………….…….. 108 C.Thực trạng các và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam 1.Tình hình vốn ………………….………………….……………… 2.Tình hình thiết bị công nghệ…….……………….………………… 3.Tình hình nhân lực, lao động quản lí……………………….……… 4.Tình hình khả năng cạnh tranh về sản phẩm, thị trường……………….. Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam. A.Định hướng phát triển B.Các giải pháp phát triển 1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN.……………….………………….…...…… 2.Nhóm giải pháp hỗ trợ kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường 3.Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ. ……………………..….…………………….……….

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn- Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam.pdf
Luận văn liên quan