Luận văn Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam

Đồng thời, xuất phát từ t ư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con ngư ời, vì sự nghiệp giải phóng của con ng ười, giải phóng nhân loại, chúng ta có th ể khẳng đ ịnh rằng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đ ại hoá trên th ế gi ới nói chung và đ ặc biệt là ở n ước ta hiện nay chính là một cuộc cách mạng - cách mạng con người. Trong "T ư bản", C.Mác đ ã kh ẳng đ ịnh: " Để s ản xuất ra những con ng ười toàn diện" cần phải có một nền kinh tế phát tri ển, một nền văn hoá m ới, một nền kho a h ọc kỹ thuật hiện đ ại, một nền giáo d ục tiên tiến.

pdf54 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2480 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lực của con người. Về sự phát triển trí tuệ của con người Việt Nam: Sự phát triển này được biểu hiện qua nhiều chỉ số như: trình độ học vấn, kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, kỹ năng nghề nghiệp...Hiện nay, cả nước có gần 20 triệu học sinh các cấp. Hiện tại ta đã có 35 sinh viên trên 10.000 dân. Cả nước có số lượng 8.000 tiến sĩ và hàng vạn thạc sĩ. Biểu hiện đáng mừng là chúng ta liên tiếp giành được nhiều giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc tế về toán, lý, hóa, tin học , sinh vật... Mặt khác, trình độ chuyên môn không ngừng được nâng cao, kỹ năng nghề nghiệp ngày càng tinh thông. Con người Việt Nam đã từng bước làm chủ được những dây chuyền công nghệ, giải pháp kỹ thuật đòi hỏi tay nghề cao... Tuy nhiên, sự phát triển về mặt trí tuệ của con người Việt Nam hiện nay cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết như: trí lực con người đã có bước phát triển, song không đều và chất lượng chưa cao, mức chênh lệch về trình độ học vấn giữa thành thị và nông thôn ngày càng lớn, cán bộ khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn, số người thật sự có năng lực về trí tuệ, đủ sức đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn . Đến nay, cả nước chưa phổ cập xong trình độ tiểu học. Độ vênh giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội-nhân văn khá lớn trong mỗi con người, nhất là tầng lớp trẻ do sớm học lệch, học tủ, học để đi thi; do nội dung, phương thức đào tạo chưa phù hợp, thiếu đồng bộ. Điều đó đã hạn chế sự phát triển về năng lực trí tuệ con người Việt Nam, nhất là thanh niên. Nhìn chung, sau những năm đổi mới, sự đầu tư của Nhà nước vào giáo dục- đào tạo, vào chính sách xã hội ngày càng nhiều. Sự cạnh tranh về việc làm trong nền kinh tế thị trường ngày càng căng thẳng, xã hội ngày càng đánh giá cao giá trị của lao động trí tuệ cũng như sự vươn lên của cá nhân để chiếm lĩnh tri thức tiên tiến. Tất cả những điều đó là những yếu tố tạo nên trí lực của con người Việt Nam, làm cho trí lực ấy được phát triển ở mức độ nhất định. Đó là con người năng động, nhạy bén, nắm bắt những cái mới, có nhiều cách làm sáng tạo để giải quyết các vấn đề đặt ra; dám nghĩ , dám làm, dám chịu trách nhiệm, ngày càng trưởng thành trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, văn hóa, xã hội. Về tư tưởng, đạo đức cách mạng Lý tưởng và đạo đức cách mạng là vấn đề vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong nhân cách của con người Việt Nam hiện nay.Thành tựu lớn lao trong sự nghiệp giáo dục- đào tạo, xây dựng con người Việt Nam là chúng ta đã từng bước tạo lập, xây dựng những con người có lý tưởng cách mạng, đạo đức trong sáng, từng bước đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Sự biến đổi to lớn, sâu sắc của đời sống kinh tế- xã hội đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành động của con người Việt Nam, ảnh hưởng đến lý tưởng và hành vi đạo đức của họ. Các kết quả điều tra, nghiên cứu xã hội những năm qua cho thấy, cùng với quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập, giao lưu với con người, thang giá trị của con người Việt Nam cũng bị biến đổi, khúc xạ theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Bên cạnh mặt tích cực trong việc định hướng vào các giá trị chung của nhân loại( hòa bình, tự do, sức khỏe, việc làm, công lý, học vấn, an ninh, niềm tin, nghề nghiệp...), các giá trị của truyền thống dân tộc( lòng yêu nước, nhân ái, tính tập thể, cộng đồng, tình nghĩa, hiếu học, càn cù, sáng tạo...) đã xuất hiện xu hướng xem nặng vật chất, xem nhẹ giá trị tinh thần; xem nặng giá trị hiện đại, ngoại lai, xem nhẹ giá trị truyền thống, thuần phong, mỹ tục của dân tộc; coi trọng vai trò của kỹ thuật, xem nhẹ vai trò của con người; đặt lên quá cao lợi ích cá nhân mà xem nhẹ lợi ích tập thể, lợi ích cộng đồng. 2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người VIệt Nam theo yêu cầu đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa Từ thực trạng trên, trước yêu cầu của sự nghiệp đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nước ta đang đứng trước nhiều thách thức. Xét từ góc độ con người, ở đây đang bộc lộ nhiều mặt hạn chếm yếu kém. Điều này thể hiện ở một số vấn đề sau: Thứ nhất, cơ cấu lao động còn bất hợp lý và lạc hậu về nhiều mặt Sự mất cân đối giữa các ngành còn lớn, phân bố giữa các miền, các vùng không đều. Chẳng hạn, vùng có lực lượng lao động làm việc trong nhóm ngành nông- lâm- ngư nghiệp có tỷ lệ cao nhất là miền núi- trung du phía Bắc( 83,8%), thấp nhất là Đông Nam Bộ( 32,12%). Vùng có lực lượng lao động làm việc trong công nghiệp- xây dựng cơ bản và dịch vụ cao nhất là Đông Nam Bộ: 23,64% và 44,24%. Cơ cấu lao động ở nông thôn rất lạc hậu và quá trình chuyển dịch diễn ra rất chậm. Lực lượng lao động nông thôn đang tăng nhanh trong khi diện tích đất canh tác đang thu hẹp, bình quân 0,3 ha/1 lao động . hệ số sử dụng đất mới đạt 1,1 lần. Thị trường lao động diễn biến phức tạp, luôn mất cân đối giữa cung và cầu, do chưa đủ các điều kiện cho thị trường lao động phát triển. ở nước ta, thị trường lao động hình thành tự phát, chưa hoàn chỉnh, chưa được điều tiết và quản lý từ cẫp vĩ mô, quy mô nhỏ, chưa giải phóng hết tiềm năng lao động. Hiện nay, đang có sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường sức lao động. Nguyên nhân là do lực lượng lao động bổ sung hàng năm vẫn lớn hơn số việc làm được tạo ra: do cơ cấu kinh tế thay đổi dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động. Số người thiếu lao động ở nông thôn chiếm 25,4% lực lượng lao động. Số người trong lực lượng lao động không hoạt động hoạt động kinh tế thường xuyên tính chung trong cả nước là 27,7%. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, riêng 1996, cả nước có 2.042.685 người đủ 15 tuổi trở lên ở nông thôn ra thành thị tìm việc làm, chiếm 7,14% lực lượng lao động, trong đó, lao động trong độ tuổi chiếm 93,98%. Vùng có tỉ lệ cao nhất là đồng bằng sông Hồng(12,94%), tiếp đến là Bắc Trung Bộ( 8,43%). Trên thị trường lao động, cung vẫn vượt quá cầu. Số người chưa có việc làm tập trung vào lứa tuổi thanh niên. Hiện tượng thất nghiệp trong giới có học có xu hướng tăng ở khu vực thành thị. Việc di dân tự do từ nông thôn ra thành thị, tứ phía Bắc vào Đông Nam Bộ, Tây Nguyên chưa được kiểm soát chặt chẽ. Quyền lợi người lao động cũng như người thuê lao động chưa rõ ràng, chưa đảm bảo. Thứ hai, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn còn thấp Thống kê năm 1997 cho thấy: toàn quốc, số người chưa biết chữ chiếm 5,1%, đã tốt nghiệp cấp 1 chiếm 28,13%, cấp 2: 32,27%, cấp 3: 14,14% trong tổng lực lượng lao động. Đồng bằng sông Hồng có tỉ lệ tốt nghiệp cấp 2 cao nhất: 74,48%; thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long: 54,33%. Mức chênh lệch về trình độ học vấn ngày càng lớn giữa lực lượng lao động ở thành thị tốt nghiệp cấp 2, 3 là:61,85% so với nông thôn là 42,62%. Toàn quốc, số người thuộc lực lượng lao đông không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 87,18%; có chuyên môn kỹ thuật: 12,82%. Trong đó, công nhân kỹ thuật( có bằng và không có bằng) và sơ cấp chiếm 5,58%; trung học chuyên nghiệp: 3,8%; cao đẳng và đại học: 2,5%; trên đại học: 0,04%. ở khu vực thành thị, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 29,37%, trong đó công nhân kỹ thuật và sơ cấp chiếm 12,14%; trung học chuyên nghiệp:8,34%; cao đẳng và đại học 8,69%; trên đại học:0,2%. Khu vực nông thôn, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 9,3%; và tương ứng với các chỉ số của thành thị là:2,41%; 5,84%; 0,94%; 0,01%. Mức chênh lệch này có xu hướng ngày càng tăng. Thứ ba, chính sách xã hội ở nước ta còn bộc lộ nhiều bất cập, chưa hợp lý Những chính sách xã hội trong thời kỳ chiến tranh, thời kỳ kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp còn được sử dụng trong thời kỳ đổi mới, chậm khắc phục, có mặt còn kéo dài, gây trở ngại nhiều đến nền kinh tế, nhiều khi triệt tiêu mất những động lực lợi ích của người lao động. Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế thì chính sách xã hội không thay đổi kịp với sự phát triển của đất nước. Nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân, sự quản lý nhà nước, sự thay đổi cơ cấu xã hội...làm cho chính sách xã hội bị động, lúng túng. Thứ tư, quyền dân chủ của nhân dân còn nhiều vấn đề tiếp tục phải giải quyết Qua 15 năm đổi mới, nhân dân đã phát huy quyền làm chủ trên nhiều lĩnh vực: được đóng góp ý kiến vào các kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội quan trọng của đất nước, xây dựng các dự án luật, tiếp xúc, chất vấn các đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân về những vấn đề thiết thân của mình; trực tiếp tham gia các phong trào, như cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư", phong trào "Đền ơn đáp nghĩa", phong trào "Xóa đối giảm nghèo"... Đó là còn chưa kể các hình thức nhân dân tham gia tự quản tại cơ sở bằng việc tái lập các quy ước, hương ước- một phương tiện hỗ trợ cho pháp luật trong việc xử lý, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, vẫn còn bộc lộ những yếu kém, t iêu cực trong quá trình dân chủ hóa xã hội: hiện tượng mất dân chủ không chỉ xảy ra ở cấp trên, mà còn ở cả cơ sở, nơi chính quyền ở trong lòng dân. Mặt khác, lại đang diễn ra tình trạng phân tán cục bộ, kỷ luật lỏng lẻo, phép nước không nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông lỏng; hiện tượng tham ô, lãng phí, quan liêu, cửa quyền, sách nhiều, ức hiếp nhân dân không những chưa bị ngăn chặn, giảm bớt mà có lúc, có nơi, còn trầm trọng hơn. Điều đó gây bất bình trong dư luận, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với chế độ. Trong quản lý kinh tế, hiện tượng nắm quá chặt những cái cân mở rộng, trong khi lại buông lỏng những cái cần nắm vững đã gây sức ỳ, cản trở sự phát triển sản xuất. Bên cạnh đó có sự suy thoái đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Biểu hiện cụ thể của sự suy thoái này là: tham nhũng, dùng tiền Nhà nước tiêu xài phuùng phí, lãng phí của công, ăn chơi sa đoạ, bất chính; kèn cựa địa vị, cục bộ, bè phái, mất đoàn kết, độc đoán chuyên quyền, mê tín dị đoan. Như vậy bên cạnh những biểu hiện tích cực cũng xuất hiện những biểu hiện tiêu cực về đạo đức cần giải quyết. Con người Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải khắc phục được những hạn chế của lối sống, sinh hoạt, tác phong lạc hậu, hình thành con người mới với những chuẩn mực giá trị của văn hóa công nghiệp tiên tiến. Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa 2.3.1.Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo Sự nghiệp Giáo dục- đào tạo được Đảng ta xác định đóng vai trò hàng đầu trong việc xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Ngày nay, khoa học- công nghệ đang tác động mạnh mẽ vào chính cuộc sống con người. Thế giới đang đổi thay, phát triển và cạnh tranh quyết liệt, tận dụng thời cơ và những thách thức của thời đại không phải là công việc của riêng một quốc gia nào. Nhật Bản đã xây dựng 19 thành phố công nghệ rải rác khắp đất nước, với ý định dẫn đầu loài người vào làn sóng văn minh mới; Mĩ đang cố níu lại vị trí siêu cường về kinh tế của mình bằng mọi cách, kể cả thủ đoạn sử dụng vũ lực quân sự. Các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu cũng đang cố gắng bứt lên sánh ngang với Nhật Bản và Mĩ. Các "con rồng" châu á tuy đi sau nhưng cũng đạt được những tiến bộ phi thường về kinh tế...Tất cả các quốc gia đó có thể đạt được những sự phát triển phi thường đó là do sớm nhận thức được vai trò của tri thức và triệt để khai thác kho tài nguyên vô tận này. Để có được những con người với trí tuệ phát triển không có cách nào khác là giáo dục- đào tạo.Thực tiễn lịch sử, nhất là trong thời đại ngày nay đã chứng minh rằng trong tất cả các yếu tố tạo nên sự thành công của một quốc gia không có yếu tố nào quan trọng hơn giáo dục- đào tạo. Có điều đó là vì: Trước tiên, giáo dục- đào tạo ngày nay đã trở thành động lực hàng đầu cho phát triển kinh tế. Theo tính toán, nếu phổ cập giáo dục nâng lên một bậc thì năng suất lao động bình quân trên toàn xã hội tăng tới 5%. Sở dĩ như vậy là vì giáo dục- đào tạo tạo ra cho nền kinh tế quốc dân của một dân tộc những nhà bác học, những chuyên gia, những kỹ sư, những người lao động có kỹ thuật trên các lĩnh vực mà nhờ họ, mới có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới, những nguyên liệu không có sẵn trong tự nhiên, những hình thức quản lý mới đạt hiệu quả kinh tế cao. Giáo dục- đào tạo trực tiếp quyết định việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng lực thực tiễn của người lao động. Giáo dục- đào tạo không chỉ là yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế mà còn tạo ra nhân cách con người. Một số nhà nghiên cứu giáo dục và xã hội đã khẳng định rằng: con người chỉ sinh ra con người con giáo dục sinh ra cả năng lực và nhân cách con người. Lịch sử càng tiến lên, vai trò của yếu tố trí tuệ trong nguồn lực con người càng trở nên quan trọng. Vai trò của trí tuệ không chỉ tăng lên trong lĩnh vực sản xuất vật chất, mà còn tăng lên trong tất cả mọi lĩnh vực, mọi hoạt động của cuộc sống; ý nghĩa to lớn của giáo dục- đào tạo là ở chỗ: giáo dục- đào tạo là một nhân tố rất cơ bản đối với sự phát triển của văn hóa, là một trong những hiện tượng tiềm ẩn, có khả năng "hóa thân", "thẩm thấu" không chỉ vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, mà cả quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Vì vậy giáo dục- đào tạo luôn là nền móng đối với toàn bộ chiến lược phát triển con người và chiếm vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội. Ngày nay, đặc biệt là ở các nước phát triển, nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế chính là tiềm năng khoa học, giâo dục và khả năng huy động chất xám của đất nước. Riêng Nhật Bản, 1/4 mức tăng trưởng kinh tế sau chiến tranh là nhờ vào giáo dục- đào tạo. Như vậy, nói đến vai trò của sự nghiệp giáo dục- đào tạo trong giai đoạn hiện hay là phải nói đến vai trò động lực hàng đầu của nó trong tăng trưởng kinh tế. Bài học của sự thành công trong tăng trưởng kinh tế của các nước công nghiệp mới (NIC) là tài trợ cho các dự án phát triển nguồn lực con người, chia sẻ tổng sản phẩm thu nhập quốc dân ngày một nhiều thêm cho giáo dục- đào tạo. Có thể nói, để tránh tụt hậu xa hơn về kinh tế thì trước tiên phải tránh tụt hậu xa hơn về sự đầu tư cho giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ. Giáo dục- đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. ở Việt Nam ta, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự nghiệp giáo dục- đào tạo đang đứng trước những yêu cầu mới, cao hơn. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khóa VII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục- đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta chỉ tõ mục tiêu của của giáo dục- đào tạo hiện nay là:"Xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ thuật thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khỏe" Hơn nửa thế kỷ qua, đặc biệt là từ khi chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nền giáo dục nước ta đã có những bước tiến đáng kể. Từ chỗ 95% dân số mù chữ, đến nay, đã có khoảng 90% dân số biết chữ. Đại bộ phận nhân dân có trình độ từ tiểu học trở lên; nước ta từ chỗ chỉ có ba trường phổ thông trung học đến nay đã có hơn 20.000 trường phổ thông các cấp. Năm học 1996-1997, cả nước có hơn 20 triệu học sinh với hơn 130 trườngĐại học, cao đẳng, gần 500 trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, gần 90 cơ sở được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học... Cho đến nay, các loại hình trường lớp từ phổ thông, trung học chuyên nghiệp đến đại học tương đối đa dạng và phát triển rộng khắp, đội ngũ giáo viên được đào tao chính quy, có tâm huyết, luôn gắn bó với nghề và phát huy được trách nhiệm trong công tác giáo dục và đào tạo. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo bước đầu đã được tăng cường, đáp ứng một phần nhu cầu đào tạo của các tập thể, cá nhân và các thành phần kinh tế khác. Hợp tác quốc tế về giáo dục- đào tạo được mở rộng... Thành tựu của sự nghiệp giáo dục nước ta trong những năm qua là không thể phủ nhận, nhưng cũng còn những yếu kém, thể hiện ở chỗ chất lượng và hiệu quả của giáo dục- đào tạo chưa cao, duy mô còn nhỏ và manh mún, chưa đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về nguồn lực con người trong công cuộc đổi mới đất nước. Cơ cấu ngành nghề không cân đối, đào tạo và sử dụng chưa hình thành một cấu trúc chặt chẽ, dẫn đến hiện tượng trôi nổi chất xám. Đầu ra của đào tạo thì thừa, đầu vào của sử dụng thì thiếu... Sở dĩ như vậy là vì một số nguyên nhân: Thứ nhất, quy mô giáo dục- đào tạo mở rộng nhưung thiếu định hướng về chiều sâu, thiếu quy hoach ngành nghề đào tạo cho các trường, thiếu sự chỉ đạo đồng bộ về nội dung, chương trình đào tạo. Thứ hai, phương pháp đào tạo chậm đổi mới, chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của học sinh. Thứ ba, nội dung giáo dục- đào tạo chưa gắn chặt với lao động sản xuất. Nhà trường- gia đình- xã hội chưa kết hợp chặt chẽ với nhau. Thứ tư, chưa có chính sách cụ thể đối với giáo viên để khuyến khích họ nâng cao trình độ. Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất- kỹ thuật cho các trường thiếu đồng bộ. Trang thiết bị và đồ dùng học tập chưa hiện đại, chậm cải tiến so với sự phát triển khoa học-kỹ thuật trên thế giới. Từ thực trạng của sự nghiệp giáo dục- đào tạo nước ta hiện nay, để làm cho giáo dục- đào tạo thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", để phát huy nhân tố con người, chúng ta có thể sử dụng một số biện pháp: -Phải kiên quyết và nhanh chóng tăng nguồn đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục- đào tạo. Mặc dù nước ta còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế- xã hội, nhưng không thể để mức để tổng chi phí đầu tư cho giáo dục- đào tạo ở mức thấp. Đồng thời phải phân bổ nguồn ngân sách ấy một cách hợp lý cho việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, đào tạo cán bộ cho một số ngành trọng điểm. Thực hiện công bằng trong giáo dục, mở rộng hệ thống giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học, các trường bán công, dân lập, công lập...trong đó các trường công phải là nòng cốt. Từng bước hiện đại hóa quy trình giáo dục- đào tạo, xây dựng hệ chuẩn đánh giá kết quả học tập. - Thực hiện xã hội hóa giáo dục- đào tạo. Việc đầu tư cho giáo dục- đào tạo không chỉ là công việc của Nhà nước. Chúng ta cần thông suốt quan điểm "giáo dục- đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân". Xã hội hóa giáo dục phải là quan điểm chỉ đạo quan trọng, góp phần phát triển giáo dục, đào tạo. Cần phải kết hợp gia đình- xã hội- nhà trường trong phát triển giáo dục và đào tạo. - Việc đào tạo và đào tạo lại người lao động phải được coi là nhiệm vụ cấp thiết trong từng ngành, từng vùng, từng địa phương.Đào tạo lại phải được tiến hành thường xuyên ở các bậc học, đặc biệt là bậc đại học. - Để đảm bảo về số lượng và chất lượng nguồn lực con người cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giáo dục phải được phát triển cả về quy mô và về chất lượng, trong đó yếu tố đóng vai trò quyết định đến chất lượng chính là đội ngũ giáo viên. Thường xuyên bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, kết hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học; có chính sách khuyến khích những người có khả năng vào các trường sư phạm và các cơ quan nghiên cứu. - Cần đào tạo có địa chỉ, theo nhu cầu của các lĩnh vực, các ngành sản xuất để có lực lượng cán bộ đồng đều ở các lĩnh vực, các hệ thống xã hội trong cả nước. Cần có cơ chế sử dụng đãi ngộ người có tài để họ có điều kiện cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Cùng với đào tao nhân tài trong nước, phải có chính sách cho những học sinh giỏi được đào tạo ở nước ngoài trong các ngành chủ chốt. - Giáo dục- đào tạo cần phải được đổi mới cả về nội dung lẫn phương pháp.Đó là giáo dục phải phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa hiện đaị hóa ở nước ta hiện nay. Giáo dục phải khuyến khích mọi người học độc lập suy nghĩ, tìm tòi nâng cao năng lực tư duy và bản lĩnh con người Việt Nam. Giáo dục phải gắn liền với thực tiễn, phải nâng cao năng lực nắm bắt và giải quyết những vấn đề thực tiễn đất nước đặt ra. Trong giáo dục và đào tạo không chỉ chú ý về chuyên môn mà còn phải tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng- đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục- đào tạo,thống nhất từ trên xuống dưới, mọi cấp, mọi ngành , mọi cơ sở giáo dục và và từ dưới lên cần kịp thời rút kinh nghiệm hoạt động thực tiễn để báo cáo tình hình, đề xuất ý kiến với cấp trên nhằm bổ sung , điều chỉnh các chủ trương, giải pháp để thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng. 2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ Cùng với giáo dục- đào tạo, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ là một trong những vấn đề vừa có tính cấp bách, vừa cơ bản nhằm tạo ra những lực lượng đầu đàn, nòng cốt cho khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thật vậy , trong thời đại ngày nay, công nghiệp hóa, hiện dại hóa không thể thành công, nếu thiếu đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có chất lượng cao, có đủ đức, tài. Chúng ta không thể nói đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời đại văn minh trí tuệ, thời đại cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức đang ngày có vai trò to lớn mà lại thiếu đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ giỏi. Bởi lẽ đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ là lực lượng nòng cốt trong nguồn lực con người Việt Nam hiện đại mà chúng ta cần tạo ra nhằm đảm bảo thành công cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là đội ngũ quyết định sự phát triển của khoa học và công nghệ của đất nước. Tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định" Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa hiện đại hóa""Cùng với giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu", là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào khoa học, công nghệ. Song khoa học và công nghệ chỉ có thể đóng vai trò động lực khi có người tạo ra nó, chuyển tải nó vào thực tiễn sản xuất và hoạt động xã hội, biến nó thành "năng lực nội sinh". Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có chất lượng cao ,đủ tài, đức. ý thức rõ điều đó, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: Nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là con người Việt Nam hiện đại, con người với trí tuệ và năng lực ngày càng cao mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ. Bởi thế, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đã trở thành nhiệm vụ nóng bỏng, cấp thiết, đỏi hỏi các cấp có thẩm quyền phải đưa ra một chính sách đúng và những giải pháp hữu hiệu. Có thể nói rằng, để có được một đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có chất lượng cao, trước hết chúng ta phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho họ. Đó là sáng tạo, cải tiến và áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất, quản lý các quá trình xã hội. Qua đó, những cán bộ khoa học kỹ thuật tự nâng cao chất lượng, có điều kiện trở thành những chuyên gia đầu ngành, đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. C.Mác đã nói: Việc tạo ra một đội ngũ đông đảo những người có trình độ học