Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những
định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do
hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính
sách khuyến khích đầu tư. . Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động
xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ
cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng
nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể.
68 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2293 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng xuất khẩu hàng hàng hoá trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áy móc vật tư phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là
việc làm hữu hiệu tạo ra điều kiện cho các doanh nghiệp có thể nhanh chóng có được
máy móc thiết bị để đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Để giảm bớt tác động do sự thay đổi tỷ giá các đồng tiền trong khu vực, Ngân
hàng nhà nước Việt nam thay đổi tỷ giá chính thức xấp xỉ với tỷ giá hiện hành trên thị
trường tự do và tương ứng với tỷ giá thực. Việc điều chỉnh tỷ giá này có tác dụng làm
tăng thêm sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam trên thị trường thế giới
*Đánh giá tổng quát về xuất khẩu hàng hoá trong quá trình đổi mới
1. mặt được
i1: Quy mô và tốc độ xuất khẩu liên tục mở rộng và gia tăng, bìn quân hàng năm
tăng 18,4%/năm so với mức tăng trưởng GDP là 7,4%/năm.
Từ năm 1986 đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta đã tăng hơn 7 lần
(từ 2,087tỷ USD năm 1986 lên 15 tỷ USd năm 2001 ),năm 2000đạt 180 USD / người.
Thị trường xuất khẩu của việt Nam ngày càng được mở rộng. . hiện nay chúng ta đang
có quan hệ buôn bán với hơn 110 quốc gia trên thế giới. Tỷ trọng xuất khẩu so với
GDP (phảnánh độ mở cửa của nền kinh tế ) cũng tăng đều qua các năm, góp phần
hình thanh thêm nhiều ngành sản xuất mới, thu hút lao độg xã hội như ngành dệt may,
dày dép, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ, góp phần gia tăng nguồn ngoại tệ nhập khẩu
hàng hoá thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân
i2: Cơ cấu nhóm, mặt hàng đã được cải thiện nhất định nhờ sự chuyện dịch cơ
cấu kinh tếvf quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Tỷ trọng của các nhóm, mặt hàng đã qua chế biến tăng dần. Nếu như hàng
nguyên liệu thô năm 1991 chiếm trên 92%, thì nay chỉ còn chiếm khoảng 60% tổng
kim ngạch xuất khẩu ; hàng chế bién năm 1991 chỉ chiếm khoảng 8%, năm 1999 đã
lên khoảng 40%. nhóm nông lâm thuỷ sản năm 1991chiếm 53% đến nay xuống còn
khoảng 36,5 % ; nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 1991 chiếm 47%,
năm 1999 đã tăng lên 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng, đã có 16 nhóm, mặt hàng hoàn
toàn mới và khoảng 20 nhóm, mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập một số thị trường ;
chất lượng hàng xuất khẩu đã dược nâng lên đáng kể. năm 1991 mới có 4 nhóm, mặt
hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may (đạt kim ngạch xuất
khẩu 100 triệu USD trở lên, đến năm 1999 đã có thêm 8 mặt hàng xuất khẩu chủ lực
mới là cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ
nghệ và rau quả. Bốn nhóm mặt hàng, đạt kim ngạch từ trên 1tỷ USD đến 1,3 tỷ USD/
năm là gạo, giầy dép, dệt may, dầu thô và 3 mặt hàng đạt xấp xỉ 500 triệu đến 1 tỷ
USD / năm là gạo, cà phê, hàng điện tử, thuỷ hải sản.
Vài năm gần đây nổi lên một số mặt hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng khá cao
là : giầy dép, điện tử, nhân điều, chè, gạo. . Một số mặt hàng chiếm vị trí cao trên thị
trường thế giới là gạo ( dứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan). nhân điều đứng thứ 3
thế giới sau Ân Độ, Braxin), cà phê( đứng thứ 3 thế giơisau Braxin, Colombia; nếu chỉ
tính riêng cà phê robusta thì đứng hàng đầu hế giới )
Chất lượng hàng xuất khẩu đã dược nâng lên đáng kể : một số hàng đã có sức
cạnh tranh trên, thị trường thế giới, đồng thời tác động tích cực tới chất lượng sản
phẩm trong nước. Hiện nay gạo, dầu thô, thủy hải sản, hàng dệt may, giầy dép, cà phê,
nhân điều. . của Việt Nam đã được thừa nhận đạt hoặc đạt xấp xỉ chất lượng quốc tế
i3 - Cơ cấu thị trường xuất khẩu có chuyển biến cơ bản. Tới nay nước ta đã có
hiệp định thương mại với 58 nước (tính đến ngày 13/7 /2000)và đã có thoả thuận về
đối xử tối huệ quốc với 72 nước va vùng lãnh thổ.
Một trong những thành tựu to lớn trong 10 năm qua là đã chuyển đổi thị trường,
bảo đảm được yêu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá. châu á là một trong những thị trường
xuất khẩu của ta năm 1991là 77%. Trong những năm sau này, do khai thông hai thị
trường là bắc mỹ và châu âu, tỷ trọng của châu á có gỉm dàn nhưng vẫn ở mức
cao(55,7%vào năm 1999).
Trong số các nước châu á thì Nhật Bản và các nước ASEAN đóng vai trò rất lớn.
Trongthời kỳ 1991-1995, Nhật Bản thường xuyên chiếm trên 30% tổng kim ngạch
xuất khẩu của ta nhưng tới năm 1998chỉ còn chiếm 15,8%. T ỷ trọng của các nước
ASEAN không có sự tshay đổi lớn ( năm 1991 chiếm 25,1%, năm 1999 chỉ còn 21,3
% ). kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc có tăng, từ 340,2 triệu USD nâưm 1999,
song rát còn hạn chế với tiềm năng của hai nước. Tỷ trọng của EU tăng khá đều năm
1991, tỷ trọng xuất khẩu vào EU mới chiếm 5,7% kim ngạch của ta, thì đến năm 1999
đã là 21,7%, đưa tỷ trọng của chau Âu lên gần 28%. Với Hoa Kỳ nam 1995 kim ngạch
xuất khẩu chỉ đạt 170 triệu USD, đến năm 1999tăng lên 504 triệu USD, trong đó ta
cũng thường xuyên xuất siêu.
i4 - Xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI tâưng khá nhanh cả về quy mô và tốc
độ, chiếm tỷ trọng từ 4% ( năm 1994)lên 22,3% (năm 1999) ;nếu kể cả dầu thô thì tỷ
trọng này trong năam 1999 đạt 35%, khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu của các doanh
nghiệp FDI là hàng chế biến, có một số hàng chứa hàm lượng klỹ thuật cao.
i5 - Cơ chế xuất khẩu đãcó những bước chuyển biến cơ bản theo hướng xoá bỏ
cơ chế độc quyền ngoại thưoưng, tạo thuận lợi cho các ngành, các địa phương các
thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
2. Mặt chưa được
i1: tốc độ tăng trưởng về xuát khẩu chưa vững chắc, tình hình các năm khá chenh
lệch. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 5 nâưm 1996-2000 chưa đạt mức đề ra, mức xuát
khẩu bình quân tính theo đầu người còn thấp so với các nước trong khu vực.
i2: Khả năng cạh tranh yếu cả ở tầm quốc gia lẫn ở cấp độ doanh nghiệp và mỗi
loại sản phẩm Môi trươngf làmăn ở nước ta vẫn bị đánh giá là chưa thuận lợi. các
doanh nghiệp còn lúng túng trong sản xuất kinh doanh. Phần lớn hàng hoá xuất khẩu
của Việt Nam đều có sức cạnh tranh yếu , thậm chí rất yếu do công nghệ lạc hậu, năng
xuấ thấp, giá thành cao,chất lượng không ổn định, mẫu mã, chủng loại nghèo nàn, bao
bì thiếu hấp dẫn, khảnăng giao hàng không chắc chắn, dịch vụ kém, thậm chí gian dối,
làm mất tín nhiệm. . .
i3: So với yêu cầu, sự chuyển đổi cơ cấ xuất khẩu còn chậm, kể cả mặt hàng lẫn
thị trường. Tới nay,xuất khẩu hàng thô và hàng sơ chế vẫn còn chiếm 60% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Sự tăng trưởng của các mặt hàng mới và thị trường mới chưa đáng
kể. Tỷ trọng xuất khẩu hàng gia công còn lớn ; chưa quan tâm đúng mức đến các mặt
hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên và lao động như rau quả, thịt,hàng thủ công mỹ
nghệ.