vấn cao, tinh thông khoa học- kỹ thuật "không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện nữa(5 )" Do vậy, chúng ta cần phải đầu tư đúng mức và hợp lý cho công tác nghiên cứu khoa học, cho việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ, nâng cao đời sống cả vật chất lẫn tinh thần cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đối với cán bộ khoa học, nhu cầu vật chất, nhu cầu kinh tế cũng rất cần, song không phải là tất cả. Ngoài nhu cầu vật chất, họ còn cần tới nhu cầu tinh thần, là nhu cầu được thừa nhận rộng rãi, được động viên khen thưởng kịp thời. Nhu cầu tinh thần ấy là một động lực không nhỏ thúc đẩy đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ hoạt động sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả làm việc. Việc xây dựng một chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, trước hêt là chính sách lương thỏa đáng, cũng là một biện pháp cần được tiến hành nhanh chóng để nâng cao chất lượng và hiệu quả làm việc của đội ngũ này. Đi liền với biện pháp đó là chế độ thưởng, phụ cấp và trợ cấp đối với đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ và cho những công trình khoa học và công nghệ có giá trị của họ, đảm bảo thu nhập thích đáng thông qua việc thu hút họ tham gia các hợp đồng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng, triển khai. Cùng với biện pháp đó, chúng ta cũng cần phải xây dựng và sớm thực hiện "quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng cường đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học trong hoạt động nghiên cứu và triển khai". Môi trường như vậy chẳng những khuyến khích họ sáng tạo mà còn tạo điều kiện thuận lợi để họ phát triển, tự hoàn thiện mình, nâng cao trình độ chuyên môn và hiệu quả làm việc. 2.3.3. Xây dựng con người việt nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế- xã hội Con người vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của lịch sử. Việc xây dựng con người Việt Nam không thể tách rời công cuộc đổi mới kinh tế- xã hội đang diễn ra. 15 năm đổi mới từ mô hình kế hoạch hóa tạp trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, "Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước( GDP) tăng bình quân hàng năm 7%. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực. Việc nuôi trồng và khai thác thủy hải sản đuợc mở rộng. Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13,5%. Hệ thống kết cấu hạ tầng: bưu chính- viễn thông, đường sá, cầu, cảng, sân bay, điện, thủy lợi... được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu đều phát triển. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt được hoặc vượt kế hoạch đề ra. Văn hóa xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục và đào tạo phá triển về quy mô và cơ sở vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được tăng lên (6 )" Bên cạnh những kết quả đã đạt được, đến nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, tình trạng phân hóa giàu nghèo tăng nhanh, thất nghiệp nhiều, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng... Để tiếp tục đổi mới nhằm xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết, chúng ta phải giải quyết một số vấn đề cụ thể sau: Thứ nhất, kết hợp nâng cao đời sống vật chất với đời sống tinh thần cho nhân dân. Vấn đề nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần cho nhân dân, vừa là mục tiêu của chế độ ta, vừa là một nội dung trong việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay. Cùng với nâng cao đời sống vật chất, nâng cao đời sống tinh thần, đẩy mạnh quá trình xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một trong những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện con người Việt Nam. Xã hội càng hiện đại, văn minh, nhu cầu tinh thần, văn hóa càng đòi hỏi phải được đáp ứng. Bởi nó là cái cấu thành "nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội", đồng thời, góp phần xây dựng con người Việt Nam với đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, trí tuệ phát triển, đủ sức, tinh thần đáp ứng yêu cầu thời đại. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần phải nâng cao hơn nữa việc đáp ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Nâng cao đời sống tinh thần, trước hết phải "củng cố, tăng cường mạng lưới văn hóa cơ sở", "sớm hoạch định một chiến lược quốc gia về thông tin..." Muốn tạo ra một môi trường thuận lợi về kinh tế, văn hóa và xã hội cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam hiện nay và nhằm xây dựng một nguồn lực con người VIệt Nam có chất lượng cho giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện dại hóa, chúng ta phải thực hiện tốt các chính sách xã hội vì con nguời, vì cuộc sống dích thực của con người. Thứ hai, kết hợp phát triển kinh tế với việc giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Điểm căn bản khiến chủ nghĩa xã hội khác với chủ nghĩa tư bản là ở chỗ trong quá trình phát triển kinh tế, nó luôn quan tâm tới việc giải quyết tốt vấn đề công bằng xã hội. Công bằng không chỉ là một mục tiêu phải đạt tới, mà nó còn là cơ sở, là điều kiện để cho mọi người phát triển tốt tài năng của mình, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiện nay, vấn đề công bằng là một vấn đề dang nổi lên cần tập trung giải quyết. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường đương nhiên có phân hóa giàu nghèo, nhưng ở nước ta, quá trình phân hóa đó diễn ra quá mạnh mẽ, gây bất bình trong nhân dân, có nơi đã dẫn đến mất ổn định xã hội. Hiện tượng mất công bằng xã hội có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, như: cơ chế chính sách không hợp lý, pháp luật thiếu đồng bộ và không nghiêm minh, quản lý của Nhà nước có nhiều sơ hở...Chính vì vậy, để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần giải quyết một cách đồng bộ bằng hàng loạt giải pháp liên quan đến chính sách, đến luật pháp, đến cơ chế quản lý. Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là vấn đề có tính chiến lược trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ngày nay, khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta xác định đó là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế. Điều này hoàn toàn lôgic, phù hợp với xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chính trong cạnh tranh trên thị trường mà mọi người phải không ngừng nâng cao trình độ của mình để có thể sáng tạo, tiếp thu kỹ thuật mới, công nghệ mới, phương pháp quản lý mới. Nó giáo dục con người phải luôn sáng tạo ra những mặt hàng mới, đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý, nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Và đây cũng là quá trình tạo ta con người Việt Nam mới đủ năng lực đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ tư, kết hợp phát triển nền kinh tế độc lập- tự chủ với hội nhập kinh khu vực và quốc tế. Việc kết hợp phát triển nền kinh tế độc lập- tự chủ với mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế có vai trò to lớn trong việc xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một mặt nó phát huy tính tự tôn dân tộc, quyết tâm làm cho kinh tế nước ta phát triển, sánh vai với các nước khác trên thế giới. Mặt khác nó cũng tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu được công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý tiên tiến đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thứ năm, đẩy nhanh việc tạo thêm công ăn việc làm, giảm dần nạn thất nghiệp Tìm mọi cách tạo ra việc làm cho tất cả mọi người lao động, đảm bảo sử dụng hết số lao động hiện có cần phải được coi là biện pháp cấp bách. Bước vào thập kỷ 90 thế kỉ XX, nước ta có khoảng 66 triệu dân với khoảng 33 triệu người trong độ tuổi lao động, đến năm 2000 ta có gần 80 triệu dân với hơn 40 triệu lao động. Đó là nguồn lực quan trọng nhất để chúng ta đẩy mạnh tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước. Song nguồn nhân lực ấy phải đuợc sử dụng hết và khắc phục những lạc hậu, dấu ấn của cơ chế cũ thì mới trở thành thế mạnh của đất nước, mới đáp ứng được những đòi hỏi của công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ đổi mới. Do vậy phương hướng quan trọng nhất mà Đảng ta đã nhiều lần khẳng định là Nhà nước cùng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt kế hoạch và các chương trình kinh tế- xã hội. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhà đầu tư mở mang ngành nghề tạo nhiều việc làm cho người lao động. Thứ sáu, đẩy lùi tệ nạn xã hội Tệ nạn xã hội không chỉ là những căn bệnh của xã hội, là vật cản không nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, mà nó còn tác động trực tiếp, hàng ngày, hàng giờ đến mục tiêu phát triển con người Việt Nam hôm nay, đến sự hình thành nhân cách của con người Việt Nam hiện đại. Bởi vậy cần thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật để phòng, chống có hiệu quả các tệ nạn xã hội, nhất là tệ trộm cướp, cờ bạc, ma túy, mua bán dâm... Việc giải quyết một cách đồng bộ các biện pháp cụ thể trên chính là tạo ra môi trường kinh tế- xã hội nhằm xây dựng những con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người Để có thể xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải không ngừng nâng cao vai trò của Đảng và Nhà nước.Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây cũng như trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, đến giải phóng con người và phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo sự quản lý của Nhà nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tự to lớn trong việc xây dựng con người Việt Nam đáo ứng yêu cầu trong từng giai đoạn phát triển của đất nước. Tuy nhiên trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, nhiều ván đề đặt ra đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải có chủ trương, chính sách và những giải pháp mới tác động một cách tích cực vào con ngừoi, nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vai trò của Đảng và Nhà nước đối với xây dựng con người có nhiều mặt, song trong giai đoạn hiện nay, cần tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt chiến lược phát triển con người Việt Nam theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Xây dựng chiến lược con người là một trong những vấn đề hết sức cơ bản trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói riêng. Xây dựng chiến lược con người cần phải xác định rõ mục tiêu, phương hướng và những giải pháp cơ bản cho việc xây dựng con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc xây dựng chiến lược con nguời phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Vấn đề chiến lược phát triển con người Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thường xuyên. Tuy nhiên, trong những năm qua, yếu tố tự phát vẫn còn là yếu tố chi phối, cho nên tạo ra bất hợp lý rất lớn trong nguồn lực con người. Chính vì vậy, hiện nay, vấn đề xây dựng chiến lược con người Việt Nam và việc tổ chức thực hiện chiến lược ấy là một vấn đề hế sức cấp thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc phát huy vai trò của Đảng và Nhà nước trong xây dụng con người, trước Đảng và Nhà nước phải xây dựng chiến lược con người. Thứ hai, Đảng và Nhà nước phải xây dựng được một hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thực hiện thắng lợi chiến lược con người. Trên cơ sở chiến lược con người, phải có một hệ thống giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi chiến lược đã vach ra. Trong hệ thống giải pháp thì chính sách đóng vai trò đặc biệt quan trọng, bởi nó trực tiếp tác động đến lợi ích của con người, nó là động lực cơ bản đối với hoạt động của con người. Sự hoạt động của con người bị tác động bởi rất nhiều yếu tố. Chính vì vậy chính sách cũng phải đề cập đến nhiều mặt, phải là một hệ thống chính sách. Trong những năm đổi mới vùa qua, Đảng va Nhà nước ta đã đổi mới và bổ sung nhiều chính sách theo yêu cầu của công cuộc đổi mới ấy. Sự đổi mới đó đã mang ý nghĩa tích cực trong việc phát huy nguồn lực con người. Tuy nhiên do tồn tại trong một thời gian dài với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, cho đến nay, sự thay đổi chính sách vân chưa kịp thời. Hiện nay còn nhiều