Sự chuyển dịch tỷ trọng của các khu vực và các thị trường còn hạn chế. Tuy ta đã
có quan hệ thương mại với tất cả châu lục, nhưng thị trường châu á vẫn còn chiếm tỷlệ
rát cao: 75,5% giá trị xuất khẩu và trên 77% giá trị nhập khẩu ; thị trường các châu lục
khác chiếm tỷ trọng nhỏ. Hàng xuất khẩu của ta vào thị trường trung gian chiếm tỷ
trọng cao, hiêu quả xuất khẩu thấp.
Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đâu tư nước ngoài chưa tương xứng với
tiềm năng. Nhiều doanh nghiệp không đạt tỷ trọng xuất khẩu như quy định tại giấy
phép đầu tư, hàng hoá sản xuẩtachủ yếu được tiêu thụ trên thị trường trong nước. hơn
nữa giá trị nguyên liệu nhập khẩu còn chiếm tỷ trọng cao trong trị giá xuất khẩu.
i4: Công tác nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, tiếp thị. . . còn nhiều
yếu kém. Các cơ quan nhà nước còn lúng túng ;nhiều doanh nhiều còn thụ động,trông
chờ hoặc quá hạn hẹp về khả năng, ít quan tâm công việc này. Hệ thống thương vụ
Việt Nam tại nước ngoài tuy gần đây đã có nhuiêù chuyển biến tích cực, song so với
tiềm năng và yêu cầu còn nhiề hạn chế, nhấtlà trên lĩnh vực xúc tiến tìm kiếm giới
thiệu thị trường và bạn hàng, cung cấp thông tin kịp thời và hỗ trợ thiết thực cho hoạt
động kinh doanh xuát khẩu của doanh nghiệp. Phương thức kinh doanh xuất khẩu về
nhiều mặt còn lạc hậu so với thế giới.
Chương III
một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá nước ta hiện nay
I- Định hướng xuất khẩu hàng hoá trong tương lai
1-thời kỳ 2001-2005
Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị
chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một
số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh; tìm
kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, tăng thêm thị phần ở các thị trường
truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị trường mới.
Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các mặt
hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hàng thuỷ sản, dệt may, da giầy, hàng
thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính,. . . Đẩy mạnh xuất
khẩu lao động.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm khoảng 114 tỷ USD, tăng thêm 16%/năm.
Nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất
khẩu, tăng bình quân hằng năm là15,9%; trong đó, nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng
và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp, tăng bình quân
hằng năm 22%. Nhóm hàng nông, lâm,thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu,
tăng bình quân hàng năm 16,2%.
Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khuyến khích đầu tư
nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến,
các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã
hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và tạo việc làm.
Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao: tiếp tục nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5
năm.
*. Định hướng xuất khẩu hàng hoá năm 2002
Bộ thương mại đã xác định kế hoạch xuất khẩu hàng hoá so với năm 2001
Xuất khẩu hàng hoá đạt 16,61 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2001. Trong 16
nhóm mặt hàng, mặt hàng chủ lực thì có 3 nhóm, mặt hàng giảm kim ngạch là cà phê,
dầu thô và than đá, còn lại đều tăng cao nhất là giaayf dép, điiện tử và linh kiện tăng
24% so với năm 2001, rồi đến dệt may và hàng hoá khác clà 20%, thủ công mỹ nghệ
19%, rau quả và thuỷ hanỉ sản đều tăng 16,7%. Các nhóm hàng xuất khẩu dự kién còn
lại là ; gạo, cao su, hạt tiêu,nhân điều, chè, lạc nhân.
2. Thời kỳ 2001-2010
. Dự kiến mức tăng trưởng GDP hàng năm đạt 11 - 12%. Tốc độ tăng trưởng
xuất khẩu hàng năm đạt khoảng 14%. Đến năm 2010, với dân số khoảng 95 triệu
người, Mức GDP trên đầu người đạt 1600 USD. GDP cả nước đạt khoảng 152 tỷ USD.
Kim ngạch xuất khẩu đạt 740 USD, xuất khẩu đóng góp khoảng 46% GDP.
Mục tiêu chuyển đổi cơ cấu ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010
1. giảm tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nguyên nhiên liệu từ hơn 20% hiện nay cỉ
còn 3,5 % đến năm 2001
2. Giảm tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thuỷ sản từ 25-26% như hiện
nay xuống còn 17,2% đến năm 2010. Tuy nhiên trong số đó, hàng thuỷ sảnvẫn tăng
mạnh, đạt trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành nông lâm thuỷ sản; hàng
rau quả và hạt điều cũng tăng nhiều ; cà phê, cao su tăng ít, riêng gạo hù như không
tăng ( chỉ giữ ở múc 4,0 -4,5 triệu tấn )
3. Tăng mạnh tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực đén năm 2010, phải chiếm
trên 40%trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá. Thuộc nhóm mặt hàng này có hàng
dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ,thực phẩm chế biến, hoá phẩm tiêu dùng, cơ khí
điện, nhựa và cả những sản phẩm kỹ thuật cao như phần mềm, điện tử cao cấp, công
nghệ sinh học, vật liệu mới. . . tất cả đều phải có tỷ trọng cao và tốc độ tăng trưởng cao
hơn hẳn hiện nay
Để đạt được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu là 15-16%như kế hoạch đã đề ra cho
năm 2001và 14,4% cho giai đoạn 2001-2010với tổng kim ngạch xuất khẩu là 54,6 tỷ
USD ở góc độ ngành hàng cần giải quyết hàng loạt các vấn đè trong ngắn hạn và dài
hạn như :
Thứ nhất cần điều chỉnh ngay những mặt bất hợp lý trong chính sách hiện hành
để giải toả những ách tắc cho từng ngành hàng, thí dụ như :
- Đối với ngành thuỷ sản, không phân biệt mức thuế giữa các loại doanh nghiệp ;
tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập nguyên liệu đẻ khắc phục tính thời vụ và duy trì
tính ổn định các bạn hàng mậu dịch.
-Đối với nghành cao su, thực hiện viẹc mua bán có tổ chức ở biên giới, tránh
tranh mua tranh bán để ép giá lẫn nhau, mình làm hại mình, đồng thời kết hợp cả biện
pháp kinh tế hành chính đẻ giảm bớt vệc xuất khẩu mủ cao su tươi không có hiệu quả
cao.
- Đối với ngành gạo, các công ty tư nhân ngoài việc xuất khẩu gạo trực tiếp cũng
cần được phép mua gạo tạm trữ đẻ góp phần giải quyết những lúc vụ mùa rộ lên, cung
vượt cầu, giá rớt gây nhiều bất lợi cho người nông dân.
Đối với ngành cà phê phải có những biện pháp ngăn chặn việc xoá bỏ cà phê rớt
giá bằng chính sách kinh tế thích hợp như mua tạm trữ, miễn giảm thuế cho người
trồng cà phê. .
Thứ hai, thành lập quỹ bảo trợ xuất khẩu một số ngành hàng có độ nhạy cảm như
gạo cà phê, hạt điều. . để giúp các doanh nghiệp vượt qua các giai đoạn khó khăn nhất,
tiến tới thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu như nhiều nước đã làm.
Thứ ba thúc đẩy mạnh mẽ các hạot động xúc tiến thương mại. Bên cạnh việc ra
đời của cục xúc tiến thương mại ở trung ương, tại các địa phương, nhất là những tỉnh
thành phố lớn như TPHCM, đồng Nai,Cần thơ. . , cũng nên thành lập các trung tâm
xúc tiến thương mại đẻ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc tìm kiếm khách hàng, cungcấp
thông tin về giá cả, mẫu mã. . Bên cạnh đó là việc tiếp tục tổ cức các hội nghị tham tán
thương mại VN ở các nước để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ họi tiếp cận thị
trường thế giới. Đồng thời đẻ giảm bớt chi phí hoạt độn cho cá doanh nghiệp
Thứ tư quan trọng nhất vẫn là không ngừng nâng cao tính cạnh tranh của mỗi
ngành hàng trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi phải đổi mới công nghệ, áp dụng
những quy trình sản xuất tiên tiến, chủ dộng đươc nguyên vật liệu, nâng cao trình độ tổ
chức trình độ quản lý và trình độ chuyên môn của cán bộ lãnh đạo và ngươi lao động
trong từng doanh nghiệp đẻ không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành
sản xuất, từng bước làm tăng khả năng cạh tranh của mỗi sản phẩm, đồng thời có điều
kiện đẻ chuyển dần cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tiên tién mạnh hơn.
Thứ năm, liên kết mạnh với các nước trên thế giới có cùng ngành hàng giống
mình đẻ học tập kinh nghiệm và hợp tác trên nhiều lĩnh vực như kỹ thuật sản xuất, ứng
dụng công nghệ, tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở hai bên cùng có lợi cho nhau trước sức
ép từ bên ngoài, đòng thời tránh sự giẫm chân lên nhau, tự gây thiệt hại cho nhau.
Trước hết là liên kết với ccs nước ASEAN.
2. 3 Thời kỳ 2011 - 2020.
Dự kiến tăng trưởng GDP hàng năm đạt 9 - 10%, tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu hàng năm khoảng 12%. Đến năm 2020, với dân số khoảng 110 triệu người, GDP
cả nước khoảng 440 tỷ USD mức GDP trên đầu người đạt 1800 USD, xuất khẩu sẽ
đóng góp khoảng 45% GDP.
Trong thời kỳ 2011 - 2020, Việt nam tiếp tục phát triển xuất khẩu các ngành
hàng, mặt hàng như. .
+ Hàng công nghiệp chế biến sâu, có giá trị cao như hàng điện tử, ô tô, xe máy,
máy bơm, máy cơ khí, các loại máy chế biến nông - lâm - thuỷ sản, động cơ điện, máy
biến thế điện, khí hoá lỏng, sản phẩm hoá dầu, phân bón, hoá chất, thuốc trừ sâu, xà
phòng, pin đèn, bóng đèn điện, dây điện, cáp điện, thiết bị bưu chính viễn thông, sắt
thép, xi măng, hàng thuỷ tinh, sành sứ, hàng dệt may, hàng giầy dép, đồ chơi trẻ em,
trang trí nội thất, bánh kẹo, đường, sữa. .
+ Hàng nông - lâm - thuỷ sản chế biến sâu có giá trị cao như cà phê, cao su, gạo,
hạt điều đóng gói, rau quả hộp, lạc nhân, chè, thuỷ sản, lam sản.
II- Một số biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ở Việt Nam
1-các biên pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất
khẩu
1. 1Các biện pháp nhằm khuyến khích đầu tư.
1. 1. 1 Các biện pháp khuyến khích đầu tư trong nước.
Chủ trương khuyến khích phát triển hàng xuất khẩu cần được thể hiện đầy đủ và
rõ nét hơn trong luật khuyến khích đầu tư trong nước theo nguyên tắc “sản xuất hàng
xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một, các hình thức ưu đãi cao nhất phải
được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu ”. Do vậy, cần đưa đầu tư sản xuất hàng xuất
khẩu về nhóm ưu tiên một. Bên cạnh đó cũng cần xem xét tới sự phân biệt giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Ví dụ doanh nghiệp trong nước phải
chịu thuế lợi tức 25 - 35 - 45%, trong khi doanh nghiệp nước ngoài chỉ chịu tối đa
25%. một doanh nghiệp may của Việt nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải
chịu thuế lợi tức 32%, trong khi xí nghiệp may liên doanh sản phẩm xuất khẩu đạt
80%trở lên chỉ phải nộp có 15%. Do vậy, cần xem xét việc dành ưu đãi cho các doanh
nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
mà cụ thể là nên điều chỉnh những ưu đãi dành cho doanh nghiệp trong sản xuất hàng
xuất khẩu và tiến tới hợp nhất luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư
trong nước thành luật đầu tư. Nhằm mục đích khuyến khích mạnh mẽ việc chuyển dịch
cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu và thay đổi tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu
hàng xuất khẩu, cầnsửa đổi luật khuyến khích đầu tư trong nước làm cho tính định
hướng xuất khẩu rõ nét hơn và khuyến khích việc xuất khẩu hơn, có tỷ trọng chế biến
cao. Cụ thể, để khuyến khích theo hướng này cần có những sửa đổi sau:
+ Nâng thời gian miễn thuê lợi tức cho các cơ sở đầu tư đổi mới công nghệ. cụ
thể, nếu chỉ mở rộng quy mô một cách thông thường ( chỉ dẫn tới sự thay đổi về lượng
mà không dẫn tới sự thay đổi về chất ) thì chỉ được miễn thuế lợi tức cho phần lợi
nhuận tăng thêm trong vòng một năm. Nếu có đổi mới công nghệ, nâng cao được cấp
độ chế biến hàng hoá thì tuy theo từng mức độ sẽ được miễn thuế lợi tức cho phần lợi
nhuận tăng thêm trong vòng từ 2 đến 3 năm.
Sau đây là mức quy định cụ thể về mức độ ưu đãi về thuế lợi tức cho từng loại
hình ( các quy định này chỉ dành cho sản xuất hàng xuất khẩu ).
- Đối với cơ sở mới thành lập tại vùng không phải đối tượng chính sách thì miễn
trong 3 năm đầu.
+ Nếu là chế biến nông: giảm 50% trong 3 năm tiếp theo.
+ Nếu là chế biến vừa: giảm 50% trong 4 năm tiếp theo.
+ Nếu là chế biến tinh: giảm 50% trong 5 năm tiếp theo.
- Đối với cơ sở mới thành lập tại vùng đối tượng chính sách, miễn trong 3 đến 4
năm đầu.
+ Nếu là chế biến nông: giảm 50% trong 3 đến 5 năm tiếp theo.
+ Nếu là chế biến vừa: giảm 50% trong 4 đến 6 năm tiếp theo.
+ Nếu là chế biến tinh: giảm 50% trong 5 đến 7 năm tiếp theo.
- Đối với các cơ sở đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao sản lượng nhưng không có
sự thay đổi về cấp độ chế biến của sản phẩm, miễn cho phần lợi nhuận tăng thêm trong
năm tiếp theo.
- Đối với cơ sở đầu từ đổi mới công nghệ để làm ra sản phẩm mới hoặc nâng cao
cấp độ chế biến của sản phẩm, miễn cho phần lợi nhuận tăng thêm trong 2 đến 3 năm
tiếp theo.
1. 1. 2 Các biện pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài.
Nghiên cứu để đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài với các
điều kiện thích hợp nhằm mở thêm các kênh mới thu hút vốn nước ngoài.
- Tiếp tục ban hành các cơ chế, chính sách nhằm cải thiện hơn nữa môi trường
đầu tư.
+Tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung:
+. Nghiên cứu sửa đổi, bổ xung luật pháp, chính sách và thủ tục, tạo thận lợi cho
hoạt động FDI.
- Nâng cao hiệu quả và năng lực điều hành hoạt động FDI.
+ Đổi mới công tác vận động và xúc tiến đầu tư.
+Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch liên quan đến công tác FDI.
+ Xử lý kịp thời các vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình
xem xét cấp giấy phép đầu tư và triển khai dự án.
+ Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI.
1. 2 Các vấn đề chất lượng, thị trường và xúc tiến thương mại.
1. 2. 1 Nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
Một yếu tố quyết định tới việc liệu hàng hoá Việt nam có thâm nhập được vào thị
trường nước ngoài hay không đó là yếu tố chất lượng. Chất lượng hàng xuất khẩu có
thể được nâng cao, tạo uy tín và sức cạnh tranh cho hàng hoá Việt nam bằng cách
kiểm tra bắt buộc về chất lượng của một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như
hàng dệt - may, đồ điện tử, đồ điện, thực phẩm chế biến, tạp hoá tiêu dùng.
Các nhà máy không đạt tiêu chuẩn sẽ không được phép xuất khẩu. Các nhà máy
đạt tiêu chuẩn có thể chia làm 3 loại :
Hạng nhất được phép xuất khẩu mà không bị kiểm tra hàng hoá, chỉ bị thanh
tra hệ thống chất lượng 1 năm 1 lần.
Hạng hai bị thanh tra 1 năm 2 lần và có thể bị kiểm tra đột xuất 1 lần trong
30 chuyến hàng.
Hạng ba bị thanh tra 4-5 lần một năm và cứ 15 chuyến hàng bị kiểm tra 1
lần.
Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới cũng như trong công cuộc xây
dựng nền công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta, việc áp dụng thực hiện và được
chứng nhận đạt hoặc phù hợp quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9000 là bộ tiêu
chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế bao gồm các tiêu chuẩn quy định các chuẩn
mực để đánh giá một hệ thống đảm bảo chất lượng của một tổ chức kể cả sản xuất,
kinh doanh dịch vụ và các cơ quan đơn vị, trường, viện. . ISO 9000 đã được chấp nhận
ở trên 100 nước trong đó có Việt nam ). ISO 9000 được coi như một điều kiện cơ bản
và là giấy thông hành cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước thâm nhập vào thị
trường quốc tế. Thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 là rũ bỏ được những lề lối cũ
như trì trệ chậm phát triển, phong cách làm việc theo kiểu đơn giản hoá tất cả “ thành
hay bại ” đều đổ vào đàu ban lãnh đạo. áp dụng ISO 9000 không những nâng cao vai
trò quản lý chất lượng từ A đến Z, tức là tất cả mọi người từ ban giám đốc đến người
sản xuất, người tiêu thụ sản phẩm đều hết mực quan tâm tới vấn đề chất lượng và cùng
chịu trách nhiệm chính về mình, mà nó còn giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được
chi phí bảo trì, tài chế, tăng lợi nhuận và các phương pháp thực hiện các quá trình chủ
yếu thúc đẩy các hệ thống làm việc tốt hơn
ISO 9000 là một trong những công cụ quản lý chất lượng tốt nhất, nó có tác
dụng thiết thực đến quyền lợi của con người, đồng thời giải đáp những hoài nghi,
vướng mắc mà từ trước tới nay chúng ta hay vấp phải. ISO 9000 sẽ có tác dụng tạo đà
cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, nâng cao khả năng cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Đối với những sản phẩm hàng hoá ở thị
trường nhất định việc chứng nhận ISO 9000 là không phải là muốn hay không mà nó
còn được coi là yêu cầu bắt buộc để làm công tác xuất nhập khẩu, mở rộng hợp tác
liên doanh trên thương trường quốc tế.
Thấy rõ lợi ích và tác dụng của việc thực hiện quản lý chất lượng theo ISO
9000. Khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký áp dụng ISO 9000 là việc làm hết sức
chính đáng, mang lại hiệu quả cao. Song trong thời gian qua, ở nước ta mới có 16
doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này, nhưng chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài hoặc liên doanh. Trong khi đó trên thế giới hiện nay có khoảng 20000
công ty, doanh nghiệp, nhà máy. . áp dụng thành công bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Từ nay
đến năm 2003, nước ta phấn đáu có hàng trăm doanh nghiệp sẽ thực hiện quản lý chất
lượng theo ISO 9000, vì cho rằng chỉ có những doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ
hiện đại mới phải quan tâm. Có một nguyên nhân làm cho một số đơn vị, doanh
nghiệp chưa dám thực hiện quản lý chất lượng ISO 9000 vì còn gặp quá nhiều khó
khăn thực tại đó là: năng lực, trình độ kỹ thuật kém, quy trình công nghệ còn lạc hậu,
chưa đồng bộ, sản phẩm đạt chất lượng chưa cao. . . cùng với dự thiếu vắng của các tổ
chức chứng nhận ISO 9000 trong nước mà phải thuê các tổ chức có tên tuổi ở nước
ngoài. Các khâu tư vấn, các bước thực hiện cải tiến hệ thống quản lý, nâng cao chất
lượng sản phẩm lại quá cao nên hầu như cac doanh nghiệp phải đắn đo cân nhắc.
1. 2. 2Thị trường
Phát tiển thị trường xuất nhập khẩu theo quan điiểm Mảketing hiện đại có nghĩa là
không những mở rộng thêm thị trường mới mà còn phải tăng thị phần của sản phẩm đó
trong các thị trường đã có sẵn. Gần một thập kỷ qua,thi trường xuất khẩu của ta đã có sự
thay đổi sâu sắc. Đến nay hàng hoá và dich vụ của Việt Nam đã có mặt trên 140 quốc gia
và vùng lãnh thổ. Nhiều mặt hàng chủ lực của ta đã có vị trí đáng kể trong thương mại thế
giới.
Trên cơ sở về thực trạng xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua, để gia tăng xuất
khẩu những năm tới, thị trường xuất khẩu Việt Nam nên phát triển theo hướng sau :
-Đa dạng hoá hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển thị trường trong nước nhiều
thành phần, thục hiện thị trường mở, tự do hoá thị trường, khuyến khích các doanh nghiệp
và các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu.
Thực hiện nguyên tắc "có đi có lại " trong kinh doanh xuất nhập khẩu do tổ chức
thương mại thế giới đề ra, tạo mối quan hệ gắn bó với thị trường nhập khẩu.
Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đẻ tạo hàng hoá đạt chất
lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới
1. 2. 3 Thành lập trung tâm xúc tiến thương mại Việt nam.
Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các trung
tâm xúc tiến thương mại. Đây là tổ chức phi lợi nhuận có chức năng cung cấp thông
tin và tổ chức xúc tiến các hoạt động thương mại, tiến hành nghiên cứu thị trường và
tổ chức đưa hàng hoá Việt nam ra thị trường thế giới trong đó quan trọng nhất là giúp
các doanh nghiệp Việt nam tham gia vào hệ thống phân phối hàng hoá ở các nước.
Trung tâm này sẽ có một ngân hàng dữ liệu về các thị trường nước ngoài, về những
nhà cung ứng và người mua hàng trong và ngoài nước.
Việc thành lập tổ chức này cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các bộ,
ngành, giữa các cơ quan cũng như khả năng được cung cấp thông tin và khả năng tham
gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt nam. Kinh nghiệm thành lập
và vận hành tổ chức này chúng ta có thể học tập kinh nghiện từ Nhật bản với JETRO,
Hàn Quốc với KOTRA và Đài Loan với CETRA. Hiện nay, đã có một số trung tâm
xúc tiến thương mại của các nước có mặt tại Việt nam nhưng cộng tác phối hợp với
các tổ chức này còn yếu.
1. 2. 4 Quỹ khen thưởng xuất khẩu.
Quỹ khen thưởng xuất khẩu được thành lập nhằm kịp thời động viên khuyến
khích các doanh nghiệp và người sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nay, một số nước
khác trong khu vực cũng có những biện pháp thưởng xuất khẩu. Ví dụ ở Đài Loan
hàng năm có giải thưởng cho 10 mặt hàng có chất lượng cao nhất sản xuất tại Đài loan,
ngoài khoản vật chất nhất định, các sản phẩm này được phép sử dụng biểu tượng khi
quảng cáo, các nhà sản xuất được gắn biểu tượng này khi bán hàng. ở thái lan việc lựa
chọn công bố những “ top ten” cho một số mặt hàng xuất khẩu cũng được làm hàng năm,
chế độ thưởng hạn ngạch đối với những mặt hàng này cũng đã được thực hiện từ nhiều năm
nay.
Hình thức thưởng được thực hiện theo hao cách:
Thưởng tiền kèm theo bằng khen và huy chương.
Thưởng bằng hạn ngạch.
Các nguồn để lập quỹ khen thưởng :
Một phần lệ phí của việc bán và đấu thầu hạn ngạch.
Một phần thu từ lệ phí cấp các loại giấy phép.
Các nguồn tài trợ khác được chính phủ cho phép
Các đối tượng được xét thưởng là các doanh nghiệp có một trong các tiêu chuẩn
sau:
* Những sản phẩm, nhóm hàng mới lần đầu tiên xâm nhập được thị trường nước
ngoài
* Nhưng sản phẩm hàng hoá được thị trường nước ngoài ưa chuộng, tín nhiệm
và công nhận về mặt chất lượng.
* Những loại mặt hàng cho xuất khẩu và nững mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu
lớn ( quy định cho từng loại mặt hàng ).
* Những loại mặt hàng có tính chất đặc biệt: sử dụng nhiều lao động ở trong
nước, tỷ lệ nguyên liệu trong nước cao. .
2-Các biện pháp tài chính- tín dụng
2. 1 Khuyến khích các vệ tinh của các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu
qua thuế.
Hiện nay việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản
xuất hàng xuất khẩu mới chỉ nhìn đến các doanh nghiệp có sản xuất trực tiếp hàng xuất
khẩu và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu. Trong thực tế có rất nhiều doanh nghiệp
vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm cho các
cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu. Họ cũng có quyền được hưởng ưu đãi. Vì lí do
đó, nên mở rộng định nghĩa về “ cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu ” trong luật thuế doanh
thu. Cụ thể, các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu
cũng có thể được coi là cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu và cũng được miễn thuế doanh
thu.
Nhiều nước đã dành ưu đãi cho các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu
hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi để dệt vải cho may áo xuất khẩu.
Có thể lấy mặt hàng áo sơ mi làm ví dụ: các cơ sở may xuất khẩu hiện nay đang
được miễn thuế doanh thu nhưng các xí nghiệp cung cấp vải, cúc, cổ, chỉ khâu và bao
bì cho các cơ sở may chưa được miễn thuế doanh thu. Nhiều nước đã dành ưu đãi cho
các xí nghiệp vệ tinh này, thậm chí còn đi sâu hơn, ưu đãi cả xí nghiệp đã cung cấp sợi
để dệt vải cho may áo xuất khẩu.
Đối với nước ta, chúng ta chưa đủ khả năng miễn thuế nhiều tầng thì có thể áp
dụng cho các tầng thứ nhất hay các xí nghiệp có liên quan trực tiếp đến sản xuất hàng
xuất khẩu. Như trong ví dụ trên là các xí nghiệp dệt, xí nghiệp sản xuất cúc, bao bì. . .
Nếu làm như vậy, thì sự phát triển của một ngành hàng xuất khẩu nào đó sẽ kéo theo
sự phát triển của nhiều ngành khác, tất cả đều hướng về xuất khẩu. Điều này dẫn tới
việc vừa đẩy mạnh xuất khẩu giá trị gia tăng ( không phải nhập nguyên liệu và nhập
thành phẩm theo kiểu gia công), vừa tạo điều kiện thu hút được các nguồn nhân lực và
vật lực của đất nước vào lĩnh vực kinh tế có hiệu quả.
2. 2 Giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu dịch vụ.
Xuất khẩu dịch vụ và xuất khẩu sản phẩm trí tuệ còn là việc mới, nhưng trên thực
tế kim ngạch xuất khẩu của loại hình này theo những con số không chính thức ngày
càng tăng. Các chuyên gia của bộ thương mại đã tính toán và dự đoán khả năng phát
triển loại hình này trong tương lai là hiện thực, dự đoán lượng ngoại tệ thu được từ
xuất khẩu dịch vụ và sản phẩm trí tuệ vào năm 2000 có thể lên tới 1,5 tỷ USD nếu như
Việt nam có các biện pháp tích cực thúc đẩy hoạt động này ngay từ bây giờ. Do vậy,
cần có các văn bản cụ thể được công bố và giao cho các bộ cùng các cơ quan có chức
năng thực hiện chính sách phát triển và khuyến khích đúng đắn để khả năng này trở
thành hiện thực.
Trước mắt cần có sự thay đổi về thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp
gia công, sản xuất phần mềm tin học. Những bất hợp lý trong lĩnh vực này có thể nhìn
thấy rất rõ như: thuế doanh thu phần mềm là 2% ( thuế dịch vụ) trong khi thuế doanh
thu buôn bán phần cứng chỉ là 1%, hoặc thuế lợi tức phần mềm lên tới 45%. Đây là
những bất hợp lý mà nên được điều chỉnh sớm. Các loại hình dịch vụ và các sản phẩm
trí tuệ khác, nếu xuất khẩu thu được ngoại tệ thì cũng nên xem xét cho miễn giảm các
loại thuế như đối với hàng hoá thông thường.
2. 3 Quỹ bảo hiểm ( hay quỹ phòng ngừa rủi do).
Nhà nước khuyến khích các hiệp hội ngày hàng tự nguyện thành lập các quỹ bảo
hiểm ( phòng ngừa rủi do) cho ngành mình, nhất là trong những ngành quan trọng có
khối lượng xuất khẩu tương đối lớn như gạo, cà phê, cao su. Các quỹ này sẽ không lấy
nguồn từ ngân sách Nhà nước để tránh các quy định không thuận lợi của WTO về vấn
đề trợ giá.
Quỹ bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ các thành viên của hiệp hội khi giá cả của
thị trường biến động thất thường, cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định,
nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm cho người sản xuất thu hồi được
vốn đầu tư, trang trải được chi phí và có lợi nhuận thoả đáng. Khi thị trường thế giới
thuận lợi, có thể xuất khẩu với giá cao hơn mức giá bảo hiểm thì hiệp hội sẽ áp dụng
biện pháp thu một phần chênh lệch đưa vào quỹ bảo hiểm ( chênh lệch giữa giá xuất
khẩu và giá bảo hiểm). Ngược lại khi thị trường thế giới không thuận lợi, giá xuất khẩu
xuống thấp hơn giá bảo hiểm thì quỹ sẽ trích tiền ra hỗ trợ lại cho các thành viên.
Về hình thức, có thể các thành viên hiệp hội thống nhất thành lập một pháp nhân
được Nhà nước cho hưởng quy chế kinh doanh như các quỹ tín dụng thông thường
nhằm mục đích phát triển nguồn vốn. Hoặc đơn thuần chỉ góp tiền về quỹ và giao cho
một nhân hàng điều hành và kinh doanh quỹ này theo quy định của hiệp hội
. 2. 4 Các ưu đãi về tín dụng.
Mặc dù Ngân hàng nhà nước Việt nam đã ra thông tư về việc các ngân hàng
thương mại quốc doanh có trách nhiệm ưu tiên về mức vốn cho vay đối với các đơn vị
sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Tuy nhiên thông tư lại không quy định rõ ràng và
cụ thể chỉ nói chung chung “ khuyến khích tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn ”. Do
vậy, việc cần làm là phải quy định cụ thể một tỷ trọng vốn vay dài hạn và trung hạn
trên tổng dư nợ và một khung lãi suất cố định theo từng thời kỳ nhằm làm việc tiếp cận
nguồn vốn tí dụng ngân hàng của các cơ sở sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu dễ
dàng hơn, tránh gây mập mờ dễ gây tiêu cực.
2. 5 Thành lập quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu.
Thành lập quỹ này để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động
xuất khẩu. Do nguồn vốn hạn hẹp, để có thể đẩy nhanh tiến độ hình thành quỹ, tránh
chồng chéo. Chính phủ nên:
- Hình thức hỗ trợ vốn cho các dự án sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có thời hạn
trả vốn dưới 12 tháng của quỹ hỗ trợ xuất khẩu ( Bộ tài chính ) xin chuyển sang quỹ
tín dụng hỗ trợ xuất khẩu (Ngân hàng nhà nước) thực hiện.
- Nguồn vốn 300 tỷ đồng mà Bộ tài chính đề nghị thủ tướng Chính phủ cho trích
từ Quỹ dự trữ ngoại tệ để đưa vào quỹ hỗ trợ xuất khẩu xin chuyển sang cho quỹ tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu để tăng thêm vốn ban đầu cho Quỹ này, đảm bảo cho Quỹ có
thể giải quyết ngay những khó khăn trước mắt về tín dụng ngắn hạn cho hoạt động
xuất khẩu.
- Sử dụng Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia để đáp ứng các mục tiêu về hỗ trợ dài hạn,
không thành lập riêng Quỹ hỗ trợ xuất khẩu như đề nghị của Bộ tài chính nữa. Đây là
việc hết sức quan trọng. Chính phủ cũng đã có chỉ đạo từ đầu năm 1998 nhưng do khó
khăn về nguồn vốn nên đến nay vẫn chưa có hình thức hỗ trợ tín dụng nào được hình
thành. Để giải quyết khó khăn này, Chính phủ nên tập trung vốn để thực hiện đề án
của Ngân hàng Nhà nước ngay trong năm nay. Bộ thương mại phối hợp chặt chẽ với
Ngân hàng Nhà nước trong việc xác định đối tượng hỗ trợ và định mức hỗ trợ để Quỹ
sớm phát huy đầy đủ tác dụng.
2. 6 Nhà nước nên thành lập ngân hàng xuất nhập khẩu Việt nam.
Để đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thì ngoài việc có
chiến lược xuất khẩu, có chính sách trợ giá, tạo lợi nhuận khuyến khích các nhà sản
xuất có sự “ đầu cơ ”, bảo trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, cần
phải có một đường lối chính sách đúng đắn về ngân hàng sao cho các Ngân hàng Việt
nam phát huy được vai trò “bà đỡ” cho nền kinh tế. Hiện nay chúng ta đã có ngân hàng
ngoại thương Việt nam, ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại cổ phần XNK
EXIMBANK, song các ngân hàng này còn bị hạn chế về vốn, trình độ công nghệ,
nghiệp vụ, chưa phục vụ đắc lực được cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt nam.
Với mục đích hỗ trợ nguồn vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các ngân
hàng, doanh nghiệp tham gia tài trợ xuất khẩu. Hầu hết các nước trên thế giới đều có
cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu dưới hình thức ngân hàng như:
Ngân hàng XNK Trung quốc (CHINA EXIMBANK), Ngân hàng XNK Nhật bản,
Ngân hàng XNK Triều tiên. . Các tổ chức này đều có chung mục đích là thúc đẩy xuất
khẩu hàng hoá cho quốc gia dựa trên lý thuyết lợi thế so sánh và thâm nhập thêm thị
trường mới.
Không nằm ngoài mục đích trên, trong tương lai gần, Việt nam chúng ta cũng
nên thành lập một ngân hàng chuyên doanh mang tên là ngân hàng XNK Việt nam. Có
như vậy chúng ta mới đi được trên đôi chân của mình, thực hiện được sự bảo hộ cho
các ngân hàng nội địa, phục vụ sự nghiệp CNH hướng về xuất khẩu phát huy được lợi
thế so sánh, đẩy nhanh tiến trình hội nhập của Việt nam với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
2. 7 Về hỗ trợ tài chính.
Để giảm nhẹ gánh nặng hỗ trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước thông qua trợ
cấp, trợ giá Chính phủ nên tăng cường sử dụng các biện pháp hỗ trợ tài chính gián tiếp.
cụ thể là:
2. 7. 1 Gắn chỉ tiêu nhập khẩu một số mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao
2. 7. 2 Cải tiến chế độ thu và hoàn lại thuế giá trị gia tăng.
Thuế giá trị gia tăng ( GTGT ) hiện nay được thu cả vào những mặt hàng nhập
khẩu từ trước tới nay vẫn có thuế suất thuế nhập khẩu bằng 0%. Với mức thu tối thiểu
là 5%, cơ chế hoàn lại chưa thông thoáng, các doanh nghiệp sẽ không giám mạnh dạn
bỏ vốn đầu tư để mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ. Vì lý do đó, Chính phủ nên:
+ Các loại máy móc, thiết bị, phụ tùng nhập khẩu sẽ nộp thuế GTGT tại cửa
khẩu theo phương thức ghi thu ( doanh nghiệp không phải vay ngân hàng để nộp thuế).
+ Nếu sau 3 tháng số thuế GTGT phải nộp của doanh nghiệp vẫn là số âm thì Bộ
Tài chính sẽ làm thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp theo phương thức ghi chi để
doanh nghiệp quyết toán với hải quan. Nếu làm được theo cách này thì sẽ giảm được
gánh nặng lãi suất cho các doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho họ đẩy mạnh đầu tư,
giảm giá thành sản xuất và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
2. 8 Chính sách tỷ giá hối đoái.
Một nước có nhiều bạn hàng buôn bán cho nên đưa chỉ số giá cả nước ngoài vào
tính toán tỷ giá hối đoái cần phải cân nhắc kỹ, đặc biệt đối với những bạn hàng thương
mại quan trọng. Cách định giá tỷ giá hối đoái rất quan trọng đối với nền kinh tế. Vừa
qua, cuộc khủng khoảng tài chính tiền tệ Đông nam á xảy ra cũng một phần do Chính
phủ các nước này áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định. Khi tỷ giá hối đoái trên
thị trường thay đổi trong khi tỷ giá hối đoái do nước đó định ra vẫn giữ mức cố định
thì sẽ gây ra một sốảnh hưởng sau.
Hàng nhập khẩu trở nên rẻ hơn so với sản phẩm nội địa mà chúng phải chịu
chi phí tăng do lạm phát.
Các nhà xuất khẩu các sản phẩm sơ chế bán ra theo mức giá cả quốc tế nằm
ngoài tầm kiểm soát của họ sẽ bị thiệt. Họ phải chịu chi phí cao hơn do lạm phát trong
nước. Hàng xuất khẩu của họ trở nên kém sinh lợi do ngoại tệ thu được phải bán lại
với tỷ giá hối đoái cố định, không được tăng nên để đền bù lại chi phí sản xuất cao
hơn.
Các nhà xuất khẩu các sản phẩm chế tạo có thể tăng giá cả chế tạo có thể tăng giá
cả xuất khẩu của họ để bù lại chi phí sản xuất nội địa cao hơn, nhưng kết quả khả năng
chiếm lĩnh thị trường sẽ giảm. Họ cũng có thể giữ nguyên mức giá nhưng lợi nhuận sẽ
thấp đi. Kết quả chung là nhập khẩu tăng lên và xuất khẩu giảm đi.
Như vậy, nên duy trì một chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào để vừa hạn
chế nhập khẩu vừa thúc đẩy xuất khẩu. Rất khó để đưa ra một câu trả lời
chính xác nhưng chắc chắn chúng ta nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái
linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong nước và trên thế giới.
2. 9 Chính sách đa lãi suất.
Để khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu những mặt hàng chưa thiết
yếu, có thể áp dụng lãi suất đối với vốn vay cho xuất khẩu bắng 50% mức lãi suất vốn
vay để nhập khẩu ( việc này cả Hàn Quốc và Đài Loan đều đã làm trong thời kỳ đầu
phát triển kinh tế ).
2. 10 Chính sách bán ngoại tệ.
Mọi ngoại tệ thu được tử xuất khẩu đếu phải bán cho ngân hàng. Sau khi bán,
doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt xác nhận lượng ngoại tệ đã bán. Nếu
doanh nghiệp cần mua ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá thì có thể xuất trình hoá đơn
này để mua lượng ngoại tệ tương ứng với tỷ giá ưu đãi.
Tất cả các doanh nghiệp không có hoá đơn này đều phải mua với tỷ giá cao
hơn. Nếu doanh nghiệp có hoá đơn không có nhu cầu nhập khẩu thì có thể chuyển
nhượng tự do hoá đơn này cho người khác.
Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế những
khoản nhập khẩu bằng tiền không rõ nguồn gốc xuất khẩu, giúp giảm dần nhập siêu.
Như vậy, sẽ có ba mức tỷ giá: tỷ giá mua vào, tỷ giá bán ra cho các đối tượng có hoá
đơn và tỷ giá bán ra cao hơn cho các đối tượng không có hoá đơn.
3-các biện pháp thể chế, tổ chức
3. 1 Biện pháp đa dạng hoá chủ thể kinh doanh.
Tính năng động và tính hiệu quả của nền kinh tế là yếu tố hết sức quan trọng gần
như mang tính quyết định tới sự thành công của quá trình hội nhập trong xu thế tự do
hoá thương mại. Hai đặc tính này sẽ được tăng cường nếu ta khai thác được hết sức
mạnh của chính sách kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế nhà nước sẽ tập trung vào một
số lĩnh vực then chốt như năng lượng khai khoáng, viễn thông, lương thực. . còn các
thành phần kinh tế khác sẽ khuyến khích các lĩnh vực khác nhau.
Việc đa dạng hoá chủ thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hướng mạnh về xuất khẩu hoàn toàn không trái với chủ trương của Đảng. Chủ trương
đa dạng hoá chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu có thể được thực hiện
bước đầu tiên thông qua biện pháp bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Hiện
nay, các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh XNK đã được xuất khẩu hoặc nhận uỷ
thác xuất khẩu cả những mặt hàng nằm ngoài ngành hàng đã đăng ký trong giấy phép
kinh doanh, trừ những mặt hàng quản lý theo cơ chế riêng.
Đề nghị Chính phủ bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu đối với những mặt
hàng mà nhà nước không cần phải quản lý. Khi đó tất cả các doanh nghiệp được thành
lập hợp pháp, thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu các mặt
hàng này bất kể là hàng do doanh nghiệp sản xuất hay mua trên thị trường miễn là đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu.
Về lâu dài, khi hoạt động của các Tổng công ty lớn đã thực sự ổn định có thể
điều tiết được thị trường thì nên nghiên cứu cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh nếu đáp ứng được điều kiện do Nhà nước quản lý hay độc quyền kinh doanh.
Việc cho phép như vậy cũng sẽ tạo ra động lực phát triển xuất khẩu do việc giảm chi
phí. Bên cạnh đó, cũng đề nghị Chính phủ cho phép Bộ Thương mại được mở rộng
thêm phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Cụ thể, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được quyền mua để xuất
khẩu hoặc nhận uỷ thác tất cả các mặt hàng trừ gạo, hàng dệt may xuất khẩu vào thị
trường có quota, cà phê nhân và khoáng sản ( những mặt hàng này vẫn chỉ được phép
xuất khẩu theo giấy phép đầu tư ).
3. 2 Tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp.
Tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập
khẩu theo hướng thành lập các tổng công ty và các tập đoàn mạnh, từng bước tạo tên
tuổi trên thị trường thế giới, tiến tới có những nhãn mác hàng hoá của Việt nam được
thế giới biết đến và thừa nhận. Các công ty mạnh phải mở được chi nhánh ở nước
ngoài để phục vụ công tác Marketing.
Tóm lại với mục đích tăng cường sản xuất hàng xuất khẩu với những chi phí
thấp, tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá Việt nam, các chính sách và biện pháp
được kiến nghị trên sẽ giúp hàng hoá Việt nam chiếm lĩnh được thị trường nước
ngoài, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
3. 3 Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu
Đẩy mạnh xuất khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế,
trong những năm sắp tới xét trên góc độ cơ chế quản lý cần phải thực hiện hàng loạt
các biện pháp sau đây :
3. 3. 1 Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động, tích cực trong định hướng,
giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xk, Thường xuyên tổ chức những cuộc tiếp
xúc đối thoại trực tiếp giữa chính phủ, các bộ và các doanh nghiệp nhầm kịp thời giải
quyết khó khăn vướng mấc trong hoạt động xk. Nhà nước sớm xây dựng các chiến
lược, kế hoạch và phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng
nước nhóm nước. Bộ chủ quản cần chủ động tích cực phối hợp bộ nganh liên quan, uỷ
ban nhân dân tỉnh, thàh phố để tháo gỡ những khó khăn trong hoạt động xuất khẩu
nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
3. 3. 2 Hoàn thiện chưc năng quản lý nhà nước đói với doanh nghiệp xuất khẩu
theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh
tế khuyến khích và quản ký tốt hoạt động xuất khẩu. Muốn vậy phải giảm dần số
lượng mặt hàng theo danh mục quản lý chuyên ngành va phải thông báo rõ ràng mặt
hàng nào thuộc diện quản lý. Tăng đối tượng được hưởng và số tiền thưởng theo quỹ
thưởng xuất khẩu để lôi cuốn doanh nghiệp xuất khẩu. giảm tối đa các mặt hàng quản
lý hạn ngạch nhập khẩu, thực hiện triệt để việc thay cơ chế xin -cho bằng cơ chế đâu
tư hạn ngạch nhập khẩu
3. 3. 3 Sớm hoàn thiện thống nhất luật pháp theo hướng đầy dủ, đồng bộ, ổn định
và nhất quán. rà soát lại các văn bản pháp luật tránh chồng chéo.
kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý xuất khẩu của nhà nước từ trung ương đến địa
phương theo hướng tinh giảm đội ngũ quản lý nhà nước về xuất khẩu, quy định rõ
quyền và trách nhiệm cho từng loại cán bộ và quản lý, có hình thức thưởng phạt thích
đáng để góp phần xoá bỏ những tiêu cực trong xuất khẩu. 3. 3. 4Điều
chỉnh cơ chế quản lý xuất khẩu thông qua áp dụng các công cụ và biện pháp trong
ngoại thương theo hướng ngày càng nới lỏng mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đẩy kinh
doanh xuất khẩu phát triển. Song song với việc đa dạng hoá sản phẩm đối tác cần đa
dạng hoá cáccông cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập quốc
tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiét bị nguyên vật liệu. . để
phục vụ và sản xuất khẩu cũng phải đựơc coi trọng như ưu tiên lãi xuất theo cơ chế tỷ
giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng,
cước phí vận tải, phí bảo hiểm, lãi xuất ngân hàng, giá điện, nước. . giảm mức thuế
xuất khẩu từ 12 xuống còn 3 mức. Mức 0% đói với hàng qua ché biến, đặc biệt là nông
sản ; mức 10% đối hàng chế biến và 20% đói với mặt hang không khuyến khích xuấ
khẩu.
3.3.5 Nâng cao hiệu lực và quản lý vĩ mô và quản lý của nhà nước đối với hoạt
động xuất khẩu, phối hợp hiệu quả hoạt động quản lý của nhà nước với hoạt động kinh
doanh xuất khẩu của các loại hình doanh nghiệp trên mọi địa bàn. Nhà nước cần thực
hiên tốt việc quảnlý gián tiếp, quản lý bằng các công cụ khuyến khích hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, xử lý hài hoà các mối quan hệ và các mâu
thuẫn phát sinh theo hướng tạo điều kiện cho kinh doanh xuất khẩu phát triển.
Kết luận
Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, xuất
khẩu càng đóng góp vai trò quan trọng hơn đối với một nền kinh tế, nhất là đối với nền
kinh tế của các nước đang phát triển. Việt nam là một nước đang trên con đường tiến
hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoà nhập vào khu vực và thế giới. Vì vậy xuất
khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng nhất để thực hiện thành công
các mục tiêu trên.
Nhằm phát huy hết các vai trò của xuất khẩu, Chính phủ Việt nam đã có những
định hướng chính sách và biện pháp đúng đắn thúc đẩy xuất khẩu như thực hiện tự do
hoá thương mại, chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, chính sách thị trường, chính
sách khuyến khích đầu tư. . Các chính sách này đã có tác động đáng kể tới hoạt động
xuất khẩu của Việt nam trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh, cơ
cấu mặt hàng chuyển biến tích cực, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực ngày càng
nhiều, ngoại tệ thu được về cho đất nước tăng lên đáng kể.
Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Việt nam vẫn còn gặp nhiều trở ngại do các
yếu tố khách quan và chủ quan gây nên. Vì vậy để giúp hoạt động xuất khẩu vượt qua
những khó khăn, thách thức đòi hỏi chúng ta thực hiện các chính sách khuyến khích
xuất khẩu của nhà nước phải được đi kèm với các nỗ lực của các doanh nghiệp trong
việc chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu. Và cần thấy một điều quan trọng là các chính
sách và biện pháp thúc đảy xuất khẩu của nhà nước muốn thực sự phát huy tác dụng
thì phải được thực hiện nghiêm túc trong thực tế chứ không phải chỉ dừng lại ở giấy tờ.
Hy vọng những tiềm lực như nhân lực và vật lực của Việt nam cùng với hệ thống
chính sách và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đúng dắn của nhà nước ta sẽ là những
nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Việt nam ngày một phát triển, xây dựng
nước nhà ngày một phồn vinh.
Tài liệu tham khảo
* Sách
1. Bộ kế hoạch và đầu tư - Viện chiến lược phát triển: “ công nghiệp hoá và
chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu”. NXB Chính
2. Đinh xuân Trình và Nguyễn duy Bột: “ Thương mại quốc tế”. NXB Thống
kê - Hà nội 1993.
3. Mai ngọc Cường và Vũ văn Huân : “ Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu
đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt nam”. NXB Thống kê- Hà nội 1996.
4. Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII,IX Nghị quyết TƯ 4 - Khoá VIII.
* Báo và Tạp chí:
1. Tạp chí Thương mại: số 5,9,10,22,24/1997; số 7,8,16,23/1998, số 1/1999; số
1,2+3,5,8/2001 ;số 1,3+4,9/2002
2. Tạp chí Ngoại Thương số1,13/2002.
3. Tài chính số 1/1999 ; số 9/2001,
4. Tạp chí phát triển kinh tế số 124,125/2001
5. Tạp chí kinh tế phát triển số 11,46/2001
6. Tạp chí con số và sự kiện số 7, 8/2001
7. Tạp chí thị trường giá cả số 1,4/2001
8. Thương nghiệp thị trường Việt Nam 1+2/1999
9. Nghiên cứu kinh tế số 239 (tháng 4/1998).
* Danh mục các văn bản pháp luật đã tham khảo.
1. Nghị định 55/CP ngày 3/3/1998 về xuất nhập khẩu
2. Nghị định 54/CP ngày 28/8/1993 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành luật xuất khẩu, nhập khẩu và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật
xuất khẩu, nhập khẩu.
3. Quyết định 178/1998/QĐ - TTg ngày 19/9/1998 về hỗ trợ lãi suất vay
vốn ngân hàng đối với một số mặt hàng xuất khẩu
4. Quyết định 764/1998/QĐ - TTg ngày 24/8/1998 về việc lậplập quỹ
thưởng xuất khẩu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61021_455.pdf