chính sách bất hợp lý và thiếu đồng bộ, chưa phát huy tốt nguồn lực con người. Rõ ràng rằng, vấn đề đổi mới và hoàn thiện chính sách là vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay. Nó là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho việc thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề mà Đảng và Nhà nước phải tập trung giải quyết trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thứ ba, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế- một yếu tố cơ bản trong việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay Để xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một vấn đề đặt ra là phải phát huy quyền dân chủ. Đó là một trong những động lực mạnh mẽ để khơi dậy nhiệt tình cách mạng, phát huy tính chủ động sáng tạo của con người và từ đó mới hình thành nên những con người đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc phát huy quyền dân chủ lại phải gắn liền với tăng cường pháp chế. Dân chủ không phải là hoạt động một cách tùy tiện, mà phải sống và làm viẹc theo pháp luật. Việc không ngừng hoàn thiện và thực hiện nghiêm minh pháp luật xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo thực hiện quyền tự do, dân chủ của nhân dân và đó cũng là một yếu tố cơ bản đảm bảo xây dựng con nguời Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc hoàn thiện và thực hiện nghiêm minh pháp luật phải gắn liền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây cũng như trong công cuộc đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến quá trình dân chủ hóa, đến việc hoàn thiện pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Về lĩnh vực này, chúng ta cũng đã đạt được nhiều thành tựu: quyền tự do, dân chủ của nhân dân ngày càng đuợc đảm bảo, phảp luật ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, việc thực hiện pháp luật ngày càng nghiêm minh hơn. Tuy nhiên cho đến nay, tình trạng vi phạm quyền tự do, dân chủ của nhân dân còn nhiều và có nơi rất nghiêm trọng, pháp luật còn thiếu và không đồng bộ, việc thực hiện pháp luật còn thiếu nghiêm minh. Tình hình đó do nhiều nguyên nhân như trình độ dân trí thấp, việc giáo dục pháp luật còn chưa được chú ý đúng mức...Tình hình đó cho thấy, để xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cẩu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một vấn đề bức bách là phải đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa thực hiện tốt dân chủ từ Trung ương đến cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người, thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về xây dựng con người Việt Nam hiện đại, có thể nói, việc xác định phương hướng và những giải pháp đúng đắn là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nét đặc biệt, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta là ở chỗ: con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu cao nhất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vì con người, vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Và bản thân sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các thành phần kinh tế. Sự nghiệp đó đòi hỏi phải phát huy cao độ nhiệt tình cách mạng, tài năng và sáng tạo của nhân dân, Đây là quan điểm chi phối, có tính chỉ đạo trong quá trình xây dựng con người ở nước ta hiện nay. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, việc hình thành, phát triển con người bị tác động bởi hàng loạt yếu tố. Bởi vậy, để xây dựng con người Việt Nam mới đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta phải thực hiện hàng loạt giải pháp. Trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay, cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản là: Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo; nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: đẩy nhanh tốc độ đổi mới kinh tế- xã hội; nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Kết luận Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã, đang và sẽ là xu hướng phát triển chung của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó cũng là con đường phát triển tất yếu của nước ta để đi tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế mà còn là quá trình biến đổi, cách mạng sâu sắc mọi lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học và con người), làm cho xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất. Nhưng cơ sở, động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là gì? Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, con người vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc, đồng thời vừa là trung tâm của mọi biến đổi lịch sử. Nói cách khác, con người là chủ thể chân chính của các quá trình xã hội. Trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá vẫn chính là con người. Chính vì vậy, quá trình này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. Nói cách khác, nguồn nhân lực phải trở thành động lực thật sự của sự phát triển. Quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã được nhiều quốc gia quan tâm và đặc biệt đang nổi lên ở khu vực Đông á. Xuất phát là những nước nghèo, chỉ có thể rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững trong trường hợp đầu tư phát triển đủ mạnh nguồn nhân lực. Sự đầu tư ấy được hiểu cả ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức sống và phát triển giáo dục, trong đó đầu tư có hiệu quả nhất là đầu tư cho giáo dục. Khi nghiên cứu quan hệ giữa GDP và các yếu tố của nguồn nhân lực, người ta thấy sự phát triển của nguồn nhân lực càng sớm thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao. Thực tế đã chứng minh, do phát triển nguồn nhân lực mà Hàn Quốc đã mau chóng trở thành nước công nghiệp, có sự hội nhập thần kỳ ở khu vực Đông á và trở thành một điểm sáng bên Nhật Bản siêu cường. Đồng thời, xuất phát từ tư tưởng của C.Mác về sự phát triển vì con người, vì sự nghiệp giải phóng của con người, giải phóng nhân loại, chúng ta có thể khẳng định rằng sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên thế giới nói chung và đặc biệt là ở nước ta hiện nay chính là một cuộc cách mạng- cách mạng con người. Trong "Tư bản", C.Mác đã khẳng định: "Để sản xuất ra những con người toàn diện" cần phải có một nền kinh tế phát triển, một nền văn hoá mới, một nền khoa học kỹ thuật hiện đại, một nền giáo dục tiên tiến. Và ông coi tạo ra những thành tựu kinh tế xã hội đó "không phải chỉ là một phương pháp để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, mà còn là một phương pháp duy nhất để sản xuất ra những con người phát triển toàn diện(7)" - những chủ nhân thực sự của một xã hội vì con người. Như vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải vì mục tiêu phát triển con người. Chỉ có như vậy, công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới trở thành sự nghiệp cách mạng của quần chúng. Qua toàn bộ phân tích trên, có thể khẳng định rằng, bước sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta phải lấy việc phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện đại làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải gắn tăng trưởng kinh tế với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đồng thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là vì sự phát triển con người Việt Nam toàn diện, con người phải được coi là giá trị tối cao và là mục đích của sự nghiệp đầy khó khăn, phức tạp nhưng tất yếu này. chú thích: (1): C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 26, phần II. NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội- 1995, trang 168. (2): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ VII Ban Cháp hành Trung ương khóa VII, Hà Nội, 1994, tr.42 (3): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.79-80 (4): Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.58-59 (5): C.Mac và F.Anghen, Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t23, t688 (6): Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001, tr69 (7): C.Mac-F.Anghen toàn tập, tập 23. NXB Chính trị Quốc gia Hà nội- 1995, trang 688. danh mục tài liệu tham khảo: 1. Giáo trình Triết học Mác- Lênin- NXB Chính trị Quốc gia. 2. Tổng cục thống kê- Niên giám thống kê 1995- NXB Thống kê, Hà Nội- 1996 3. Vũ Thiện Vương- Triết học Mác- Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa- NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội- 2001. 4. Vũ Thiện Vương- Con người- chủ thể sáng tạo lịch sử-, Tạp chí Triết học, số 3(115), 6/2000, tr 29-31. 5. Trần Hữu Tiến- Vấn đề con người, cá nhân, xã hội trong học thuyết của Mác, Tạp chí cộng sản 1/1994. 6. Võ Đại Lược- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đầu năm 2000. 7. Phạm Khiêm ích, Nguyễn Đình Phan- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam và các nước trong khu vực. Mục lục 1. Mở đầu: ................................ ........................................................... 1 1.1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................... 2 1.2. Mục đích của đề tài: ................................ ................................ .. 3 2. Nội dung: ................................ ......................................................... 4 Chương 1: Cơ sở lý luận ................................ ................................... 4 2.1.1. Quan niệm về con người: ................................ ....................... 4 2.1.1.1. Quan niệm về con người trong triết học phương Đông..............4 2.1.1.2. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác...................................................................................................................... 5 2.1.1.3. Quan niệm của triết học Mác- Lênin về bản chất con người.............................................. ........................................... 7 2.1.2. Vai trò của con người trong đời sống xã hội, đặc biệt trong sản xuất xã hội ................................................................ ................... 11 Chương 2: Vấn đề xây dựng con người để đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam .............................................. 13 2.2.1. Thực chất quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam: ................................................................ ................................... 13 2.2.2. Mục tiêu cơ bản của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: ................................ .................................................... 16 2.2.3. Tại sao cần phải xây dựng con người việt nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa? ....................................... 17 2.2.4. Những yêu cầu đối với con người Việt Nam để đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa................................ ............. 19 2.2.5. Thực trạng xây dựng con người Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ................................................................ ................................... 21 2.2.6. Một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam theo yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa ..................... 26 Chương 3: Các giải pháp chủ yếu để xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa ............... 30 2.3.1. Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục- đào tạo ......................... 30 2.3.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ: ................................................................ ........ 36 2.3.3. Xây dựng con người Việt Nam kết hợp với quá trình đổi mới kinh tế- xã hội ................................ .............................................. 39 2.3.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong quá trình xây dựng con người ................................. 43 3. Kết luận...........................................................................48 Chú thích.......................................... ..........................................40 Danh mục tài liệu tham khảo....................................................41

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Thực trạng vấn đề con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan